Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Không gian trưng bày nghệ thuật ở Việt Nam: Những căn phòng đẹp nhưng im lặng

 Tobi Trần – Giám tuyển Độc lập

 

Trong hệ sinh thái nghệ thuật, không gian trưng bày không chỉ đóng vai trò là nơi trình hiện tác phẩm mà còn là cơ chế tri nhận, nơi nghệ thuật được kiến tạo như một cấu trúc tri thức, một công cụ tư duy và một hình thái giao tiếp xã hội.

Phòng khám

Truyện ngắn Văn Giá


Lão Ký lần đầu tiên đi khám bệnh theo chế độ bảo hiểm sau hưu. Có bệnh thì chữa. Mấy hôm nay lão thấy trong người khang khác. Có lúc đường thở như hụt hơi. Con người ta lạ lắm. Lúc đang còn công tác, chả mấy khi đau ốm, đến khi cầm sổ hưu, bệnh tật ở đâu cứ sầm sập ập về. Có người bảo lúc đang đi làm, người ta như cái động cơ, bắt phải chạy, không chạy không được, chạy để còn làm việc, không được phép ốm. Đến khi hưu, cỗ máy được dừng, tự nhiên không còn động lực nữa, nên nó hư hao dần, uể oải dần. Lúc đó bao nhiêu mầm bệnh lâu nay nằm phục sẵn, chờ dịp nhất loạt kéo nhau khởi nghĩa. Thì đấy, chả hiếm người cả đời khổ, thoát việc về hưu, tưởng nhàn nhã thong dong hưởng đời chuyến vét thế mà đùng đùng ốm rồi đùng đùng tịch.
Chủ Nhật, 13 tháng 7, 2025

Một cuộc phỏng vấn về một số vấn đề văn học

 Hữu Loan

Năm 1989, lần đầu tiên báo Tuổi Trẻ tổ chức cuộc thi truyện ký và tuần báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật được giao trách nhiệm chính đối với cuộc thi, đồng thời đảm nhận giai đoạn đọc, chọn sơ khảo. Tòa soạn Tuổi Trẻ Chủ Nhật đã mời một ban giám khảo ba thành viên, gồm nhà văn Trang Thế Hy (trưởng ban), nhà thơ - bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và ông Hoàng Phủ Ngọc Phan, tổng biên tập NXB Trẻ lúc đó. Giải nhất cuộc thi được trao cho nhà văn Nguyễn Đức Thọ (Đồng Nai) với truyện ngắn “Hồi ức làng Che”.  Thật bất ngờ khi chúng tôi nhận được trích đoạn hồi ký của nhà thơ Hữu Loan gửi đến dự thi với tựa “Một cuộc phỏng vấn về một số vấn đề văn học”, song tác phẩm của ông không thể đăng được.

Tuy nhiên, được sự đồng ý của Ban biên tập báo Tuổi Trẻ, chúng tôi đã trao cho tác giả “Màu tím hoa sim” một giải đặc biệt để cảm ơn ông, một tác giả lớn cũng là một nhân cách lớn trong văn  học Việt. Cụ Hữu Loan đã đến tòa soạn (số 161 Lý Chính Thắng, Q.3, TP. HCM) để nhận một khoản tiền nhuận bút đáng kể, thế nhưng vài ngày sau nhà thơ Nguyễn Duy cho biết khoản tiền đó đã bị mất trộm. Số là, nhà thơ lão thành cho toàn bộ tiền vào một chiếc cặp táp rồi ràng buộc cẩn thận trên yên sau xe đạp mà cụ mượn được để đi lại những ngày ở Sài Gòn, không ngờ bọn kẻ trộm đã cắt hết dây buộc, lấy mất chiếc cặp táp!

Được tin, chúng tôi đã vận động anh em trong báo Tuổi Trẻ đóng góp và có được đủ số tiền bằng nhuận bút đã trao cho cụ. Và nhà thơ Hữu Loan đã vui vẻ nhận giải thưởng lần thứ hai!

Đã hơn bốn mươi năm từ khi Hữu Loan viết những trang hồi ký này, thật may mắn là chúng tôi vẫn giữ được nguyên vẹn bản thảo viết tay của cụ.

NGUYỄN TRỌNG CHỨC

Thơ Giáng Vân

 Vô đề

 

1.

Thế giới chất ngất sầu đau

Các nhà thơ chìm đắm trong chữ và vần điệu

Các họa sĩ chìm đắm trong màu và bố cục

Người nông dân khóc trong vườn quả không bán được

Những cơn mưa rừng đang chuyển thành lũ quét

Rung chuyển những trận động đất và sóng thần

Hàng triệu sinh linh vùi chôn tan tác

Các nhà độc tài chìm đắm trong quyền lực chiến tranh

Mỗi một ngày những kẻ độc tài nướng hàng nghìn chàng trai trẻ đẹp vào cuộc chiến

Cơn khát của những kẻ điên đang điều khiển thế giới

Thứ Bảy, 12 tháng 7, 2025

Tôi đọc Thuyền

 Bùi Mai Hạnh

Đọc xong chương cuối Gọi hồn, ớn lạnh, gần sáng, tôi cho thêm củi vào lò sưởi lúc này chỉ còn vài tàn lửa leo lét đỏ, lửa bùng lên mạnh mẽ trái ngược với cảm xúc bàng bạc hẫng hụt của tôi, vừa muốn kết thúc vừa muốn đọc nữa, hình như tôi chờ đợi một cái kết khác, một cuộc gọi hồn kiểu khác.

Một đề kiểm tra kĩ năng đọc hiểu

 Bùi Mạnh Hùng

Dưới đây là đề kiểm tra kĩ năng đọc hiểu trong tài liệu kiểm tra đánh giá của AQA (Assessment and Qualifications Alliance), một trong những tổ chức khảo thí lớn nhất tại Vương quốc Anh, dành cho học sinh hoàn thành Chương trình Giáo dục Trung học bắt buộc (General Certificate of Secondary Education). Đối tượng học sinh làm bài kiểm tra này độ tuổi 15 – 16, gần với học sinh lớp 9, lớp 10 của Việt Nam.

Người thả kẹo trong chiến dịch cầu không vận Berlin (1948-1949)

 Lưu Thủy Hương

Tháng 6 năm 1948, thành phố Berlin rơi vào một cuộc khủng hoảng chưa từng có trong lịch sử hiện đại. Giữa bối cảnh căng thẳng leo thang giữa các cường quốc chiến thắng Thế chiến II, Liên Xô đột ngột phong tỏa toàn bộ các tuyến đường bộ, đường sắt và đường thủy dẫn vào Tây Berlin – khu vực do Mỹ, Anh và Pháp kiểm soát. Thành phố hơn hai triệu dân bị cô lập hoàn toàn: không điện, không lương thực, không nhiên liệu.

Thơ Paletine: Echo for Peace 2 / Tiếng vọng hòa bình 2

Cuối tuần này sẽ có một sự kiện đọc thơ/tâm tình "Echo for Peace 2 / Tiếng vọng hòa bình 2" do Thơ cùng tổ chức với Phương Anh – một người bạn và là dịch giả đến từ AJAR Press. Năm ngoái, Phương Anh và Thơ đã từng tổ chức Echo for Peace lần đầu thành công và gây quỹ cho gia đình Mohammed và gia đình Maram (Phương Anh hỗ trợ) và sau 10 tháng, tụi mình nghĩ là đến lúc để làm lại lần nữa.

Bản chất của người

 Nguyễn Phượng

Thực sự thì mình vẫn cứ băn khoăn về nhan đề đó của cuốn tiểu thuyết.

Trong nguyên bản tiếng Hàn, Han Kang đặt nhan đề cho cuốn sách của mình là 소년이 온다 [sonyeon-i onda] - CẬU BÉ ĐANG ĐẾN, Déborah Smith chuyển ngữ sang tiếng Anh là Human Acts có thể dịch là HÀNH VI CỦA NGƯỜI, dịch giả Việt Nam đẩy đi xa hơn, dịch là BẢN CHẤT CỦA NGƯỜI. Nếu dịch ngược trở lại tiếng Hàn thì nhan đề cuốn tiểu thuyết của Han Kang sẽ là 인간성 [inganseong] chứ không phải là 소년이 온다 [sonyeon-i onda]. Nhờ người môi giới viết thư hỏi Han Kang, cô nghĩ thế nào về cách đặt nhan đề đó trong tiếng Việt, cô ấy cười bảo ôi em không tự tin đến thế đâu!

Thơ Ngô Quốc Phương

Chùm thơ hạ tuần tháng 6

 

ANH GÀN

 

Anh gàn ngồi đầu ngõ

tay gõ bàn nước

miệng lẩm nhẩm

có có khi không phải là hay

mà không phải là hay cũng khi là hay

nhưng mà hay cũng chưa phải là quý

nhưng quý cũng có khi chẳng để làm gì

mà chẳng đề làm gì cũng có khi chẳng đi đến đâu

mà đi đến đâu cũng chưa chắc là hết ý

mà hết ý rồi cũng thế thôi

mà thế thôi thì cũng chỉ chi, chỉ vậy

...

bọn trẻ trâu đi qua

đứa cốc nhẹ đầu anh

đứa giật nhẹ nhẹ tóc anh

đứa dán tờ giấy nguệch ngoạc lên lưng anh

nó viết: bố thằng Bờm!

anh giật tờ giấy xuống xem rồi bảo

Bờm à!

Bờm

cũng

chưa

hẳn là ghê!

                           Virginia, HK, 20/6/2025, trên những ngày mưa gió tạt đi, tạt lại, mà con                               đường hình như còn dài

 

NHỮNG TUỒNG CŨ CHƯA HẠ MÀN

 

Vẫn là bọn làm chứng gian

vẫn là bọn thu thuế tham, thu thuế lạm

vẫn là bọn quan tòa, thẩm phán với những bản án tuyên láo lếu,

công lý trò hề

và bao nhiêu bọn 'dám' ăn, 'dám' lừa, nhưng lẩn trốn trừng phạt

ra tòa diễn trò bịp, ốm nọ, sắp chết kia

...

đúng! vẫn là bọn đạo diễn với những bàn tay nhớp nhúa ấy

không ngừng

giật dây

giật dây...

và bao nhiêu kẻ khác đang nhảy những vũ khúc đen tối và mờ ám

bọn giả vờ xào xáo

như người ta xáo bài ở sòng bạc

đảo trật tự nọ

đảo bản đồ kia

nhưng thực chất chúng luôn là đạo diễn

là bọn chủ trò ở tít nơi cao

đang xáo bài thủ lợi..

nên

nên sao?

nên giờ - dường như chỉ có những người ngơ thây, tội nghiệp nào

mới tin vào lời đường mật của chúng

trong đó có anh?

và có cả tôi?

                              20/6/2025

 

QUAY XE VÀ THỦ LỢI

 

Quay xe và thủ lợi

còn có lúc nào hơn

là chính lúc này

khi mặt trời đi vắng

đêm tối sẽ hoành hành

chẳng biết dứt khi nao

...

nào, bây giờ đã tới lúc

cơ hội ngàn năm có một

ta quay thôi

làm cú ngược giòng

ai ngu thì giữ lề cũ

ta trở về sung sướng mình ta

và biết đâu cái tột đỉnh vinh hoa (oách xà lách!)

đang chờ đợi ta?

chưa kể rượu thịt bóng môi

tiền bạc nhặt nhạnh cũng chẳng kém

...

thế nên, kệ thây bọn ở lại

thây kệ ngay lũ nạn nhân ở trong

dù chúng có đang kêu la

vì đau khổ, hay bất công

thì ta đây mặc kệ!

miễn là...

miễn là chi?

miễn là ta đỏ da, thắm thịt

phì gia, vinh thân đủ thứ

được thiên hạ công kênh

lưu danh thiên cổ

ở xứ sở vĩ đại nào

của vĩ đại trứ danh!

                                20/6/2025

Vĩ thanh: Có cái vỗ tay nào,

lại chỉ có một tay?

 

CHÚNG TA ĐANG TRÊN CON ĐƯỜNG NÀO?

 

Dường như có một sự vay mượn thời gian

trong thế giới như của 'kính vạn hoa'

với vô lượng điều đến, diễn ra, rồi đi, rồi lại đến...

là trò chơi của bàn tay vô hình nào?

hay là thử thách Bề trên dành cho giống loài nọ

thử xem giới hạn dại, khôn?

 

các thế lực vẫn tiếp tục thi thố

trong và ngoài những chỗ kia, chỗ nọ

mà họ gọi là quốc gia, quốc kiếc,

khối nọ, khối niếc

cái tốt và cái an tâm dường như là thiểu số?

hãy quên đi sự trật tự mơ tưởng thời nào,

để mãi đón nhận những chông chênh, nghiêng đảo thường trú?

 

ngay những giá trị tưởng như bền vững và đáng được để yên

người ta cũng lục tới, lật đi, tốc lại, lộn lên, lộn xuống

ai có thể ngồi thiền yên?

ai có thể tĩnh tâm?

 

nhìn những bầu trời có những vì 'sao băng' bằng sắt thép

vút qua, vụt lại

những tư duy thắng thua, hơn thiệt

những tranh cãi mạnh ưu, yếu nhược

cả những thế lực sống bằng nghề kia, phép nọ

vòng luẩn quẩn, hay vòng luân hồi?

 

ở thế giới nào rượu mắc nọ vẫn khui ra, xì gà vẫn bập

người ta bay vòng quanh vạn dặm

mũ ni che tai, chẳng nghe thấy chẳng nhìn

hoặc để tìm danh, tung hứng

ăn mày dĩ vãng

tìm những gì thỏa khao khát sướng sung

 

những siêu diễn đàn tung hứng, khen nịnh, tâng bốc

sâm-banh mở ra, và tiền cũng thu vào

cái danh thêm 'bóng nhoáng'

để chìm đi những thân phận khổ đau - đang sống đó - không phải là 'dĩ vãng'

để xoay lưng cùng che lấp những nạn nhân

và đâu đó

hình như là không ít

những kẻ bạo quyền vẫn khiêu vũ trên thân xác thế nhân

sống vui, sống mạnh, sống bền

bằng đau khổ của bị trị

 

kính vạn hoa lại xoay thêm một vòng,

lại một màn vũ trụ vạn sắc

có sắc nào như sắc lệ thế gian?

Virginia, 24/6/2025

Vĩ thanh: dù mưa gió thế nào, hoa vẫn nở đợi nhau!

 

NGỌN ĐÈN

 

Có ngọn đèn cháy tới giọt dầu cuối cùng

và không ngại cháy luôn cả bấc

còn gì nữa đâu?

nhưng nó vẫn là ngọn đèn

với ai đã từng nhìn thấy nó

và trong đêm tối tăm nào đó

không còn có nó

thì sẽ có ai khác, thứ khác thắp lên

thay nó

bởi sẽ vẫn cần

...

ôi ngọn đèn

dù thắp to, hay nhỏ

dù mờ, hay tỏ

vẫn mãi là ngọn đèn

xuyên suốt tối tăm!

                                Virginia, HK, 20/6/2025

                                (Nhớ những bàn chân 'tị nạn', dù đang trên chính quê nhà, hay tại hải                                       ngoại xa xôi)

 

NHÀ NGUYỆN DƯỚI ÁNH TRĂNG

 

Nhà nguyện dưới ánh trăng nào tối tối

vọng vang tiếng kinh cầu về nơi xa

cánh hoa nào đêm xưa nghiêng xuống

xơ xác,

xót xa

nhớ đêm nào em nép vai anh

ngoài kia trời mưa gió

nụ hôn chớm trao

đã chia tay

đường em về một mình đêm nay

sương gió lắm

đôi mắt buồn

thăm thẳm, sao quên

anh cầu nguyện

và chuông xưa vọng lại

an ủi, ủi an

gót mỏng

trời đêm

nhà nguyện bên dòng sông xa xăm

nước từ đại ngàn lặng lẽ vỗ về

con thuyền nào,

con thuyền nào neo bến

kịp đón em về

hay để mãi cách ngăn?

                     09/7/2025

 

MONG MANH

 

Em đi rồi

anh giở tìm kỷ niệm

tìm chút dư hương

mong sống lại ngày xưa

lại ra sông

ngóng nhìn về phương ấy

lại đếm sao trời

mặc sương đêm ướt vai

em đi rồi

hoa còn nở để chi

cây đàn kia ai cất

câm lặng căn nhà

dự cảm nào ngày ấy đến từ xa

chẳng cách nào tránh được

còn tàu lỡ

là con tàu đi mãi

để lại sau lưng

người lữ khách thẫn thờ

đêm buồn lắm

ngắm sao càng trống trải

trăng sao đầy trời

đâu có thấy bóng em?

                                 7/2025

 

Trước khi động đất

 Truyện ngắn Ngu Yên

1. Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trượt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn pin cầm tay, mất luôn chiếc đèn pin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoác và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.

Phái và Chèo

 

PGS. TS. Nguyễn Thị Minh Thái

Trong các dây dướng mang tính hội họa với đời sống, ông già danh họa Bùi Xuân Phái vương nhiều dây mơ rễ má nhất với "phố cổ". Nhưng thực ra, ông còn những mối tơ vương khác rắc rối, tế nhị hơn với sân khấu chèo cổ - mà nhiều người đã không lưu ý lắm khi đặt chân lên cái mê lộ hội họa huyền hoặc của ông. Điều này cũng dễ hiểu. Bởi vì chỉ mới ngó nhìn tranh của ông vẽ phố, chưa chi người ta đã choáng như thể bị ai đó lấy mất hồn...

Thứ Tư, 9 tháng 7, 2025

Nền móng của quản trị quốc gia – Nhìn từ góc độ triết học

 Tô Văn Trường

Làm công việc lãnh đạo quốc gia, ai cũng phải luôn tự hỏi: Điều gì là đúng đắn? Cái gì nên ưu tiên? Đâu là giới hạn cần tôn trọng và giá trị nào cần gìn giữ đến cùng? Những câu hỏi tưởng như trừu tượng ấy, thực ra lại là cốt lõi của mọi quyết định.

Trong thực tế, có lúc hành động chính trị được thúc đẩy bởi nhu cầu cấp bách, có lúc bởi niềm tin chủ quan hoặc áp lực từ hoàn cảnh. Nhưng để kiến tạo một nền quản trị nhân văn, bền vững và có tầm nhìn, người lãnh đạo không thể thiếu một nền tảng tư duy sâu sắc đó chính là triết học.

Thơ Lê Huỳnh Lâm

 

Thơ lập thể

 

ĐA GIÁC

 

Những đa giác chuyển động trên con đường giới hạn của thị giác, đa giác bất động trên vòng tròn ảo giác tư duy. Những đa giác ngợi ca nỗi thống khổ trong hành khúc mưa, sự va chạm vỡ từng hạt âm thanh màu trong suốt. Một đa giác gấp mình thành thập giá, lay động những ngã ba đìu hiu trên hành tinh mang hình hài giọt nước, chờ giây phút hoá thân. Những đa giác diễu hành bay trên bầu trời, trí tưởng soi chiếu đa giác bạc tình bằng ánh mưa mang hạt bình minh, những bình minh khuyết tật.

Thứ Ba, 8 tháng 7, 2025

Cha mẹ dạy Ngữ văn cho con…

 Thái Hạo

Chúng ta, những người làm cha làm mẹ (giả sử không phải người có chuyên môn), có thể “dạy” môn Ngữ văn ở nhà cho con mình hay không? Tôi cho là có. Vậy dạy bằng cách nào?

1. 

Đầu tiên là phải thay đổi quan niệm về môn học này. Ngữ văn không chỉ là một môn học về tác phẩm văn chương, hiểu như thế không những hẹp mà có khi còn sai lầm.

Trong giáo dục hiện đại, đặc biệt là các nền giáo dục tiên tiến (như Phần Lan, Canada, Singapore, Nhật Bản…), Ngữ văn (Language Arts / Language & Literature) không chỉ là môn học về văn học mà còn là môn học phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ trong các hoạt động đọc, viết, nói, nghe – nhằm mục tiêu giao tiếp, tư duy và hành động. Tư duy phản biện, năng lực lập luận, sáng tạo ngôn ngữ, khả năng diễn đạt bản thân và tương tác xã hội trở thành những trục chính của chương trình ở các nước này.

Thực – Mơ

  (Về triển lãm “Đất Mẹ” của họa sĩ Nguyễn Như Đức)

Lê Thiết Cương

Dù là chùa ở làng hay ở kinh đô thì cũng chỉ có một cổng. Cánh cổng ấy luôn mở, ai vào cũng được. Thánh đường nghệ thuật cũng vậy, mỗi người hãy tự chọn cho mình một con đường riêng để đến với nghệ thuật. Người đi xe, người đi tàu, người đi bộ, người đi bằng trừu tượng, người đi bằng hiện thực. Gì cũng được, miễn là đến nơi. Cánh cửa nghệ thuật luôn rộng mở và đón chào. Tóm lại có rất nhiều con đường để đến với nghệ thuật.

Ngẫm chuyện xưa

 Phạm Viêm Phương

Cuốn “Sử Việt nhìn từ tài liệu nguồn” của Chen Ching Ho (Nguyễn Mạnh Sơn tuyển dịch & biên soạn) cho tôi biết nhiều điều lý thú, xin kể lại vài chi tiết chơi.

  1. Tự Đức soạn tự điển Hán Nôm:

Những người hơi lớn tuổi (cỡ tôi) chắc còn nhớ những câu: Thiên trời địa đất/ cử cất tồn còn/ tử con tôn cháu/ lục sáu tam ba… Kết cấu của những câu như thế luôn gồm một chữ Hán rồi tới một chữ Nôm giải nghĩa chữ Hán đó. Đây chính là Tự điển Hán Nôm dạng phôi thai.

Thứ Hai, 7 tháng 7, 2025

Tự do và Học

 Lê Học Lãnh Vân

DẪN NHẬP – Anh Tiết Hùng Thái, tức dịch giả Hiếu Tân, dịch bài văn Discours de la servitude volontaire của Étienne de La Boétie sang tiếng Việt thành Luận văn về Nô lệ Tự nguyện, dài 17.782 chữ. Anh biểu tôi viết suy nghĩ của mình tiếp theo bài dịch của anh để in thành sách. Nghe lời anh, tôi viết xong bài Tự do và Học ngày 27/2/2023. Chúng tôi còn có bài của Nguyễn Hồng Anh nữa, vậy quyển sách nhỏ dự tính in sẽ có tổng cộng khoảng gần hai mươi bảy ngàn chữ. Đó là một tập sách khoảng 180 trang, không dày nhưng chúng tôi rất vui vì nghĩ sách chứa một nội dung lớn về giá trị tư tưởng được viết khoảng năm trăm năm trước và vẫn còn giá trị thời sự tới bây giờ. Rất tiếc, tới hôm nay anh Tiết Hùng Thái chưa in được quyển sách này dù bản thảo đã được gởi đi hai năm rưỡi trước. Với tôi, bản dịch này mang hơi ấm của công sức và tâm huyết của anh Tiết Hùng Thái.

Hôm nay, xin gởi Văn Việt bài viết của tôi có tựa Tự do và Học với mục đích ủng hộ tâm huyết ấy. Xin mời anh chị đọc...

Thay lời tựa

 [Cho cuốn Lê Bá Đảng, cuộc đời và tác phẩm. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh - Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, 2024]

Thụy Khuê

 

Đại Nam liệt truyện mô tả Quang Trung: “Tiếng nói như tiếng chuông lớn, mắt sáng nhoáng như chớp... người đều sợ cả... Ra trận tất thân phải đi trước tướng sĩ, hiệu lệnh phải nghiêm ngặt, rõ ràng, bộ khúc đều có lòng mến phục cả.

Chừa lại cho mình một đường lui

 Phan Thanh Sơn Nam

Những năm mình học cấp hai, ba mẹ và các anh chị mình đi làm suốt ngày, nên học bài xong là mình tranh thủ ra chợ mua đồ ăn cho cả nhà. Có lần thấy một cô đang ngồi mua số đề, bỗng nhiên lật đật chạy rồi trốn sau lưng một quầy tạp hóa. Một cô khác cùng vài người nhìn mặt dữ dằn xuất hiện, tìm cô kia để đòi nợ. Thấy con nợ đã bỏ trốn, không đòi được tiền, cô chủ nợ lớn tiếng chưởi bới dọa nạt một hồi rồi cũng bỏ đi, còn cô con nợ lại xuất hiện và tiếp tục mua số đề như chưa hề xảy ra chuyện gì cả. Lúc đó mình thật sự không hiểu, mình và nhiều người khác trong chợ thấy rõ cô con nợ trốn sau quầy tạp hóa, tại sao cô chủ nợ lại không thấy, mà cái chợ quê nhỏ xíu, muốn tìm người cũng đâu có gì khó. Thậm chí vài người quen của cô chủ nợ đang có mặt ở đó, họ biết chỗ cô con nợ đang trốn, nhưng họ cũng giả bộ không thấy gì.

Thơ Nguyễn Đức Tùng

 NGƯỜI ĐI CHÂN ĐẤT (CHƯƠNG 10 - HẾT)

                                                                        Trường ca

 

Những người yêu thương đứng bên đường

Chờ chúng ta với bó sen hồng

Hát cho chúng ta nghe. Bố thí cho chúng ta

Những người ghét bỏ chúng ta

Chờ chúng ta trong bóng tối

Tất cả đều tham gia trò chơi của nghiệp

Thứ Bảy, 5 tháng 7, 2025

Étienne de la Boétie – Con đường từ Nô lệ đến Tự do & Những tương giao lịch sử

Nguyễn Hồng Anh

Étienne de la Boétie có lẽ là một tên tuổi không mấy quen thuộc trong cộng đồng học thuật ở Việt Nam, một phần vì di sản ông để lại thật ít ỏi. Nhưng đóng góp của một người không phải đo bằng độ dày của các công trình, mà bằng giá trị vượt thời gian của chúng. Luận văn về Tình trạng Nô lệ Tự nguyện (gọi tắt là Luận văn) của Étienne de la Boétie là một công trình như thế, xuất hiện vào giữa thế kỷ 16 như một cú đột phá về tư tưởng đương thời và ứng nghiệm với nhiều thời, trở thành nguồn cảm hứng lớn lao cho những nhà chính trị, nhà văn hoá cách xa ông hàng thế kỷ, trong số đó, theo Murray Rothbard (2002, tr. 18), có thể kể đến Lev Tolstoy, Henry David Thoreau, Benjamin R. Tucker, Gustav Landauer…

Bài luận được viết khi Étienne de la Boétie còn là một sinh viên được đào tạo trong môi trường tiến bộ của đại học Pháp, với ảnh hưởng của phong trào Kháng Cách đang nở rộ ở châu Âu thời bấy giờ (bằng chứng là một trong những giáo sư đại học của Boétie đã bị thiêu sống vì tội dị giáo) (theo MacElroy, 2003). Chàng thanh niên ấy, bằng khả năng quan sát xã hội sâu sắc cộng với tinh thần cương trực, đã cho ra đời bản Luận văn vạch trần bản chất chế độ quân chủ chuyên chế, trong đó tập trung vào hai thành phần nòng cốt làm nên tình trạng “nô lệ tự nguyện”: quần chúng nhân dân và người cai trị.

Bài viết này không đơn thuần bàn về những quan điểm trên của Boétie, mà còn đặt văn bản của ông dưới sự liên tưởng đến một số bản văn, truyện kể, tác phẩm văn học, tư tưởng văn hoá chính trị có sự tương đồng trong lịch sử, không chỉ để góp phần soi sáng quan điểm của Boétie mà còn chứng minh sức ảnh hưởng của ông trong nền triết học chính trị phương Tây, cũng như tính phổ quát với tư tưởng nhân loại qua những “gặp gỡ” tình cờ.

  1. Quần chúng nhân dân – khi họ xứng đáng trở thành nô lệ

Giả sử ta đồng ý với tiền đề của Boétie về “tự do”: “tự do là trạng thái tự nhiên” thuộc về bản chất tất yếu của các loài sinh vật, trong đó có con người, thì nô lệ là tình trạng phi tự nhiên. Vậy vì sao trong xã hội quân chủ chuyên chế, người dân lại bỏ rơi tự do mà chấp nhận làm nô lệ? Đây là ví dụ do Boétie dẫn ra để giải thích:

“Người ta kể rằng Lycurgus, nhà lập pháp của Sparta, có nuôi hai con chó cùng lứa, vỗ béo một con trong bếp và huấn luyện con kia ngoài đồng theo tiếng tù và, nhân đó chứng minh cho những người Lacedaemo rằng con người cũng thế, phát triển theo những thói quen đầu đời của họ. Ông đưa hai con chó ra chợ, đặt giữa chúng một bát xúp và một con thỏ rừng. Một con chạy tới bát xúp, con kia đuổi theo con thỏ rừng, mặc dù ông khẳng định rằng chúng là anh em cùng cha mẹ”.

Ở Việt Nam có một câu chuyện dân gian tương tự: Trạng Quỳnh và con mèo của vua: Thấy con mèo ở trong cung điện được ăn toàn sơn hào hải vị, Trạng Quỳnh lấy cắp con mèo về nhà, để nó thật đói mới bày ra hai phần thức ăn, một phần thịt cá ngon lành, một phần chỉ có rau dưa. Mỗi khi con mèo tiến gần đến phần thịt cá, nó liền bị đánh thật đau, đói quá nó đành mò sang phần rau dưa không ngon lành gì. Ngày này qua ngày khác cứ như thế, đến khi quân lính khi đi tìm mèo cho vua phát hiện con mèo của Trạng Quỳnh giống hệt của nhà vua. Vua bảo Trạng Quỳnh mang con mèo tới và bày ra hai dĩa thức ăn theo gợi ý của Trạng Quỳnh để thử: “Nếu nó ăn phần sơn hào hải vị thì là mèo của hoàng thượng, còn nó ăn phần thức ăn nghèo nàn thì là mèo của hạ thần”. Vua đồng ý. Vừa mang hai dĩa thức ăn bày ra, con mèo lập tức chạy đến phần rau dưa ăn sạch.

Người ta chấp nhận tình trạng nô lệ, trong khi rõ ràng nó bày ra trước mắt họ tình cảnh (bị quất roi) và phần thưởng (món rau dưa) tồi tệ hơn rất nhiều trạng thái tự do, vì người ta sẽ suy nghĩ và hành động theo khuynh hướng mà họ được huấn luyện, bất chấp xuất phát điểm như thế nào. Vào cuối thế kỷ 19, điều này đã được chứng minh bằng thực nghiệm khoa học nổi tiếng: “con chó của Pavlov”, và được nhà sinh lý học Ivan Petrovich Pavlov gọi tên cho định luật này là “phản xạ có điều kiện”. Nhưng ta sẽ thấy vấn đề Boétie đặt ra vượt qua hiện tượng sinh lý học đơn thuần, qua câu hỏi tiếp theo được khơi lên: Nếu việc huấn luyện (tác nhân bên ngoài) có thể khiến thay đổi thói quen thì liệu trong một phút giây ngơi nghỉ nào đó, bản năng tự do bên trong có thức dậy khiến con chó cảm thấy cần đuổi theo con thỏ để thoả mãn bản tính săn mồi và con mèo chợt nhớ lại mùi thơm quyến rũ của món thịt cá chăng? Cái gì đảm bảo tác động của sự huấn luyện sẽ bền lâu để giữ đối tượng trong tình trạng nô lệ vĩnh viễn? Boétie cũng đã giải đáp vấn đề này rất sâu sắc bằng một hiện tượng tâm lí gọi là “tình trạng quên lãng hoàn toàn tự do”.

Hẳn chúng ta đã biết về câu chuyện năm con khỉ trong phòng cùng với cái thang chữ A có nải chuối đặt trên đỉnh và vòi nước lạnh xịt vào đám khỉ khi có một con trèo lên thang. Con khỉ liều lĩnh đó lập tức bị bốn con còn lại đánh đập, cho đến khi không con nào dám mon men đến gần cái thang có nải chuối nữa. Người ta bắt đầu đưa một con ra khỏi phòng và thay vào một con khỉ mới, con này theo bản năng định trèo lên lấy chuối, và hành vi đánh đập của đám khỉ còn lại lại diễn ra. Cho đến khi năm con khỉ ban đầu tuần tự được thay ra và thế chỗ bằng những con mới, nghĩa là đến một lúc sẽ không còn con nào trong phòng hiện giờ từng bị trừng phạt bởi vòi nước lạnh nữa, nhưng chúng vẫn hành xử y hệt như những con đầu tiên: không con nào trèo lên cái thang. Cho dù chuyện năm con khỉ trên đây chỉ là giả tưởng nhưng đó là minh hoạ dễ hiểu cho tình trạng Boétie gọi là sự “quên lãng hoàn toàn tự do”: không phải quên cái mà anh từng trải nghiệm trong ký ức (tự do), mà quên do kế thừa, từ thế hệ này sang thế hệ khác, khiến ký ức về tự do vốn từng có trở thành cái gì đó phi thực. Lúc này, sự quên là tất yếu và không cần lí do, tức là người ta không ý thức được đó là quên nữa. Đã không ý thức được thì không có khả năng kháng cự, do đó, nô lệ trở thành tình trạng tự nguyện: “Đúng là ban đầu con người phải chịu quy phục dưới kìm kẹp và bởi vũ lực; nhưng những kẻ đến sau họ tuân phục mà không nuối tiếc, và sẵn lòng tự nguyện làm những việc mà những người đến trước bị cưỡng bức phải làm”.

Và vì xem điều kiện và hoàn cảnh mình đang sống là hoàn toàn tự nhiên, nên Boétie gọi nó bằng cái tên – “phong tục” – “Như vậy phong tục trở thành lí do đầu tiên của tình trạng nô lệ tự nguyện”. Đây là một lí giải mang tính phát hiện của Boétie: Với một dân tộc, khi tình trạng nô lệ là một áp đặt từ bên ngoài (bằng vũ lực chẳng hạn) thì phản kháng là tất yếu, nhưng khi nó trở thành tâm lí bên trong, thì tình thế nan giải hơn rất nhiều. Và nó cũng giải thích được sự phi lí về tương quan lực lượng giữa nhân dân và người cai trị: một bên là số đông, một bên là thiểu số ít ỏi, nhưng kẻ cai trị vẫn có thể giữ người dân trong sự tòng phục mình.

Thật ngạc nhiên khi ngay từ thế kỷ 16, Boétie đã nhận thấy được cốt lõi của “tự do” và “nô lệ” của một dân tộc là vấn đề thuộc về hệ tư tưởng. Ở một chừng mực nhất định, quan điểm này của ông vẫn thời thượng trong bối cảnh hiện đại, như trường hợp chế độ độc tài Đức Quốc xã củng cố quyền lực và cai trị bằng sự áp đặt tư tưởng lên toàn bộ thành viên xã hội, theo lí giải của Hannah Arendt, nhà chính trị học nổi bật của thế kỷ 20.

  1. Kẻ cai trị và quyền năng của Chúa

Trong phần II và III của Luận văn, Boétie bàn về thuật cai trị của bạo chúa, làm thế nào để người dân quên lãng quyền tự do của họ. Có tất cả bốn cách thức:

(1) Kiểm soát thông tin và giáo dục

(2) Cung cấp bánh mì và rạp xiếc

(3) Khiến dân chúng tôn thờ mình

(4) Tuyển dụng tay sai vào các công việc của nhà nước

Thế kỷ 15 chứng kiến một phát minh làm thay đổi lớn tư tưởng nhân loại: sự ra đời của máy in. Với hàng loạt ấn phẩm được in và phát hành rộng rãi, trong đó có Kinh Thánh, vai trò của linh mục và nhà thờ bị giảm sút đáng kể, khi nhà thờ và linh mục không còn độc quyền tri thức nữa. Kháng Cách là hệ quả tất yếu phải xảy ra trong tiến trình phát triển tư tưởng nhân loại, và cũng có thể là một trong những động lực chính cho Luận văn ra đời. Rút bài học từ lịch sử, cách thức (1) hiển nhiên phải được áp dụng để các nhà cai trị giam giữ thường dân trong sự “lãng quên” và ngu dốt. Điều này cũng có nghĩa là, những ai có thể tiếp cận được nguồn tri thức thật sự, qua giáo dục và sách vở, sẽ có khả năng làm cách mạng, như Boétie nói: “sách và học thuyết, hơn bất cứ thứ gì khác, mang lại cho con người cảm giác và lí trí để tự hiểu mình và ghê tởm bạo quyền”.

Cách thức (2) được Boétie diễn giải qua hai hình ảnh ẩn dụ rất hay là “bánh mì” và “rạp xiếc”. Bằng cách cung cấp “bánh mì”, tức phúc lợi nhà nước, và “rạp xiếc”, tức những trò giải trí phổ biến, người dân đã bị mua chuộc để từ bỏ quyền tự do của họ. Dù nghịch lí là thứ bánh mì ấy được tạo ra từ chính nguồn lực của người dân, từ công sức lao động, từ tiền đóng thuế, từ những người cha người anh người con bị đẩy ra nông trường và chiến trường. Còn “rạp xiếc” có lẽ là hình dung đầy châm biếm và đau đớn về sự thờ ơ của người dân với tự do của mình, khi họ đánh đổi lấy vài giờ vui vẻ, giải trí xem trò diễn mà quên mất cả đời mình đang là diễn viên diễn trò trong trò chơi chính trị do người khác điều khiển. Tính nghịch lý đó được ngụy trang bằng sự an toàn, rằng nếu chấp nhận bánh mì và rạp xiếc thì chắc chắn họ không phải chết đói và thỉnh thoảng cũng có được niềm vui. Boétie, do đó, đã phải cay đắng viết rằng: “người thông minh hiểu biết nhất trong số họ cũng không bỏ bát xúp để giành lại tự do của nước Cộng hòa của Plato”.

Tôi muốn dừng lại lâu hơn ở cách thức thứ (3), vì phân tích của Boétie khơi gợi sự liên tưởng đến một ý niệm hiện đại nổi tiếng về “cộng đồng tưởng tượng” (imagined community) của Benedict Anderson, nhà dân tộc học người Mỹ của thế kỷ 20. Theo Anderson, bất kì dân tộc nào cũng là một “cộng đồng chính trị tưởng tượng”. Sự tưởng tượng về tính dân tộc là chất keo kết dính các thành viên lại với nhau, khiến các thành viên tuy không quen biết nhau nhưng lại gắn bó với nhau bởi những đặc trưng được tạo ra từ hệ thống chuyên chế, là tôn giáo và vương triều. Tuy “cộng đồng tưởng tượng” là học thuyết được khám phá vào thế kỷ 20, nhưng lại có điểm tương đồng đáng ngạc nhiên với tư tưởng của Boétie từ thế kỷ 16, khi Boétie cũng nhấn mạnh đến phương pháp thu phục lòng người của các bạo chúa bằng cách kết nối thần dân lại thành một cộng đồng quy phục qua các biểu tượng vương triều và truyện kể thần bí. Cụ thể, Boétie viết:

“Các ông vua xa xưa nhất của Ai Cập hiếm khi xuất hiện trước công chúng mà không đội mũ, và đôi khi một nhánh cây, hoặc xuất hiện với lửa trên đầu họ, ngụy trang bản thân họ với những vật ấy hay trình diễn như những thầy phù thủy”.

Còn Anderson viết:

“Tính hợp thức của nó bắt nguồn từ tính thần thánh chứ không phải từ dân chúng, và dân chúng rốt cục là thần dân [subject] chứ không phải là công dân [citizen]” (2019, tr.32)

“Sự trung thành của con người nhất thiết phải mang tính tôn ty và tính hướng tâm, bởi lẽ người cai trị, cũng giống như kí tự thiêng, là điểm dẫn vào tồn tại [being], và bản thân họ chính là một phần mặc nhiên trong đó” (2019, tr.55)

Dù trong một nền chính trị hiện đại phi quân chủ đi nữa thì biểu tượng vương quyền vẫn vô cùng quan trọng trước mắt nhân dân, cung điện có thể thay bằng công trình kiến trúc bất khả xâm phạm (nên khi toà nhà Quốc hội Mỹ bị thường dân tấn công ngày 6/1/2021 lập tức trở thành sự kiện gây chấn động trong lịch sử nước Mỹ), kiệu rước có thể thay bằng chuyên cơ đặc quyền, v.v. Chúng tạo ra sự kính trọng và ngưỡng vọng, khiến một cuộc nổi loạn lật đổ người sở hữu những biểu tượng ấy trở nên hi hữu. Tính chất thần bí cũng là một yếu tố quan trọng để chính danh hoá quyền lực của người cai trị, như những truyện gắn vua với con của thần linh phổ biến trong các quốc gia quân chủ: trước 1945, hoàng đế Nhật Bản mang tước hiệu Thiên hoàng, được xem là hậu duệ của thần linh; các Pharaon Ai Cập được xem là con trai của Ra – thần Mặt trời. Nhìn lại lịch sử Việt Nam, câu chuyện thần linh hoá nhà vua đã có truyền thống rất lâu đời, như trong Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt viết: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”, cho việc cai trị của vua nước Nam đã được ghi sẵn trong “sách trời”. Hay trong hệ thống truyền thuyết dân gian kể về những hành trạng của Nguyễn Ánh khi trốn lánh quân Tây Sơn ở Nam Bộ thường gắn với sự phù trợ thần kỳ, như những truyện: cá Ông cứu thuyền của Nguyễn Ánh trong cảnh sóng to gió lớn và đưa vào bờ an toàn, bầy cá sấu hay rái cá cản không cho thuyền đi vì có quân Tây Sơn bao vây phía trước… – đều nhằm mục đích tiên tri cho một thánh nhân xứng đáng với ngai vàng trong tương lai. Khi đã được hậu thuẫn bởi thánh thần, việc “thay trời hành đạo”, xuống trần để lập nghiệp lớn trở thành sứ mệnh tất yếu của bậc thiên tử. Những yếu tố vương triều và tôn giáo ấy đã tạo nên tính dân tộc tưởng tượng xoay quanh một trung tâm là vua/ người cai trị. Và bất kì thành viên nào cùng chia sẻ niềm tin ấy thì cùng thuộc một cộng đồng dân tộc. Thời của Boétie chưa có khái niệm về chủ nghĩa dân tộc nhưng ông đã nhận thấy cách thức vận hành của một chế độ tương tự qua việc các bạo chúa thu phục dân chúng bằng ý thức hệ.

Cách thức (4) khiến Boétie dành trọn phần III của Luận văn để phân tích. Phần này chỉ nói về một tầng lớp: những công chức tay sai làm việc cho kẻ độc tài. Boétie vừa đánh giá vai trò cực kì quan trọng của lớp người này (ông gọi việc dùng những người này là “cái bí mật của thống trị, nền móng và sự chống đỡ cho thể chế chuyên quyền”), vừa thể hiện thái độ khinh thường:

“… khi một kẻ cầm quyền tự biến mình thành chuyên quyền, tất cả những cặn bã xấu xa nhất của dân tộc – tôi không muốn nói lũ trộm cắp lặt vặt và những tên lưu manh trơ tráo, vốn không quan trọng về thiện hay ác – mà tất cả những kẻ đồi bại bởi tham vọng cháy bỏng hoặc lòng tham phi thường, tụ tập xung quanh hắn và ủng hộ hắn để chia chác của cướp được, và bản thân chúng là những tên thủ lĩnh nhỏ dưới trướng tên bạo chúa lớn”.

Đây là mô hình quyền lực phân cấp theo kiểu kim tự tháp, với đỉnh là bạo chúa, dưới đỉnh chỉ có năm hay sáu người thân cận, nhưng dưới trướng sáu người này có 600 người, dưới 600 người là 6000 người… Và họ đáng khinh vì họ tước đoạt tự do của đồng bào, hàng xóm của họ để đổi lấy phúc lợi được hưởng từ kẻ bạo chúa. Nhưng phần thưởng có thật là phần thưởng không? Boétie không chỉ nêu và đánh giá hiện tượng, ông còn phân tích hệ quả những người này sẽ gánh chịu qua viện dẫn lịch sử kết hợp suy luận logic. Tai hoạ luôn chực chờ, vì làm sao có thể trông chờ tình bạn, lòng trung tín nơi một tên bạo chúa luôn hành xử vô đạo? “Cảnh huy hoàng này hút họ lại gần, mà không nhận ra rằng họ đang tới gần ngọn lửa nhất định sẽ thiêu rụi họ”.

Lập luận này lại khiến tôi nhớ đến nhân vật Ponti Pilat trong tiểu thuyết kinh điển thế kỷ 20 của nhà văn Nga Mikhail Bulgakov, Nghệ nhân và Margarita. Đây là nhân vật có nguyên mẫu từ vị Quan tổng trấn người La Mã cai quản xứ Judea trong Kinh Thánh. Sáng tạo của Bulgakov là đã bắt được khoảnh khắc giằng xé nội tâm của ông khi xử án Jesus để tạo ra một hình tượng nhân vật là đại diện cho tầng lớp người mà Boétie đề cập ở trên: Dưới quyền hoàng đế Caesar, Pilat dù rất muốn tha cho Jesus vì biết người này vô tội, nhưng khi bị các kinh sư doạ – kẻ này (Jesus) dám xưng mình là vua, chúng tôi chỉ có một vua là hoàng đế Caesar, nếu ông tha cho hắn thì ông chống lại Caesar – Pilat đành chịu thua. Sự dằn vặt lương tri chỉ được nói qua thoáng chốc trong Kinh Thánh, nhưng được Bulgakov triển khai bao trùm cả tiểu thuyết: hình tượng Pilat ngồi trên mỏm đá đơn độc ở cuối truyện chờ được giải thoát trong suốt 2000 năm từ vụ xử án Jesus là hình phạt miên viễn ông phải chịu. Đó là hình phạt nô lệ tinh thần dành cho bọn tay sai mà Boétie đã nói tới: “những người dân thành phố, những nông dân, mà chúng giẫm đạp lên và đối xử với họ như những tù nhân hay nô lệ, tôi xin nói rằng chúng sẽ nhận ra rằng những người ấy, dù bị ngược đãi như thế, so với chúng, họ vẫn còn khá hơn và tương đối tự do hơn”.

  1. “Hãy quyết định không phục vụ nữa, và ngay lập tức anh được tự do”

Trở lại với quần chúng nhân dân, nhân tố trung tâm và duy nhất có thể thay đổi chế độ chuyên chế, Boétie đề ra giải pháp để thoát khỏi tình trạng “nô lệ tự nguyện”. Thực ra giải pháp đã được nêu ra ngay những đoạn văn đầu phần I, như thể hào hứng và nhiệt huyết với ý tưởng này đến nỗi ông không thể kiềm giữ lại đến cuối: “Hãy quyết định không phục vụ nữa, và ngay lập tức anh được tự do”. Đây cũng là một trong những câu nổi tiếng nhất của toàn Luận văn, thường được người đời sau trích dẫn, vì đây cũng là tư tưởng mang tính đóng góp nhất của Boétie cho lịch sử triết học chính trị nhân loại.

Người đọc khi đọc đến cuối văn bản, buộc phải quay lại đọc phần đầu để chiêm nghiệm con đường mà từ sớm Boétie đã vạch ra: Nếu ngai vàng được củng cố từ sự đồng thuận, tự nguyện của dân chúng, thì giải pháp đơn giản là rút lại sự đồng thuận đó; qua đó tác giả cũng đảm bảo với người dân rằng, để lật đổ bạo chúa, họ không cần phải đổ máu. Đây chính là giải pháp bất bạo động, rồi sẽ là tâm điểm của các cuộc đấu tranh chính trị của thế kỷ 19-20. Theo Murray Rothbard, nhà lý luận chính trị người Mỹ, ảnh hưởng từ tư tưởng của Boétie có thể thấy rõ qua một số bản văn lịch sử: Die Revolution của Gustav Landauer, người theo chủ nghĩa vô chính phủ hàng đầu của Đức vào đầu thế kỷ 20, đã tóm tắt lại Luận văn và dùng nó như nội dung cốt lõi; Conquest of Violence của Barthelemy de Ligt, một người theo chủ nghĩa hòa bình - vô chính phủ hàng đầu của thế kỷ 20, thì dành nhiều trang để ca ngợi và thảo luận về Luận văn, v.v. (Rothbard, 2002, tr.19).

Một nhân vật tôi muốn nói nhiều hơn ở đây là nhà văn Lev Tolstoy. Nhiều người biết tư tưởng bất bạo động của Lev Tolstoy đã tác động đến biện pháp tranh đấu xã hội của Mahatma Gandhi như thế nào, sau khi ông đọc được cuốn Vương quốc của Chúa là ở bên trong bạn của nhà đại văn hào Nga. Nhiều người cũng biết ở tuổi quá trung niên, Tolstoy đã đi tìm triết lý sống trong ngọn nguồn tôn giáo phương Tây và phương Đông. Và trong một tác phẩm triết lý kiểu như thế (Luật yêu thương và luật bạo lực), ông đã trích dẫn chính Luận văn của Boétie (Tolstoy, 1974, tr.33-35) và diễn giải: “Có vẻ như những người lao động, không thu được bất kỳ lợi ích nào từ sự kiềm kẹp áp dụng lên họ, cuối cùng nên nhận ra sự dối trá mà họ đang sống và tự giải thoát mình theo cách đơn giản và dễ dàng nhất; bằng cách tránh tham gia vào bạo lực vốn chỉ có thể xảy ra với sự hợp tác của họ” (tr.35-36). Việc trích dẫn của Tolstoy không thể chứng minh nhà văn chịu tác động từ Boétie, nhưng cho thấy Tolstoy đã đọc Luận văn và hoàn toàn đồng ý với quan điểm của nhà chính trị trẻ tuổi sống vào thế kỷ 16.

Trở lại với Boétie, tư tưởng bất bạo động của ông đã chỉ ra sự thay đổi từ gốc rễ: cách để thoát khỏi “nô lệ tự nguyện” không phải là giết một bạo chúa, mà là từ chối trao quyền cho y. Khi tình trạng nô lệ không phải do bị ép buộc bằng bạo lực mà bằng tâm lý/ tư tưởng, thì phản kháng lại nó cũng phải bằng phi bạo lực, bằng giải phóng tâm lý/ tư tưởng. Chỉ bằng lựa chọn của anh, “quyết định không phục vụ nữa” và “sẵn sàng tự do” thì anh mới có tự do. Với tư tưởng đó, Étienne de la Boétie xứng đáng được vinh danh là “nhà triết học chính trị tự do đầu tiên ở thế giới phương Tây” (Rothbard, 2002, tr.34)

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Benedict Anderson (2019). Những cộng đồng tưởng tượng: Suy nghĩ về nguồn gốc và sự lan truyền của chủ nghĩa dân tộc (Nguyễn Thu Giang, Vũ Đức Liêm, Phạm Văn Thủy và Nguyễn Thanh Tùng dịch). Hà Nội: Đại học Sư phạm.

Étienne de la Boétie. Luận văn về Tình trạng Nô lệ Tự nguyện (Hiếu Tân dịch). Bản thảo.

Leo Tolstoy (1974). The Law of Love and the Law of Violence (Mary Koutouzow Tolstoy trans.). Holt, Rinehart and Winston.

Murray Rothbard (2002). Introduction: The Political Thought of Étienne de la Boétie. In Étienne de la Boétie, The Politics of Obedience: The Discourse of Voluntary Servitude (Harry Kurz trans.) (pp. 9-38). Auburn: The Mises Institute.

Wendy MacElroy (2003). Étienne de La Boétie, Part 1 & Part 2. The Future of Freedom Foundation. https://www.fff.org/explore-freedom/article/tienne-de-la-botie-part-1/ (Part 1). https://www.fff.org/explore-freedom/article/tienne-de-la-botie-part-2/ (Part 2). Truy cập 20/8/2023.

Khi đề thi trở thành cái bẫy vô hình của việc dạy và học Ngữ văn

 Đinh Thanh Huyền

Chương trình (CT) Ngữ văn 2018 là một bước tiến vượt bậc so với CT trước đó. Mục tiêu của CT là giúp học sinh (HS) phát triển các năng lực đọc, viết, nói và nghe, phát triển khả năng tư duy sáng tạo, chủ động trong tiếp nhận tri thức, gắn kết sâu với đời sống, hình thành những phẩm chất tốt đẹp cho các em. Kì vọng của các nhà giáo dục là HS có thể đọc và đánh giá được nhiều loại văn bản khác nhau trong các tình huống đọc cụ thể (không chỉ văn chương, không chỉ trong sách giáo khoa). Mục tiêu đó tuy không dễ, nhưng hoàn toàn có thể đạt được nếu có phương pháp, cách thức thực hiện. Nhưng thực tế thì sao? Môn Ngữ văn đang lâm vào tình trạng mắc kẹt trong cái bẫy vô hình tự dựng nên, điều này trước hết lộ ra từ thực trạng đề thi.

Thứ Sáu, 4 tháng 7, 2025

Hồ Nhĩ Hải hồi sinh – Một thí điểm của Khoa học Môi trường, một thành công của nền Văn minh Sinh thái

Ngô Thế Vinh

Hình 1: (trái) Bản đồ lưu vực hồ Nhĩ Hải; (phải) Hình ảnh hải thái hoa, một loài cây sống dưới nước rất đặc thù của vùng cao nguyên Vân Nam, hoa trắng tinh khôi với cánh trắng nhụy nở trên mặt nước, nhìn từ xa như những cánh sao rơi. Hải thái hoa rất kén nước, chỉ có thể sống được trong các hồ nước sạch, không bị ô nhiễm. 


Tom Mollenkopf, Chủ tịch Hiệp hội Nước Quốc tế IWA (International Water Association) nhận định rằng “Dự án đổi mới kiểm soát ô nhiễm hồ Nhĩ Hải và Phát triển Lưu vực đã cung cấp những hiểu biết quan trọng cho lĩnh vực môi trường nước toàn cầu”.  Dự án được đánh giá là xuất sắc và đã được trao tặng Huy chương Bạc tại Đại hội Triển lãm Nước Thế giới.  [Copenhagen 08.2022]


Phan
Nhạc, sinh năm 1960, là một thứ trưởng trẻ nhất trong chính phủ Trung Quốc, người đi đầu trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, trước một nhóm sinh viên trẻ, ông đã thẳng thắn phê phán: "Mô hình phát triển kinh tế hiện tại của chúng ta là không bền vững. Ô nhiễm môi trường đã hạn chế nghiêm trọng tăng trưởng kinh tế, và bất công xã hội dẫn đến bất công môi trường, đến lượt nó lại làm trầm trọng thêm bất công xã hội, tạo ra một vòng luẩn quẩn gây ra bất hòa xã hội”. [2007, Pan Yue 潘岳]

*

MỘT THOÁNG 23 NĂM:

CÙNG BẦY CHIM CỐC TRÊN HỒ NHĨ HẢI

Một ngày của trung tuần tháng Chín năm 2002, sau khi thoát ra được vòng rào con Đập Mạn Loan, con đập lịch sử, con đập thuỷ điện đầu tiên trên sông Langcang-Mekong. Từ huyện Manwan bằng đường bộ, chúng tôi lên tới cổ thành Đại Lý (Dali) trời cũng đã sẩm chiều. Đại Lý vẫn được so sánh như một tiểu Katmandu của Nepal, nơi có nhiều thắng cảnh và di tích lịch sử của hơn 1 triệu sắc dân Bạch (Bai) với gốc rễ văn hóa lâu đời từ hơn ba ngàn năm. Từ thế kỷ thứ 7, đã có một nước Nam Chiếu (Nanzhao) rất hùng mạnh từng đánh bại quân Nhà Đường vào thế kỷ thứ 8. Sang thế kỷ thứ 10 trở thành vương quốc Đại Lý cho tới thế kỷ 14, thời Nguyên Mông (Mongol Yuan) thì không chỉ Đại Lý mà toàn vùng Vân Nam đã trực thuộc vào nước Trung Hoa.

 

Hình 2: Cổ thành Đại Lý với sắc dân Bạch có lịch sử hơn 3 ngàn năm, vẫn có đó một Chùa Ba Ngôi của nước Nam Chiếu đã có từ Thế Kỷ thứ IX.)

 

Vẫn còn đó những kiến trúc cổ xưa như Chùa Ba Ngôi được xây cất từ thế kỷ thứ 9, các ngôi nhà đá cổ với cả những con đường đá quanh co. Nhưng thực sự đã không còn nguyên vẹn một cổ thành Đại Lý, bức tường thành kiên cố bằng đá không còn nữa, các cổng thành gốc đã bị phá đi thì nay được mô phỏng xây dựng lại nhưng với bên trong là những gian hàng bán nữ trang và đồ lưu niệm cho du khách. Đi bộ từ Cửa Bắc tới Cửa Nam của Cổ Thành, qua những đường phố nhỏ với đường lát gạch, hai bên đường là những quán ăn, tiệm Café Internet và luôn luôn tấp nập với các đoàn du khách được hướng dẫn bởi những cô gái gốc Hán má phấn môi son nhưng lại với y phục rực rỡ của sắc dân Bạch.

Phía tây Đại Lý là trùng điệp núi non, phía đông là hồ Nhĩ Hải Erhai. Nhĩ Hải là hồ nước ngọt lớn thứ hai của Vân Nam (sau hồ Điền Trì 滇池 Dianchi) đổ vào sông Mekong qua một phụ lưu là con sông Tây Nhĩ (西洱 Xi’er). Hồ Nhĩ Hải được coi như một “tiên cảnh” của sắc tộc Bạch, là một hồ rất sâu đã từng có tới hơn 40 loại cá khác nhau nổi tiếng nhất là loại “cá quậy (Dali split-belly fish) giống như cá chép có đặc tính ngậm đuôi vào miệng rồi bung ra nhảy cao trên mặt nước. Vân Nam rất xa biển nên người dân Vân Nam thích đặt tên biển cho những hồ lớn của họ. Đại Lý mưa tầm tã từ nửa đêm kéo dài tới sáng hôm sau. Nhưng rồi mặt trời cũng ló dạng. Khí hậu đủ tốt cho một nửa ngày đánh cá bằng chim cốc (cormorants) trên hồ Nhĩ Hải.

Chiếc xe phải len lách giữa những thửa ruộng trên một con đường đất đá để tới được làng đánh cá nhỏ bên bờ tây của hồ Nhĩ Hải, gặp bác ngư dân sắc tộc Bạch da sạm nắng tuổi cũng gần 60, bác sống với đàn chim cốc cũng phải tới hai chục con đã được thuần hóa. Có khách tới, bầy chim được tự do ra khỏi những chiếc lồng, tung tăng duỗi chân duỗi cánh hân hoan. Thay vì đeo vào cổ chim những chiếc vòng, rất nhanh và thành thạo người đàn ông dùng mớ lạt, buộc cổ từng con chỉ vừa đủ chặt để ngăn chúng nuốt xuống những con cá lớn bắt được, rồi ra lệnh cho đàn chim tung mình xuống nước và bơi theo ghe ra hồ.

*

 

Hình 3: Trước buổi săn cá trên hồ Nhĩ Hải, một ngư ông sắc dân Bạch đang dùng dây lạt thắt vòng trên cổ mỗi con chim Cốc, ngăn không cho chim nuốt những con cá lớn để sau đó thu hoạch; (trái) đàn chim Cốc đã được thuần hoá, trở nên rất dạn dĩ và thân thiện với du khách. (phải) [Ngô Thế Vinh, tường trình từ Vân Nam, Đại Lý 09.2002]

Gần bờ, nước hồ Nhĩ Hải ô nhiễm đặc sánh lại một màu xanh của tảo và rong rêu, cũng không ngạc nhiên khi thấy các rãnh nước thải từ thành phố chảy qua các ruộng lúa rồi đổ thẳng xuống hồ. Phải thật xa bờ, nước hồ mới một phần trở lại trong xanh.

Như những người bạn thân thiết, bầy chim cốc và ngư ông hoạt động nhịp nhàng. Cảnh tượng thật kỳ lạ chỉ bằng khẩu lệnh với những âm thanh sắc ngắn là cả một bầy chim từng đợt từng đợt vỗ cánh rồi cùng ngụp lặn sâu dưới mặt nước. Phải một lúc sau mới thấy từng con trồi lên, con chim nào với chiếc cổ phồng to phía trên nút lạt thắt là dấu hiệu bắt được cá lớn, ngư ông chỉ cần tới gỡ mỏ từng con chim cốc và thu hoạch. Mẻ cá đầu tiên của một chú chim cốc là hai con cá chép chỉ nhỏ hơn nửa bàn tay.

Bầy chim tỏ ra rất thân thiện, nhảy lên ghe, đậu trên mái chèo hay trên tay khách. Cảnh trí thiên nhiên hữu tình, chủ khách và bầy chim thực sự giao hòa. Tỏ tình thân, người đàn ông gốc Bạch mời tôi điếu thuốc hút. Cũng đã 30 năm rồi, lần đầu tiên tôi đã lại vui vẻ đón nhận và cả thưởng thức điếu thuốc thơm Vân Nam trên mặt hồ Nhĩ Hải.

Cách đây ngót 8 thế kỷ (1278), Marco Polo trên Con Đường Tơ Lụa Phương Nam (Southern Silk Route) đặt chân tới đây và ghi nhận cá ở hồ Nhĩ Hải là “nhất thế giới” sau đó Marco Polo đã vượt qua sông Mekong phía tây Vân Nam để ra khỏi Trung Hoa.

Sáu thế kỷ sau Marco Polo (1868), đoàn thám hiểm Pháp với Doudart de Lagrée & Francis Garnier khởi hành từ Sài Gòn bằng cuộc hành trình gian truân ngược dòng sông Mekong kéo dài hai năm cuối cùng Francis Garnier cũng tới được hồ Nhĩ Hải phía đông khu cổ thành Đại Lý. Nhưng Francis Garnier đã bị vị Sultan, vua Hồi từ chối tiếp kiến và buộc đoàn phải rời Đại Lý ngay sau đó.

Hơn 130 năm sau Francis Garnier, chúng tôi đang trở lại với sinh cảnh đẹp đẽ nhưng đã quá mong manh và có lẽ là những năm tháng cuối cùng của hồ Nhĩ Hải với nước hồ ngày càng ô nhiễm, đổ thoát ra bằng một phụ lưu lớn là con sông Xi’er để rồi cuối cùng cũng đổ dồn vào dòng chính con sông Lancang-Mekong.

Sau hai điếu thuốc, chủ và khách đều hân hoan. Lão ngư ông cao hứng bảo sẽ hát cho chúng tôi nghe một bài tình ca có tự lâu đời của sắc dân Bạch. Tuy không hiểu được lời ca nhưng những nốt nhạc thì rất du dương trầm bổng. Theo Wu thì bài hát kể lại mối tình thơ mộng và say đắm của đôi trai gái sắc tộc Bạch, cùng chèo thuyền trên hồ Nhĩ Hải cảnh sắc hữu tình, dưới bầu trời xanh, bên dãy núi cao, trên biển nước mênh mông, mỗi nốt nhạc lời ca là tiếng lòng thổn thức của họ. Ở tuổi gần 60, da sạm nắng và gầy khắc khổ nhưng người đàn ông đã hát với tất cả vẻ đam mê như đang sống lại với mối tình đầu của tuổi thanh xuân ngày nào. Bầy chim cốc vẫn bơi sát theo thuyền, mấy con nhảy đỗ trên ghe thì nghển cổ như để lắng nghe chủ hát.

Tôi hỏi về mức thu hoạch cá với đàn chim cốc. Ông nói đã sống với nghề săn cá bằng chim cốc từ 40 năm và cách đây hơn 10 năm thôi, vẫn có được những mẻ cá lớn nhưng về sau này thì không, lượng cá không hiểu tại sao càng ngày càng ít hẳn đi, chỉ còn lại đàn chim cốc vẫn nuôi sống được gia đình ông chủ yếu bằng tiền của du khách.

HỒ ĐIỀN TRÌ / DIANCHI 滇池, VÀ CON SÔNG HỒNG

Điền Trì là một biển hồ lớn nhất phía nam thủ phủ Côn Minh, đã từng được Marco Polo tới thăm vào thế kỷ thứ 13 mô tả như “một hồ lớn cả trăm dặm và lưới được rất nhiều cá”. Hồ có chiều dài hơn 40 km, diện tích 300 km2 (gần bằng nửa diện tích đảo quốc Singapore), phía tây là núi đồi, phía đông hồ, địa hình bằng phẳng, nguyên là khu chài lưới rất thịnh vượng nhưng rồi do ô nhiễm chất thải từ các khu kỹ nghệ bờ đông nam nên đã không còn cá và thực sự đã không còn một nền ngư nghiệp.

Wu là tài xế cũng là nhà giáo khi đưa chúng tôi tới đây, đã cho biết chính quyền không  sao xử lý được hồ nước thải, không giải quyết được cả một khối lượng nước đã quá ô nhiễm trong hồ lớn Điền Trì – nên Wu đã thuật cho chúng tôi nghe về một kế hoạch táo bạo của chính quyền Vân Nam: dự trù chi phí 2 tỉ yuan để khai thông một đường dẫn cho thoát nước hồ ra sông Hồng, chảy qua Việt Nam rồi đổ ra Biển Đông, sau đó sẽ thay thế bằng nước con sông Dương Tử dẫn vào hồ. Tuy chưa thể kiểm chứng được là có bao nhiêu phần trăm sự thật trong kế hoạch đầy sáng tạo nhưng độc ác của các “công trình sư Đại Hán” ấy, nhưng có thể chắc chắn một điều người giáo viên trung học ấy không đủ giàu tưởng tượng để bịa đặt ra câu chuyện ấy. Đổ tất cả ô nhiễm của hồ Điền Trì vào con sông Hồng như một đường cống rãnh, hậu quả sẽ ra sao trên bao nhiêu triệu cư dân Việt Nam nơi đồng bằng châu thổ đang sống bằng nguồn nước con sông Hồng và đây là điều sẽ được ai quan tâm tới? Việt Nam được biết gì về một kế hoạch “giải quyết môi sinh” theo lối ném bùn sang ao của chánh quyền Vân Nam?  (hết trích dẫn: Mekong dòng sông nghẽn mạch – Tường trình từ Vân Nam 9.2002, Nxb Văn Nghệ). 

Trong chuyến đi Vân Nam 2002, người viết đã được tận mắt thấy một hồ Điền Trì lớn nhất Vân Nam gần như đã chết và một hồ Nhĩ Hải lớn thứ hai thì đang chết dần. Nhưng để rồi, 23 năm được chứng kiến những “cái chết đi và sống lại” của các hồ nước ngọt Trung Quốc như một phép lạ không do Thượng Đế mà do chính con người đã tạo ra… 

CHÂU ĐẠI LÝ VÀ HỒ NHĨ HẢI NGÀY NAY

Hồ Nhĩ Hải trên cao nguyên Vân Nam, độ cao 1972 m trên mực nước biển, cách thủ phủ Côn Minh 265 km về phía tây bắc, là một trong số 16 hồ nay thuộc khu bảo tồn thiên nhiên cấp quốc gia của Trung Quốc. Hồ có chiều dài bắc nam 40 km, chiều rộng đông tây 8 km, diện tích 250 km2 với chu vi 116 km, có chiều sâu trung bình khoảng 11m. Dung tích hồ biến động theo mùa khoảng 2.5 tỉ m3 tới 2.8 tỉ m3.

Đây là một hồ nước ngọt lớn thứ hai của Vân Nam nổi tiếng về cảnh quan và hệ sinh thái phong phú. Vào những năm trước 1970, hồ Nhĩ Hải vẫn  được coi như một “tiên cảnh hạ giới”  với nước hồ trong như ngọc và trên mặt hồ có điểm xuyết một loài hoa quý: hải thái hoa / 海菜花 / haicaihua, tên khoa học là Ottelia acuminata. Hoa có ba cánh trắng, nhị vàng. Hải thái hoa không chỉ nổi tiếng vì đẹp, chỉ có ở Vân Nam, vùng tây nam Trung Hoa. Những thân non và nụ hoa còn được sắc dân Bạch thu hoạch, chế biến thành các món ăn ngon truyền thống rất được ưa chuộng. Y học Trung Hoa còn ghi nhận hải thái hoa đây là một loại thảo dược trị được một số bệnh.

Vì loài hoa này rất dễ bị tổn thương, và không sống được trong môi trường ô nhiễm, nên sau này được các nhà khoa học môi sinh coi hải thái hoa như một “chỉ báo sinh học” về phẩm chất nước (biological indicator of water quality). Bấy lâu, hồ Nhĩ Hải có vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước, tưới tiêu nông nghiệp, và điều hòa khí hậu cho các khu vực xung quanh. Dân địa phương vẫn chủ yếu sống bằng nghề nông, chăn nuôi, đánh bắt cá theo phương thức cổ truyền, vận chuyển và du lịch trên hồ.

 

Năm 1981, hồ Nhĩ Hải và núi Thương Sơn / 蒼山 / Cangshan đã được chính quyền tỉnh Vân Nam quy hoạch là Khu bảo tồn thiên nhiên và sau đó năm 1994 được nâng cấp thành khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia, với mục tiêu bảo quản hồ nước ngọt cùng những cảnh quan với hệ động thực vật thủy sinh phong phú – được coi như một vùng chuyển tiếp nam-bắc của Trung Quốc với cả những di tích địa chất còn sót lại từ thời kỳ băng hà.

 

CÁI GIÁ PHẢI TRẢ CỦA PHÁT TRIỂN

Nhưng rồi vào cuối thập niên 1970s và 1980s, khi một Trung Quốc bắt đầu mở cửa và đổi mới – tạo được những bước phát triển kinh tế nhảy vọt – khởi đầu từ các tỉnh miền đông và đông nam. Riêng vùng tây nam – như cao nguyên Vân Nam trong đó có Châu Tự Trị Đại Lý thì vẫn chìm trong cảnh nghèo khó. Nhưng rồi, tuy muộn màng, cuối cùng Vân Nam cũng được thụ hưởng ánh sáng tăng trưởng kinh tế của cả nước. Với chiến dịch “xóa đói giảm nghèo”, được phát động từ năm 2013 đến năm 2020, tỉnh Vân Nam – trong đó có Châu Đại Lý với ngót nửa triệu cư dân được coi như đã thoát khỏi mức nghèo khó, họ đạt được mức sống cao hơn (i) với thu nhập trên mức tối thiểu; (ii) được đảm bảo thức ăn và quần áo; và (iii) được đảm bảo các dịch vụ y tế cơ bản, nhà ở có điện nước, và giáo dục miễn phí.

Các bước phát triển của Trung Quốc với mở mang các khu kỹ nghệ mới, phải kể tới kỹ nghệ hoá chất với phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, ban đầu đã tạo được những cải tiến trong sản xuất nông nghiệp. Kinh tế phát triển đưa tới sự bùng phát của du lịch nội địa và quốc tế.

Hệ quả đưa tới là tình trạng đô thị hoá, với chuyển dịch dân cư, làm gia tăng dân số trong vùng – cùng với cái giá phải trả về môi trường – khiến chất lượng nước trong hồ Nhĩ Hải ngày càng xấu đi và chủng loại hải thái hoa / haicaihua dần dần biến mất. Người ta đã phải chứng kiến sau đó một hồ Nhĩ Hải trải qua những đợt bùng phát tảo xanh (blue-green algae), không những thế nước hồ còn phát ra mùi hôi thối và chất lượng nước được coi là không phù hợp để tiếp cận với con người.

NGUỒN Ô NHIỄM HỒ NHĨ HẢI ĐẾN TỪ ĐÂU

_ Từ các điểm nguồn (point source): các con sông: từ năm 2013 của các nhà khoa học tỉnh Vân Nam phát hiện ra rằng những con sông bấy lâu chảy vào hồ Nhĩ Hải, chất lượng nước được đánh giá là rất ô nhiễm; các chất gây ô nhiễm chính là nitrogen và phốt pho có nguồn gốc từ phân bón nông nghiệp, tất cả nước sông ô nhiễm này chảy vào hồ, gây ra hiện tượng phú dưỡng / eutrofication*.

 [*phú dưỡng / eutrofication là tình trạng nước chứa quá nhiều chất dinh dưỡng từ phân bón, nước thải đưa tới tình trạng bội phát các loại rong rêu /algae, phiêu sinh vật/ plankton, làm cạn kiệt nguồn oxy trong nước, tạo ra các vùng chết trong hồ].  

Ba con sông chính gây ô nhiễm hồ Nhĩ Hải là (1) Vĩnh An Giang / Yong'anjiang 永安江, (2) La Thì Giang / Luoshijiang 罗时江, và (3) Bạch Hạc Khê / Baihexi. Chỉ riêng con sông Vĩnh An Giang đã đổ vào hồ Nhĩ Hải 20% tổng số chất thải.

GIẢI PHÁP: Nhóm dự án đặc biệt nghiên cứu các phân đoạn con sông chảy vào hồ Nhĩ Hải, từ thượng nguồn xuống tới cửa sông, để xây dựng một kế hoạch quản lý hệ sinh thái sông toàn diện. Chỉ riêng nguồn nước từ con sông La Thập Giang, đã đổ 40 triệu tấn nước thải vào hồ Nhĩ Hải hàng năm. Nhóm nghiên cứu đã thảo một kế hoạch với chi phí thấp để làm sạch nguồn nước của sông La Thập Giang. Ở khu vực thượng nguồn, kế hoạch tập trung vào các biện pháp 'bảo tồn sinh thái'; ở các vùng trung lưu chủ yếu là đất nông nghiệp và làng mạc, kế hoạch tập trung vào 'phục hồi sinh thái và tái cấu trúc kinh tế', hướng dẫn nông dân xung quanh trồng các loại cây trồng thương mại ít ô nhiễm, năng suất cao và xây dựng các mương lọc dọc theo bờ sông để làm sạch sơ bộ nước ruộng và nước thải của làng; ở các khu vực hạ lưu đông dân, kế hoạch tập trung vào 'kiểm soát ô nhiễm và quản lý kỹ thuật sinh thái', xây dựng 1.500 mẫu Anh một vùng đất ngập (wetlands) nhân tạo trước khi sông chảy vào hồ. Các vùng đất ngập này được phủ dầy với vật liệu lọc phốt pho, với các bức tường thực vật thủy sinh theo để làm lắng các chất ô nhiễm và làm sạch nước trước khi chảy vào hồ.

Đến tháng 6 năm 2011, sau 5 năm thực hiện, chất lượng nước tại cửa sông La Thập Giang chảy vào hồ đã được cải thiện đáng kể, chất lượng nước phù hợp để con người sử dụng, và cây hải thái hoa / Ottelia acuminata được trồng nhân tạo đã sống lại sau nhiều năm vắng bóng. Nhờ bước thành công này, trong giai đoạn Kế hoạch 5 năm tiếp theo (2011–2015), mô hình hiệu quả từ sông La Thập Giang đã được mở rộng sang các con sông khác chảy vào hồ Nhĩ Hải.

_ Từ các diện nguồn (area source): vùng canh tác, chăn nuôi, khu gia cư. Với cải cách kinh tế, cùng với sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp hóa chất đã dẫn đến gia tăng sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu trong nông nghiệp ở Châu Đại Lý. Tuy tuy có hiệu quả ngắn hạn gia tăng năng xuất, nhưng đồng thời với hậu quả lâu dài là gây ô nhiễm nghiêm trọng chất lượng nước trong lưu vực. Nghiên cứu của Tiến sĩ Chen Xiaohua và các đồng sự từ Viện Khoa học Môi trường Thượng Hải phát hiện ra rằng từ năm 1988 đến năm 2013, khi sự phát triển kinh tế xã hội ở lưu vực Nhĩ Hải được cải thiện, nhưng chất lượng nước trong khu vực cũng đã xấu đi theo cùng tỷ lệ.

1/ Vùng trồng tỏi một củ: từ những năm 1990, nông dân ở vùng Đại Lý đã bắt đầu trồng loại tỏi một củ hay còn được gọi là tỏi đơn với hương vị thơm ngon rất được ưa chuộng. Đến năm 2010, diện tích trồng tỏi đơn ở Đại Lý đã lên tới 13.300 ha, với thu nhập cao hơn nhiều so với việc trồng ngũ cốc. Tuy nhiên, việc trồng tỏi đòi hỏi một lượng lớn nước và phân bón, chỉ một nửa trong số phân bón đó được tỏi hấp thụ và một nửa còn lại vẫn nằm trong đất. Vào mùa mưa, dòng chảy phân bón và thuốc trừ sâu đổ và hồ Nhĩ Hải đã dẫn đến tình trạng dư thừa nghiêm trọng nitrogen và phốt pho trong hồ, dẫn đến tình trạng phú dưỡng và phát triển tảo xanh.

GIẢI PHÁP: Các chuyên gia từ Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc đã khuyến nghị cấm trồng tỏi trong phạm vi 200 mét tính từ bờ hồ Nhĩ Hải, hạn chế trồng loại cây này ở những khu vực cách bờ hồ từ 200 đến 2000 mét và khuyến khích cư dân trồng các loại cây khác sử dụng ít nước và phân bón hơn trên khắp lưu vực. Để kêu gọi nông dân ngừng trồng tỏi, không phải là điều dễ dàng nhưng rồi với quyết tâm và kiên nhẫn thuyết phục của chính quyền, người dân sống gần hồ Nhĩ Hải cũng đã ngừng trồng tỏi và được giúp đỡ chuyển sang trồng các loại cây trái như lựu, đào và quất và tham gia vào hoạt động du lịch.

2/ Vùng chăn nuôi gia súc: vốn là hoạt động có truyền thống lâu đời ở Châu Đại Lý do khí hậu và thổ ngơi thuận lợi của khu vực. Gia súc được chăn thả gần hồ, khiến phân bò trôi vào hồ và làm trầm trọng thêm tình trạng phú dưỡng. Chỉ riêng năm 2007, ước tính có 140.000 con bò sữa được nuôi ở lưu vực Nhĩ Hải, với tải trọng môi trường (environmental load) của mỗi con bò tương đương với 23 người. Nói cách khác, ngành chăn nuôi bò sữa vào thời điểm đó đã đóng góp một tải trọng môi trường tương đương với hơn ba triệu người sống trong lưu vực, trên thực tế đã nhân đôi dấu chân môi trường của dân số toàn bộ châu Đại Lý.

GIẢI PHÁP: Để giải quyết tình trạng ô nhiễm do chăn nuôi bò sữa, sau nhiều năm điều tra và nghiên cứu thực địa, các chuyên gia từ Đại học Khoa học và Công nghệ Côn Minh đã đề xuất hai giải pháp chính: thứ nhất, hạn chế khoảng cách đàn bò sữa và ngăn không cho chúng gặm cỏ quá gần hồ và thứ hai, thành lập các nhà máy phân bón tập trung để chế biến phân bò. Hợp tác với Viện Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, các chuyên gia đã thiết kế một nhà máy thu gom phân bò để sản xuất phân bón hữu cơ. Giúp doanh nhân địa phương đã xây dựng bốn nhà máy như vậy và thiết lập 25 trạm thu gom phân bò tại các ngôi làng xung quanh lưu vực Nhĩ Hải. Các nhà máy này đã thu gom hơn 1.300 tấn phân bò mỗi ngày và hơn 400.000 tấn phân bò, phân lợn và phân gia cầm mỗi năm. Châu Đại Lý được trợ cấp hàng năm hơn 10 triệu nhân dân tệ cho các nhà máy phân bón để mua phân bò từ nông dân. Loại phân hữu cơ này có hiệu quả là thân thiện với môi trường; chúng không chỉ được sử dụng để kiểm soát nồng độ phốt pho và nitrogen trong hơn hai triệu mẫu đất nông nghiệp ở Châu Đại Lý mà còn được bán trên toàn quốc và cả Đông Nam Á.

3/ Di cư kỹ thuật số và Du lịch: Châu Đại Lý đã có một thời kỳ thu hút giới trẻ từ các thành phố lớn tìm kiếm nơi thoát khỏi lối sống đô thị đầy khói bụi và tắc nghẽn giao thông. Nhiều người đã bán nhà ở thành phố và chuyển đến Đại Lý cùng gia đình để xây dựng nhà trọ sống cùng với cư dân địa phương dọc theo Hồ Nhĩ Hải. Trong lối sống “như cảnh thiên đường”, một số người trẻ trong ngành kỹ thuật cao – do họ có thể làm việc từ xa và được gọi là “người di cư kỹ thuật số / digital migrants”. Từ năm 2014 đến năm 2016, số lượng “người di cư mới” đến Nhĩ Hải từ các vùng khác của Trung Quốc đã tăng từ 30.000 lên gần 100.000, chiếm gần 10% cư dân quanh hồ. Cũng vào năm 2014, Châu Đại Lý đã đón 808.300 khách du lịch nước ngoài25,67 triệu khách du lịch trong nước. Sự phát triển nhanh chóng của ngành du lịch tuy có làm tăng thu nhập của người dân địa phương nhưng các biện pháp bảo vệ môi trường lại tụt hậu. Các nhà trọ, chuỗi nhà hàng đã tạo ra một lượng nước thải sinh hoạt rất lớn. Lượng chất thải dân dụng và liên quan đến du lịch đổ vào hồ đã lên tới hơn 600 tấn mỗi ngày.

GIẢI PHÁP: Chính quyền Châu Đại Lý đã yêu cầu 2.498 nhà hàng, nhà trọ và nhà dân xả nước thải sinh hoạt vào hồ Nhĩ Hải dừng hoạt động. Ban đầu, họ đã phản đối kịch liệt. Nhóm dự án đặc biệt của Nhĩ Hải, đã phải đích thân tiếo xúc với từng chủ nhà trọ và cùng đi với các phóng viên báo chí và truyền hình. Các giới chức đã phải đến các nhà hàng, và nhà dân, nhiều lần với giải thích cho họ về các mối đe dọa ô nhiễm mà hồ Nhĩ Hải đang phải đối mặt. Quá trình thuyết phục người dân địa phương và các chủ doanh nghiệp rất khó khăn, nhưng rồi cuối cùng, cũng đã đạt được sự đồng thuận với quan điểm rằng chỉ tập trung vào lợi ích kinh tế ngắn hạn cũng giống như 'giết chết con ngỗng đẻ trứng vàng', phá hủy tương lai của toàn bộ cộng đồng. Cuối cùng, tất cả các chủ nhà trọ và nhà dân ở quanh hồ Nhĩ Hải đã chấp nhận quyết định của chính phủ, tạm dừng hoạt động trong 18 tháng để tiến hành các biện pháp di dời và cải tạo. Năm 2018, đã 1.806 gia đình (thuộc 23 ngôi làng) trong phạm vi 15 mét tính từ hồ đã bị phá dỡ với sự đồng ý của chủ sở hữu, các địa điểm đã được khôi phục thành không gian công cộng và 7.270 người đã chuyển đến các khu dân cư mới xây dựng và được chính phủ đền bù. Để ghi nhận những hy sinh của 1.806 hộ gia đình vì sự bảo vệ môi trường của Nhĩ Hải, khu dân cư mới được đặt tên là 'Thị trấn 1806'. Và cuối cùng, các nhà hàng, nhà trọ và các ngôi làng nằm ngoài ranh giới 15 mét cũng đã hoàn thành việc xây dựng hệ thống thoát nước thải.

Ngoài ra các ngành công nghiệp không cần phát triển ở gần hồ Nhĩ Hải cũng đã được chuyển ra ngoài. Những thay đổi ở Thành phố Đại Lý phù hợp với xu hướng rộng hơn trong cả nước nhằm giảm bớt áp lực cho các khu vực đô thị trung tâm.

- Tiếp theo là khoản đầu tư trị giá hàng tỷ nhân dân tệ để xây ba nhà máy xử lý nước thải, 4.660 km đường ống nước thải và 99.000 hệ thống tự hoại được nâng cấp đã được lắp đặt trên toàn lưu vực.

- Sinh viên từ các Đại học Nông nghiệp Trung Quốc đã thành lập “sân khoa học và công nghệ” tại các ngôi làng để giới thiệu các phương pháp canh tác thân thiện với môi trường và giám sát ô nhiễm không phải nguồn điểm—giảm lượng nước chảy tràn khoảng 10%.

Người dân địa phương và “nhóm bảo vệ hồ” cùng tham gia vào các hoạt động dọn dẹp, duy trì thảm thực vật ven bờ và trồng lại loài hải thái hoa rất nhạy cảm – như một chỉ số sinh học quan trọng về chất lượng nước, với kết quả tích cực và lâu dài

Phục hồi toàn hệ sinh thái của hồ Nhĩ Hải ở Đại Lý, Vân Nam là những câu chuyện truyền cảm hứng trên toàn quốc:

_ Chính quyền giải toả và cải tạo cơ sở hạ tầng thành công

Đến năm 2019–2020, chất lượng nước đã liên tục đạt tiêu chuẩn Loại II–III, tươi mát và phù hợp môi trường cho sinh vật sống dưới nước

- Quần thể chim muông quay trở lại mạnh mẽ và các loài thực vật nhạy cảm như hải thái hoa nở hoa trở lại, báo hiệu sự phục hồi sinh thái.

- Du lịch phục hồi: Nhĩ Hải lấy lại biệt danh là "hồ mẹ" của khu vực, làn nước trong vắt của nó một lần nữa thu hút các cặp đôi, người yêu thiên nhiên và các loài chim di cư.

Kết quả tốt đẹp, hồ Nhĩ Hải đã chuyển đổi từ tình trạng dày đặc ô nhiễm với rong tảo xanh độc để trở lại một môi trường sôi động – tràn đầy sức sống, vẻ đẹp nên thơ và cân bằng sinh thái.

 

 

Hình 4: Cảnh quan ngày nay của hồ Nhĩ Hải, Vân Nam (2025), cho thấy cả một hệ sinh thái đang hồi sinh: độ trong của nước hồ đã được cải thiện đáng kể, phản ánh trạng thái khỏe mạnh của hồ và đây chính là kết quả kỳ diệu và mẫu mực của nhiều năm nỗ lực làm sống lại một con hồ đang chết dần.  

 

 

NHỮNG ỨNG DỤNG SAU HỒ NHĨ HẢI

Những thách thức về môi trường mà Châu Đại Lý phải đối mặt và những nỗ lực phục hồi của chính quyền từ Trung ương tới địa phương  đã cung cấp một số bài học vượt ra ngoài khu vực. Ví dụ, trong quá trình phục hồi hồ Nhĩ Hải, Tập đoàn Môi trường Nước Trung Quốc đã phát triển 'hệ thống nhà máy công nghệ sinh thái khôi phục nước xây ngầm dưới mặt đất (the distributed subsurface water reclamation ecosystem technology system), là phương pháp quản lý dành cho các hồ lớn có diện tích trên 200 km2 chưa từng được sử dụng ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới. Theo Tiến sĩ Feng Hou, chủ tịch của Tập đoàn Môi trường Nước Trung Quốc, thì đây là một phương pháp tiếp cận mới mang tính đột phá, làm thay đổi mô hình quản lý nước đã tồn tại hàng thế kỷ trên toàn thế giới.

 

MỘT HUY CHƯƠNG BẠC TỪ IWA CHO HỒ NHĨ HẢI

Vào tháng 9 năm 2022, “Dự án Đổi mới Kiểm soát Ô nhiễm Lưu vực hồ Nhĩ Hải và Phát triển Khu vực” đã giành huy chương bạc ở hạng mục “Thực hiện và Triển khai Dự án Xuất sắc” tại Đại hội Triển lãm Nước Thế giới của Hiệp hội Nước Quốc tế (IWA/ International Water Association) tại Copenhagen, Đan Mạch. Hội đồng chuyên gia của IWA đã đánh giá dự án do Tập đoàn Môi trường Nước Trung Quốc, Đại học Giao thông Thượng Hải và chính quyền Huyện Đại Lý cùng đệ trình: về các khía cạnh đổi mới, những thành tựu, thiết kế dự án và tiềm năng tác động rộng rãi hơn. Chủ tịch IWA Tom Mollenkopf tuyên bố rằng “Việc quản lý toàn diện Hồ Nhĩ Hải, kết hợp cải thiện môi trường sinh thái nước với mô hình phát triển kinh tế xã hội của lưu vực, cung cấp những hiểu biết quan trọng cho sự phát triển của lĩnh vực môi trường nước toàn cầu”.

 

NHỮNG KỲ QUAN MÔI SINH CỦA TRUNG QUỐC

Sau thành công với hồ Nhĩ Hải, với chiến lược đa khía cạnh bao gồm: (1) kiểm soát nguồn nước thải, (2) xây dựng hệ thống xử lý nước thải, (3) phục hồi vùng đệm sinh thái và (3) tái định cư dân cư. Cho đến nay, ít nhất đã có 8 hồ nước ngọt lớn của Trung Quốc được phục hồi – với chất lượng nước từ xấu - cấp IV và rất xấu - cấp V, nay đạt được cấp I tới III - từ rất tốt tới tốt.

1. Hồ Nhĩ Hải / Erhai / 洱海, Vân Nam: Là hồ đầu tiên của Trung Quốc được phục hồi toàn hệ sinh thái với chiến lược đa khía cạnh, và là mẫu mực cho tất cả cả các hồ nước ngọt khá sau này của Trung Quốc.

2. Hồ Điền Trì / Dianchi– 滇池, Vân Nam: Từng là một hồ được coi là ô nhiễm nhất Trung Quốc, phẩm chất nước dưới cấp V, cá chết hàng loạt do nước thải đô thị và chất thải từ các khu kỹ nghệ quanh hồ. Với xây dựng 29 nhà máy xử lý nước thải, dẫn nước và xây dựng vùng đất ngập nhân tạo, lấy nước từ sông Dương Tử hoàn nguyên toàn bộ dung tích hồ, cùng với các sáng kiến ​​tăng cường đa dạng sinh học. Chất lượng nước của hồ đã được cải thiện, với phục hồi thảm thực vật, với sự trở lại của các loài cá và chim, và ngành du lịch sinh thái đang hồi sinh.

3.  Bà Dương Hồ & Động Đình Hồ / Poyang & Dongting Lake – 鄱阳湖 &– 洞庭湖, Giang Tây: Hồ Poyang và hồ Dongting là hai hồ nước ngọt lớn nhất Trung Quốc, cả hai đều có liên kết với sông Dương Tử. Hồ Poyang, hồ lớn hơn, nằm ở tỉnh Giang Tây và hồ Dongting, nằm ở tỉnh Hồ Nam, cùng đóng vai trò là điều hoà lũ và nối kết với sông Dương Tử qua nhiều kênh. Cả hai hồ đều đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái của sông Dương Tử và trong việc điều hoà lũ lụt trong khu vực. Thực thi các chiến dịch cải thiện chất lượng nước, tăng giám sát, kiểm soát nguồn thải.

4. Thái Hồ / Taihu Lake – 太湖, Giang Tô: Một trong ba hồ lớn nhất ở Trung Quốc, đã bị ô nhiễm trầm trọng, tảo xanh năm 2007, nước dưới cấp V là mức thấp nhất. Với giải pháp: đóng cửa hàng ngàn nhà máy gây ô nhiễm, xây hệ thống đường ống dẫn nước, gom tảo, kiểm soát nguồn nước thải, khôi phục vùng đệm nước ngập để giảm ô nhiễm. Đến năm 2024, phẩm chất nước đạt cấp III đủ tốt cho các sinh vật sống và phát triển.

5. Phủ Tiên Hồ / Fuxian Lake – 抚仙湖, Vân Nam: Hồ bị ô nhiễm nặng từ phân bón thuốc trừ sâu từ nông nghiệp và lượng rác phế thải từ khu dân cư và sự bùng phát du lịch. Với giải pháp: qua nạo vét bùn, lập khu sinh vật lọc và chuyển hướng dòng nước, hồ đã trả về chất lượng “cấp I” năm 2004 .

6. Lô Cô Hồ / Lugu Lake – 泸沽湖, Tứ Xuyên: Bị ô nhiễm do du lịch bùng phát, các công trình xây dựng xâm lấn hồ, lượng nước thải không được xử lý. Giải pháp: từ 1992, xây hệ thống ống thu hồi nước thải, hạn chế sử dụng phân bón hoá chất, thuốc trừ sâu, cấm thuyền máy; các biện pháp đa khía cạnh này từng được đánh giá mô hình này là "tiêu chuẩn".

7. Ô Luân Cổ Hồ / Ulungur Lake – 乌伦古湖, Tân Cương: Ở Tân Cương, từng bị ảnh hưởng từ nước sinh hoạt và kỹ nghệ thuỷ sản. Giải pháp: Từ 2005 đến 2018, xây dựng công viên đất ngập nước, xử lý nước thải, trồng lại khôi phục hệ sinh thái – hiện là công viên đất ngập quốc gia.

8. Bạch Dương Hà Thuỷ Khố  / Urumqi's Baiyangdian (Baiho) Lake – 白杨河水库, Tân Cương: Được phục hồi thành đầm sinh thái gần Urumqi giữa 2016–2019.

Cho tới nay Trung Quốc đã giải quyết được ô nhiễm thành công, với quy mô lớn và độ sâu ô nhiễm cao, với áp dụng mô hình Khoa học Môi trường của hồ Nhĩ Hải. Chính sách đồng bộ – từ ngăn xả thải, xử lý nước thải đến bảo tồn vùng ven hồ – được ứng dụng nhân rộng ở nhiều khu vực khác trên cả nước.

BÍ QUYẾT VÀ GIẢI PHÁP:

Việc Trung Quốc phục hồi thành công các hồ nước ngọt từng bị ô nhiễm nghiêm trọng là một phần trong “quốc sách” cải thiện môi trường và phát triển bền vững trong những năm gần đây. Một số bí quyết và giải pháp chính giúp Trung Quốc thành công trong việc “làm sống lại” các hồ nước ngọt bao gồm:

1. Kiểm soát nghiêm ngặt nguồn ô nhiễm: Đóng cửa hoặc di dời các nhà máy gây ô nhiễm: Chính phủ yêu cầu các khu công nghiệp ven hồ phải di dời, chuyển đổi công nghệ hoặc đóng cửa nếu không đạt tiêu chuẩn môi trường. Quản lý nước thải đô thị: Xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung, yêu cầu tất cả nước thải phải được xử lý trước khi xả ra hồ.

2. Khôi phục hệ sinh thái tự nhiên: Tái tạo vùng đệm sinh thái ven hồ:Trồng cây thủy sinh (sen, súng, lau sậy), tạo vùng đệm lọc nước tự nhiên. Thả các loài cá lọc nước: Như cá trắm cỏ, cá mè trắng... để kiểm soát tảo và chất hữu cơ. Hạn chế việc nuôi trồng thủy sản theo hình thức công nghiệp, chuyển sang nuôi sinh thái thân thiện hơn.

3. Ứng dụng công nghệ mới: Công nghệ sinh học: Dùng vi sinh vật phân hủy chất hữu cơ trong nước. Hệ thống giám sát thông minh: Lắp cảm biến và hệ thống AI giám sát chất lượng nước theo thời gian thực. Kỹ thuật "nạo vét sinh thái" (ecological dredging) là nạo vét bùn đáy ô nhiễm mà không gây ảnh hưởng đến môi trường xung quanh.

4. Huy động nguồn lực và quyết tâm chính trị: Đầu tư mạnh mẽ của chính phủ trung ương và địa phương, với hàng tỷ USD cho các dự án phục hồi hồ. Áp dụng chính sách nghiêm minh: Cán bộ địa phương chịu trách nhiệm nếu chất lượng nước không đạt. Thực hiện theo kế hoạch dài hạn (thường là từ 5 – 10 năm hoặc lâu hơn), kết hợp giữa môi trường – phát triển đô thị – du lịch.

KẾT LUẬN VỚI BÀI HỌC RÚT RA TỪ HỒ NHĨ HẢI:

Phục hồi các hồ nước ngọt – không chỉ là ứng dụng triệt để những kiến thức về Khoa Học Môi Trường, và cũng để thấy rằng không thể làm trong một thời gian ngắn – theo kiểu tư duy nhiệm kỳ – mà cần sự kiên trì có thể từ hơn 2,3 kế hoạch ngũ niên, với đầu tư đồng bộ và sự hợp tác giữa nhà nước – doanh nghiệp – người dân. Với một chiến lược rõ ràng, một nhà nước có tinh thần trách nhiệm với lòng yêu nước yêu dân và có quyết tâm chính trị cao, hoàn toàn có thể cứu sống và phục hồi các hồ nước ngọt khỏi tình trạng "chết dần".

NGÔ THẾ VINH

Erhai & Dianchi Lakes Visited September 2002

GWRS Visited 2017 & Revisited June 13, 2025

Long Beach July 4, 2025

 

 

Tham khảo:

1/ Mekong dòng sông nghẽn mạch – Tường trình từ Vân Nam. Ngô Thế Vinh 09.2002

Nxb Văn Nghệ 2007

https://online.fliphtml5.com/msgrj/wcst/#p=1

2/ Reviving Erhai Lake: A Socialist Approach to Balancing Human and Ecological Development. Xiong Jie & Tings Chak 2024

https://thetricontinental.org/wenhua-zongheng-2024-2-reviving-erhai-lake/

3/ Yunnan's largest freshwater lake (Dianchi Lake) comes back to life. Zheng Jinran, Peng Chao & Dang He. China Daily 24.08.2024

https://global.chinadaily.com.cn/a/202408/31/WS66d2f89ea3108f29c1fc96a6.html

LỜI NÓI ĐẦU cho cuốn "TA LÀ - Những Khúc mắc Siêu hình học"

 Nguyễn Hữu Liêm

 

Bạn đang cầm trên tay một Phác thảo ngắn gọn của phiên bản sơ đồ cho một Viễn trình Ra đi và Trở về của Chân Tâm.

Chân Tâm đi vào cuộc đời của bạn nhưng bạn không hề biết nó – ngoại trừ những khi phải trải qua những khủng hoảng hiện sinh thì bạn sẽ trực cảm được bản sắc tồn tại của chính mình.

Thứ Năm, 3 tháng 7, 2025

Tháng 6 – Mừng “Thuyền” của Nguyễn Đức Tùng

 Ngô Thị Kim Cúc

 

Thông tin về tiểu thuyết Thuyền của anh Nguyễn Đức Tùng đang hot trên mạng/trên các quầy sách khiến chúng tôi rất vui. Bởi đó là một tác phẩm của bạn văn đồng thời là cộng tác viên thân thiết của Văn Việt, người có thể viết hay cả thơ, truyện; viết giới thiệu/phê bình văn học và ngay cả tác phẩm dịch cũng hay không kém. Nên có lần tôi đã đặt câu hỏi: Không biết Nguyễn Đức Tùng viết vào lúc nào, khi hầu hết thời gian anh phải dành cho công việc bận rộn của một bác sĩ.

Thuyền – Hú gọi hồn nước chữa lành vết thương đau

 Lê Huỳnh Lâm

Mưa. Tiếng mưa ru tôi vào giấc ngủ trưa trong thoáng chốc. Rồi điện thoại reo. Người phát hàng đứng ngoài cổng, dưới mưa. Mưa dông và sấm sét. Tôi đọc Thuyền trong một chiều mưa như vậy. Mưa trái mùa. Mùa hạ gắn với nhiều kỷ niệm, hầu hết là ký ức buồn. Tôi nhớ Stefan Zweig, nhà văn người Áo. Nhớ hình ảnh bàn tay được miêu tả trong truyện của ông, nhớ văn phong của ông sắc, gãy gọn, khúc chiết, cái cách ông diễn đạt nội tâm và cách ông tả về hiện thực... khiến người đọc bị cuốn hút vào thế giới đó. Tôi có thói quen mua sách, vì hiện thực đầy giả trá nên tôi chìm vào quá khứ qua sách. Mê sách từ hơn 40 năm nay, cho dù cuốn đó có rồi, đọc rồi... nhưng vẫn mua vì thói quen, vì trân trọng tác giả, có thể vì quên và có khi mua để tặng, tặng người mình thương quý nhất. Mua sách như một niềm hy vọng vào điều thiện, vào cái đẹp tâm hồn ngày càng hiếm hoi trên mặt đất này.

Tóc sương say tàn

 Tru Sa

 

Đặng Thơ Thơ cùng thế hệ với ông bác, em ruột mẹ tôi, sống trong thời Việt Nam Cộng hòa và cũng như ông bác tôi, Thơ Thơ xa xứ cùng gia đình, người bác theo ngành y còn chị ngành giáo dục, viết văn, sáng lập trang Da Màu như cách để giữ gìn bản sắc và ngôn ngữ Việt. Xa quê mới nhớ nhà, rời nhau mới ngẩn ngơ căn nhà cắt rốn, sợ mất tiếng mất giọng, ngôn ngữ bay tro nên việc người Việt tha hương lập ra các trang Văn Hải Ngoại là cách đại đoàn kết khỏi cảnh nhớ nhà, đồng thời đấy cũng là sân chơi, thư viện lưu trữ bản thảo, để người trẻ muốn tìm tòi giai đoạn 20 năm miền Nam, muốn thử sức mà không cần phải trình bày thành tích đăng báo, in sách chung sách riêng đều có thể liên lạc. Xác ta hồn ta trên đất tây phải đối mặt với nghịch cảnh khách ngoại vi, phải học nhuyễn ngoại ngữ, văn hóa tây để sinh nhai, tiếng Việt chỉ có thể nói với đồng hương hoặc tự thầm trên trang giấy. Bạn văn mỗi người một phương, kẻ sang Mỹ, người đi Đức, sang Pháp, mỗi người ở một tiểu bang, ai nấy trong tình trạng mai một tiếng Việt nếu không viết. Mang trên vai nỗi đau thời binh chiến, ra đi, vỡ vụn trong dư chấn văn hóa ngoại, nhập quốc tịch, sống lõi nửa đời nhưng vẫn là khách trọ.

Thứ Tư, 2 tháng 7, 2025

Thơ Vũ Thành Sơn

 

THƠ NGẮN

Lịch sử biển

 

Khi chúng ta chia tay nhau ở cuối con đường dốc

Ngọn hải đăng đã bị lấy cắp

Kẻ thủ ác đang bị truy nã

Em nói với tôi biển là một câu chuyện tự sự, thất thường, không chính kiến

 

Lẽ ra tôi phải biết điều đó sớm hơn

Sáng tôi cần một ly cà phê đậm nhiều nắng và

một hồi chuông đổ

để đủ bận tâm

dù đứng ở đâu chúng ta đều mất thăng bằng

 

Đây là định nghĩa về hạnh phúc

Một căn phòng đầy sóng, màu xanh nhạt

Một người đàn ông tìm cách bơi lên những bậc thang

 

Những thứ thiết yếu

 

Người đàn ông đã bỏ trốn

với cánh cửa sổ

Thành phố có quá nhiều niềm tin

 

Nếu khởi hành từ Vinh

có thể em sẽ kết thúc ở dãy Andes

Rất lâu sau khi hải cảng bị phong toả, quán bar vẫn mở cửa

tôi vẫn chưa học được cách cám ơn

 

Tấm ảnh em chụp tôi ngày đó

bông trên tay tiếp tục nở mỗi ngày nhưng mùi thơm đã phai

Mọi thứ sẽ trở lại theo cách nào đó

Tôi đọc được trong Kinh Thánh

 

Cây bách trước sân

 

Trong những tình huống hiểm nghèo nhất nó

đã cứu sống tôi

Hơn hai mươi năm qua tôi đã thoát khỏi một cách lành mạnh

áp lực của món bánh mì kẹp thịt

và những lời mời kết bạn

của công viên. Cho dù thú thật đời sống còn

một số cám dỗ không nhỏ, ví dụ "nhiều gia vị quá"

như cách em nói.

 

Tôi sẽ giải thích bằng ngôn ngữ dễ chịu. Chẳng hạn

Tôi ở tầng thứ hai mươi bảy

Thế giới chuyển động giống như con lắc đồng hồ

Trong tương lai có thể tôi sẽ biết cách không bị lạc

khi đứng một chỗ. Ngay cả khi đã quá trễ, người gác cổng đã ngủ, cơn mưa

không kịp tới.

 

Mà tại sao tôi lại kể điều này với em khi

nó chỉ có trong giấc mơ?

                                                   V. T. S