Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Giành giật thẩm quyền yêu nước (Đọc tiểu thuyết "Cuộc phân tranh")

 Tạ Duy Anh

 

Tôi có may mắn được biên tập tiểu thuyết "Gió bụi đầy trời" và giờ là hai lần đọc "Cuộc phân tranh" của Thiên Sơn. Chúng là những phần đầu của một bộ tiểu thuyết đồ sộ mà tác giả đang tiếp tục theo đuổi – như tôi được chia sẻ – chưa biết kéo dài đến đâu thì dừng. Tôi chúc mừng tác giả không phải ở việc cả hai phần đều rất đáng đọc, mà ở việc anh lựa chọn dự án cho sự dấn thân. Nếu Hoàng Quốc Hải, Trần Thanh Cảnh và nhiều người khác có thể thoải mái coi lịch sử chỉ là cái đinh để treo tranh của họ, thì Thiên Sơn không dễ có được cái quyền đó. Bởi lịch sử mà anh chọn làm hiện thực cho sáng tác của mình, vẫn còn đẫm mùi chính trị. Cái đinh đôi khi chưa chắc đã được dùng vào việc treo tranh (chẳng hạn chúng dùng để treo bản án!), hoặc có thể bị thời cuộc nhổ ra bất cứ khi nào. Trong khi đó những bức tranh tác giả muốn treo trên đó, cũng rất dễ bị rơi tuột xuống kèm theo sự đổ vỡ, gây thương tích cho những gì chúng va phải, kể cả tác giả.

Khi một bài thơ không chịu ngủ yên

Tino Cao

Năm mươi năm sau ngày chiến tranh kết thúc, tờ Văn Nghệ, cơ quan ngôn luận của Hội Nhà văn Việt Nam, bất ngờ đăng lại hai hôm trước bài thơ Với Khánh Ly của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Bài thơ được viết vào đêm 21 tháng 5 năm 1975 tại Sài Gòn, chỉ ba tuần sau khi Dinh Độc lập đổi chủ. Một bài thơ từng ra đời trong âm vang của chiến thắng, khi người viết còn đang say men khải hoàn, nay được đưa ra giữa thời bình sau nửa thế kỉ. Việc ấy, thoạt nhìn tưởng chỉ là một hành động hồi tưởng nhưng thật ra là một sự chọn lựa mang nhiều ẩn ý. Nó không phải chuyện công bố một văn bản cũ mà là một tuyên bố của quá khứ, cho thấy cách con người hôm nay vẫn đang tự kể về mình bằng chính ngôn từ của một thời đã lùi xa để diễn giải cho hiện tại.

Goncourt 2025 – “Ngôi nhà trống”: Một thi pháp ký ức từ sự lãng quên

Bảo Chân

Chỉ cách đây vài giờ đồng hồ, vào lúc 18g45 ngày 4 tháng 11 năm 2025, giải thưởng Goncourt danh giá của văn chương Pháp năm 2025 đã vinh danh một tiểu thuyết đang gây tiếng vang lớn: La Maison vide (Ngôi nhà trống) của nhà văn Laurent Mauvignier. Với chiến thắng ngay từ vòng đầu tiên của phiên chung kết (6/10 phiếu), Hội đồng xét giải Goncourt năm nay đã vinh danh một tài năng bậc thầy tiểu thuyết đã khắc họa những góc khuất sâu thẳm của tâm hồn con người và mang đến một giọng văn mới lạ, làm lay động tâm can người đọc, khiến cho độc giả sững sờ và choáng váng khi gấp cuốn sách lại.

Tiếng Việt từ TK 17: một số cách dùng Phật giáo như đạo bụt/tượng bụt/lạy bụt/thờ bụt so với bút ... luân hồi, vô thường … (phần 50)

 Nguyễn Cung Thông[1]

Phần này bàn về một số cách dùng Phật giáo từ các tài liệu chữ quốc ngữ vào TK 17 – hay từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo: đạo bụt/tượng bụt, lạy bụt, thờ bụt, nặn bụt, khấn bụt, chú bụt, bắt bụt … cột phướn làm chay, luân hồi, Thích ca, vô thường, đi tu, ăn năn tội… Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn so với các dạng chữ Nôm cùng thời, cũng như thông tin về một số sinh hoạt xã hội/tôn giáo từ những nhân chứng lịch sử (mắt thấy tai nghe). Ngoài ra, liên hệ giữa hai âm bútbụt khá rõ nét qua dạng kí âm bằng chữ quốc ngữ; nhưng ít người biết là tương quan bút - bụt còn để lại dấu ấn trong loại chữ ô vuông (chữ Hán) khi truy nguyên.Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd - xem chi tiết trong mục Tài liệu tham khảo chính và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN in năm 1651), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC in năm 1651), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL in năm 1651) có thể tra tự điển này trên mạng như http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), ĐNA (Đông Nam Á), LM (Linh Mục), CG (Công Giáo), PG (Phật Giáo), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), P (tiếng Pháp), A (tiếng Anh), L (tiếng La Tinh), VNTĐ (Việt Nam Tự Điển/Hội Khai Trí Tiến Đức), ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị), v.v. Kí viết là ký (tên người, tên sách) và trang/cột/tờ của VBL được trích lại từ bản La Tinh để người đọc tiện tra cứu thêm. Tương quan Hán Việt ghi nhận trong bài không nhất thiết khẳng định nguồn gốc của các từ liên hệ (có gốc Việt cổ hay Hán cổ).

Nhớ lại sau 40 năm ra tù (kỳ 5)

 Hoàng Hưng

Thưa các bạn yêu quí,

“Người nhớ lại” rất cảm động vì sự quan tâm và đồng cảm của hàng trăm bạn bè cũ và mới! Sau khi đọc bốn kỳ “nhớ lại”, một số bạn tỏ ý “tò mò” muốn biết về những ngày tháng trong tù của tôi! Thú thật, tù thì tất nhiên là buồn, khổ, đau… Nhưng không hiểu sao, về già, toàn nhớ những chuyện “vui” các bạn ạ. Hôm nay, tạm coi là kỳ cuối “nhớ lại”, xin kể hầu các bạn một “chuyện tù vui”. Và “nhớ lại” mãi cũng… rất mệt, phải nghỉ! Hẹn các bạn khi nào khoẻ lại… nhớ tiếp!

CHUYỆN “VUI” HOẢ LÒ – NHỮNG ĐÊM “HÁT ĐỐI” NÁO ĐỘNG PHỐ PHƯỜNG

Những tối mùa thu năm 1982, có hiện tượng vô tiền khoáng hậu giữa lòng Hà Nội: người đi đường chen nhau đứng ở ngã ba Hai Bà Trưng - Hoả Lò. Để nghe… trai gái tù nhân trong Hoả Lò “hát đối”!

Chữ và người 400 năm

 Lưu Trọng Văn

Nhà thơ Hoàng Hưng nói: Ở Việt Nam có không ít trí thức nổi tiếng còn nhầm lẫn Alexandre de Rhodes chính là Bá Đa Lộc, người sinh sau Alexandre de Rhodes những 150 năm. Đó là chưa kể khi Đà Nẵng muốn đặt tên đường Alexandre de Rhodes để tôn vinh người tạo nên chữ Việt - quốc ngữ có nhiều nhà văn hoá, tiến sĩ viết thư phản đối vì coi ông là người “lính thực dân”.

Kha Tiệm Ly: Nỗi niềm hoài cổ trong văn tế, phú và Đường thi

 Đặng Văn Sinh

Đầu tháng 12 năm 2024, cùng với giai phẩm Giao cm, tiến sĩ Đinh Tấn Phước còn gửi tặng tôi Tuyn thơ Kha Tim Ly do nhà xuất bản Hội Nhà văn cấp giấy phép. Cuốn sách khá dày, 372 trang, khổ 14 x 20,5cm, được chia thành các thể loại: Văn tế: 5 bài; phú: 7 bài; hành: 3 bài; thơ tứ tuyệt: 38 bài; thơ Đường: 95 bài; thơ xướng hoạ: 10 bài; thơ uống rượu: 25 bài; thơ tự do: 35 bài; thơ tình: 47 bài; bút danh hoa trong hoa: 9 bài; và thơ xướng hoạ: 4 bài.

Bửu Sơn Kỳ Hương: Vận nước phận người trong thời loạn

 Lam Điền

Quyển tiểu thuyết mới của nhà văn Lý Lan – Bửu Sơn Kỳ Hương – mang chứa cả một thời tao loạn của đất Nam Kỳ, ở đó những phận người tứ xứ va đập nhau, các nền văn hóa giao nhau làm nảy sinh không chỉ một mối đạo mà mở ra những khoảng trời mới trong lịch sử vùng đất này.

Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2025

Nhớ lại sau 40 năm ra tù (kỳ 4)

 Hoàng Hưng

VÌ SAO CÓ CHUYÊN ÁN VỀ KINH BẮC?

Về Kinh Bắc ra đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Vào cuối những năm 1950, bốn anh em chúng tôi (Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng) sau khi đi lao động cải tạo về, vẫn nằm trong thời kỳ bị kiểm soát chặt chẽ. Nói cho đúng thì riêng tôi không phải đi lao động, (không biết vì lý do gì mà những nơi Hội Nhà văn liên hệ để đưa tôi đến lao động đều không nơi nào chịu nhận, thế là tôi thoát!) trong khi Lê Đạt thì đi Phú Thọ, Trần Dần đi Thái Nguyên. Và nói về sự kiểm soát thì tôi cũng được thoải mái hơn hai anh ấy. Tôi cứ việc ở nhà trong khi Lê Đạt và Trần Dần thì tất cả các buổi sáng phải đến ngồi ở Hội Nhà văn. Chỉ uống nước chè, tán chuyện, cười ha hả thôi, nhưng vẫn phải đến. Nhưng việc in ấn thì dứt khoát là không được phép. Trong tình cảnh ấy, tôi đề xướng với các bạn: lúc này chính là lúc bọn mình phải để tâm vào việc phá ra về thi pháp, phải phá ra khỏi kiểu thơ Tố Hữu, hay nói rộng ra là kiểu thơ cũ mà mình đã chán ngấy. Thế là bốn anh em thống nhất về đường lối sáng tác. Từ đấy hai anh Trần Dần, Lê Đạt ở Hội Nhà văn sáng sáng chỉ tán chuyện một lúc rồi mỗi người yên lặng cắm cúi viết lách. Trần Dần viết Cổng tỉnh dựa vào những kỷ niệm thời thanh niên ở Nam Định. Lê Đạt thì những kỷ niệm ở Yên Bái (thân phụ của anh làm xếp ga ở đó) cho anh loạt thơ sau in trong Bóng chữ. Đặng Đình Hưng, với sự “đỡ đầu” (dùng đúng từ anh nói) của Trần Dần, cũng viết được những bài thơ mới hẳn, lâu lâu anh lại đến khoe, rất hào hứng. Tôi rất thích những bài thơ ấy của Hưng, và học tập được khá nhiều ở tinh thần mới mẻ của anh.

Tháng Mười

 Nguyễn Đức Tùng

 

Đi xa nhà một tuần, khi tôi về lá phong ngoài đường bay vào đầy sân, thùng thư ngập thư từ, báo chí, nhiều cái ướt đẫm nước mưa, tôi bật đèn ngồi bên bàn, pha trà nóng, mở những tờ báo ra, vui gặp những người bạn. Tôi dùng cây kéo nhỏ mở những phong bì đựng sách báo, nhớ hình ảnh của ba tôi ngày trước, ông dùng một cái dao mỏng để rọc giấy khi mua những cuốn sách mới. Buổi chiều nhiệt độ xuống thấp, băng giá đóng trên cửa, trên những lối đi trơn trượt, một người hàng xóm té ngoài đường, gãy xương cổ tay. Trăng lên, sáng bạc, màu thay đổi, hôm nào bạn buồn trăng cũng buồn, hôm nào bạn vui nó rất vui, màu của trăng là màu của tâm trạng. Gánh nặng của thế gian trên vai của bạn, một hôm nào được cất đi, bạn thấy lòng nhẹ nhõm. Hôm ấy rơi thêm một chiếc lá nữa. Trên căn gác cũ, với chiếc cầu thang bằng sắt ọp ẹp nằm ngoài trời, khi chúng tôi mới đến Canada, tôi xách những gói hàng đi chợ về cho những người bạn gái cũng mới đến như chúng tôi, nhưng từ trại tị nạn khác, một cô gái hai mươi tuổi, mặc áo đầm hoa ngồi bệt trên sàn nhà, cúi mặt mở những băng cát xét nhạc Vũ Thành An, thời đó còn rất lạ, cô gái ấy quay mặt lại trong đời sống của tôi, một lần duy nhất. Con đường chạy qua trước nhà tôi kéo dài mãi xuống chân đồi, vòng qua sát bờ sông, đó cũng là đường chạy. Những người chạy bộ gặp nhau trên đường, quen như bạn, chào nhau, trò chuyện. Chúng ta cùng chia sẻ một không gian, một thời tiết, một đất nước như nhau. Bắt đầu vào mùa Halloween, một người đàn ông hàng xóm chết đã lâu, mười lăm năm trước, để lại người đàn bà với hai đứa con nhỏ, bây giờ trở về, cầm lồng đèn đứng trước cửa, những người đi qua đều dừng lại, cúi đầu chào, ông ta cười phá lên, tiếng cười lạnh lẽo như kim loại, không ra vui, không ra buồn, giờ đây những đứa trẻ đã lớn, chúng không còn đi xin kẹo nữa nhưng vẫn tiếp tục cái trò chơi ấy, nhìn cách trang trí phía trước nhà, trong sân, các cầu thang, tôi biết rằng họ để dành nhiều giờ và tình yêu thương ở đó, cho người cha xấu số của mình và cho những đứa trẻ, bạn không thể biết đến điều ấy, nếu không được giải thích. Bạn không biết gì về lịch sử nếu lịch sử ấy không được giải thích. Nhiều năm trước, có một lần duy nhất trong đời tôi có một con chó nhỏ, khi tôi rời bỏ thành phố để qua Mỹ tôi đành để lại con vật cho một người bạn. Ngày chia tay con vật ngồi trước hiên nhà, im lặng, khóc, đó là một trong những cuộc từ giã buồn nhất. Tuyết sắp xuống, tôi lục tìm trong nhà kho cái xẻng xúc tuyết, những găng tay mùa đông, đôi giày cao, đôi ủng đi tuyết, tôi muốn nhìn tuyết xuống đêm nay, nhưng có lẽ vài hôm nữa. Mây xám đục bay qua nhưng chúng không dừng lại, nhiệt độ xuống thấp nhưng vẫn còn trên mức bông tuyết được hình thành, đất trời vào lúc giao mùa, gió đổi hướng, người đi, người về, tìm kiếm ngả đường, các khúc quanh, hỏi tên người chết, kể lại câu chuyện. Chúng ta kể câu chuyện để hiểu rõ hơn các ý nghĩa. Chúng ta kể chuyện để tập hợp, như một đám đông tập hợp lại, thì thào, bàn cãi, vô định hướng, cho đến khi có một người bước lên phía trước, trở thành trung tâm, trở thành một tiếng nói, rõ ràng và thơ mộng, về ý muốn của chúng ta mà trước đó chúng ta không biết là gì, không ai biết. Chúng ta cần thơ để làm gì? Thơ diễn tả cho chúng ta đời sống bên ngoài và đời sống bên trong. Chúng ta tìm thấy niềm vui trong ngôn ngữ của nó, trong hình ảnh của nó, chúng ta lắng nghe tính âm nhạc, ngưỡng mộ cách dùng chữ của các nhà thơ. Có một điều gì xảy ra gần như phép lạ mà ngôn ngữ thường ngày không có. Có một thứ tiếng nói khác, ngẫu hứng, bất ngờ kỳ lạ, bỗng nhiên hiện hữu trên trần thế.

Giải thưởng Akutagawa & Tháp Đồng cảm Tokyo

 Lê Hồng Lâm

Một trong vài tiêu chí chọn sách để đọc của tôi là các giải thưởng văn học tên tuổi, có lịch sử lâu năm. Bên cạnh giải thưởng tầm vóc cả sự nghiệp như Nobel, tôi thường chọn các tác phẩm đoạt các giải (theo thứ tự quan tâm): Man Booker (Anh), Pulitzer (Mỹ), Goncourt (Pháp) và Akutagawa (Nhật Bản).

“Được rồi, được rồi” – Nhìn lại "OK Fine" của Bùi Chát

 Ngô Lực

Ngày 8 tháng 10 năm 2023, khi Sài Gòn nhớ lại những ngày đầu rũ bỏ lớp bụi mù của những phong tỏa kéo dài vì dịch bệnh, Bùi Chát mở cửa triển lãm cá nhân lần thứ năm của mình: Ok Fine - Được rồi được rồi. Cái tên nghe như một tiếng thở dài pha lẫn nụ cười gượng, một phản xạ vô thức trong giao tiếp hàng ngày, cũng là lời tự trấn an. Ở một thành phố mà hai chữ “ổn thôi” từng là cái phao mỏng manh nhất để con người gắng vượt qua những ngày đóng kín, triển lãm xuất hiện đúng lúc, như thể để nhắc, nghệ thuật cũng có thể là một cách chống chọi và hồi sinh.

Thứ Bảy, 1 tháng 11, 2025

Thân phận người làm báo – giữ lửa giữa hai bờ dư luận

 Tô Văn Trường

Có những khoảnh khắc, con người đứng trước ranh giới sinh tử mới hiểu được ý nghĩa thật sự của sự sống. Tôi vừa đi qua một trận nhồi máu cơ tim cấp tính – một lần giáp mặt với cái chết trong gang tấc. May nhờ các bác sĩ ở Vinmec tận tâm cứu chữa, tôi được trở lại với đời. Cảm giác sau khi tỉnh dậy không phải là sợ hãi, mà là một thứ nợ đời chưa trả: còn bao điều chưa viết, bao sự thật chưa kịp nói.

Nhớ lại sau 40 năm ra tù (kỳ 3)

 Hoàng Hưng

MẤY CHUYỆN THÚ VỊ VỀ “HẬU VỤ ÁN VỀ KINH BẮC

Năm 2003, khi tôi về hưu tại báo Lao động, do khiếu nại của tôi, báo Lao động và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã kiến nghị Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội trả lương hưu cho tôi theo cả thời gian làm việc trước khi bị bắt (quy định phi lý phi nhân của Bộ này là vứt bỏ hết thời gian làm việc của cán bộ công nhân viên trước khi họ bị kỷ luật hay bắt giam, như đã áp dụng với nhà văn Bùi Ngọc Tấn). Lý do được nêu rõ trong công văn: Ông Hoàng Hưng bị bắt giam vì cầm tập thơ Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm mà thời đó coi là phản động, nay xã hội đã có nhìn nhận khác, quyền lợi của ông Hoàng Hưng phải được trả lại. Kiến nghị bị từ chối. Tôi gửi kiến nghị cho các bạn là nhà văn Lê Lựu, nhà quay phim Kiều Thẩm từng “lăng xê” cô đội trưởng du kích bảo vệ cầu Hàm Rồng là Nguyễn Thị Hằng hiện là Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, nhà báo Nguyễn Thị Hằng Nga, Tổng Biên tập Báo Người Lao Động và đại biểu Quốc hội, vợ người bạn tôi là nhà báo Nguyễn Quang Thọ, kèm theo lời doạ “sẽ biểu tình ngồi trước Quốc hội nếu không được giải quyết”. Vừa lúc bà Hằng vào Sài Gòn, chị Hằng Nga bèn đưa thẳng hồ sơ cho bà trong một bữa ăn. Bà hỏi: “Ông Hoàng Hưng có án không?” (tức là bị toà xử án). Trả lời: “Không, bị tập trung cải tạo”. Thế là bà thay đổi ngay quyết định, phá lệ! Và tôi được hưởng đủ lương hưu đúng theo thời gian làm việc (từ 1965).

Hoàng đế Gia Long: Từ xác lập chủ quyền quốc gia thống nhất đến kiến tạo quyền lực nhà Nguyễn

Tino Cao

(En français ci-dessous)

Điện Minh Thành ở lăng Gia Long

Trong lịch sử Việt Nam cận đại, ít có nhân vật nào mang tính lưỡng diện và gây tranh luận dai dẳng như Nguyễn Phúc Ánh (hay Nguyễn Ánh), vị hoàng đế sáng lập triều Nguyễn dưới niên hiệu Gia Long (1802-1820). Hình tượng của ông luôn đứng ở giao điểm giữa hai tiến trình song hành: quá trình thống nhất quốc gia sau hơn hai thế kỉ phân tranh và sự mở đầu cho quan hệ phức tạp giữa Việt Nam với phương Tây. Các công trình học thuật viết bằng tiếng Pháp trong hơn một thế kỉ qua cung cấp một kho tư liệu phong phú, không chỉ ghi chép sự kiện mà còn phản ánh những quan điểm sử luận, từ diễn ngôn thuộc địa tán dương đến các nỗ lực phê phán, giải huyền thoại hóa.

Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2025

Nhớ lại sau 40 năm ra tù (kỳ 2)

Hoàng Hưng

May mắn là lúc ấy, báo chí Việt Nam bắt đầu “mở ra” khi rục rịch công cuộc Đổi mới! Một số báo, tạp chí tiếng Pháp, tiếng Anh được bán trên lề đường Đồng Khởi (chắc là hàng “xách tay” của du khách nước ngoài). Tôi mua và tìm những bài thích hợp để dịch và gửi cho mấy tờ báo ở Sài Gòn. Sau này, khi có internet, công việc dịch thuật các bài vở mới trên các báo mạng để bán cho các báo đã là phần quan trọng trong thu nhập thường xuyên của tôi.

Đôi điều nói thêm về “Thi pháp thơ Tố Hữu” của Trần Đình Sử nhân cuốn sách được Nhà xuất bản Đại học Sư phạm cho tái bản lần thứ sáu

 Lã Nguyên

 

Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử in lần đầu vào năm 1987. Năm 1989, tôi đã viết bài bình luận về cuốn sách, đăng trên Tạp chí Văn học (số 3, tháng 5+6). Ngoảnh đi ngoảnh lại, đã ba mươi sáu năm trôi qua. Giờ nhìn lại, tôi muốn nói thêm đôi điều về công trình nghiên cứu này.

Hữu Loan, Xuân Sách ... và hai bài thơ “vượt biên” ...

Ngô Thị Kim Cúc

Có hai bài thơ phổ nhạc của hai nhà thơ miền Bắc đã “vượt biên” vào Nam và được hát công khai trước 1975: Những đồi hoa sim của Hữu Loan (1916- 2010) và Đường chúng ta đi của Xuân Sách (1932- 2008).

Nhạc sĩ phổ thơ hẳn có biết về tác giả, nhưng người nghe nhạc ở miền Nam thời đó thì hầu như không biết mấy về họ.

Khi còn rất nhỏ, từ thập niên 1960, tôi đã nghe ca sĩ Phương Dung hát Những đồi hoa sim của Dzũng Chinh. Ca sĩ Phương Dung có giọng cao và trong, được mệnh danh là "Nhạn trắng Gò Công". Là người Nam Kỳ nhưng khi hát bà phát âm giọng chuẩn-Bắc, nên người nghe dễ nghĩ bà là người gốc Bắc.

Bài hát viết theo điệu slow rumba, âm giai rê thứ, như rất nhiều nhạc phẩm dòng boléro, luôn lồng trong đó một câu chuyện kể. Đó là tâm trạng buồn đau của người-chồng-chiến sĩ mới sống với vợ được hai tuần sau khi cưới, và ba tháng sau đã nghe tin vợ mất ở quê nhà. Người vợ ấy tóc còn xanh, thích hoa sim tím, và không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn:

“... Từ dạo hợp hôn nàng không may áo cưới

Thoáng buồn trên nét mi

Khói buốt bên hương tàn nghi ngút

Trên mộ đầy cỏ vàng

Mà đường về thênh thang

Đồi sim vẫn còn trong lối cũ

Giờ thiếu người xưa ấy đồi hoang mới tiêu điều...”.

Chuyện người vợ ở hậu phương bị chết trong khi chồng vẫn sống ở chiến trường có thể là chuyện của bất kỳ người lính nào ở bất cứ đâu. Có phải vì vậy mà bài hát không bị cấm, dù những cơ quan chủ quản văn hóa của miền nam thời đó hẳn biết rõ nó được lấy từ ý thơ của một nhà thơ Bắc Việt.

Dĩa nhựa Asia Sóng Nhạc với bài hát Những đồi hoa sim và giọng hát Phương Dung trở thành dĩa bán chạy nhất của hãng vào thời điểm đó và khiến bà nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Bài hát cũng là tác phẩm thành công nhứt của nhạc sĩ Dzũng Chinh, người đã mất sớm, khi mới 28 tuổi.

Bài thơ của Hữu Loan, có tên ban đầu là 1946, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh để bày tỏ niềm tiếc thương người vợ trẻ vắn số của mình.

Ban đầu, đó là bản viết tay, được mọi người truyền khẩu và lan rộng, sau đó mới được Nguyễn Bính cho in trên tờ Trăm Hoa.

“Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồng (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại nơi tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi....”.

Sau năm 1975, qua báo chí và những kết nối văn nghệ, tôi biết thêm nhiều sự thật đời thường về tác giả. Rằng Hữu Loan có hai người vợ, và bài thơ Màu tím hoa sim là ông viết cho người vợ thứ nhứt.

Khi Hữu Loan lần đầu ra Hà Nội và thi đỗ thành chung, ông đã được phu nhân của vị tổng thanh tra canh nông Đông Dương thuê làm gia sư cho hai con trai, rồi sau đó bà gả luôn con gái cho ông. Nhờ việc ông thường ghé cửa hàng bán vải và sách báo của bà, để xem, mua sách và được bà để ý chọn.

Khi họ cưới nhau, bà Lê Đỗ Thị Ninh chỉ mới 16 tuổi, thua Hữu Loan 14 tuổi.

Qua hoạt động nghề nghiệp, và cả sự truyền tụng trong giới cầm bút, tôi biết rằng Hũu Loan là nhà thơ hết sức cang cường, có gan từ bỏ tất cả: bỏ đơn vị, bỏ đảng, bỏ những kết nối đã có với giới cầm bút, tuyệt giao với quá khứ để về sống cuộc đời của một người lao động bình thường.

Đó là năm 1956, sau cải cách ruộng đất đẫm máu và vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm khốc liệt.

Hữu Loan, từng là chủ bút báo Chiến sĩ của Sư đoàn 304 ở Liên khu IV và biên tập viên tạp chí Văn nghệ, khi vứt bỏ mọi thứ để về vùng đồi Thanh Hóa, đã “... Ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi giắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu...”, “... Tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi …”.

Bài thơ Màu tím hoa sim có một số phận thật oái oăm. Trước 1975 ca khúc phổ thơ của người lính Bắc Việt được hát tự do ở miền Nam nhưng sau 1975 lại bị cấm bởi chính nhà cầm quyền cộng sản.

Khi mới ra đời ở miền Bắc, nó đã bị đánh giá là “ủy mị tiểu tư sản, làm nhụt nhuệ khí người lính nơi chiến trận”, thì sau 1975, ca khúc phổ thơ lại bị xếp vào thành phần “văn-hóa-phẩm-đồi-trụy” của miền Nam.

Phải đến năm 2020, nó mới được cấp phép cho trình diễn tự do, cùng lúc với nhiều tác phẩm âm nhạc khác của Việt Nam Cộng Hòa.

Sau năm 1988, nhờ “đổi mới”, Hữu Loan được “giải oan”, trở lại văn đàn, nhưng ông đã từ chối lời mời gia nhập Hội Nhà văn.

Năm 2012, hai năm sau khi ông mất, bài thơ Màu tím hoa sim đã được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.

***

”... Dặm đường xa, ta đi giữa mùa xuân,

Ta đi giữa tình thương của Đảng,

Tiếng Bác Hồ rung động mãi trong tim.

Đường ta đi ánh lửa soi đêm dài,

Đường ta về trong nắng ấm ban mai.

Việt Nam, Việt Nam, qua từng bước gian nan,

Lớn lên rồi đẹp những mùa xuân...”.

Lúc đó, tôi vừa vào năm thứ nhứt đại học, thập niên 1970. Tất cả hãy còn quá mới mẻ, xa lạ với cô sinh viên mười tám tuổi lần đầu rời gia đình, từ Đà Nẵng vào Sài Gòn trọ học.

Lần đầu xem chương trình biểu diễn văn nghệ của nhóm sinh viên phong trào tranh đấu tại trường, tôi rất có ấn tượng về một bài hát được đồng ca trên sân khấu. Ca từ rất đẹp và giai điệu thì tuyệt vời, hết sức hùng tráng.

Chỉ nghe một lần duy nhứt và tôi vẫn đinh ninh đó là một bài nhạc-phong-trào, do các nhạc sĩ sinh viên sáng tác.

Sau 1975, tôi mới biết đó là ca khúc Đường chúng ta đi rất nổi tiếng do nhạc sĩ Huy Du (1926-2007) phổ nhạc từ một bài thơ của nhà thơ Xuân Sách (1932-2008).

Bài hát được hoàn thiện vào cuối năm 1968 và được thu thanh đầu năm 1969, tối giao thừa Tết Âm lịch đã được nghệ sĩ Kim Oanh đơn ca.

Đó là thời điểm chiến tranh Việt Nam đang diễn ra rất ác liệt.

Khi đọc đến đoạn “... Ta đi giữa mùa xuân/Ta đi giữa tình thương của Đảng/Tiếng Bác Hồ rung động mãi trong tim...”, tôi tự hỏi: Hồi đó, không rõ các bạn sinh viên đã đổi lời những câu này thế nào để có thể ngang nhiên đứng hát giữa Đại Giảng đường 1 của Đại học Khoa Học, trong khi ngay bên ngoài cánh cổng, sang bên kia đường của đại lộ Cộng Hòa là Tổng Nha Cảnh sát Sài Gòn.

Trong một lần gặp mặt ở Sài Gòn, anh Xuân Sách đã kể một câu chuyện cho chị Ý Nhi. Rằng một hôm, anh vào một quán cà phê và nghe bài hát Đường chúng ta đi đang vang lên từ giàn loa. Anh nói, dù không ai biết mình là tác giả bài thơ nhưng anh vẫn đỏ mặt vì thấy ngượng.

Tôi không nghĩ anh đỏ mặt vì chính mình. Anh đã viết bài thơ đó một cách tự nhiên khi đang là lính trong thời chiến.

Nhưng sau mấy chục năm hòa bình, nhứt là sau khi kinh tế thị trường làm thay đổi hoàn toàn đời sống vật chất và tinh thần của mọi người, trong xã hội đã hình thành một tầng lớp cơ hội chủ nghĩa xấu xa.

Những kẻ này mồm luôn hô thật to các loại khẩu hiệu trong khi hành động chỉ nhăm nhăm thực hiện cho kỳ được những hợp-đồng-kinh-tế có lợi nhứt cho bản thân và phe nhóm. Những kẻ ấy đã khiến xã hội bị vẩn đục/ô nhiễm bởi một lũ nịnh-thần trơ tráo.

Anh đỏ mặt, xấu hổ vì nghĩ rằng mình có thể cũng đang bị xếp chung hàng với chúng.

Dẫu sao, bài hát rất hay ấy đã vang lên giữa lòng thành phố Sài Gòn trong thời chiến, và đã để lại một ký ức đẹp trong trái tim một tân sinh viên mới gia nhập môi trường đại học là tôi.

Cho tới hôm nay, nghe lại, tôi vẫn thấy bài hát ấy rất hay, và với tâm thế của một công dân Việt bình thường, yêu nước, tôi hiểu nó đã thuộc về quá khứ, là một mảnh nhỏ của lịch sử, không thể xóa bỏ.

Và anh, người viết ra những dòng thơ ấy, đã không dừng lại ở đó. Anh đã tiếp tục trách-nhiệm-nhà-văn của mình, không phải bằng những lời ngợi ca, mà bằng những Chân dung nhà văn rất sống động, sắc sảo, độc đáo.

Và qua những chân dung đó, độc giả/hậu thế có thể nhìn rõ chân dung của giới cầm bút Việt Nam ở một giai đoạn lịch sử của dân tộc ...

.................

Ca từ trọn vẹn của bài hát Đường chúng ta đi:

Việt Nam, trên đường chúng ta đi,

Nghe gió thổi đồng xanh quê ta đó,

Nghe sóng biển ầm vang xa tận tới chân trời,

Nghe ấm lòng những khi đang dồn bước,

Mà vui sao ta chẳng nói nên lời.

Dặm đường xa, ta đi giữa mùa xuân,

Ta đi giữa tình thương của Đảng,

Tiếng Bác Hồ rung động mãi trong tim.

Đường ta đi ánh lửa soi đêm dài,

Đường ta về trong nắng ấm ban mai.

Việt Nam, Việt Nam, qua từng bước gian nan,

Lớn lên rồi đẹp những mùa xuân.

Ta đi qua phố qua làng,

Ngọn đèn sáng giục lòng ta đó.

Lời mẹ nói ấm lành ngọn gió,

Đàn em vui ríu rít mái trường.

Ta đi đường rợp bóng hàng dương,

Đất bom đào đã lên màu cỏ mới.

Những cặp mắt đêm đêm trông đợi,

Chiến trường xa dồn dập những chiến công.

Miền Nam ơi, miền Nam,

Ơi những dòng sông soi bóng dừa xanh,

Những đỉnh núi khuất mây mờ xa tắp,

Ta sẽ đến nơi đâu còn giặc,

Ta chưa về khi Tổ quốc chưa yên,

Việt Nam, Việt Nam, ôi Tổ quốc vinh quang!”.

Những đồi hoa sim - Phương Dung | Nhạc sĩ: Dzũng Chinh (ASIA 13)

Tháng 10.2025. Niệm hương trước bàn thờ nhà thơ Hữu Loan. Trên tường là bức trướng Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thanh Hóa mừng thọ nhà thơ Hữu Loan tuổi 95.

Tháng 10.2025. Ngôi nhà cũ của gia đình nhà thơ Hữu Loan thời gian ông sống bằng việc phá núi lấy đá đổi cơm. Chỉ còn lại vài mảnh tường rêu mốc, sứt sẹo.

Tháng 10.2025. Niệm hương trước ngôi mộ (chưa xong) của nhà thơ Hữu Loan trên phần đồi sẽ là nghĩa trang gia tộc.

Tháng 10.2025. Trước mộ nhà văn Xuân Sách.

Tháng 1.1995. Bên ngoài hành lang Đại hội V Hội Nhà văn Việt Nam. Nhà văn Vũ Bão, nhà thơ Xuân Sách, Ngô Thị Kim Cúc.

 

Nhớ lại sau 40 năm ra tù (vụ án “Về Kinh Bắc”) 30/10/1985 – 30/10/2025 (kỳ 1)

 Hoàng Hưng

Ngày 30/10/1985

Trại cải tạo Thanh Cẩm, Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá

Trước đó khoảng nửa tháng, một buổi sáng trại viên tập hợp trước khi đi lao động, tôi chuẩn bị lên đọc báo Nhân Dân như nhiệm vụ thường ngày của người “phụ trách văn hoá” trong “Ban đại diện tù cải tạo”, thì Giám thị trại xuất hiện, ra lệnh cho tất cả trại viên là sĩ quan công chức Sài Gòn về lán thu xếp nội vụ để… được về nhà!

Sứ điệp tình yêu – từ tự sự đến nghệ thuật huyền ảo

 (Đọc tác phẩm Lời thì thầm của hoa sứ của Trần Ngọc Phương Nguyên, Nxb Đà Nẵng, 2025)

Lê Huỳnh Lâm

 

Lời thì thầm của hoa sứ là của Trần Ngọc Phương Nguyên, một nhà nghiên cứu, giảng viên, giáo sư Y khoa tại Nancy, Đại học Lorraine, đồng sáng lập và đồng giám đốc Trường Phẫu thuật – Bệnh viện Mô phỏng Y khoa và Phẫu thuật Lorraine. Anh còn là nhạc sĩ, ca sĩ, viết và hát bằng tiếng Pháp. Bất chợt, nhan đề của cuốn sách khiến tôi liên tưởng đến lời hát “một mai thức dậy /chuyện trò với lá cây” của Trịnh Công Sơn trong bài Tình sầu. Trần Ngọc Phương Nguyên thì ở vị trí người lắng nghe hoa sứ, loài hoa của xứ miền nhiệt đới.

Thứ Tư, 29 tháng 10, 2025

Tiến trình lập hiến: Lý thuyết và thực tế qua các bản Hiến pháp Việt Nam

 Đỗ Kim Thêm

Lý thuyết tổng quát

Nội dung

Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp.

Giá trị của tác phẩm nghệ thuật dưới góc nhìn của chuỗi provenance

 Tobi Trần - Giám tuyển Độc lập

Như mọi người đã biết và đang bàn tán sôi nổi về tác phẩm California (IKB 71) của Yves Klein khi nó được gõ búa với mức giá lên đến hàng chục triệu đôla cho một bức tranh đơn sắc. Theo lẽ thông thường, điều này dễ dàng trở thành chủ đề mỉa mai của cả giới nghệ sĩ lẫn công chúng kiểu như nào là “tấm bảng triệu đô”, “con tôi tô màu cũng được” hay “bọn rửa tiền Tây lông”, v.v.

Hi.69 – HỘI NGỘ HAI DÒNG PHÙ SA, triển lãm của Hoàng Võ và Đức Giang

 Giám tuyển, họa sĩ Phan Trọng Văn

Hai họa sĩ cùng sinh năm 1969 – Hoàng Võ (Long An, miền Nam) và Đức Giang (Hà Nội, miền Bắc) – mang trong mình hai mạch phù sa khác biệt. Một người thấm đẫm sắc nắng miền sông nước Mê Kông, tuổi thơ lớn lên bên rặng dừa nước và những mùa lũ rộn ràng; người kia lại mang theo sắc nâu sồng của phù sa sông Hồng, trầm tĩnh như men gốm cổ Bát Tràng.

Thứ Ba, 28 tháng 10, 2025

Thủ phạm của “nền văn học loạn giá trị”

 Đinh Thanh Huyền

PHÊ BÌNH VĂN HỌC

Viết về “lịch sử phê bình” ở Việt Nam, có nhiều tác giả như Trần Đình Sử, Nguyễn Hưng Quốc, Inrasara, Trịnh Bá Đĩnh, Lã Nguyên, Đỗ Lai Thúy,… đã công bố các chuyên luận sắc sảo, với những ý kiến xác đáng giúp làm rõ thực trạng, những tệ lậu hay triển vọng của phê bình. Trong bài viết này, tôi tiếp tục nêu ra những nhận xét cụ thể, dựa trên thực trạng phê bình văn học hiện thời.

Một sĩ quan người Đức

 Phan Thúy Hà

1.

Warsaw bị tàn phá, Wladyslaw Szpilman sống sót nhờ ẩn nấp trong tòa nhà của thành phố chết, một sĩ quan Đức đã phát hiện ra. Bộ phim The Pianist cho khán giả chứng kiến một cảnh bi tráng: Trong căn phòng đổ nát, một người Do Thái suy kiệt thể lực, quần áo rách rưới, râu tóc bờm xờm, đôi mắt sâu thẳm vì đói khát, run rẩy chạm các ngón tay lên phím đàn, giai điệu Chopin vang lên, bên cạnh là người sĩ quan Đức lặng đi trong xúc động.

Dương Tường

 Tạp bút Tru Sa

 

 

Dáng mỏng những nhánh khô gầy, ngón nhỏ run run, bước chân chậm rãi, nhỏ hơn cái bóng đổ dưới mặt đường, cái miệng tươi một nụ cười ngát nắng trên khuôn mặt trổ đầy tàn nhang, đấy là Dương Tường, người đàn ông của thế hệ hoàng kim một thuở, cụ ông cỗi tuổi nhưng chưa tàn, chưa ruỗng, lúc nào cũng tươi tỉnh, hớn hở, rào đón đủ loại mật ngon trên đời.

Giải thưởng Booker Thiếu nhi

 Emma Loffhagen, The Guardian, ngày 23.10.2025

Ngân Xuyên dịch

Frank Cottrell-Boyce. Ảnh: David Bebber

Quỹ giải thưởng Booker đã phát động một giải thưởng văn học mới, quan trọng, đó là giải thưởng Booker dành cho trẻ em, trao giải thưởng trị giá 50.000 bảng Anh cho tác phẩm hư cấu hay nhất dành cho độc giả từ 8 đến 12 tuổi.

Thứ Hai, 27 tháng 10, 2025

Doãn Quốc Sỹ từ hiện sinh đến vào thiền

 Trần Kiêm Đoàn

Doãn Quốc Sỹ qua nét vẽ của  Đỗ Duy Ngọc

Nhà văn Doãn Quốc Sỹ mới qua đời tại Mỹ, hưởng thọ 102 tuổi (theo lịch Âm là 103 tuổi). Ông là hàng nhà văn tiền bối cuối cùng trong thế hệ Chiến tranh Việt Nam vừa ra đi. Ông vừa là nhà văn, vừa là nhà giáo và cho rằng dạy học là nghề, viết văn là nghiệp. Như thế trong nhãn quan Phật giáo thì phải chăng văn chương là duyên và tác phẩm là “nợ” như khái niệm “duyên nợ trần ai” giữa đời thường.

Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2025

Huyền thoại Duy-ma-cật: Triết học của trí tuệ bất nhị và đời sống nhập thế

 Tino Cao

Gần hai năm đã trôi qua kể từ ngày trưởng lão hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, pháp hiệu Nguyên Chứng, viên tịch (24.11.2023). Thời gian trôi đi, nhưng ảnh hưởng to lớn của Ngài vẫn còn lưu giữ trong đời sống Phật giáo và lan tỏa trong nhiều lĩnh vực tư tưởng và văn hóa Việt Nam đương đại. Nhân chuẩn bị cho ngày lễ đại tường, việc nhìn lại di sản của hòa thượng Tuệ Sỹ không chỉ là để tưởng nhớ một bậc cao tăng thạc đức của Phật giáo Việt Nam đương đại, đó còn là cơ hội để suy ngẫm về một trí tuệ đã vượt qua giới hạn của tôn giáo, để lại dấu ấn sâu sắc trong triết học, văn học và đời sống tinh thần của thời đại.

Thơ Trần Doãn Nho

Chiều 29 tháng 4 trên đường Công Lý

thành phố thất thần
bóng tối đến sớm
mây thấp và cửa đóng, đường run
năm giờ chiều, chiếc đồng hồ bứt rứt
tôi đi trong bóng của mình

dinh độc lập úa
như phế tích âm thầm
góc đường hồng thập tự – công lý
toán lính nhảy dù ngồi ăn cơm
lá rơi trên tấm poncho
lá rơi trên ga-men
lá rơi thảng thốt
chiếc áo trận nhòe
ngậm ngùi lịch sử

lá rơi, rơi
mải miết như đùa
như trò chơi
như mơ như thực
cuộc phế hưng bủn rủn phận người.

lính nhảy dù, người ngồi kẻ đứng
súng nghiêng
nhắm vào thành phố vô hồn
những góc đường bối rối
dấu chân chìm

đêm xuống nhanh
cho một ngày mai khác

ngày mai mặt trời vẫn sẽ lên
thành phố khép chặt
lạnh
và quên.

 

hành

trước mặt rừng kiệt lá

sau lưng phố tạnh người

trời xa mây quánh đặc

đờ đẫn vạt chiều phai

 

con tim hồng bạt gió

tạt tới chỗ ta ngồi

ngẩn ngơ cành thu muộn

rụng.

            một ngọn chơi vơi

 

bỏ tim vào trong túi

ta bay hết quãng trời

chạm đến vùng không tưởng

xao xác phiến tình côi

 

gió xoáy vào u tịch

nắng rơi động cõi ngoài

ta níu từng hư tự

tặng dữ cuộc chi phôi

 

ta ngược ta quá vãng

tìm lại chút tinh khôi

xôn xao cơn huyễn mộng

vỗ xuống những ngày vui

 

sau lưng rừng đã lá

trước mặt phố đã người

vọng âm từ khoảng vắng

đọng

        một

               tiếng

                        đàn

                               rơi

 

tôi tò mò tôi

nếu hỏi tôi

tổng thống bush (con) là ai

tôi nói ông ta là một tay cao bồi

 

thái dương hệ có bao nhiêu hành tinh

tôi nói có tám hành tinh

(không phải chín, pluto bất hạnh đã bị tước mất quyền được làm hành tinh tháng vừa rồi vì thiếu tiêu chuẩn)

 

chân lý là gì

tôi nói chân lý là vô ngôn và vô niệm

hay nếu cần thì là hư vô

 

tình yêu là gì

tôi nói tình yêu là bi kịch

 

nước mỹ là thế nào

tôi nói nước mỹ giàu nhưng ít học

 

nước pháp là thế nào

tôi nói nước pháp đầy văn chương

                     nhưng kênh kiệu lỗi thời

 

cộng sản việt nam là thế nào

tôi nói cộng sản việt nam tài nhưng thiếu đức

 

cuộc đời là gì

tôi nói cuộc đời là phi lý

là mythe de sisyphe

 

gì nữa nào?

braudillard beckett kristeva beat generation

derida hậu cơ cấu stem cell gunter grass (mới thú tội làm lính đức quốc xã) vệ tuệ đinh linh

phan huyền thư nhóm mở miệng tuyên ngôn 4806…

 

nhằm nhò gì

tôi biết tất

nhiều điều  nhiều sự  nhiều  việc nhiều cái

nhiều người nhiều gã nhiều tên

nhiều vân vân

 

nhãn, tôi có nhiều

chữ, tôi không thiếu

cứ thế, tôi thoải mái dán

cho người này người nọ phe này phe nọ nhóm này nhóm nọ

 

có điều tôi không biết: tôi

có cái tôi không rõ: tôi

có gã tôi không quen: tôi

có vật tôi không sờ đến: tôi

 

có kẻ tôi không dám bình: tôi

có sự tôi không buồn thắc mắc: tôi

có loại tôi không can đảm nghiên cứu: tôi

tôi không dán tôi

nên tò mò tôi

tò mò tôi

 

từng ngày từng phút từng giây

tôi chạy trốn rất tài

tôi lấp liếm rất tài

tôi biện hộ rất tài

tôi cứ tò mò tôi

tò mò tôi

tôi

 

lắm lần

tôi đuổi theo tôi

truy tầm tôi. bản lai diện mục

hễ tôi đến gần

là tôi biến mất

tôi vinh danh tôi

một mình tôi

 

gặp
                (gửi Nguyễn Đức Tùng)

 
trong đời tôi chưa hề gặp một người nào dũng cảm
cũng chưa hề gặp một người nào thông minh
cũng chưa hề gặp một người nào tử tế

tệ hơn
tôi chưa hề gặp một ai vừa dũng cảm vừa thông minh lại vừa tử tế

đã thế
tôi cũng chưa hề gặp một ai hèn nhát
cũng chưa gặp ai dốt nát
cũng chưa gặp ai bất lương

đáng trách hơn
tôi chưa hề gặp một ai vừa hèn nhát vừa dốt nát lại vừa bất lương

một hôm
tôi gặp hắn
vừa dũng cảm vừa thông minh vừa tử tế
vừa hèn nhát vừa dốt nát vừa bất lương

tôi hỏi: ai?
tôi trả lời: tôi

 

nỗi huế

nơi đó
thành quách nhiều hơn người
giai thoại đè lịch sử
thuở nhỏ
tôi đi dọc theo những con đường vuông
góc thành này đến góc thành kia
lớp lớp rêu bám đầy
nhẫn nhục, cổ sơ
nghiêm cẩn đến nao lòng
nhìn hoài vẫn cứ tự hỏi …

tôi giẫm bước vô danh trên những địa danh
quá khứ được ăn tiêu rất kỹ
những khu vườn có cổng chắn
tường lở nhiều chỗ
vài đoạn rào thép gai
chắp vá hờ hững
ngôi nhà thấp
                chật ních kỷ vật
câu đối sơn son thếp vàng hồn nhiên ngủ kỹ
                ngang và dọc
                mục và quý phái
                cũ và kiêu sa
giai thoại mọc lên từ mỗi góc nhỏ
ngày tháng co giãn 
đậm đặc nỗi tự hào

thuở thanh xuân
mân mê những livre-de-poche ưng hạ
đọc cọp báo sài gòn mới gia long
tà tà phan bội châu
                nhìn trộm phương lan
dựa cột đèn trần hưng đạo
                ngắm từng em từng em đi qua
                rỡ ràng phố chật
cốc cà phê lạc sơn chiều muộn
hơi người hơi ruốt
nhớ bâng quơ

chiều mưa giông đồng khánh
những con chim bồ câu
túa ra
       ướt mèm áo trắng
cậu học trò không chịu về nhà
nép dưới tàn cây
                   hiên phố
ngẩn ngơ

huế rất lạnh mà rất nắng
mưa thì phùn và gió rất khô
trời mênh mang mà người thì lặng
những buổi chiều hiền
       thẩn thơ đường nhỏ
em đi như tĩnh vật
tôi rụng rời cơn mơ 

nhiều lần lang thang quanh hoàng cung
nghe gạch ngói thở
sờ đám tượng trên sân chầu
                ẩn nhẩn
                        đìu hiu
leo lên lầu ngọ môn
                thấm thía dòng hư tự
quan ở đâu vua ở đâu cờ quạt ở đâu
chỉ là mấy bông sứ lặng lẽ rụng
trong hồ sen ngơ ngác
hít hà chút cổ sử
                ngậm ngùi thơm

đó là nơi tỏ ra rất tiện lợi
cho nhiều màn trình diễn
                ngoạn mục bất ngờ
có khi trịnh trọng có khi bình dân
có khi rất chuyên nghiệp
và những tan vỡ liên tục diễn ra
thật chậm rãi
đủ để người ta thưởng thức nỗi mất mát
của chính mình

lắm khi
từ trong cái ù lì lặng lẽ
bỗng vươn vai đứng dậy
y như thể đã chuẩn bị từ bao giờ
vội vội vàng vàng
băng cờ la hét
đường phố hừng hực
khát khao thu gọn chiều dài lịch sử

dưới kia
sông vẫn lặng
đò vẫn trôi
sông còn thơm
mà đò thì chật

những ngày xuân âm khí năm nào
thành quách nín
đất đá nghẹn
cỏ cây câm
hố hầm co quắp
                ngột
âm bản cuộc liêu trai

lại có khi
thành phố bồng bế nhau
vứt cả rực rỡ hè mới chớm
rùng rùng bỏ chạy
đi đâu?
không biết đi đâu
miễn là xuôi nam
để lại một cõi lặng
không gian rỗng
sàn diễn trống trơn
những con chó mất chủ chạy rất tự do
                                và vô vọng
hàng phượng lạc loài
                chấp chới bay
gió nắng rong chơi
vòng vèo quanh nội thành ấm ức

kiêu binh về
bắt đầu mắng mỏ nhiếc móc
thậm chí oán thù
                những người đã chết
y như thể không có họ
thì đất nước sẽ thành cường quốc từ thế kỷ 18!

bỗng nhiên
mọi thứ được vội vã  hóa thân
hội hè đình đám
những ngợi khen đẫm mùi tiếp thị
phục chế/tân trang kẻ thù
đem ra bày bán

chữ nghĩa không xương…

sorry huế!

đành phải ra đi
bỏ phía sau nhìn phía trước.

lạc lõng giữa đất trời lạ hoắc
ăn cũng huế
nói cũng huế
đi cũng huế
chào cũng huế
thương cũng huế
nhớ cũng huế
ngày huế
đêm huế
lao xao những ôn những mụ những o những dì
đám trẻ con ngỡ ngàng 
                tưởng còn thời khuyết sử

cô cháu nhỏ tò mò
what’s hue, ngoai?
hue here! 
tôi chỉ vào bà ngoại
really, ngoai?
yes
ngoai oi, so i love hue so very very much

tháng bảy quay quắt huế
đến hẹn
       nước lại lên
nước tràn đập đá nước lút bến đò cồn nước ngập bao vinh nước ngâm quốc lộ
…đãng trí
          tôi không về
ai lội lụt thăm em

một thuở
            vỉa hè/góc phố
            nắng/mưa
            lụt/bão
            nghèo/thiếu/đói/no
            tù/ngục

…một thuở…

thành phố thì còn
huế đã đi

vĩnh viễn đi!

 

mùa

sân trước
sân sau
mùa  xuống ngổn ngang
nắng chao
lao xao lá
rỡ ràng
les fueilles mortes feuilles mortes fueilles mortes
tiếng hát nao nhớ

rồi đã đến lúc
trên cao thì mây
dưới thế thì chật ních
từng đống từng đống chán chê
rưng rức thở

khỏa thân và hốt hoảng
hàng cây níu kéo phận mình
đã rời

thấp thoáng bóng gió lang thang
đuổi theo và trửng giỡn với từng khoảng lặng
les fueilles mortes les fueilles mortes les fueilles mortes les fueilles mortes
le…s
fueill…es fueill…es fueill…es
mort…es
mort…es


tiếng hát loãng
chìm nghỉm
trong cõi người ấy
với những bài mùa thu mất dấu
mất dấu

một ngọn lẻ loi
cựa quậy rất nản chí
trên lối đi
quá đỗi
sạch


mùa qua

rồi mùa đến
lao xao

 

ngắn

đời sống thì dàààààiiiii
thật dài

tôi lại ngắn
mỗi ngày mỗi ngắn
ngắn
ngắn

một hôm
tôi nhớ tôi
tôi đi tìm

tìm hoải
tìm hoài
chẳng thấy
ai

 

lại huế

    (gửi Hoàng Xuân Sơn)
 

bỏ đi
tui nhớ
tui thương
tui quay
tui quắc
tui buồn
tui chán
tui tiếc
tui tức
tui trách
tui thề…

…quay về
tui chạy xuôi
tui chạy nguợc
tui vô trong nội
tui ra ngoài thành
tui thăm lăng
tui viếng phố
tui lên núi
tui xuống làng
tui đi quanh
đi quẩn
đi quật
đi quành

tui gào khản cổ:
huế ơi, rứa chừ mi ở mô?

 

khuya

em
rất nồng

da
thì mọng

tay
rất ngoan

tóc
thì lộng

môi
rất căng

mắt
thì lặng

đêm
rất hăng

anh

thì vụng

 

mừng tuổi 

(gửi một em gái – em nào cũng được)

tôi gửi biếu em thêm một tuổi
một tuổi tươi ngoan một tuổi hồng
một tuổi chao qua, đời nhẹ hẫng
chạm vào. mềm. thơm. giọt tuyết tan

tôi gửi biếu em mỗi tí tôi
đôi chút buồn lạ trứt niềm vui
vài câu hờn xa sang nỗi đợi
như một đầu năm lưa thưa lời

tôi gửi biếu em sợi lẻ loi
mảnh, thon, gầy, nhẹ, ngắn, chơi vơi
em có thể giấu vào lồng ngực
hay một chỗ nào… không có ai.

em nhé, mùa xuân còn trứng nước
chờ. lâu, tôi xé miếng thời gian
đắp lên từng mảng, ngời,  thăm thẳm
chợt thấy mình xanh biếc hoàng hôn.

cái thuở cùng em gầy cuộc nhớ
bên này tôi lừa đảo bên kia
trái cấm, tôi chia từng phiến mỏng
cắn. thôi. lại nếm. rất vụng về

mồng một, tôi ra ngoài quãng trống
vẫy chào từng chuyến hẹn qua nhanh
tiếc nhau, ừ, tiếc nhau, đời mỏi
nhìn lên chấp chới một thinh không.

em hãy hồn nhiên cầm tuổi mới
tôi thì, tôi cứ cũ, vậy thôi
đất trời vây hãm niềm tơ tưởng
rất bực, tôi bèn lặng lẽ tôi.

chưa đề

buổi sáng
như một tách trà
tôi nhắp

buổi chiều
như một bình rượu
tôi tu

nửa khuya trăng soi
tôi tắt

về…

trở về, tôi, chốn cũ
quê hương, ơi, quê hương
trăng bạc lòng không tỏ
tôi bạc lòng, nín thinh

phố phường ngông nghênh mới
chạnh bước lối mòn xưa
cây khế già lẩm cẩm
rụng mấy chiếc vu vơ

nửa đêm choàng thức giấc
đứng ngó ra vườn trăng
ai níu tàu lá chuối
thoáng động bóng ma quen

tới viếng thăm thằng đính
móm mém vết đời đau
tạt ngang nhà nguyệt hạ
nắng úa đẫm hàng cau

bụi tre vườn thằng lợi
mọc một cửa hàng ăn
góc lều xưa, thằng thụ
khẳng khiu lão bạn nằm

dăm đứa ngồi cụng chén
ấm lạnh cuộc hơn thua
mềm môi nhìn ngoái lại
bên song tiếng gió lùa

quê hương là vết cắn
bầm tím lớp da đời
quê hương là dấu hỏi
ném vào mỗi cuộc chơi

quê hương là ẩn ngữ
đánh đố nỗi hoài mong
về! đất trời xao xác
lạ lẫm như chưa từng

chiều lên nghe gió chướng
thổi buốt trái tim câm
nội thành tôi, ai gọi
hơi hụt giữa trời không

trở về, tôi, đứng sững

một vết mòn phân vân…

Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2025

PGS TS Mạc Văn Trang: Thư ngỏ gửi Bộ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo

 Thành phố Hồ Chí Minh, 23/10/2025

THƯ NGỎ GỬI BỘ TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

(Nhờ các bộ phận giúp việc chuyển Thư đến Bộ trưởng)

Thưa ông Bộ trưởng,

Tôi rất lo ngại khi thấy: “Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ đạo đưa AI vào giảng dạy cho học sinh trong các trường phổ thông ngay từ lớp 1”. Nên ngày 18/9/2025 tôi đã có “Thư ngỏ gửi TBT Tô Lâm và Thủ tướng Phạm Minh Chính về vấn đề này.