Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Hiển thị các bài đăng có nhãn Vũ Ngọc Tiến. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Vũ Ngọc Tiến. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Năm, 20 tháng 6, 2024

Lũy thừa nhân cách

Truyện ngắn Vũ Ngọc Tiến

Viết tặng cố đạo diễn TXN nhân ngày giỗ đầu

Tiếng chuông đồng hồ điện Kremlin thánh thót ngân bảy tiếng. Staline ngừng bút, tay trái cầm cái tẩu gõ nhẹ lên bàn. Ông ngoẹo cổ lắc đầu mấy cái rồi ngả người lên thành ghế lim dim mắt. Lại một đêm căng thẳng đầu cuộc thế chiến với bao toan tính, mưu mẹo đã làm ông nhọc phờ.

Thứ Năm, 23 tháng 5, 2024

Hoa lạc thiền môn

Truyện ngắn Vũ Ngọc Tiến

Mấy năm gần đây cơ quan tôi có quan hệ làm ăn với nhiều công ty bên kia biên giới. Phòng kinh doanh duy nhất có tôi từng du học ở Vũ Hán - Trung Quốc nên mặc nhiên được sếp tin tưởng giao việc liên lạc giữa đôi bên đối tác. Mỗi lần tôi có việc sang Trung Quốc công tác vào mùa rét, bà xã đều cẩn thận gấp chiếc áo blu-dông lông thú vào va ly hành lý cho chồng mang theo. Chiếc áo là quà của nàng mua tặng tôi trong chuyến đi công tác ở Bắc Âu. Nền áo là vải sợi pha len đắt tiền màu xám tro. Cổ áo, ngực áo và cửa tay có đính các mảng lông chồn màu trắng xen lẫn màu nâu đen rất nổi. Nếu trời lạnh, tôi khoác thêm chiếc áo bành tô dạ màu cà phê sữa bên ngoài đủ ấm rực người. Nhiều lần dự tiệc với các bạn hàng ở Thượng Hải, Hàng Châu, Tô Châu… mọi người thấy tôi cởi áo bành tô đều trầm trồ khen ngợi chiếc áo blu-dông lông thú vừa sang lại vừa đẹp làm tôi trẻ ra dăm tuổi. Những lúc ấy, tôi có chút hãnh diện về món quà vợ tặng, thầm khen nàng có mắt thẩm mỹ tinh tường.

Chủ Nhật, 10 tháng 3, 2024

Số đặc biệt 10 năm Văn Việt: MỪNG VUI CÙNG VĂN VIỆT 10 NĂM

Vậy là trang Văn Việt đã có mặt trên diễn đàn văn học Việt Nam được 10 năm. Mười năm là khoảng thời gian ngắn so với một hoạt động có tính dài lâu như văn học. Nhưng với những người thực hiện và với độc giả/cộng tác viên Văn Việt, đó có thể coi là thành quả đáng mừng.

Bởi lẽ trang web của Văn Việt: vanviet.info, ngay từ đầu đã bị chặn tường lửa khiến đa số độc giả (do không biết cách vượt tường lửa) đã không thể vào đọc, và tất nhiên không thể gởi bài cộng tác.

Tuy nhiên, dù bị tường lửa cộng với những khó khăn khác bên ngoài trang báo, Văn Việt vẫn có được những tác phẩm giá trị so với mặt bằng chung của văn học Việt Nam hiện nay, nhờ sự tận tâm-chia sẻ-cống hiến của các bạn.

Ban Biên tập Văn Việt vô cùng trân trọng và xin chân thành cảm ơn những gì các bạn đã dành cho Văn Việt. Xin chúc các bạn vẫn tràn đầy năng lượng để tiếp tục con đường đã chọn của mình.

Chúng tôi xin ghi nhận ý kiến/lời nhắc của các bạn đã chia sẻ niềm vui cùng 10 năm Văn Việt.

Ban Biên tập Văn Việt

Thứ Năm, 30 tháng 11, 2023

Quỷ vương (tiểu thuyết, kỳ 7 – hết)

Vũ Ngọc Tiến

VU NGOC TIEN.QUY VUONG (1)

Nhà văn Vũ Ngọc Tiến

Sau khi vua Chiêu Tông chết, các thế lực chống đối họ Mạc ở triều đình và quanh kinh thành cũng hầu như tan rã hết. Đất nước Đại Việt thoát khỏi cảnh nội chiến liên miên, dân tình ly loạn và đói khổ cùng cực. Thế nhưng bài học về sự phản trắc của vua Chiêu Tông khiến Mạc Đăng Dung không khỏi suy nghĩ, lao tâm khổ tử. Ông giao mọi việc ở trong triều cho con trai Mạc Đăng Doanh giải quyết, còn mình ngoài giờ tập võ ra, suốt ngày đóng cửa thư phòng, trầm ngâm suy tính mọi việc xa gần.

Thứ Bảy, 25 tháng 11, 2023

Quỷ vương (tiểu thuyết – kỳ 6)

Vũ Ngọc Tiến

VU NGOC TIEN.QUY VUONG (1)

Nhà văn Vũ Ngọc Tiến

Hương đến rất sớm, vừa lúc Dân thức dậy đang còn đánh răng, rửa mặt. Hôm nay là chủ nhật, thằng Cún con nàng được bố nó xin phép đón về bên nội từ tối qua nên nàng có thời gian sắc thang thuốc bổ cho Dân. Nàng đến, mang theo chiếc cặp lồng đựng bát mì vằn thắn mua ở đầu phố còn nóng, giục Dân phải ăn ngay kẻo nguội. Chai nước thuốc theo lời dặn của ông Bình, nàng chia làm ba bát, một hâm nóng cho Dân uống sau bữa sáng, hai bát còn lại dành để uống sau bữa trưa và bữa tối. Trong lúc dọn dẹp nhà cửa, nàng thấy trên bàn làm việc ngổn ngang tài liệu. Chiếc gạt tàn đầy ặc mẩu thuốc lá. Hương nhăn mặt, lầu bầu trách:

- Thầy Hạnh đã dặn anh đừng thức đêm làm việc nữa, sao không chịu nghe, cứ làm tội cái thân mình mãi thế?

Thứ Sáu, 17 tháng 11, 2023

Quỷ vương ((tiểu thuyết – kỳ 5)

Vũ Ngọc Tiến

VU NGOC TIEN.QUY VUONG (1)

Nhà văn Vũ Ngọc Tiến

7. Xuân Tây Thi xuất ngoại

Xuân bước xuống sân bay quốc tế Chek Lap Kok - Hồng Kông lúc chập tối, không thấy con gái Tường Vi ra đón. Nó bây giờ mang hai quốc tịch Mỹ và Việt Nam nên còn có tên trong hộ chiếu Mỹ là Vera Nguyen. Đó là tên Mỹ gốc cả Nga lẫn Việt.

Thứ Tư, 15 tháng 11, 2023

Quỷ vương (tiểu thuyết - kỳ 4)

Vũ Ngọc Tiến

quỷ vương

 

5. Trư Vương nước Việt

Dân từ bệnh viện trở về, nằm thượt trên giường, thảng thốt hoang mang. Từ mấy tháng nay, anh đã thấy đau tức trong ngực, húng hắng ho khan, đôi lúc khó thở. Lúc đầu Dân chỉ nghĩ mình bị suy nhược vì hút thuốc quá nhiều về đêm, nhất là những khi đầu óc căng thẳng trước những vấn đề khúc mắc ngoài chuyên môn của đề tài nghiên cứu. Cái viện nghiên cứu dặt những “nhà”, những “lều” học hàm học vị đầy mình mà sao thật lạ! Hễ ai an phận ngồi chơi xơi nước, sớm cắp ô đi tối cắp về thì không người dòm ngó, ghen tỵ. Nhưng nếu đam mê với công việc, đưa ra vài phát kiến táo bạo vào đề tài nghiên cứu là bị hầm hè khó chịu, đơm điều đặt chuyện tìm cách phá ngang, không để cho được yên.

Thứ Sáu, 27 tháng 10, 2023

Quỷ vương (tiểu thuyết – kỳ 3)

Vũ Ngọc Tiến

VU NGOC TIEN.QUY VUONG

Nhà văn Vũ Ngọc Tiến

4. Vương quốc Bil - Kel

Thế Quyền bảo cậu lái xe Giàng A Phú nhắn với Đại Uy sai người lo bữa ăn tối để anh sẽ nghỉ lại ở tầng 9 trong tòa nhà của tập đoàn Bil- Kel. Uy gọi điện lại hỏi Quyền:

- Có cần báo trước cho chị Xuân không, hở anh?

- Không cần đâu, hôm nay anh muốn yên tĩnh một mình.

- Vâng em sẽ bảo tạp vụ lo liệu chu đáo, anh yên tâm.

- Nói tránh với mấy cô tạp vụ của Bil- Kel là chú ở lại làm việc tối để không ai biết anh nghỉ đêm ở đó.

Thứ Tư, 18 tháng 10, 2023

Quỷ vương (tiểu thuyết - kỳ 2)

Vũ Ngọc Tiến

VU NGOC TIEN.QUY VUONG

Nhà văn Vũ Ngọc Tiến

Thùy Dung lăn lộn trên giường, luôn miệng kêu khát. Đầu nàng nhức như búa bổ, toàn thân nóng ran, miệng đắng ngắt. Chị giúp việc hớt hải chạy vào phòng thấy vậy toan gọi điện cho Quyền. Nàng xua tay ngăn lại, bảo rót cho mình ly nước lạnh. Đợi nàng uống xong, chị giúp việc lấy khăn ướt đắp lên trán. Dung nằm hồi lâu, trân trối nhìn lên trần nhà. Nàng vẫy tay ra hiệu cho chị ta lui ra ngoài, từ từ nhắm mắt, chìm sâu vào ảo giác.

Thứ Ba, 17 tháng 10, 2023

Quỷ vương (tiểu thuyết - kỳ 1)

Vũ Ngọc Tiến

VU NGOC TIEN.QUY VUONG

Nhà văn Vũ Ngọc Tiến

1.Biệt thự Hoa phù dung

Thị xã K khi còn chưa tách tỉnh chỉ lèo tèo mấy dãy phố nhỏ miền biên viễn với những dãy nhà trình tường bằng đất, lợp ngói máng úp cong nom rất cổ xưa, nhếch nhác, ngập đầy bụi rác.

Hồi ấy, trung tâm hành chính của tỉnh lớn đặt tại thị xã Y nên mọi kinh phí đầu tư xây dựng đều ưu tiên dồn về đó. Giờ mọi sự đã khác. Sau hai mươi năm tách tỉnh, thị xã Y chỉ bằng một góc của thị xã K vừa được trung ương công nhận là thành phố loại hai có đủ sân bay, cảng sông, cửa khẩu quốc tế, siêu thị, sân gôn và những khu phố xa hoa, tráng lệ bám dọc trục chính theo hình xương cá của đại lộ Hùng Vương nối liền cửa khẩu quốc tế với khu trung tâm hành chính hiện đại vừa mới xây dựng.

Thứ Bảy, 14 tháng 10, 2023

Quỷ vương trong kiếp luân hồi

Lê Mai

LÊ MAI.JPG

Nhà văn Lê Mai

Lời thưa của tác giả Vũ Ngọc Tiến:

Mùa thu Quý Mão này vừa tròn 8 năm cuốn tiểu thuyết lịch sử Quỷ Vương ra mắt bạn đọc. Tuy buổi ra mắt sách tại nhà sách Đông Tây của anh em Đoàn Tử Huyến - Đoàn Tử Hoan, đến giờ G thì bị công an Hà Nội thổi còi đành phải dẹp bỏ do có kẻ xấu chỉ điểm, nhằm hạ bệ diễn giả Phạm Xuân Nguyên lúc đó là đương nhiệm Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội.

Dẫu sao, cuốn sách vẫn phát hành, trong vài tuần đã hết bay 1.000 cuốn và trong hai năm 2015- 2016 tác giả nhận được gần 20 bài viết ủng hộ nội dung tư tưởng và sự đổi mới văn phong bút pháp trong cuốn Quỷ Vương. Với người viết thế là quá đủ.

Có điều đáng buồn là, ngoài nhà phê bình văn học - Phó GS.TS Vũ Nho viết lời bạt còn có 3 người bạn chí cốt đã đọc bản thảo, góp công lớn cho tác phẩm (giờ cả 3 anh đã thành người thiên cổ): Nhà văn Nhật Tuấn rời cõi tạm còn chưa kịp đọc bản sách đã in. May vì biết con trai anh đưa tro cốt ra Bắc an táng nên tôi đã nhờ Vũ Từ Trang xin thẻ mộ ở nghĩa trang Yên Kỳ để mang 1 cuốn còn thơm mùi mực đốt lúc hóa vàng cho Tuấn đọc dưới cõi âm.

Còn 2 người khác là TS Địa Vật lý Thanh Giang mất năm 2016 và nhà văn Lê Mai mất năm 2019 đều có bài viết về cuốn sách, dành nhiều lời tâm đắc cho tác giả - tác phẩm.

Xin đăng lại bài viết của Lê Mai để tỏ lòng tưởng nhớ, biết ơn các anh…

Thứ Ba, 25 tháng 7, 2023

Vện và những người hàng xóm

Truyện Vũ Ngọc Tiến

 

1.

Văn Tân là cây bút phóng sự điều tra có hạng của tờ Tin nóng buổi chiều. Báo ra vào lúc 18 giờ. Thành phố có vụ việc nóng xảy ra trong ngày, đến giờ đó là các sạp báo lớn nhỏ đều đông người tìm đọc bài viết của anh. Sớm hôm sau, các báo bạn có bài đề cập thì tin đã nguội. Đó cũng là ngón nghề cạnh tranh do anh hiến kế cho ông bạn thân làm tổng biên tập từ lúc đặt tên cho số báo đầu tiên của tòa soạn. Chiêu này không mới, anh học được nhờ khi du học ở Mỹ đã công phu điều tra thị trường, giao du học hỏi bạn nghề. Người ta tìm đọc anh, hả hê vì bài viết ngồn ngộn số liệu, chứng cứ khiến kẻ ác như con thú bị trói; còn tổng biên tập gọi anh là con ngựa bất kham, muốn cắt gọt bớt câu chữ nào đều phải lựa lời thuyết phục để anh không nổi đóa. Có lẽ điểm yếu nhất của Văn Tân là dễ nổi đóa. Bình thường anh rất hiền, nhưng hiền thì hay cục và khi đã nổi đóa lên rồi dễ thành va chạm, vô tình mua thù chuốc oán…

Thứ Ba, 7 tháng 3, 2023

Thằng hủi

Truyện Vũ Ngọc Tiến

VU NGOC TIEN

Nhà văn Vũ Ngọc Tiến

1.

Như đã thành lệ, mỗi lần đi công tác xa về, Phạm Tâm đều ghé qua nhà tôi. Khi bận rộn, anh ào đến bắt tay, thăm hỏi qua loa vài câu, cho quà lũ nhỏ rồi lại ào đi như một cơn gió. Những lúc rảnh rỗi, anh ngồi lỳ ở nhà tôi cả buổi tối. Hai đứa lai rai ấm chè hay chén rượu nói chuyện nhân tình thế thái. Là giáo sư tiến sĩ chuyên nghiên cứu về tâm lý học tội phạm, anh đi thăm nhiều trại giam, gặp vô khối chuyện lạ thuộc đủ các gương mặt trong xã hội thời mở cửa. Nhưng anh cũng am hiểu nhiều lĩnh vực khác nên hễ ai đã ngồi với anh thì khó dứt ra được.

Thứ Sáu, 3 tháng 2, 2023

Chù Mìn Phủ và tôi (kỳ 2)

Truyện Vũ Ngọc Tiến

Vì sao tôi ký tên vào “Bản tuyên bố về chuyến thăm Việt Nam của ngài Tập Cận Bình”? Vì cái hiện thực xảy ra trong truyện ngắn này đây. Vào thời điểm đó ông Tập Cận Huân cũng nằm trong cái tập đoàn bành trướng bá quyền của Đặng Tiểu Bình, đẩy dân lành hai nước vào cuộc chiến đẫm máu, biến họ thành dã thú. Giờ nói như nhà văn Phạm Lưu Vũ trong bài “Khi Vũ Ngọc Tiến viết về chiến tranh”, anh đã phải thốt lên: “Sao có những kẻ đang ngồi ở Bắc Kinh hay Hà Nội lại có thể thản nhiên coi đó chỉ là vụ va quệt xe trên đường nhẹ hều?”.

… Đầu năm 2006, một chị bạn đã chuyển tận tay truyện ngắn này cho cố văn sĩ Nguyễn Xuân Hoàng đăng trên tạp chí Văn số 3&4, số tân niên năm 2006 (California - Mỹ) và tình bạn giữa tôi với Nguyễn Xuân Hoàng bắt đầu từ đó. Đến năm 2008 tôi cho in vào cuốn Rồng Đá, nhưng sách bị thu hồi không hiểu vì sao?…

Vũ Ngọc Tiến

6.

Chiếc xe của đài truyền hình đến đón tôi lúc mờ sáng. Gã đạo diễn nhìn bộ dạng phờ phạc của tôi nói móc: “Ái chà, ông bác đêm qua chắc làm việc nhiều, lử cò bợ còn gì. Ta khẩn trương chạy đến Vĩnh Yên ăn sáng, rồi vòng theo đường tắt sau lưng Tam Đảo, qua Sơn Dương đi cầu Nông Tiến đến thị xã Tuyên Quang ăn trưa. Cả đoàn cố gắng có mặt ở thị xã Hà Giang đầu giờ chiều, bắt tay vào việc luôn. Phỏng vấn chớp nhoáng các sếp trên tỉnh một buổi chiều nay thôi, tối hoặc sớm mai ta về tuyến huyện”.

Gã vừa nói vừa nháy mắt cho cả đoàn, ngầm ý đe doạ cái thân già tội nghiệp sau một đêm mất ngủ – đôi mắt thâm quầng của tôi mách bảo gã thế. Những ánh mắt tò mò, những nụ cười mỉm của đoàn làm phim cho thấy họ ngờ vực quan hệ giữa tôi và Chúc. Đời bây giờ sống cho tử tế, nói lời thanh cao đều là sự xa xỉ…

Cả cuộc hành trình dài đường núi và kế hoạch làm việc trên tỉnh bị gã đạo diễn gói trọn trong ngày. Nó không phải nhằm đe doạ tôi, như gã võ đoán đã dốc cạn thứ nước tình suốt đêm mệt nhoài, mà đó là thực tế nghiệt ngã của cái nghề mang danh nghệ thuật.

Mỗi bộ phim tài liệu 30 phút ở đài đã được khoán trắng là 15 triệu, thanh toán sau khi duyệt và phát sóng. Hay dở, khó dễ đều như nhau tất. Tội gì gã phải nắn nót từng khuôn hình, tâm đắc với chủ đề. Gã phải “mì ăn liền”, đi nhanh, quay nhanh, phỏng vấn chớp nhoáng, nhặt nhạnh thêm các cảnh quay cũ hay của đồng nghiệp càng nhiều càng ít, miễn sao đủ thời lượng, phim tạm coi được để lĩnh tiền.

Hắn từng bảo: “Vợ em là con sư tử cái, mỗi phim phát lên sóng là nó về nắn ví, moi đủ hai triệu tiền công đạo diễn. Không giảm tối đa các chi phí, em lấy tiền đâu ném cho các ả điếm. Mẹ kiếp! Chuyến đi nào không bắn được vài phát kể như em mất hứng. Với kiểu thù lao cá mè một lứa này, đời nghệ sĩ của em đã bị con sư tử cái ở nhà và các ả điếm dọc đường cầm tù từ lâu rồi”.

Nghe mà khiếp, nhưng tôi đâu có hơn gì gã. Kịch bản nào của tôi dù đề tài có được ấp ủ, dù hình tượng có được mài chuốt thì đến khi vào tay gã thảy đều bị vặt trụi thui lủi, phần vì phim phải được duyệt, phần vì tiết kiệm chi phí. Phản đối ư? Sẽ có anh khác chen vào ngay tắp lự và tôi sẽ mất toi một triệu nhuận bút, gấp mấy cái truyện ngắn trên báo văn chứ bỡn.

Phim dựng xong, nhìn vào tôi không nhận ra là của mình, vẫn phải bấm bụng, căng mắt ra đọc băng mà viết nốt lời bình, nhận thêm nửa triệu nữa để mà tồn tại, nuôi thêm một miệng ăn là Chúc. Lâu rồi thành quen, nhất là từ khi nhận nuôi Chúc, tôi viết kịch bản theo gu của gã để nhanh có tiền.

Từ chỗ bị gã cầm tù, tôi phải chủ động tự cầm tù ngòi bút của tôi để có đủ tiền cầm tù đời đàn bà của Chúc, cũng như gã đạo diễn chấp nhận sự cầm tù của vợ và điếm để cầm tù cây bút của tôi.

Cuộc đời này là xâu chuỗi những cá thể tự cầm tù, bị cầm tù hay cầm tù kẻ khác mới là cuộc đời ư? Sao phũ phàng thế?

Tôi đi tìm Chù Mìn Phủ để giải thoát cho Chúc hay đang tìm đường giải thoát cho chính mình?...

7.

Xe lắc lư chạy trên con đường tắt quanh co sau lưng núi Tam Đảo. Lúc dừng lại ở Vĩnh Yên ăn sáng, tôi không sao nuốt nổi, miệng đắng ngắt, khí đầy, dạ chướng. Tôi nhắm mắt, ngả người vào thành ghế, muốn ngủ một giấc sâu để quên đi sự việc hồi đêm, quên đi mọi nỗi dày vò và cả những ánh mắt hoài nghi, những lời nói móc của đám bạn trẻ trong đoàn làm phim.

Làm sao che được miệng thế gian hở Chù Mìn Phủ? Làm sao có thể tưởng tượng nổi đêm qua tôi lại nhìn thấy nốt ruồi đỏ hở Thào A Máy? Hễ nhắm mắt vào là tôi lại thấy hiện ra bao kỷ niệm chiến trường với hai người đồng đội. Cái đêm đi trinh sát tôi bị rắn cắn, anh xé áo, thắt ga rô vào bụng chân tôi rồi ghé miệng vào vểt thương hút hết máu và nọc rắn. Chị đi soi đèn tìm lá thuốc nhai và đắp vào vết thương.

Chân tôi sưng tấy, khắp người tê dại, không sao lê bước, trán vã mồ hôi. Hai người thay nhau cõng bạn dưới mưa phùn, leo dốc núi đường trơn, tìm nhà dân chạy loạn để ngủ tạm qua đêm. Qua mấy ngôi nhà cháy, xác người và xác trâu chết trương bốc mùi thối khẳm, chúng tôi mới tìm được chỗ trú.

Bữa đó, chị trổ tài đảm đang của cô gái người Mông, đãi tôi món đặc sản mèn mén quê mình. Chị đi lùng sục khắp xóm mới mang về một ít bột ngô, bắc chõ đồ lên thật khéo, nom như xôi vò dưới xuôi. Tôi ăn mèn mén, ăn cả tấm lòng thơm thảo của anh chị, bởi khi buông bát tôi chợt nhận ra hai người chỉ ăn nắm lá bí già, luộc lên nhai như nhai rơm.

Đêm ấy anh kể tôi nghe chuyện cách mạng văn hóa bên kia biên giới. Báo chữ to dán đầy các chợ đường biên, phái này vừa trương lên, phái khác bóc ra thay bài khác, toàn những từ ngữ dữ dằn: đả đảo, tiêu diệt, phanh thây, xé xác… Và họ làm thật bằng đấu tố, đánh đập, tử hình, kéo lê xác người trên đường trong tiếng gào thét tiêu diệt phần tử “hắc bang”.

Tôi hỏi: “Ai tiêu diệt ai?”. Anh đáp: “Vẫn là người Mông hay người Dao cả thôi. Hôm nay mày là bạn học, thầy giáo, đồng chí, người thân thì bỗng sáng mai thành “hắc bang”, phải đấu tố, phải giết hết để tao mới là cách mạng tới cùng”.

Tôi nghe như chuyện dưới âm ty địa ngục, nửa tin nửa ngờ, thấy vậy chị bảo: “Hồi ấy, nhiều phần tử “hắc bang” trốn sang bên này được cưu mang, nhưng cũng không thoát đâu. Hồng vệ binh tràn sang truy lùng, xâu tay họ vào dây thép rồi dẫn về bên kia chôn chung một hố”.

Chúng tôi lầm rầm bàn tán, cùng thở dài ngao ngán. Chao ôi cái kiếp nhân sinh giữa thời tao loạn! Bên kia cách mạng thời đó, bên này chiến tranh bây giờ, giống nhau cả thôi, bao giờ mới dứt?

Tôi thiếp đi giữa cơn đau rắn cắn dưới chân, nỗi buồn nhức nhối trong tim chuyện đời.

8.

Gã đạo diễn chọn con đường tắt vừa ngắn hơn vài chục cây số, lại vừa đẹp tuyệt vời. Con đường quanh co uốn lượn giữa khe núi, triền đồi. Màu lam của cánh rừng già trên vách núi phía xa xen lẫn màu xanh non của những búp chè trải ra mênh mông trước mặt, trên các quả đồi thoai thoải. Những mái nhà yên bình nép trong các vườn xoài trĩu quả và bóng cô sơn nữ hiện ra như trong cổ tích của miền gái đẹp “trà Thái gái Tuyên”.

Mấy năm gần đây, vùng này phát triển giống xoài xanh vỏ chín lòng, ngọt sắc hơn giống xoài Nam Bộ. Lần nào đi qua con đường này, gã đạo diễn cũng bắt lái xe dừng lại nhiều chặng để ghi hình những cảnh ngẫu hứng bắt gặp ở những thời điểm khác nhau. Công bằng mà nói, gã là một đạo diễn có tài. Trong lưu trữ cá nhân của gã có rất nhiều cảnh lạ ở góc quay và thời khắc độc đáo mà bạn cùng nghề không dễ gì có được.

Cũng một cảnh hoàng hôn trên rừng, bình minh dưới biển, hắn có thể tạo ra hàng trăm cảnh khác nhau, cái nào cũng mới, cũng lạ, làm tôi xao xuyến. Gã vặt trụi kịch bản của tôi là bởi có làm cũng chẳng được gì chứ gã thừa sức làm hơn thế. Thường thì chúng tôi dừng lại khá lâu ở quán vườn xoài của bà Ten người xứ đạo Nghĩa Hưng - Nam Định. Chúng tôi ngồi uống trà, ăn xoài, nghe bà kể chuyện cải cách ruộng đất ở quê.

Cha chết, anh bị đi tù, bà xách bị đi ăn mày rồi lấy chồng người Tày, lập nghiệp ở đây, con đàn, cháu đống vẫn không thoát được cảnh nghèo. Đứa vào Tây Nguyên khai hoang, đứa đi làm vú nuôi bên Đài Loan, mình bà mở quán nuôi mấy đứa cháu nội ngoại lít nhít, lê la trong vườn.

Cái lần đi Mèo Vạc tìm gặp cha xứ đạo Tin lành, tôi đã ghé quán, nhờ bà hỏi thăm tin tức Chù Mìn Phủ và Thào A Máy từ khách qua đường, may ra có kết quả. Bà Ten thấy tôi mừng quýnh, khoe đã gặp được Thào Mý Pảo, chị họ của Thào A Máy. Chị ta để lại địa chỉ ở thị xã Hà Giang, xác nhận tin Thào A Máy đã chết, muốn nhận nuôi đứa cháu gái. Trong tôi nhen lên một chút hy vọng. Có thể người đàn bà này sẽ giúp tôi đi tìm Chù Mìn Phủ. Chí ít thì tôi cũng có chỗ tin cậy để gửi Chúc về quê cho người thân của nó.

Bà Ten nói xa: “Thời buổi thật giả lẫn lộn, ác nhân giả nghĩa nhiều như trấu, chẳng vội tin ai sất”. Tôi hỏi: “Sao thế?...”. Bà lẳng lặng nhai trầu, ngập ngừng nói: “Chị ta giàu lắm!... Người đẫy đà, ăn mặc diêm dúa, đi xe Nhật đời mới sang hơn cả ông Chủ tịch tỉnh…”. Tôi cười hỏi lại: “Giàu thì càng tốt chứ sao? Con bé càng được nhờ vả”. Bà đáp: “Ấy là tôi thấy bác mấy năm qua hết lòng vì con bé nên nói xa vậy. Bác tính, bây giờ người Mông như chị ta hay người Tày như ông lão và lũ con tôi vẫn khổ khác gì chó ngựa đâu. Kẻ giàu phất lên ở miền biên viễn này, không là quan tham thì cũng phường buôn thịt bán người, mèo mả gà đồng cả, tâm địa khó lường”.

Bà Ten nói rồi thở dài, hướng cặp mắt vào trong vườn xoài, nơi bầy cháu nội ngoại lẫn với đàn lợn con mốc meo, bẩn thỉu đang vầy đất, chửi nhau chí chóe. Con người nhân hậu đã qua kiếp trầm luân, bể khổ hơn sáu chục năm rất hiểu và thương bé Chúc vào cái ngày tôi đưa nó về Hà Nội, ghé quán xin nghỉ tạm và nhờ bà mua thuốc cho nó. Từ bữa ấy, nhất là sau chuyến đi Mèo Vạc, lần nào qua đây bà cũng hỏi thăm, gửi quà cho Chúc.

Mười bốn tuổi đầu, cha anh bị đấu tố, người bị tử hình ở gốc muỗm trước chợ làng, người bị đi tù ở Hà Giang nổi tiếng ma thiêng, nước độc. Cô Ten khi ấy có tên là Mơ, xách bị đi ăn mày, lần mò lên miền ngược hy vọng có cơ hội thăm và tiếp tế cho người anh. Qua đèo Khế thuộc địa phận Sơn Dương thì cô bị bắt. Lão chủ nhiệm và hai gã dân quân người Tày nghi cô là Việt gian, nhốt vào kho của hợp tác xã.

Đêm đêm, ba thằng giời đánh mò vào thay nhau cưỡng hiếp cô hết đợt này đến đợt khác. Ba cái của nợ to, dài, đen như dái ngựa cứ chọc ngoáy liên hồi làm cô đau rát, buốt đến lộng óc. Không có nước rửa, quần áo để thay nên sau mỗi lần như thế, máu của cô và tinh dịch của chúng ộc ra nhây nhớt trên đùi, khô lại, bốc mùi khăm khẳm. Cô muốn đập đầu vào tường chết theo cha, song phải cắn răng chịu đựng để tìm anh trai.

Sau đó, lão chủ nhiệm muốn phi tang, bắt cô phải lấy Sùng Ten, một con nghiện quanh năm sợ nước, người cáu bẩn, hôi như chuột chù. Cô làm vợ Sùng Ten, được đứa con trai đầu khỏe mạnh thì chẳng biết của ai, còn ba đứa con gái với lão chồng nghiện thuốc phiện thì ốm quay ốm quắt, xanh như tàu lá chuối…

Giờ anh con trai đưa vợ vào Tây Nguyên khai hoang, ba chị con gái chẳng đứa nào lấy chồng mà vẫn đẻ con. Tất tật chúng nó không ai bảo ai đều ném con lại cho bà chăm sóc, đi tìm miếng ăn ở nơi chân trời góc bể. Có lần bà nói mà như cật vấn tôi: “Bác sống gần trung ương, đi nhiều, hiểu rộng hơn mụ nhà quê, hãy chỉ vẽ cho chứ tôi thì chịu. Tôi sống gần trọn một kiếp người vẫn không hiểu nổi vì sao ba đứa con gái mình dứt ruột đẻ ra lại phải bán hết nhà cửa mới đủ tiền nộp cho công ty môi giới trên thị xã, ném con cho bà ngoại chỉ để đi làm đầy tớ bưng bô, hót cứt ở xứ người, hở giời? Ở cái xứ Đài Loan ấy làm kẻ tôi đòi cũng sướng hơn làm người tự do bên ta hay sao?”.

Có lẽ bằng sự trải đời của mình nên bà Ten đã giúp tôi hỏi thăm khách qua đường về lai lịch của Thào Mý Pảo. Hồi chiến tranh biên giới, chị ta không vào dân quân, cũng không đi sơ tán về Tuyên Quang hay Phú Thọ. Chị ta chạy sang bên kia biên giới với kẻ mạnh để làm ăn, buôn bán. Giờ chị ta giàu có, quay về bắt nhân tình với một ông cỡ bự bên này nên các lão bản Trung Quốc hay chủ nhỏ Việt Nam đều phải nhờ vả.

Cứ theo bà Ten thì tôi chưa thể cả tin giao gửi số phận Chúc cho chị ta vội. Tôi vẫn phải đi tìm Chù Mìn Phủ trước đã. Lý lẽ của bà chắc như đinh đóng cột, tôi đâu dám nhận mình đi nhiều hiểu rộng hơn bà. Lời bà Ten như gáo nước lạnh, dẫu sao tôi đã có một cái tên Thào Mý Pảo để mà bấu víu, để mà hy vọng. Cái tên rất đẹp, dịch từ chữ Hán nghĩa là Đào Mỹ Bảo vì tiếng Mông hai âm Mỷ và Pảo đứng liền sẽ đọc Mỷ thành Mý.

Chúc của tôi đã có được đám bèo khô giữa dòng đời cuộn xoáy từ một cái tên hoa mĩ ấy. Tôi cũng đâu dám thổ lộ với bà Ten về cuộc nổi loạn của Chúc hồi đêm.

Chia tay bà, tôi lên xe xốn xang, khấp khởi. Năm năm chờ đợi tôi mới có được nguồn tin quý giá.

Chúc ơi! Cầu trời con sẽ gặp may!...

9.

Tửu lầu đặc sản Hoa Việt nằm ở mé Tây Bắc thị xã, giữa một khuôn viên rộng, án ngữ hai mặt phố chính. Mấy năm trước tôi qua, nơi đây còn là những dãy nhà lụp xụp, tường đất, ngói ống. Nay những người dân ở đó bị giải tỏa đi đâu không rõ, chỉ nghe đồn bà chủ dự án khu đô thị mới Thào Mý Pảo đầu tư một vốn trăm lời, chia lô bán đất là chính, còn tửu lầu liên doanh với lão bản Trung Quốc toạ lạc trên mười lô đất đẹp nhất. Tầng một là nhà hàng đặc sản, tầng hai là các phòng tắm hơi và chơi bài mạt chược, từ tầng ba trở lên là các phòng ngủ, thảy đều nguy nga, tráng lệ, ngang tầm khách sạn ba sao ở Hà Nội. Văn phòng của bà chủ Thào Mý Pảo đặt ở ngôi biệt thự xinh đẹp, nằm giữa khuôn viên của tửu lầu Hoa Việt.

Chị ta lướt nhìn vẻ bần hàn của tôi, khẽ nhếch miệng cười, lạnh lùng hỏi khách dùng cà phê Trung Nguyên hay trà Long Tỉnh. Tôi cám ơn, muốn dùng tách trà xanh Quản Bạ rồi đi ngay vào việc, muốn chị ta kể rõ về mối quan hệ huyết thống với Thào A Máy. Câu chuyện của chị ta gieo trong tôi nỗi nhớ dòng sông một thời đỏ máu, mường tượng lại cảnh chia tay của hai chị em con thúc bá người Mông, thôn Sủa Cán Tỷ.

Vào đêm thứ hai sau ngày khai hỏa cuộc chiến tranh biên giới, họ ngồi trên chiếc cầu treo, nhìn xuống dòng sông Miện lượn lờ quanh xóm nhỏ. Cô chị bảo: “Em đi với chị sang bên ấy mới thực an toàn. Cuộc chiến này khủng khiếp quá! Xác người trôi tanh cả nước sông Miện. Mới loạt đạn pháo đầu của bên ấy bắn sang, hai nhà ta chết chẳng còn ai, may chị em mình đi hát lượn mà thoát”. Cô em vừa khóc vừa nói: “Chị đi một mình thôi. Nhớ đi thật xa biên giới, vào hẳn huyện lỵ Mai Pho nương nhờ người quen, chờ hết chiến tranh hãy về. Em là dân quân phải ở lại thôi, kỷ luật mà. Lỡ mai em chết họ Thào ở Sủa Cán Tỷ vẫn còn có chị”.

Họ chia tay trong nước mắt và đạn pháo hai bên biên giới bắn sang nhau đỏ lòe, chíu chíu xé rách trời đêm…

Thào Mý Pảo rót trà ân cần: “Anh uống thêm một chút trà cho ấm dạ”. Tôi nâng tách trà, cay mũi, nghèn nghẹn trong cuống họng. “Làm sao chị biết Thào A Máy đã chết?” – tôi hỏi. Thào Mý Pảo kể tiếp, giọng trầm hẳn xuống: “Nhiều năm tôi về tìm em không thấy. Sủa Cán Tỷ vẫn nghèo xơ xác, người khổ như chó ngựa, chỉ so với người thị trấn Tam Sơn, cách nhau một quả núi đã như một kiếp sống khác thì tôi ở lại quê làm gì. Tôi trở lại Mai Pho buôn hàng lậu qua các huyện Quản Bạ, Đồng Văn, Mèo Vạc. Một lần tôi ở Mèo Vạc nghe chuyện về người đàn bà điên, linh tính mách bảo, tôi thuê người đào mộ, tìm thấy đôi hoa tai bằng bạc có khắc chữ Thào nên nhận ra nó. Tiếc rằng, khi đến nhà thờ Tin lành, con nó lại vừa bị lừa bắt đi ít ngày. Năm ngoái tôi gặp bà Ten, nhưng bà ấy cũng đánh mất tờ giấy ghi địa chỉ của anh”.

Lại một lần nữa tôi nhòa lệ, mường tượng ra hình ảnh Thào A Máy. Có lẽ cha xứ đã không muốn kể lại cho tôi cái chết bị thảm của cô, nhưng Thào Mý Pảo đã kể rành rõ.

Cô đi tìm chồng bị tù, lạc đường, kiệt sức nằm chết ở bờ ruộng ngô, phân cách đất của hai nhà người La Chí. Nhà này bế con cô về nuôi, nhưng lén hắt xác cô sang ruộng bên cạnh vì sợ chôn ở ruộng mình con ma sẽ về bắt mất đứa bé. Nhà kia thấy vậy chửi bới một hồi, hắt xác cô sang ruộng của người nhận nuôi con cô. Cứ thế cái xác hắt qua hắt lại, kiến bu đầy, áo quần tơi tả. Chuyện đến tai cha xứ nhà thờ Tin lành, ngài ra phân giải, bỏ tiền thuê người chôn xác cô ở nơi khác, xa ruộng của hai nhà và đem Chúc của tôi về nuôi.

Thế là ngần ấy năm tôi và những con người bất hạnh kia đau đáu tìm nhau, ngơ ngác giữa đời.

Không còn nghi ngờ gì nữa, ngoài Chù Mìn Phủ ra, Thào Mý Pảo là người thân gần nhất của Chúc. Tôi đưa ảnh của Chúc ra, chị ta trầm trồ khen nó đẹp, giống Thào A Máy như tạc. Chị ta thật lòng biết ơn tôi đã che chở, đùm bọc cháu mình suốt năm năm, hứa sẽ bù đắp cho tôi xứng đáng, nhưng tôi đâu cần được trả ơn. Lời nói xa của bà Ten làm tôi áy náy phân vân. Tôi biết, tài sản của Thào Mý Pảo ở Mai Pho bên kia biên giới còn lớn gấp nhiều lần ở Việt Nam. Tôi còn nghe, tiền, vàng của chị ta đủ mua nửa cái thị xã vùng biên này. Chúc về với chị ta sẽ một bước lên ngôi quận chúa, bởi chính chị ta đã nói: “Thào A Máy và cả họ Thào ở Sủa Cán Tỷ đã chết thảm vô ích để bây giờ một lũ ác nhân có nhà to, xe đẹp, thịt cá nhờn môi, gái đĩ bu đầy. Bao năm làm ăn tôi lạ gì chúng nó, điếm mồm, đen ruột tất. Tôi phải đòi lại công bằng, phải làm bà chúa người Mông để tất cả lũ ác nhân ở cả hai bên biên giới phải chui qua háng tôi mà đớp hít. Cháu tôi cũng phải thành quận chúa vùng biên mới hả”.

Tôi nghe cũng hả, song cảm thấy rờn rợn, phấp phỏng lo cho số phận của Chúc sau này.

Rời tửu lầu Hoa Việt, tôi thầm nhủ lòng hãy cứ nghe lời bà Ten, thử đi tìm Chù Mìn Phủ lần cuối xem sao.

10.

Trời sẫm tối. Gã đạo diễn nổi hứng quyết định cho xe đưa đoàn lên huyện Quản Bạ. Gã nói: “Đây lên Quản Bạ chỉ hơn bốn chục cây số. Ta ngủ ở đó, mai kịp làm việc sớm”. Cả đoàn miễn cưỡng ra xe vì ở mỗi đoàn làm phim lệnh của đạo diễn là bất khả kháng, nhưng ai cũng ngán đi đêm lên dốc Sum. Quả thật từ thị xã đi Quản Bạ chỉ có 45 cây số, nhưng riêng dốc Sum đã dài hơn 20 cây số, quanh co gấp khúc. Lên khỏi dốc Sum đã là Cổng Trời cơ mà.

Họ đưa mắt sang tôi cầu cứu, chờ đợi tôi dẫu sao cũng là khách mời sẽ dám bàn ngang. Thật lòng tôi nửa muốn đi nhanh lên Quản Bạ, nửa cũng ngán dốc Sum. Tôi ghé tai gã đạo diễn bông phèng đón ý: “Đã bắn phát nào chưa? Muộn rồi. Hay ta ở lại thị xã đêm nay, mình cũng muốn thử cho biết”. Gã ôm bụng cười ngất: “Bác nhà văn cuối cùng cũng nhiễm độc tụi em này rồi. Đời là mấy tý. Vợ bỏ đi Nga tội gì bác phải ép xác tu hành. Nhưng hãy gượm đã, đợi lúc quay về hẵng thử, bác ạ! Em mới tia được một động cao cấp, trên cả tuyệt vời”. “Ở đâu thế?”. Tôi hỏi. Gã ghé tai tôi thì thầm: “Tửu lầu Hoa Việt có vài chục ả, con nào cũng ngon lành, phòng ốc sang trọng, có bảo kê nên an toàn tuyệt đối. Mụ chủ là bà chúa ở đây, không ai dám đụng. Nghe nói, hàng lậu bên kia sang, việc đầu tư đất đai bên này, kể cả buôn bột trắng hay cơm đen mụ ta làm tuốt”.

Tôi choáng váng trước tin giật gân, lảo đảo lên xe, chỉ mong thoát nhanh ra khỏi thị xã. Tôi vừa tìm thấy người thân cho Chúc lại bồn chồn lo cho chính Thào Mý Pảo. Cái tham vọng làm bà chúa người Mông kia lớn quá, khiến chị ta bất chấp tất cả.

Đi đêm nhiều ắt gặp ma, luật đời là thế. Gã đạo diễn biết thì thiên hạ đều biết. Người ta đang nuôi béo một con mồi để úp nơm cho đầy giỏ đó thôi, sẽ có lúc chị ta trắng tay vào tù, lúc đó đời Chúc sẽ ra sao? Ác nhân gặp ác nhân, biết đâu có ngày những thằng chui qua háng của chị ta đớp hít kia lại ngồi phán xét tôi trạng bà chúa người Mông. Vả chăng cái ngôi vị quận chúa xây đắp bằng những đồng tiền nhơ nhớp, nếu Chúc có được hưởng nào có sung sướng gì…

Bao nhiêu ý nghĩ, phỏng đoán dồn dập trong đầu, khiến lòng tôi như có kiến đốt. Xe đưa tôi leo dốc Sum lúc nào không rõ. Chân dốc này còn in đậm trong tôi kỷ niệm khó phai.

…Chia tay Chù Mìn Phủ và Thào A Máy, tôi như người chơi vơi rơi giữa khoảng không. Cuộc chiến này thật vô nghĩa và tôi cũng chán ngán sự bắn giết, dù để tự vệ vẫn cứ là tội ác.

Đôi chân vô định theo bản năng sinh tồn đưa tôi vượt qua Cổng Trời, xuống dốc Sum về xuôi. Đến chân dốc, tôi bị quân cảnh giữ lại hỏi giấy tờ, bắt giam tức khắc. Hồi đó, đám lính biên giới chúng tôi đảo ngũ rất nhiều.

Bọn tôi thường đặt lại lời một bài hát thời chống Mỹ: “Ta là con của bố ta, mẹ ta. Nhớ nhà là ta cứ ta về. Ta không cần ba lô, không cần hăng gô... quê nhà ta đó, em yêu đợi ta…”. Vì vậy từ chân dốc Sum đến thị xã có vài trạm gác của quân cảnh đón lõng những lính đảo ngũ. Tôi cũng đảo ngũ như Chù Mìn Phủ, nhưng anh về với rừng đại ngàn của anh, tự do tự tại, còn tôi chỉ có một con đường độc đạo qua dốc Sum thì thoát sao nổi.

Họ giam tôi nửa tháng ngồi viết kiểm điểm rồi giáng cấp từ hạ sĩ xuống binh nhì, điều đi đơn vị khác. Tôi phải xa mặt trận ở Quản Bạ, càng mờ mịt tin tức về Chù Mìn Phủ và Thào A Máy…

Xe khựng lại, chết máy ở ngay Cổng Trời. Gã đạo diễn bảo vẫn còn may vì nếu ở lưng chừng dốc mới thật khốn nạn, giữa dốc không có nơi trú nhờ qua đêm, cũng khó tìm được xe đủ sức kéo lên dốc trong đêm tối. Cổng Trời có trạm tiếp sóng của đài truyền hình tỉnh và trạm vi ba của ngành bưu chính viễn thông, nằm trên hai đỉnh núi ven đường. Mỗi trạm chỉ có ngót chục người, sống gần như tách biệt với thế giới xung quanh nên rất hiếu khách.

Thật hú vía, xe chết máy ở ngay chân núi có trạm viba, ở đó có kỹ sư trạm trưởng quen biết với gã đạo diễn. Chúng tôi hò nhau đẩn xe ra vệ cỏ, áp sát chân núi.

Đường lên trạm vi ba dựng đứng, có đến hơn ngàn bậc xi măng, lại phải mang vác đồ nghề, hành lý làm chúng tôi thở dốc, đầu gối run run muốn khuỵu xuống. Tôi leo được đến cái sân rộng, có đặt cột thu sóng tưởng mệt đứt hơi. Trưởng trạm là chàng trai chừng ngoài ba mươi tuổi. Anh hớn hở ra sân, chầm vập ôm chặt từng người, luôn miệng: “Khách quý!... Khách quý!...”. Đoàn chúng tôi như sứ giả đem niềm vui đến với những con người cô đơn.

Trưởng trạm la hét mọi người bật hết các ngọn đèn trong nhà, ngoài sân sáng trưng như đêm hội hoa đăng. Trong lúc mọi người tỏa đi tất bật bắt vịt nấu cơm đãi khách, tôi lững thững ra sân ngắm vườn phong lan của trưởng trạm. Anh có cả một bộ sưu tập khá phong phú, nhiều giò lan quý: tai trâu, vẩy rồng, đuôi chồn, quế hương, kiều đạm thanh, nữ hoàng, hồ điệp…

Anh bảo: “Chúng em ở đây như kiếp tù giam lỏng, chỉ có công việc, hoa lá, chim muông và gió trời làm bạn”. Hay thật, chuyến đi này tôi gặp toàn những số phận bị cầm tù hay cầm tù kẻ khác. Tôi động viên anh: “Chính sách có rồi, tuổi trẻ các bạn gắng chịu cực vài năm, tích lũy kinh nghiệm rồi Nhà nước sẽ điều chuyển”. Anh nhếch miệng cười buồn đáp: “Chính sách do con người đặt ra thì con người cũng có quyền tùy tiện áp dụng. Những thằng kỹ sư ra trường bị cầm tù ở các trạm lẻ như em chỉ có hai loại, một là thiếu tiền lo lót, hai là có tài thì mang vạ”. “Thế như cậu thì thuộc loại nào?” – tôi hỏi. Anh nói, gằn giọng: “Đời bây giờ toàn thằng bất tài mỏng đức nắm quyền nên họ chỉ ưa dùng dưới trướng đứa nào dễ bảo hoặc ngu hơn mình mới mong ngồi vững ghế. Một thằng oắt con như em, dám to mồm phê các sếp lập nhiều dự án vô tích sự hay mua mấy phần mềm vớ vẩn mà mình cũng làm được thì bị bắn đi xa, giam lỏng ở trạm lẻ còn là may, có khi còn bị vu cáo hay lừa cho vào tròng rồi ngồi bóc lịch trong nhà đá là đằng khác”. “Và vì thế cậu có dịp làm bộ sưu tập phong lan tuyệt vời!” – tôi vỗ vai anh thông cảm.

Anh kể rằng, mấy năm nay nếu không có ông lão khùng khùng điên điên người Mông đến bán phong lan, có lẽ anh sẽ buồn nẫu ruột vì nhớ nhà. Ông ta cũng đã từng ngồi tù vì tội đảo ngũ và chống người thừa hành công vụ. Bà vợ điên bế đứa nhỏ bỏ nhà đi mất tích. Ra tù, nhà cửa, trang trại ở Bát Đại Sơn bị vào tay kẻ khác, đi khắp nơi tìm vợ con không thấy, ông lang thang làm nghề kiếm lan rừng mang ra chợ bán, lúc say lúc tỉnh, khùng khùng điên điên, chẳng ai dám dây vào. Mỗi lần có giò lan quý, ông đều mang lên trạm vi ba vì được giá hời, lại được uống rượu say bét nhè, thổi khèn và nằm khóc tu tu.

Anh trạm trưởng không biết tên ông là gì vì ông không chịu nói, cứ bảo gọi “lão khùng” là được rồi. Tôi mừng như bắt được vàng, cuống quýt hỏi thăm xem có cách nào tìm gặp ông già bán phong lan. Anh dắt tay tôi đến bên gốc cây có treo giò phong lan lạ và bảo: “Đây là lan liễu tím, còn một loại nữa là lan liễu trắng, thứ lan chỉ gặp ở rừng Cao Bằng hay Hà Giang mà thôi. Lan liễu mọc thành chùm như cỏ dại, trên các chạc cây cổ thụ. Lan liễu tím thân mảnh, xõa tóc dài hàng mét, còn lan liễu trắng thân mập hơn một chút và xõa tóc ngắn hơn. Cả hai loại ra hoa khi nở nom như chiếc hài, tỏa hương thơm rất dịu. Trưa nay ông lão gùi đến khá nhiều phong lan, chỉ có một giò lan liễu tím, hứa sẽ tìm thêm lan liễu trắng cho đủ bộ. Mai bác nhà văn cứ ra chợ huyện, chắc sẽ gặp vì còn nhiều giò lan khác em không lấy, nhưng vẫn trả tiền để ông mang ra chợ bán lần nữa lấy tiền uống rượu.”

Đêm ở trạm vi ba tôi nằm thao thức, không sao chợp mắt nổi, mong trời sáng ra chợ huyện tìm ông lão bán phong lan.

Lại thêm một kiếp tù tôi sẽ gặp, liệu có phải là Chù Mìn Phủ?...

11.

Chợ huyện Quản Bạ nằm trên đường phố nhỏ, ở mé Tây thị trấn Tam Sơn. Vì không phải ngày phiên nên chợ vắng hoe, chỏng trơ mấy phản thịt, dãy hàng xén và mấy dãy hàng rau. Người Mông, người Dao ở các xã chỉ lên chợ huyện vào buổi sáng phiên chợ ngày chủ nhật. Tôi đi miết chưa tìm thấy ông lão theo mô tả diện mạo của anh trưởng trạm vi ba. Ở dãy hàng rau cuối cùng có dăm người bán phong lan, tôi hỏi thăm, họ chỉ lắc đầu.

Tìm quanh quẩn mãi, tôi mới phát hiện ra ở ngoài chợ, áp mặt tường phía Bắc có dãy hàng ăn. Một ông lão say rượu đang thổi khèn cho đám trẻ con thị trấn nghe. Từ xa tôi đã nghe thấy điệu khèn quen thuộc. Bên tai tôi vẳng lên điệp khúc mà Thào A Máy đã hát năm nào: “Xi tùa, nể tùa, mi dầu tùa…”. Tôi len vào giữa đám đông nhìn kỹ.

Chù Mìn Phủ đấy ư? Một ông già tóc bạc trắng phau, buông xõa ngang vai, râu dài chấm ngực. Thân hình ông teo tóp chỉ còn bộ xương, da đen nhẻm, nhăn nheo, mốc thếch như da trâu. Áo quần ông rách mướp, bệt bợt bùn đất, bốc lên mùi chua chua khăm khẳm.

Đúng lão khùng đây rồi. Gương mặt ấy, điệu khèn quen thuộc ấy và cả thói quen gãi đít bằng ngón tay giữa, các ngón khác vểnh ra kia cũng đích thị là Chù Mìn Phủ. Bao năm rồi, dù cuộc đời tàn phá thân xác, tôi vẫn nhận ra anh, huống chi còn cả điệp khúc “Xi tùa, nể tùa, mi dầu tùa…” của Thào A Máy luôn ám ảnh đời tôi và anh.

Tôi đứng lặng đi cho đến lúc anh ngừng thổi khèn, lừ đừ vào quán đòi mua thêm chai rượu ngô, ngửa cổ uống cạn rồi nằm lăn ra đất mà khóc tu tu. Chẳng cần hỏi rõ họ tên, bởi có hỏi lúc này cũng vô ích, tôi thuê người vực lão khùng dậy, cõng về khách sạn, thả vào bồn tắm nước nóng trong phòng tôi.

Tôi tin lão khùng là Chù Mìn Phủ, vất vả lắm tôi mới tắm rửa, mặc cho anh bộ quần áo mới của mình rồi để yên cho anh nằm ngủ li bì trên giường đến tận chiều tối.

Đêm, tôi nhoà lệ nằm nghe anh kể chuyện…

12.

Mày muốn nghe chuyện đời, chuyện tình của tao với Thào A Máy ư? Chết hết cả từ lâu rồi, còn gì mà kể. À… mày bảo sao? Con tao, con bé Chù Thào Mỷ vẫn còn sống, đang ở với mày giữa thủ đô Hà Nội ư? Láo toét!... Mày muốn an ủi cái thân tàn ma dại này thôi chứ gì?... Đời là địa ngục trần gian, toàn những kiếp tù, rặt bầy ác quỷ. Cả tao với mày và Thào A Máy năm ấy qua bên kia biên giới cũng thành ác quỷ nên giời quả báo. Tao muốn chết mà ông giời vẫn còn quả báo, hành hạ chưa tha. “Xi tùa, nể tùa, mi dầu tùa…”, mày thấy không? Thào A Máy đã báo trước cho tao rồi, sao mày còn cứu cho con tao sống giữa cõi người độc ác này, để ông giời hành hạ tiếp cái đời của nó?...

Chuyện đời của tao ư? Dài và khốn nạn lắm! Chia tay mày, tao cõng Thào chạy một mạch như điên vì sung sướng. Tao mê nó từ lâu mà không dám nói cái lời yêu. Nó như bông hoa rừng, còn tao như bãi cứt chó, nói lời yêu ra sợ nó không ưng bụng thì buồn thối cái ruột mình, chỉ còn nước chui xuống đất thôi.

Lúc tao với mày vật lộn với nó để đưa vào lán, hễ đụng vào chỗ nào trên người nó là tao như bị điện giật. Tao trách nó hở hang, ghen cả với mày. Giờ tao được một mình cõng nó trên lưng, băng băng trong đêm giữa rừng đại ngàn, nhẹ và thơm như đang gùi một giò lan rừng. Giời ơi! Chiến tranh khủng khiếp, toàn sự giết chóc mà tao lại được có hạnh phúc bất ngờ. Nó gục đầu vào vai tao, rên ư ử như mèo con, nghĩ thương và tội lắm, mày ạ!

Tao đi một mạch suốt đêm, vừa đi vừa nghĩ ngợi lung tung. Người nhà tao, nhà nó đạn pháo Trung Quốc giết sạch cả rồi, đi đâu về đâu cũng chỉ còn có hai đứa với nhau thôi. Nếu về bản làng cũ tao sẽ mang tiếng là lính đảo ngũ, khó sống với dân quân và chính quyền. Tốt nhất chúng tao vào ở thật sâu trong rừng, trên đỉnh núi Bát Đại Sơn ấy, chẳng ma nào biết, lính ta hay lính Trung Quốc cũng không mò đến, an toàn tuyệt đối.

Trước lúc đi khiêng cáng với mày, tao đã thủ sẵn dao găm Liên Xô, bật lửa cối Trung Quốc và một bịch muối, thế là đủ sống. Người Mông chúng tao có rừng là có cái ăn, không thể chết đói được. Chúng tao đi miết đến bờ một con suối nước trong và sâu. Thào bấm vào vai tao ra hiệu ngồi nghỉ lấy sức đi tiếp. Lần đầu tiên tao nói cái lời yêu với nó, giữa lúc nó điên mà vẫn hiểu, gật đầu cười ngu ngơ, nhìn càng thêm thương. Tao vứt mẹ nó cây súng cho suối cuốn đi thật xa, giã từ đời lính bắn giết con người. Thào sợ hãi lao xuống nước giữ súng lại không được, bưng mặt khóc. Có lẽ nó sợ tao bị tử hình hay đi tù chăng.

Hồi cách mạng văn hóa, chúng tao đã từng rủ nhau sang bên kia xem người ta tử hình một chị cán bộ người Mông chỉ vì tội vứt cuốn ngữ lục của lãnh tụ vào sọt rác, không chịu đặt ở đầu giường như mọi người khác, nữa là tao bây giờ dám vứt súng đi, tội tày đình chứ bỡn. Thây kệ đời, việc đến đâu thì đến. Tao nhảy xuống suối, bế Thào lên bờ, cả hai cùng ướt sũng, phải cởi hết quần áo vắt cho khô. Đêm trong rừng vắng, hai thân xác đực cái tồng ngồng đứng gần nhau thì phải quấn vào nhau thôi. Nó ưỡn cong người khi cái của tao đi sâu vào cái của nó. Mắt nó sáng ngời lên, không còn lờ đờ như lúc điên. Miệng nó cười tươi như hoa lan rừng, không ngu ngơ như điệu cười lúc tao nói lời yêu ban nãy. Người tao cứ bồng bềnh như trôi giữa trời đêm, khi nó co hai chân đập gót vào mông tao, tay nó ghì chặt lưng tao lắc lắc mà rên và thở gấp. Thần núi, thần sông, ma rừng chắc cũng phải ghen tức trong cái đêm tao được làm chồng thật sự của nó.

Chúng tao biết ơn mày lắm vì sau đêm ấy bệnh điên của nó bớt dần. Không có thần dược nào tốt bằng thứ nước tình của tao đổ vào chỗ ấy của nó đâu, mày ạ! Những ngày đầu, chúng tao kiếm măng rừng, củ mài, củ sắn, rau dại về ăn, đêm ngủ trong một hốc cây cổ thụ, tự do đi sâu, thật sâu vào trong người của nhau mà hưởng cái sung sướng tuyệt trần. Sau đó, tao lén về các thôn xã gần đó, tìm đồ đạc, lương thực của các nhà đi chạy loạn bỏ lại. Chúng tao làm nhà, cuốc đất, trồng cây, sống đời tự do trên thung lũng lòng chảo của Bát Đại Sơn cho đến ngày chiến tranh kết thúc, chẳng phiền lụy ai, cũng không ai nhòm ngó hay hạch sách gì.

Tao chỉ buồn một nỗi mình ở xa, mỗi lần Thào sinh nở chỉ sau vài ngày là con tao đều bị chết vì bệnh uốn ván. Tao đỡ đẻ cho nó, dùng dao bẩn cắt rốn cho con nên ma rừng xui bệnh uốn ván đến bắt con chúng tao đi, nhưng Thào lại tin ông giời quả báo cái tội nhóm trinh sát chúng mình sang bên kia biên giới giết hại người Mông nhiều quá. Thế là bệnh điên của nó tái phát ngày thêm nặng, lại trần truồng ra suối tắm, trần truồng đứng giữa nhà hát “Xi tùa, nể tùa, mi dầu tùa…”.

Tao không dám cho nó mang thai nữa, mua về một nắm bao cao su OK để dùng, đợi lúc có đủ tiền đưa vợ về bệnh viện thị xã đẻ sẽ vứt quách thứ bao OK của nợ ấy đi. Nghe nói, người điên ra bệnh viện thị xã đẻ tốn tiền gấp mười người thường cơ, mày ạ! Biên giới mở cửa, người bên kia sang lùng mua hồi, quế, sa nhân, thảo quả rất đắt. Vợ chồng tao âm thầm vỡ đất, biến thung lũng lòng chảo trên đỉnh Bát Đại Sơn thành trang trại trồng thảo quả và thử gây thêm vài trăm gốc quế, tính chuyện lâu dài.

Trâu, ngựa, gà, vịt của tao nuôi nhiều không đếm xuể. Bao nhiêu mồ hôi nước mắt đổ vào thung lũng lòng chảo và cách mấy năm không sinh đẻ, lại uống thuốc của thầy lang ở tận Mai Pho do tao lặn lội mua về đã giúp Thào nguôi ngoai, bệnh điên thuyên giảm. Vụ thảo quả năm ấy tao thu về hơn trăm triệu, rừng quế cũng sắp đến tuổi đốn cây bóc vỏ. Thào mang thai con bé Chù Thào Mỷ làm tao như sống lại kiếp người khác, đặt tên con từ lúc vợ mới tắt kinh, hí hửng mang vợ ra bệnh viện thị xã nằm trước hai tháng chờ đẻ. Đúng hôm tao chuẩn bị hành lý, gói cục tiền to đi đón mẹ con nó về thì một lũ người đột nhiên ập đến nhà, hạch tội tao ở đâu đến chiếm đất, chiếm rừng Bát Đại Sơn làm giàu bất chính.

Chúng nó đòi dỡ nhà, tịch thu trang trại. Tao uất quá, nổi điên vác dao đuổi và chém bị thương mấy đứa vào đầu, vào vai, thế là bị bắt. Ra tòa chúng nó còn moi thêm tội tao và Thào đảo ngũ từ thời tám hoánh, dễ bề xử tao án bảy năm tù giam để cướp không trang trại. Khốn nạn thân tao, có tội thì chịu ngồi tù, nhưng Thào mới sinh con, bệnh điên vừa mới đỡ đã tái phát trầm trọng hơn cả mấy lần sinh con trước đây. Nó lang thang bế con đi tìm tao trong tù, làm sao tìm được, hở giời! Mày bảo gì cơ? Cha xứ nói nó chết khi Chù Thào Mỷ lên năm tuổi à? Sao nó không chết ngay mà ông giời còn cho sống khổ, sống nhục năm năm nữa để giời hành hạ?

Quả báo, giời ơi, quả báo! Ra tù, tao lại đi khắp nơi tìm mẹ con nó. Gót chân tao đi mòn các ngả đường bên này, bên kia biên giới vẫn chỉ như con thỏ, con nai ngơ ngác giữa rừng đại ngàn tìm con bị loài người độc ác bắn giết. Giờ tao thành lão khùng thân tàn ma dại, lang thang đi kiếm lan rừng lấy tiền mua rượu để hủy hoại cho mau chết cái thằng tao. Có ai trên đời thèm biết đến cái tên Chù Mìn Phủ sống giữa cõi người nên mày vất vả đi tìm cũng phải thôi.

Con của tao, con bé Chù Thào Mỷ vẫn còn sống thật ư?

Đời nó liệu có đỡ khốn nạn hơn tao với mày không, hở giời...........

Hà Nội 21/2/2006

Thứ Tư, 1 tháng 2, 2023

Chù Mìn Phủ và tôi (kỳ 1)

Truyện Vũ Ngọc Tiến

Nhắc lại vụ án văn chương Rồng Đá, Văn Việt xin đăng lại một số truyện đã in trong tập truyện ngắn này của hai tác giả Lê Mai - Vũ Ngọc Tiến (NXB Đà Nẵng, 2008).

Sau khi đọc truyện, độc giả có thể tự tìm thấy câu trả lời về việc quyển sách bị thu hồi và Tổng biên tập - Phó giám đốc Nhà xuất bản - nhà văn Nguyễn Đức Hùng bị mất chức.

Chù Mìn Phủ và tôi của Vũ Ngọc Tiến là một trong những truyện trở thành nguyên do bị thu hồi của tập sách.

Truyện là bản ghi chép đau đớn về cuộc đời những thường dân ở hai bên biên giới Trung-Việt, những người đầu tiên bị chiến tranh tóm lấy, bắt làm con tin. Những người cùng gốc gác, nguồn cội, cùng huyết thống, cách sống, mỗi ngày chạm mặt nhau như người trong một nhà bỗng chốc biến thành kẻ cuồng sát, hoặc bị giết người hoặc đi giết người bằng cách man rợ nhứt...

Bị kịch của người này/phe này cũng chính là bi kịch của người kia/phe kia. Bi kịch không có lối thoát, bi kịch tạo ra từ những kẻ xâm lược đi gây chiến, những kẻ lấy chiến tranh làm lẽ sống, coi mạng người dân như cỏ rác...

VĂN VIỆT

Thứ Ba, 10 tháng 1, 2023

Vị phồn thực

Truyện Vũ Ngọc Tiến

1.jpg (1)[3]

Vũ Ngọc Tiến qua nét vẽ của Trịnh Lữ

Nhắc lại vụ án văn chương Rồng Đá, Văn Việt xin đăng lại một số truyện đã in trong tập truyện ngắn này của hai tác giả Lê Mai - Vũ Ngọc Tiến (NXB Đà Nẵng, 2008).

Sau khi đọc truyện, độc giả có thể tự tìm thấy câu trả lời về việc quyển sách bị thu hồi và Tổng biên tập - Phó giám đốc Nhà xuất bản - nhà văn Nguyễn Đức Hùng bị mất chức.

Vị phồn thực của Vũ Ngọc Tiến là một trong những truyện trở thành nguyên do bị thu hồi của tập sách.

VĂN VIỆT

Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2023

Vụ án văn chương “Rồng đá”: Chuyện bây giờ mới kể

Nhà văn Vũ Ngọc Tiến

clip_image002

Chân dung nhà văn Vũ Ngọc Tiến do họa sĩ Trịnh Lữ thực hiện 2020.

Vụ án văn chương quanh tập truyện Rồng đá (Nhà Xuất bản Đà Nẵng quý III/2008) xảy ra đến nay đã vừa tròn mười bốn năm. Là người trong cuộc, lâu nay sống theo triết lý buông bỏ, chỉ lưu giữ trong ký ức những điều tốt đẹp, còn mọi chuyện buồn hay sân hận đã qua tôi cố quên đi cho nhẹ lòng, lão giả an chi. Dẫu thế, cách đây một tháng, nhà phê bình trẻ Kiều Mai Sơn gọi cho tôi vào lúc nửa đêm, muốn tác giả viết lại vụ án này vì theo anh nói: “Nhiều người trong cuộc như các nhà văn Lê Mai. Hòa Vang, Đà Linh, Hoàng Ngọc Hiến… hiểu rõ chân tơ kẽ tóc sự việc đều đã thành người thiên cổ, chỉ còn lại duy nhất Vũ Ngọc Tiến”. Gần đây, chị bạn trân quý là nhà thơ Ý Nhi cũng động viên tôi viết lại vụ án đang còn rất mù mờ trên báo chí quốc doanh thời đó. Thôi thì cung kính không bằng tuân lệnh, tôi tường thuật vắn tắt vụ việc theo trí nhớ của mình vậy thôi.

Khoảng nửa đầu tháng 12/2008, có đến mấy chục tờ báo quốc doanh lớn nhỏ (Tiền Phong, Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Pháp Luật, Lao Động, Vietnamnet…) đồng loạt đưa tin, ngày 4/12/2008 Bộ trưởng Bộ Thông tin & Truyền thông ra quyết định tạm đình chỉ NXB Đà Nẵng ba tháng vì những sai phạm trong cuốn Rồng đá. Theo đó ngày 12/12/2008 ông Nguyễn Kiểm – Cục trưởng Cục Xuất bản – dẫn đầu đoàn công tác của Bộ vào làm việc với chính quyền địa phương và NXB Đà Nẵng triển khai quyết định này với sự có mặt của bà Nông Thị Minh – Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố. Cùng ngày, Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng cũng ra quyết định tạm đình chỉ công tác chờ xét kỷ luật đối với các ông Nguyễn Hữu Chiến - Giám đốc và Nguyễn Đức Hùng (nhà văn Đà Linh) - Phó Giám đốc kiêm Tổng Biên tập NXB Đà Nẵng.

clip_image004

Bìa tập sách Rồng đá do họa sĩ Văn Sáng trình bày.

Có lẽ trong lịch sử ngành xuất bản của Việt Nam đây là mức phạt nặng nhất đối với một NXB có sai phạm trong in sách văn học. Vậy thực chất sai phạm đó là gì để NXB Đà Nẵng phải lãnh án phạt nặng nề đến vây?

Dường như có một sự chỉ đạo ngầm từ đâu đó nên tất cả các tờ báo quốc doanh đều lờ tịt nguyên nhân chính, chỉ đưa tin khẳng định sai phạm của NXB Đà Nẵng trong việc in ấn, phát hành cuốn Rồng đá rất đơn thuần là, có sự sai lệch giữa bản thảo đã biên tập với nội dung văn bản đã in thành sách.

Tổng cộng bản thảo đã biên tập có 99 chỗ sửa (gồm 27 nội dung, 72 mô-rát), nhưng trong sách in ra chỉ có 43 chỗ sửa, trong đó về nội dung chỉ sửa có 4 chỗ! Có những chỗ đã biên tập cắt bỏ, nhưng bản in vẫn xuất hiện. Phía Công ty Dịch vụ Văn hóa Tràng An thừa nhận: Khâu chế bản, nhân viên công ty đã copy bản thảo trong máy tính của các tác giả “cho nhanh”, chứ không đánh máy theo bản thảo đã biên tập do NXB gửi!” (Trí Quân, BIÊN TẬP MỘT ĐẰNG, IN MỘT NẺO! Tạm đình chỉ NXB Đà Nẵng: Bài học đắt giá về liên kết xuất bản, Tiền Phong 10/12/2008).

Nguyên nhân này là mạch chủ đạo cho tất cả các báo trong nước cùng đưa tin sau đó. Tuy nhiên, có một ý kiến trái chiều duy nhất đáng tham khảo của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên dám mạnh dạn lên tiếng trên đài BBC như sau: “Theo tôi thì chẳng có vấn đề gì cả, đấy là một truyện xuất bản bình thường, nhất là ba truyện của Vũ Ngọc Tiến. Thật ra về mặt nghệ thuật nó bình thường, chứ không hề gì cả. Còn về mặt tư tưởng nội dung cũng chẳng có gì […]. Theo tôi chẳng có gì động chạm cả […] Vụ 'Rồng đá' này chỉ là một giọt nước làm tràn ly thôi.”

Để làm rõ ý mình, ông Nguyên nhận xét thêm: “Nhà xuất bản Tổng hợp Đà Nẵng, với tư cách một nhà xuất bản địa phương nhưng lâu nay nổi lên trong ngành xuất bản ở Việt Nam như một nhà xuất bản 'dám mạnh dạn in được những tác phẩm mà các nhà xuất bản khác ngại in'.

Trước cuốn Rồng đá, một số cuốn sách khác mà NXB Đà Nẵng cho in là các cuốn 'Trần Dần -Thơ' của Trần Dần, 'Ba người khác' của Tô Hoài và trên mười năm về trước là cuốn 'Miền hoang tưởng' của Đào Nguyễn”. (Quốc Phương, NXB Đà Nẵng có thể kháng kiện, BBC, 11/12/2008).

Trước đó, ngày 10/12/2008, ông Phạm Xuân Nguyên khi đó đương nhiệm Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội còn viết một bài khá công phu, bênh vực tôi và NXB Đà Nẵng, trong đó có đoạn: “Ba truyện: Âm bản chiến tranh, Vị phồn thực, Chù Mìn Phủ và tôi của Vũ Ngọc Tiến đều viết về chiến tranh. Chiến tranh chống Mỹ và chiến tranh biên giới. Nhưng hiện thực chiến tranh ở đây được nhìn từ bề sau, bề sâu, từ mặt khuất, mặt chìm, hay như tác giả nói trong truyện, đây là “âm bản” chứ không phải “dương bản” của chiến tranh. Chiến tranh có thắng lợi vinh quang. Đó là hiện thực, là sự thật lịch sử. Nhưng chiến tranh còn là đau thương, khổ ải. Đó cũng là hiện thực, là sự thật lịch sử.

Vinh quang hay khổ đau trong chiến tranh đều trôi qua trên các phận người, đều làm bằng các thân phận người. Văn học viết về chiến tranh không hẳn là miêu tả chiến trận, không phải là đưa ra các con số, mà là viết về con người đi qua chiến tranh đã trở thành như thế nào. Nói như nhà văn cựu binh Mỹ Tim O’Brien: “Các truyện về chiến tranh thực chất không phải bao giờ cũng viết về chiến tranh. Chúng không viết về bom đạn và mưu mô quân sự. Chúng không viết về chiến thuật, chúng không viết về các hố cá nhân và lều trại. Truyện chiến tranh, giống như bất kỳ truyện hay nào, rốt cuộc là viết về trái tim con người”. Và chiến tranh, dẫu thế nào đi nữa, cũng luôn là điều không mong muốn có của con người, của nhân loại.

Vũ Ngọc Tiến đã chỉ viết ra những sự thực có thật của chiến tranh, những sự thực mà thời đang chiến chúng ta phải tạm giấu đi, tạm quên đi, cho mục đích cuối cùng là chiến thắng. Nhưng khi thắng lợi giành được rồi thì chúng ta lại không được phép che giấu và quên lãng cái giá của đau thương và mất mát. Sau khi các cuộc chiến tranh kết thúc, và nhất là khi công cuộc đổi mới được phát động, văn học trong trào lưu đổi mới tư duy của cả nước, đã giúp người đọc nhận thức sâu hơn về các cuộc chiến tranh đất nước trải qua bằng cái nhìn điềm tĩnh xoáy sâu và đầy nhân ái nhân nghĩa…”.

Tuy nhiên, không tờ báo quốc doanh nào chịu đăng, ông chỉ có thể gửi bài cho tác giả, NXB Đà Nẵng và cơ quan chủ quản của họ rồi công bố trên mạng xã hội.

Có lẽ chính sự mù mờ vừa nêu đã khiến 14 năm sau, trong đêm khuya khoắc nhà phê bình trẻ Kiều Mai Sơn chuyên về văn bản học đã cố nài tôi viết lại cho rõ thực chất vụ án Rồng đá chăng?

Lúc đầu tôi từ chối, sau vì quý người mến tài và tình của anh bạn trẻ Kiều Mai Sơn, tôi nêu vắn tắt vài dòng diễn biến và bản chất vụ việc cho riêng anh biết. Giờ tôi nhắc lại, bổ sung cho rõ, đầy đủ hơn theo yêu cầu của BBT Văn Việt.

Âu cũng là việc nên làm như lời động viên chân tình của nhà thơ Ý Nhi.

Trước hết cần khẳng định, việc ra đời cuốn Rồng đá hoàn toàn do ngẫu hứng bất chợt của ba gã nhà văn người Hà Nội gốc (Hòa Vang, Lê Mai, Vũ Ngọc Tiến), chẳng có ý đồ chính trị hay “thế lực thù địch” nào kích động.

Vào một ngày đẹp trời cuối thu năm Bính Tuất-2006, ba anh em ngồi uống rượu tẩy trần ở căn hộ của Hòa Vang trong con ngõ nhỏ phố Quang Trung - Hà Nội. Đương lúc cao đàm khoát luận chuyện đời chuyện đạo, Lê Mai – đứa em út của nhóm – bỗng nảy ra ý tưởng đề xuất rằng, ba anh em mình là nhóm “lưỡng cẩu độc xà”. Hai anh anh tuổi Bính Tuất (1946”) “Bính biến vi tù”, khổ như chó; còn em chui ra muộn nên trượt mất tuổi Nhâm Thìn “Nhâm biến vi vương”, ngậm ngùi tuổi rắn (1953), chết hụt mấy lần ở Quảng Nam, chỉ vỡ xương quai hàm, đã xấu trai càng thêm xấu và đời cũng khổ như chó. Thôi thì sắp hết năm con chó 2006, ba anh em mình ba phong cách văn chương khác nhau nhưng chung một số phận kiếp chó, ta cùng in chung một cuốn truyện ngắn làm kỷ niệm cho xôm trò”.

Chúng tôi bàn bạc hồi lâu đi đến quyết định mỗi đứa góp vào bốn truyện ngắn mình ưng nhất ở thời điểm đó và phân công: Hòa Vang chọn những truyện điển hình cho thứ văn đẹp, cầu kỳ chữ nghĩa, dẫn người đọc vào cánh rừng chữ để tự chiêm nghiệm, cảm nhận ra điều tác giả muốn nói. Lê Mai vốn coi cuộc đời này là trường thỉên hý kịch, chọn ra những truyện kể tưng tửng hồn nhiên, đậm chất bi hài cười ra nước mắt. Vũ Ngọc Tiến giữ nguyên cảm hứng vừa đi tìm mộ chú em liệt sĩ hy sinh ở Quế Bình - Hiệp Đức - Quảng Nam, chọn những truyện điển hình cho cách viết lột truồng sự thật, câu chữ trần trụi, nhân vật bị đẩy đến tận cùng số phận.

Bản thảo cuốn sách nhanh chóng hoàn thành, Hòa Vang sai chú út Lê Mai mang đi nhiều NXB ở Hà Nội đều bị từ chối khéo. Thậm chí cô H là biên tập viên một nhà xuất bản lớn còn nói trắng phớ: “Rằng hay thì thật là hay/Đọc xong hãi vãi giấu ngay vào hòm... Bản thảo này chúng em dám in có mà sập tiệm anh Lê Mai ơi!...”.

Một biến cố đau buồn khác là không lâu sau đó, Hòa Vang bỗng mắc bệnh hiểm nghèo rồi qua đời nên vợ anh xin lại mấy truyện của chồng trong bản thảo cuốn sách để chờ dịp đưa vào tuyển tập truyện ngắn Hòa Vang khi có điều kiện. Ngoài ra, cụ Hoàng Công Khanh – nạn nhân vụ Nhân văn Giai phẩm, nguyên mẫu trong truyện Quyền được rên của Lê Mai – biết tin cũng thiết tha đề nghị tác giả tạm gác lại, chờ cụ qua đời rồi hãy công bố.

Lê Mai tiếc hùi hụi, đành bàn với tôi thay Quyền được rên bằng truyện Tìm cha trong gương và mỗi người bổ sung hai truyện ngắn nữa thay suất của Hòa Vang cho đủ con số 12 như dự kiến ban đầu. Cuốn Rồng đá khi in ra chỉ có hai người Lê Mai - Vũ Ngọc Tiến đồng tác giả cũng vì lẽ ấy.

Đi hoài không nơi nào nhận bản thảo, kế hoạch in chung cuốn sách làm kỷ niệm gặp quá nhiều trắc trở ngỡ đã phá sản, thật may Lê Mai nhớ ra một người bạn là giáo viên dạy toán rất nổi tiếng trong giới dạy kèm thi toán tốt nghiệp trung học phổ thông ở Hà Nội. Anh này rất yêu văn chương, lại là bạn thân của nhà văn Đà Linh nên sau khi đọc trắng đêm hết tập bản thảo đã tự nhận trách nhiệm liên hệ và thuyết phục Đà Linh in cuốn sách này.

Bản thảo gửi đi gần nửa năm vẫn thấy Đà Linh im lặng một cách khó hiểu. Thật ra anh đã đọc rất kỹ, cân nhắc nhiều lần, đưa cả bản thảo cho thầy Hoàng Ngọc Hiến đọc và thẩm định, được thầy khen, động viên Đà Linh nên tìm cách xuất bản. Một ngày đầu năm 2008, Đà Linh hồ hởi gọi điện ra cho tôi (VNT), báo tin đã lo được giấy phép, đồng thời tìm được một đơn vị liên kết xuất bản là Công ty Dịch vụ Văn hóa Tràng An của Nguyễn Phúc Hải nên thời gian mới lâu thư thế.

Anh nói: “Quả thực bản thảo là “độc dược bảng A” nhưng hay, em đọc rất thích, nhất là mấy truyện về chiến tranh của Vũ Ngọc Tiến. Các anh yên tâm. Sách sẽ ra trong quý III/2008”. Thật tình lúc đó tôi chưa hề nghe tên Công ty Tràng An, cũng chưa một lần gặp mặt ông Nguyễn Phúc Hải – Giám đốc công ty.

Sách ra, phát hành rộng rãi trên cả nước từ tháng 7/2008, nhận được phản hồi tốt của bạn đọc. Đà Linh ra Hà Nội tổ chức một bữa cơm thân mật tại nhà hàng Lợn Mường Quán trên phố Hoàng Ngân chung vui với hai tác giả Lê Mai, Vũ Ngọc Tiến, mời cả thầy Hoàng Ngọc Hiến cùng tham dự.

Tôi nhớ hôm đó thầy Hoàng Ngọc Hiến cứ nhìn tôi tủm tỉm cười, hồi lâu ông nói: “Tôi nom cậu hiền khô, nói năng điềm tĩnh ôn hòa, cử chỉ lịch duyệt sao viết văn lại dữ dội, trần trụi, ghê gớm thế? Mà cũng phải, viết về chiến tranh vậy mới trung thực, sự thật không cần tỉa tót, làm dáng. Cậu khác Nguyễn Huy Thiệp ở chỗ văn nó lạnh còn văn cậu ấm, nó ngoa ngoắt còn cậu thật thà, nó viết nhiều hơn kể còn cậu thì kể nhiều hơn viết nhưng cả hai đều là cây bút tử tế có chủ kiến riêng”.

Nào ngờ sách ra mới được ba tháng, đến giữa tháng 10/2008 bắt đầu có chuyện lùm xùm và tháng 12 năm đó sự việc diễn ra quá trầm trọng như đã tường thuật ở trên.

Đà Linh nói nhỏ với riêng tôi rằng, có kẻ thối miệng ton hót lên thành ủy, kết tội rất nặng ba truyện ngắn viết về chiến tranh của Vũ Ngọc Tiến, nhất là truyện đánh Tàu, và đã đến tai ông Nguyễn Bá Thanh. Ông ấy nổi đóa, trực tiếp ra lệnh cho bà Nông Thị Minh - Phó Chủ tịch Ủy ban, cùng Ban Tuyên giáo, Sở Công an, Sở Thông tin & Truyền thông... khẩn trương phối hợp với Cục Xuất bản ngoài Hà Nội mạnh tay xử lý vụ việc.

Lời Đà Linh hoàn toàn chính xác, bởi ngày 14/12/2008 có hai cán bộ từ Đà Nẵng (một của Ban Tuyên giáo, một của Sở Công an thành phố) ra tận nhà riêng của tôi và Lê Mai triển khai lệnh thu hồi sách. Họ nói đã nhận lệnh trực tiếp từ Bí thư Thành ủy Nguyễn Bá Thanh, động viên chúng tôi giao nộp sách. Thật ra, mỗi tác giả chỉ có 10 cuốn NXB tặng theo tiêu chuẩn, có mua thêm một số cuốn cũng đã tặng bạn bè hết rồi.

Thật lòng hôm đó tôi chẳng sợ, chỉ buồn nỗi cơn bão Chan Chu khủng khiếp năm đó vừa tràn vào Đà Nẵng, NXB đã chịu nhiều thiệt hại vì thiên tai, lại tiếp đến án phạt đình chỉ hoạt động ba tháng trước và sau tết âm lịch khiến đời sống cán bộ công nhân viên vô cùng khó khăn nheo nhóc. Cuốn sách của tôi vô tình là thứ gieo thêm tai ương cho họ.

Tận thẳm sâu tôi thấy thương họ, bứt rứt không yên, chỉ biết bấu víu vào mối quan hệ khá thân thiết với anh Phạm Kim Sơn khi ấy là Giám đốc Sở Thông tin & Truyền thông Đà Nẵng, nhờ anh chú ý giải quyết lương và thưởng tết cho họ. Rất mừng vì anh đã giữ lời hứa qua một công văn chỉ thị cho cấp đưới thực hiện...

Họ thực hiện đến đâu tôi không rõ, nhưng ân tình của Sơn tôi xin ghi nhận. Tôi biết Sơn từ khi anh còn là Giám đốc Trung tâm Phần mềm Đà Nẵng, một nhà khoa học giỏi và yêu nghề. Rồi chuyển qua làm quan cấp Sở, anh vẫn nguyên vẹn là người tử tế.

Nhưng thôi, mọi chuyện đã lui vào quá vãng, có lẽ chẳng nên, chẳng cần dông dài, chừng ấy đã là quá đủ...

Lại ngẫm câu: “Ở đời chữ cũng như lời, có tiết kiệm mới quý, càng tiết kiệm càng quý”.

Nên người viết xin dừng ở đây...

Sài Gòn, đêm 02/12/2022

Thứ Năm, 1 tháng 9, 2022

Thảo luận mùa hè 2022 (8): Vũ Ngọc Tiến – Nhà văn viết gì, viết thế nào hôm nay?

Vào tháng sáu, Văn Việt đã bắt đầu thực hiện cuộc Thảo luận mùa hè 2022.

Thời điểm đó, cả nước (và nhứt là Sài Gòn), đã lựng chựng những bước đi đầu tiên, cố “bình thường trở lại” sau những tháng ngày kiệt quệ vì phong tỏa. Những nội dung chia sẻ trong thảo luận là từ trạng thái đó:

”Đang là thập niên thứ ba của thế kỷ 21, và nhân loại vừa ra khỏi một thảm họa cực kỳ khốc liệt khiến mỗi người phải nhìn lại mình và trả lời câu hỏi: Nếu được sống (tiếp) thì sẽ sống thế nào?

Còn các nhà văn thì hỏi: Nếu được sống (tiếp) thì sẽ viết thế nào?

Phải chăng nhà văn đã “chậm chân”, đã bị “bỏ-lại” so với sự phát triển của khoa học và công nghệ, những thứ đã giúp cho một người bình thường, chỉ với bàn phím và mạng xã hội, có thể nối kết cùng cộng đồng và được đón nhận một cách hiệu quả hơn so với trang viết của nhà văn?

Phải chăng sự thiếu vắng những nhà văn tên tuổi mà tư tưởng đủ sức gây ảnh hưởng lên toàn nhân loại khiến những tác phẩm hư cấu giờ trở nên “nhẹ-cân-hơn” ngay cả với thể loại văn chương phi-hư-cấu?

Và anh/chị có thể trả lời các câu hỏi sau hoặc mở rộng vô giới hạn theo ý của anh/chị”.

Xin giới thiệu bài của nhà văn Vũ Ngọc Tiến.

VĂN VIỆT

Chủ Nhật, 15 tháng 3, 2020

Chuyện đời của Bôn Tây

Truyện ký Vũ Ngọc Tiến
Khoảng giữa năm 1990, cơ quan tôi triển khai đề tài thử nghiệm trồng cây thanh hao hoa vàng làm nguyên liệu chiết suất hoạt chất Artermisinin dùng sản xuất thuốc chữa bệnh sốt rét. Nơi thử nghiệm được chọn là trại giam Tân Lập thuộc tỉnh Phú Thọ vì thổ nhưỡng ở đó thuận lợi cho cây phát triển tốt, hàm lượng Artermisinin trong lá cao hơn nơi khác. Những ngày làm việc ở trại, tôi được ông giám thị cử Bôn Tây, một “tù tự giác” thuộc phân trại A đi theo giúp đỡ trong việc hướng dẫn các trại viên quy cách gieo trồng, chăm sóc và sơ chế lá cây thanh hao. Thường trong các trại giam đều có một số “tù tự giác” là những đối tượng cải tạo tốt, sắp mãn hạn tù và có uy tín với các trại viên. Hình thức là vậy, nhưng thực tế đa phần chỉ có các đại ca trong giới giang hồ vào trại một thời gian ngắn đã sớm được làm “tù tự giác”.