Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2025

Những lát cắt từ chuỗi xoắn kép

(Đọc Thuyền – tiểu thuyết của Nguyễn Đức Tùng) 


Phạm Xuân Hùng

 

Đời sống là một hành trình vô phương.

Ký ức luôn phát tán trong mỗi sát na của đời sống.

Chuỗi xoắn kép ký ức là sự pha trộn nhiều chiều không - thời gian.

Và, mỗi lát cắt từ chuỗi xoắn kép ký ức là một phiên bản rời rạc, cả đau đớn và hoan hỉ.

Đó là những gì tôi đọc được từ Thuyền, tiểu thuyết của Nguyễn Đức Tùng.

KHU RỪNG LAU của Doãn Quốc Sỹ cuộc hành trình đi tìm tự do

 Liễu Trương

Doãn Quốc Sỹ là một trong những nhà văn hàng đầu của văn học miền Nam. Ông sinh năm 1923, tại tỉnh Hà Đông. Ngay từ thời trẻ ở miền Bắc, ông đã có ý chí tranh đấu cho nền độc lập nước nhà. Và ý chí đó được nuôi dưỡng bằng văn hóa dân tộc, bằng những hoạt động kháng chiến mà tuổi trẻ của ông lúc bấy giờ chưa thấy rõ đâu là con đường của chính nghĩa, nên bị lầm đường, chỉ sau một thời gian mới đổi hướng. Doãn Quốc Sỹ hồi cư năm 1951. Sau này, trong cuộc phỏng vấn của nhà báo Nguyễn Ngu Í ở Sài Gòn, Doãn Quốc Sỹ nói: Từ chỗ kháng chiến ác liệt nhất, Liên khu Việt Bắc, kháng chiến, tôi kháng chiến hết mình. Tôi từng là một “anh hùng lao động” của cơ quan tôi. Nhưng đến khi giã từ “Thiên đường đỏ”, thì cũng giã từ quyết liệt, dứt khoát.[1]

Thơ Thiền Zen Paul Vân Thuyết

 

AZ - Siêu Hình

 

Đêm thu tĩnh lặng. Ngọn đèn mộng du

Ta mở cánh cửa cuộc đời. Biểu tượng sinh tồn

Ta nghe thấy tiếng bước chân thời gian đi dạo

Ta nhìn thấy gió lẳng lơ vuốt ve tâm tình cõi thế gian

Ta đếm những bước chân Ta leo lên đỉnh ngọn núi cao kỳ vĩ

Ta cảm nhận sự hiện hữu của thế giới tâm linh huyền bí

Một tóm tắt về các chế độ hậu Cộng sản (kỳ 3)

 

Tác gi: Magyar Bálint – Madlovics Bálint

Bản tiếng Việt: Nguyễn Quang A

Nhà xuất bản Dân Khí – 2025

28. NHÀ NƯỚC MAFIA LÀ KHÁC VỚI NHÀ NƯỚC HIẾN ĐỊNH của một nền chủ tự do về biên độ của tính tùy ý của hoạt động nhà nước. Một mặt, các kiểu nhà nước này thuộc về các nhóm khác nhau: nhà nước mafia là nhà nước par excellence (thượng hạng) của lợi ích elite, còn nhà nước hiến định là nhà nước par excellence của lợi ích xã hội. Mặt khác, sự khác biệt chính giữa chúng có thể cảm thấy được rõ ràng về mặt chuẩn tắc: liệu hành động nhà nước chủ yếu có tính chuẩn tắc không, và các tác động của nó có phụ thuộc vào các tiêu chuẩn khách quan và chính thức áp dụng cho tất cả mọi người (phi-cá nhân với không tiêu chuẩn kép nào), hay nó chủ yếu có tính tùy ý, và các tác động của nó phụ thuộc vào các tiêu chuẩn chủ quan và phi-chính thức cho phép sự đối xử khác nhau với người dân dựa vào căn cước của họ (có tính cá nhân với tiêu chuẩn kép). Trong nhà nước mafia, thay vì các lợi ích nhà nước chuẩn tắc điển hình của các nền dân chủ tự do, các phần thưởng và trừng phạt được cá nhân hóa trở nên chi phối; và thay vì các quy định chuẩn tắc, việc ra quyết định cá nhân và sự áp dụng luật tùy ý, mang tính công cụ của nhà bảo trợ chóp bu có tính quyết định.

Mặc dù nhà nước mafia duy trì một số thuế và phúc lợi chuẩn tắc, và can thiệp vào hệ thống pháp lý cho sự thưởng hay phạt chỉ khi cần thiết, tính tùy ý nhà nước có dải công cụ rộng hơn nhiều để dùng so với điển hình của một nhà nước hiến định hay nhà nước phúc lợi. Bằng việc chiếm và bảo trợ các định chế quyền lực công về mặt chính trị, các quyết định của người đứng đầu nhà nước mafia có thể di chuyển trên một “biên độ của tính tùy ý” lớn hơn nhiều so với trường hợp của elite chính trị của một nền dân chủ tự do. Nói chung, dải thẩm quyền thể chế nằm dưới sự kiểm soát tùy ý của cùng cá nhân hay mạng lưới càng rộng, thì biên độ liên kết của họ càng rộng (Hình 7). Trong một nhà nước bị bắt giữ, mạng lưới bảo trợ có thể có khả năng sử dụng một định chế địa phương hay nhà nước hoặc cơ quan điều chỉnh nào đó; trong một nhà nước mafia, nhà bảo trợ chóp bu có thể dùng quốc hội, sở thuế, công tố viên trưởng vân vân như những phần của một bộ máy tham nhũng duy nhất, thực hiện các hành động tùy ý một cách nhịp nhàng.

Hình 7: Biên độ của tính tùy ý (tương quan giữa bản chất của tham nhũng và hành động nhà nước).

Chú giải: N: hành động chuẩn mực D1: hành động như sự lệch lạc phi-cấu trúc D2: hành động tùy ý như sự lệch lạc cấu trúc D3: hành động tùy ý như yếu tố cấu thành. (Lưu ý: các đường chấm chấm được thêm vào vì sự rõ ràng.)        

29. Nhà nước mafia là khác với nhà nước kiến tạo phát triển vềmặt làm giàu cá nhân dựa vào tính phi-chính thức và lòng trung thành thay vì sự tích lũy vốn dựa vào tính chính thức và chính sách. Sự tập trung quyền lực và biên độ cực đại của tính tùy ý là một đặc điểm chung của các nhà nước mafia và kiến tạo phát triển (developmental). Vì thế nhiều tác giả nhìn một nhà nước mafia thường lầm nó với một nhà nước kiến tạo phát triển, cho rằng nó “chọn kẻ thắng” của sự cạnh tranh thị trường giống hệt các nhà nước kiến tạo phát triển như Hàn Quốc và Singapore chọn. Tuy vậy, động cơ tích tụ tài sản tư nhân không xuất hiện như mục tiêu trung tâm của các diễn viên chính phủ trong các nhà nước kiến tạo phát triển. Các mối liên hệ kinh tế và gia đình mật thiết giữa các quan chức và các doanh nhân là có thể, nhưng đó không phải là cơ sở của sự ủng hộ của họ: nhà nước có ý định tạo thuận lợi không phải cho sự tích tụ tài sản của những người nào đó bất chấp thành tích kinh tế của họ mà là sự hình thành vốn của các công ty nào đó theo một chính sách kinh tế công khai, đo lường thành tích kinh tế theo các tiêu chuẩn phi-cá nhân như tính cạnh tranh trên các thị trường nước ngoài (được gọi là “công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu (Export-Oriented Industrialization),” hay EOI trong văn liệu). Một nhà nước kiến tạo phát triển cũng dựa vào một bộ máy quan liêu chính thức và không phải logic di (gia) sản của các chế độ bảo trợ phi-chính thức, nơi cá tính hay sức thu hút của lãnh tụ không đóng một vai trò lớn trong hệ thống.

Trong khi sự can thiệp nhà nước tùy ý một cách tự nhiên có tạo ra các rent (tô) (Mệnh đề 81), sự phân bổ của chúng trong một nhà nước kiến tạo phát triển phụ thuộc vào sức mạnh chính trị tương đối và các quan hệ của các nhóm doanh nghiệp. Nói cách khác, các nhà nước này đề cao sự trục lợi (rent-seeking) từ dưới lên, và không phải sự phân bổ từ trên-xuống của các rent dựa vào lòng trung thành với nhà bảo trợ chóp bu. Đồng thời, các mục tiêu chính sách công nghiệp (công) không bao giờ bị bỏ qua hoàn toàn khi đối mặt với việc làm giàu cho các thành viên—có lẽ hoàn toàn không cạnh tranh—của gia tộc chính trị nhận con nuôi. Điều này trái ngược hoàn toàn với thực hành của các chế độ chuyên quyền bảo trợ. Tại Hungary, Mészáros Lőrinc, bạn thời thơ ấu của Viktor Orbán và cựu trưởng thôn của làng quê của ông, được biến từ một thợ lắp ống gas (khí đốt) mà trong hai mươi năm đã cóp nhặt được tài sản khiêm tốn khoảng 30 triệu forint (khoảng 93 ngàn €) thành người giàu nhất Hungary với khoảng 479 tỷ forint (khoảng 1,5 tỷ €, trong năm 2021) qua các cuộc thầu mua sắm công trong nước, trong khi hầu như chẳng tạo ra gì cho xuất khẩu hay trên thị trường mở. Chủ sở hữu de jure của một danh mục đầu tư rộng của các tài sản chính trị và kinh tế, Mészáros là kẻ bù nhìn kinh tế của Orbán (Mệnh đề 16), mà là một hiện tượng khác nữa phân biệt các chế độ bảo trợ và các chế độ kiến tạo phát triển. Vì người đứng đầu hành pháp trong một nhà nước kiến tạo phát triển thường không có những kẻ bù nhìn kinh tế tích tụ tài sản cá nhân từ sự ủng hộ nhà nước tùy ý.

30. Nhà nước mafia là khác với nhà nước thất bại của sự vô chính phủ tài phiệt như đã xuất hiện ở Nga và Ukraina trong các năm 1990. Sự ổn định của nhà nước sau khi thay đổi chế độ được giữ gìn mà không có bất kể sự đứt gãy nào trong vùng Tây phương Kitô giáo lịch sử, vì sự chuyển đổi được một bộ máy quan liêu chuyên nghiệp hơn tiến hành, và trong các nước vùng Islamic nơi mà bản thân các cơ cấu cộng sản cũ—đặc biệt các mức cao nhất của nomenklatura đảng và mật vụ—đã chuyển trực tiếp thành các trung tâm quyền lực quốc gia “được cải cách.” Tuy vậy, trong vùng Chính thống giáo Đông phương lịch sử, đã không có sự chuyển hoàn toàn quyền lực trước kia, cũng chẳng có các nền tảng quan liêu-quốc gia. Trong vùng này, nó đã phụ thuộc vào động học của các mạng lưới nhà bảo trợ-người được bảo trợ liệu quyền lực nhà nước có thể được củng cố hay không, và thường cần hàng năm trước khi một nhà nước thích hợp nổi lên như tổ chức độc quyền dùng hợp pháp bạo lực địa phương tại nước đó.

Vadim Volkov giải thích trong cuốn sách Các nhà kinh doanh bạo lực (Violent Entrepreneurs) (2002) của ông rằng, khi nhà nước Nga mới không có khả năng bảo vệ các quyền tài sản và thi hành các hợp đồng, một số lớn người dân và công ty quay sang cái gọi là các nhà kinh doanh bạo lực, chuyển từ thế giới tội phạm có tổ chức sang thị trường đột nhiên được giải phóng cho sự bảo vệ và tấn công. Sự yếu kém của sự kiểm soát trung ương đã làm cho không thể cho một nhà nước mafia để nổi lên và sắp xếp lại các quyền sở hữu theo cách từ trên xuống, nhưng nó cũng mở cửa cho các tội phạm và các thành viên cá nhân của bộ máy quan liêu nhà nước (Mệnh đề 82) đột kích (raid-cướp) các công ty một cách bất hợp pháp và thường hung dữ (được gọi trong tiếng Nga là reiderstvo-рейдерство).

Trong một nhà nước thất bại, săn mồi là một kết quả của các diễn viên chính phủ không có khả năng kiểm soát bộ máy nhà nước; các thành viên sau dùng thẩm quyền của họ như “những con cá piranha (tấn công và ăn động vật sống),” như chuyên gia khu vực Stanislav Markus diễn đạt. Trong một nhà nước mafia, thẩm quyền công mức đỉnh, nhà bảo trợ chóp bu có quyền để hành động cả như bản thân kẻ săn mồi và như một nhà điều phối các diễn viên săn mồi; những con cá piranha trong một môi trường như vậy hoặc là những kẻ phục vụ kẻ săn mồi trung tâm hay sa đọa thành con cá quét dọn, ăn thức ăn thừa từ miệng của cá mập, con chịu đựng “sự ăn cắp” này nếu lượng chiến lợi phẩm bị mất cho cá quét dọn là rất nhỏ.

Hình 8: Các diễn viên hung dữ có sức mạnh khác nhau theo các phép phân đôi công/tư và bất hợp pháp/hợp pháp.

Khảo sát thể liên tục giữa hai sự đối lập, chúng ta có thể phân biệt những kiểu diễn viên hung dữ khác nhau dọc các trục hợp pháp-bất hợp pháp và công-tư (Hình 8). Các diễn viên trong các phần tư khác nhau có thể cùng tồn tại trong một chế độ, và chúng không hoạt động trong sự cô lập: chúng ta có thể thuê lẫn nhau, như khi một nhà nước hợp pháp thuê một công ty an ninh hợp pháp, hay một nhà nước tội phạm quay sang các tội phạm tư nhân hay các nhóm tội phạm cho những nhiệm vụ nếu các lợi ích của nó đòi hỏi thế.

 

Một Hiện tượng Sui Generis: Gia tộc chính trị nhận con nuôi

31. KỂ TỪ THỜI ĐẾ QUỐC, NGA ĐÃ ĐƯỢC LÃNH ĐẠO bởi các loại elite cai trị khác nhau: từ elite phong kiến qua nomenklatura đến gia tộc chính trị nhận con nuôi. Để minh họa các sự khác biệt giữa các elite cai trị suốt lịch sử, hãy xét một trong những đại diện quan trọng và mẫu mực nhất của các nước hậu-cộng sản: nước Nga. Suốt lịch sử của nó, chúng ta có thể dễ dàng theo sự biến đổi của các mạng lưới bảo trợ (Bảng 9). Trước Cách mạng tháng Hai 1917, sa hoàng nắm hầu hết quyền lực, và elite của mạng lưới bảo trợ của ông đã hình thành từ gới quý tộc hầu hạ và các đẳng cấp phong kiến. Các cuộc cách mạng 1917 cuối cùng đã đưa vào một dạng mới của mạng lưới bảo trợ do tổng bí thư đảng dẫn đầu và gồm phần lớn nomenklatura. Trong hệ thống tổng thống tiếp sau sự sụp đổ của hệ thống cộng sản và được ổn định hóa vào cuối các năm 1990, elite của mạng lưới bảo trợ lấy hình thức của gia tộc chính trị nhận con nuôi.

Thuật ngữ “elite cai trị” là một từ ngữ trung tính, mà bản thân nó không nhắc đến thành phần, cấu trúc tổ chức hay các quan hệ nội bộ bên trong elite, hay thậm chí đến tính chính danh của nó. Tuy vậy, khi chúng ta nói về elite cai trị của một mạng lưới bảo trợ, điều này ngầm bao gồm bản chất hệ thứ bậc trực tiếp của nó. Tại Nga thời sa hoàng, các thành viên của elite cai trị một phần là elite dựa vào dòng dõi, nhờ đức hạnh địa vị của họ như các quý tộc. Các đặc quyền của các elite thuộc về cá nhân elite. Đã là có thể để nâng ai đó vào giới này, để chấp nhận những người vào giới đó, nhưng không ai có thể bị tước mất địa vị của họ vì lòng bất trung. Đối với người bất trung, sự trừng phạt có thể có nghĩa là sự mất mạng, mất tự do hay tài sản, nhưng không mất địa vị. Trong trường hợp nomenklatura cộng sản, mối quan hệ đã đảo ngược: elite gồm cái có thể gọi là một bảng kê vô-danh của các vị trí quyền lực. Ở đây chính vị trí (chức vụ), và không phải địa vị của cá nhân, là cái được cố định; người trong vị trí có thể bị thay đổi theo tính bốc đồng của tổng bí thư đảng.

Tuy nhiên, elite cai trị cả các mạng lưới bảo trợ sa hoàng và cộng sản —dù nhờ địa vị cá nhân hay bảng kê vô-danh của các vị trí—đã có một bộ quy tắc được hình thức hóa cho sự kết nạp và sự trục xuất. Không phải thế trong trường hợp của mạng lưới bảo trợ phi-chính thức hậu-cộng sản, mà Vladimir Putin đã phát triển thành mạng lưới bảo trợ có chỉ một-kim tự tháp ở Nga vào 2003 và trong đó các vai trò và các vị trí chính thức và phi-chính thức bị khuấy tung lên trong một sự kết khối mờ đục, không rõ tung tích. Trong các điểm tiếp sau, chúng tôi sẽ giải thích về các sự khác biệt giữa các kiểu lịch sử của các elite, cũng như khái niệm lịch sử và lý thuyết về “giai cấp thống trị.”

Bảng 9: Vị trí chính thức của nhà bảo trợ chóp bu, “cơ quan” ra quyết định và kiểu của các mạng lưới bảo trợ ở Nga.

32. GIA TỘC CHÍNH TRỊ NHẬN CON NUÔI KHÔNG PHẢI LÀ một elite phong kiến. Một tương tự lịch sử, các elite và các đẳng cấp phong kiến đôi khi được dùng để mô tả elite cai trị trong một chế độ chuyên quyền bảo trợ. Sự tương tự chính là chủ nghĩa bảo trợ: tính chư hầu vĩnh viễn với một chúa tể duy nhất, các quan hệ “chủ-tớ” giữa nhà vua (lãnh chúa vân vân) và các thần dân của ông, cũng như sự phổ biến của chủ nghĩa gia đình trị, tầm quan trọng của triều đình, và tính trung tâm của quyền lực cá nhân trong hệ thứ bậc cai trị. Tuy vậy, các quyền và các nghĩa vụ trong thứ tự cấp bậc phong kiến là hợp pháp, được chính thức hóa trong luật.

Phép ẩn dụ phong kiến là thích hợp để làm nổi bật tập quán quyền lực, song trong trường hợp của các tiền bối phong kiến, bản chất thực của quyền lực và địa vị pháp lý của nó gối lên nhau trong một loại hài hòa tự nhiên, đòi hỏi không cơ chế bất hợp pháp nào cho sự liên kết như nó cần trong các chế độ hậu-cộng sản. Một vị vua cũng đã là một vua de jure, không phải một tổng thống hay thủ tướng bị hiến pháp giới hạn; họ đã không nói họ không liên quan gì đến sự giàu có của gia đình hay các nam tước của họ; họ cũng chẳng giữ cơ nghiệp của họ dưới tên của cậu giữ ngựa, vì họ đã không cần đến những kẻ bù nhìn kinh tế.

Trong gia tộc chính trị nhận con nuôi, không có tổ chức kiểu-đoàn thể nào, không có các vị trí tách biệt kiểu-cấp bậc nào trong quan hệ với nhà bảo trợ chóp bu, và không ý thức đoàn thể nào. Ngoài ra, các đẳng cấp phong kiến có mối quan hệ khế ước hợp pháp với ông chủ của họ (quốc vương), với các quyền và các nghĩa vụ giới hạn cả giới quý tộc và bản thân quốc vương. Các đẳng cấp dưới vua khăng khăng, và sẵn sàng để bảo vệ, các quyền được trao hợp pháp của họ. Ngược lại, gia tộc chính trị nhận con nuôi không chỉ thiếu một tổ chức chính thức và bộ quy tắc ràng buộc, nhưng nhà bảo trợ chóp bu, do là người đứng đầu gia trưởng của gia tộc, có thẩm quyền cuối cùng đối với địa vị cả bên trong mạng lưới chỉ một-kim tự tháp nữa.

Điều này liên quan đến một nhân tố then chốt: vì quyền lực được sử dụng theo cách bất hợp pháp, khả năng bị tiếng xấu có tính hệ thống đặt thêm một lớp vâng lời nữa lên các thành viên của mạng lưới đối với nhà bảo trợ chóp bu. Trong khi những người dùng sự tương tự phong kiến tin nó đưa tiêu điểm đến yếu tố trung tâm của chế độ (tức là, mối quan hệ patron-client), việc bỏ qua tính phi-chính thức có nghĩa là quên mất sự thực rằng nhà bảo trợ chóp bu có thể tống tiền những người được bảo trợ của ông, đe dọa trừng phạt các tội họ phạm phải. Vì hoạt động của mạng lưới phi-chính thức không trùng với các luật chính thức, nó nhất thiết dẫn đến sự vi phạm luật liên miên, và nhà bảo trợ chóp bu có cơ hội để kích hoạt sự thực thi luật (chọn lọc về mặt chính trị) trong những trường hợp bất trung (Mệnh đề 59-60). Điều này dẫn chúng ta đến điểm cuối cùng, mà chúng tôi đã nhắc đến rồi: “sự thực thi pháp luật” trong trường hợp của một thành viên không trung thành của elite phong kiến có thể có nghĩa là sự mất mạng, mất tự do hay tài sản, nhưng không mất địa vị như một quý tộc. Trong một chế độ chuyên quyền bảo trợ, các thành viên bị tước quyền thừa kế của gia tộc chính trị nhận con nuôi mất địa vị của họ, đầu tiên trong lĩnh vực phi-chính thức và thứ hai, như một hệ quả, trong lĩnh vực chính thức.

33. GIA TỘC CHÍNH TRỊ NHẬN CON NUÔI KHÔNG PHẢI LÀ một giai cấp.

Ở phương Tây, sự sụp đổ của chủ nghĩa phong kiến và sự nổi lên của trật tự xã hội tư sản đã có nghĩa là sự hình thành của một xã hội có giai cấp: một sự phân tầng xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra nơi cả cộng đồng của các lợi ích bên trong các nhóm và sự khác biệt lợi ích giữa các nhóm được phân công lao động và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa truyền động lực cho.

Giai cấp về cơ bản là một hiện tượng kinh tế, nhưng nó thường được dùng trong trường hợp của các elite cai trị hậu-cộng sản, nhấn mạnh sự giàu có đặc biệt của họ và sự thực rằng các diễn viên kinh tế then chốt (“các nhà tư bản”) là giữa những người hưởng lợi hàng đầu của chế độ.

Nhưng gia tộc chính trị nhận con nuôi không nổi lên bên trong một xã hội tư bản chủ nghĩa của sự bình đẳng pháp lý, và không đạt vị trí đặc biệt của nó như kết quả của các lực lượng phi-cá của cạnh tranh thị trường. Gia tộc chính trị nhận con nuôi về cơ bản không phải là một hiện tượng kinh tế: nó là một hiện tượng của sự câu kết thông đồng của các lĩnh vực hoạt động xã hội, và sự giàu có của các thành viên của nó bắt nguồn từ một hệ thống pháp lý bị công cụ hóa, mà dưới đó địa vị chuẩn mực của sự bình đẳng pháp lý bị làm xói mòn bởi sự can thiệp nhà nước tùy ý và các luật được may đo một cách tùy tiện cho các cá nhân và doanh nghiệp (Mệnh đề 57).

Các gia tộc chính trị nhận con nuôi vượt qua các ranh giới giai cấp. Cơ sở tổ chức của nó không phải là vị trí chung của các thành viên trong hệ thứ bậc sản xuất mà tạo ra một cộng đồng lợi ích giữa họ trên cơ sở phi-cá nhân của địa vị. Các thành viên của gia tộc chính trị nhận con nuôi không có ý thức hay bản sắc giai cấp nào; quả thực, họ có thể khá hỗn tạp về mặt văn hóa và phong cách sống. Lực cố kết của gia tộc chính trị nhận con nuôi là lòng trung thành cá nhân. Nó không là một liên minh ngang của các chủ tư bản mà là một mạng lưới bảo trợ, được đặc trưng bởi các mối liên hệ dọc, có thứ bậc giữa các thành viên của nó. Những người không biểu hiện lòng trung thành cá nhân thường xuyên bị nhà bảo trợ chóp bu tấn công, cho dù bản thân họ là các nhà tư bản giàu có.

Nói cách khác, địa vị giai cấp giống nhau về mặt tài sản sinh lời không nhất thiết có nghĩa là tư cách thành viên trong elite bảo trợ cai trị. Các sự chia tách liên quan là chính trị và cá nhân, không phải kinh tế: các mục tiêu (tấn công) của gia tộc chính trị nhận con nuôi gồm những người với không lòng trung thành bảo trợ, mà là người bên ngoài giới hay không trung thành. Đồng thời, các nhà tài phiệt và những kẻ bù nhìn của gia tộc nhận con nuôi không phải là “các nhà tư bản” theo nghĩa Tây phương vì họ không thể dùng vốn của họ mà không có sự cho phép của nhà bảo trợ chóp bu (Mệnh đề 16).

  1. GIA TỘC CHÍNH TRỊ NHẬN CON NUÔI KHÔNG PHẢI LÀ một nomenklatura.

Elite cai trị của các chế độ cộng sản ăn khớp vào hệ thứ bậc chính thức của các đảng cộng sản, trong khi các vị trí trong quyền lực

nhà nước hay công được lấp đầy theo một thứ tự nghiêm ngặt do nomenklatura áp đặt. Nhưng các cá nhân, hơn là các gia đình thuộc về nomenklatura—trên cơ sở ý thức hệ. Trong trường hợp của họ các đặc điểm triều đại xuất hiện một cách hiếm hoi và chỉ cá biệt, thực ra lòng trung thành phải được chứng minh bằng việc trở thành phản bội các mối quan hệ gia đình (trong các hình thức Stalinist cổ điển). Với một gia tộc chính trị nhận con nuôi, các gia đình (của các thành viên huyết thống hay được nhận nuôi) được nhận, thông qua việc hình thành một mối quan hệ họ hàng hay tựa-họ hàng với một trong các thành viên của nó, được niêm phong bởi các doanh nghiệp chung.

Nomenklatura cộng sản về mặt tổ chức đã không theo logic của gia tộc chính trị nhận con nuôi theo cách nó tự tổ chức trong nhà nước mafia; nó đã không được xây dựng theo các hình mẫu gia trưởng của các chuỗi chỉ huy phi-chính thức, và vì thế đã không mở rộng mạng lưới chính trị và chính quyền quan liêu vượt quá các định chế chính thức của nó. Các đặc quyền cá nhân của các thành viên nomenklatura cũng tự thể hiện trong những lợi thế tiêu dùng hạn chế và điều đó chỉ có ý nghĩa trong một nền kinh tế thiếu hụt. Vì quyền sở hữu tư nhân chỉ được chịu đựng giỏi nhất một cách vừa phải trong các hệ thống cộng sản, các thành viên của nomenklatura đã có thể hưởng thụ chỉ thu nhập cao hơn hay sự tiêu dùng thêm, như sử dụng các phương tiện của nhà nước (xe hơi, bất động sản, khu nghỉ dưỡng vân vân). Đã không có sự tích tụ tài sản đáng kể, ngược hoàn toàn với các thành viên của gia tộc chính trị nhận con nuôi.

Cuối cùng, vì quyền lực của các thành viên của nomenklatura đã thuần túy là một nguồn và bản chất chính trị—và không phải pha trộn, chính trị và kinh tế—cho nên các đặc quyền kinh tế cũng như quyền lực chính trị bị hạn chế cho thời kỳ giữ chức vụ. Điều này là hệ quả của việc, trong nomenklatura, cấu trúc quan liêu là chủ yếu: phạm vi của các đặc quyền gắn nghiêm ngặt với các vị trí, và không phải với các cá nhân (Mệnh đề 17). Ngược lại, các thành viên của gia tộc chính trị nhận con nuôi có cơ hội để giữ tài sản của họ sau khi rời chức vụ chính thức, và chỉ một sự cắt đứt vị trí phi-chính thức của họ mới dẫn đến việc thu hồi địa vị đặc quyền của họ. Cuối cùng, gia tộc chính trị nhận con nuôi không bảo đảm sự kiểm soát xã hội qua một cấu trúc kép kết nối ngang trong các mức khác nhau của các ủy ban đảng (như đã thế trong một chế độ độc tài cộng sản), mà qua sự bảo trợ hóa xã hội và thay đổi các hình mẫu của tính dễ bị tổn thương sống còn (Mệnh đề 94-95).

35. GIA TỘC CHÍNH TRỊ NHẬN CON NUÔI LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG SUI GENERIS của các chế độ hậu-cộng sản. Chúng ta dùng “sui generis (độc nhất vô nhị)” theo nghĩa rằng gia tộc chính trị nhận con nuôi là một hiện tượng độc nhất, mới trong khu vực, mà khác nhiều với các kiểu (lịch sử) được mô tả ở trên của elite cai trị hơn là giống chúng.

Để tóm tắt, mạng lưới bảo trợ phi-chính thức trong các hệ thống hậu-cộng sản có thể được đặc trưng như một gia tộc chính trị nhận con nuôi, bởi vì: các mạng lưới quen biết cá nhân mở rộng khác nhau được tổ chức thành một gia tộc chính trị nhận con nuôi duy nhất; không phải chỉ các cá nhân, mà các gia đình được kết nạp vào; nó là phi-chính thức, mà không có tư cách thành viên chính thức; nó mở rộng ra quá các định chế chính thức; nó dựa vào sự bảo trợ, và không phải vào lòng trung thành tổ chức (không có sự gia nhập tự do vào nó hay sự rời khỏi tự do khỏi nó); vị trí bên trong gia tộc chính trị nhận con nuôi không nhất thiết hội tụ với các vị trí hành chính chính thức; quyền lực của nó dựa vào sự hợp nhất của “các nguồn lực” chính trị và kinh tế; nó theo các hình mẫu văn hóa của sự cai trị của gia tộc gia trưởng (sự thống trị gia trưởng). Gia tộc chính trị nhận con nuôi cũng là một mạng lưới tội phạm, các tiêu chuẩn của nó không được chính thức hóa và vì thế được thực thi chống lại cấu trúc của các định chế chính thức. Vì thế gia tộc chính trị nhận con nuôi cần vô hiệu hóa các cơ chế kiểm soát như viện công tố viên trưởng (Mệnh đề 60).

Thuật ngữ “gia tộc chính trị nhận con nuôi” là một tóm tắt của ba đặc điểm then chốt của nó, để được hiểu như sau: “nhận con nuôi (adopted)” nhắc đến cấu trúc của mạng lưới nói chung và đến các loại liên kết họ hàng và tựa-họ hàng nó dùng nói riêng; “chính trị” nhắc đến chức năng của elite bên trong chính thể, cụ thể là nó phấn đấu vì các vị trí chính trị và quyền lực (nhà nước) cưỡng bức đối với mọi lĩnh vực hoạt động xã hội; “gia tộc” nhắc đến hình mẫu văn hóa của các gia đình gia trưởng, đặc biệt sự thống trị gia trưởng của nhà bảo trợ chóp bu. Gia tộc chính trị nhận con nuôi gồm các loại các diễn viên được mô tả ở trên và liên kết với các chế độ bảo trợ, từ các nhà tài phiệt đến các nhà chính phiệt, từ những kẻ bù nhìn đến các đảng chư hầu. Mạng lưới bảo trợ phi-chính thức của các diễn viên này là cái chúng tôi gọi là gia tộc chính trị nhận con nuôi, mà thể hiện một sự câu kết của các lĩnh vực chính trị, kinh tế, và cộng đồng.

36. CÁC GIA TỘC CHÍNH TRỊ NHẬN CON NUÔI TRONG KHU VỰC HẬU-CỘNG SẢN khác nhau về nguồn gốc của chúng: tức là, loại nhóm xã hội tạo thành lõi của mạng lưới. Nếu người ta nói về các elite cai trị hậu-cộng sản, và muốn nhắc đến riêng khía cạnh liên kết nhân học, thì họ có thể dùng từ “clan (thị tộc, bè đảng)” thay cho “gia tộc chính trị nhận con nuôi” nhiều mặt (hệt như người ta có thể nói, liên quan đến một chế độ chuyên quyền bảo trợ, “nhà nước thị tộc, nhà nước bè đảng” thay cho “nhà nước mafia” nếu tiêu điểm chủ yếu là bản chất của elite cai trị; Mệnh đề 26-27).

Các thị tộc của xã hội trước-hiện đại được tổ chức, hệt như các dòng họ triều đại trong thời phong kiến, trên cơ sở dòng dõi huyết thống, nhưng chúng cũng lấy những người ngoài vào khi chúng mở rộng trên cơ sở cá nhân, gia đình. Trong các thị tộc hậu-cộng sản, các quan hệ họ hàng được bổ sung bằng các quan hệ tựa-họ hàng như bản thân mạng lưới (hay các nhà sáng lập cốt lõi của nó) liên tục được bổ sung bởi các gia đình không kết nối với các thành viên khác trên cơ sở dòng dõi huyết thống.

Nền tảng mà trên đó các thị tộc hậu-cộng sản được xây dựng có thể khác nhau: bên cạnh tính sắc tộc, chúng ta cũng có thể quan sát thấy các thị tộc có cơ sở nomenklatura, đảng, tình bằng hữu, và tội phạm (Bảng 10). Ví dụ, trong các chế độ hậu-cộng sản Trung Á, trong khi chính các vị trí chóp bu của đảng cộng sản và mật vụ đã chuyển thành các mạng lưới bảo trợ phi-chính thức, các nước cộng hòa hậu-Soviet này mang các dấu hiệu của sự chia rẽ sắc tộc mạnh mẽ (Mệnh đề 106). Ở Ukraina, các bè đảng cho thấy một đặc điểm khu vực đặc biệt, trong khi chúng cũng kết nối trong nguồn gốc của chúng với tội phạm có tổ chức.

Ở đâu đó giữa các bè đảng lý tưởng điển hình dựa vào nomenklatura và tình bạn bè là gia tộc chính trị nhận con nuôi của Vladimir Putin ở Nga. Tại đó, gốc rễ của triều đình của nhà bảo trợ có thể thấy trong các mối quan hệ mà đã phát triển (1) ở các mức thấp hơn của nomenklatura đảng và mật vụ trước kia và (2) giữa những người sinh ra ở Leningrad và đã tốt nghiệp từ đại học của nó (như bản thân Putin). Cuối cùng, ở Hungary chúng ta có thể thấy sự nổi lên của một bè đảng dựa vào tình bạn. Fidesz đã là một đảng tự do thay thế trước đây, được thành lập ban đầu như một tổ chức thanh niên trong cuối các năm 1980, đã thay đổi trực tiếp thành một mạng lưới bảo trợ, có cơ sở trong tình bạn sớm từ tình bằng hữu sinh viên ở đại học.

Bảng 10: Một loại hình học của các bè đảng hậu-cộng sản.

37. VỀ MẶT VĂN HÓA, NGƯỜI ĐỨNG ĐẦU GIA TỘC CHÍNH TRỊ NHẬN CON NUÔI thực hiện vai trò pater familias (gia trưởng). Các mô hình văn hóa của nhà bảo trợ chóp bu và các đặc điểm của sự cai trị của ông khác rất nhiều với mô hình của các nhà độc tài cộng sản. Ông hiếm khi cho thấy quyền lực của ông trong các cuộc duyệt binh hay các đại hội đảng, và các biểu hiện của sự cai trị của ông mang các đặc tính của các mối quan hệ bên trong gia tộc gia trưởng. Nếu chúng ta muốn đặt nó theo trật tự logic-lịch sử, chúng ta sẽ thấy rằng vai trò của người đứng đầu gia tộc chính trị nhận con nuôi bắt đầu với người đứng đầu gia trưởng cổ xưa, pater familias La mã (Roman), rồi qua bố già mafia, và đến nhà bảo trợ chóp bu của các chế độ chuyên quyền bảo trợ. Cái là chung trong khái niệm về các vai trò tốt nhất được mô tả qua vai trò của pater familias.

Đơn vị gia đình Roman, như một cộng đồng hộ gia đình chịu quyền lực ban đầu không bị kiềm chế của pater familias, đã có một sự tự chủ khá cao khỏi nhà nước. Như sử gia pháp lý Földi András giải thích, “phạm vi của luật công, ius publicum, tức là, quyền lực của các pháp quan theo một nghĩa dừng lại (về nguyên tắc và nói chung) tại ranh giới của các khu đất tư, trên bậc cửa của các nhà tư nhân, từ đó các quy tắc của luật tư, ius privatum được thiết lập, bảo đảm quyền lực tuyệt đối của người đứng đầu gia đình.”

(“Trật tự pháp lý gia đình La mã” [Legal Order of the Roman Family], 1997). Quyền lực này mở rộng ra tất cả các vấn đề của đời sống, các cá nhân, tài sản và hoạt động. “Sự tồn tại của gia đình là tổng của những người nằm dưới quyền lực của người đứng đầu gia đình,” từ người đứng đầu gia đình xuống, qua người vợ, cũng như các con theo huyết thống và các con nuôi, và những người họ hàng sống trong hộ gia đình, xuống đến những người hầu và đầy tớ thuộc các địa vị khác nhau. Từ latin familia, mà từ đó có từ “family (gia đình)” tiếng Anh, cũng đến từ famulus, có nghĩa là “người hầu, nô lệ.”

Trong các chế độ chuyên quyền bảo trợ, người đứng đầu gia trưởng của gia tộc chính trị nhận con nuôi mở rộng các quyền của ông đối với các cá nhân, tài sản và hành động bằng các phương tiện không chính danh và bất hợp pháp ra mức quốc gia, bằng phương tiện của một sự độc quyền về thực thi quyền lực nhà nước. Gia tộc, hộ gia đình, tài sản và đất nước thuộc về cùng hình mẫu văn hóa cho người đứng đầu gia tộc chính trị. Các hoạt động của ông, mặc dù ông “govern (cai quản)” đất nước một cách chính thức, không thể được bày tỏ một cách thích hợp bằng động từ này, hệt như pater familias đã không “govern” gia đình ông. Quả thực, ông đã sắp đặt họ, tài sản và địa vị của họ. Vì vậy, động từ thích hợp cho việc mô tả hành động cai trị của nhà bảo trợ chóp bu là “sắp đặt, ra lệnh, sai khiến” (“to dispose over” trong tiếng Anh hay “rendelkezik” trong tiếng Hungari) tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội.

38. CÁC THÀNH VIÊN CỦA GIA TỘC CHÍNH TRỊ NHẬN CON NUÔI được hưởng sự cung cấp nơi trú ẩn; các thành viên không trung thành hay những người ngoài có thể bị vi phạm tính liêm chính. Hình thức chính của sự cung cấp nơi trú ẩn là cái những người Nga gọi là “krysha-крыша” (mái nhà, ô dù): sự bảo vệ phi-chính thức, tùy ý đối với quyền tự do và tài sản của các thành viên khỏi các mối đe dọa hợp pháp và bất hợp pháp. Diễn đạt đơn giản, các thành viên của của thế giới thượng lưu có tổ chức được hưởng sự miễn trừng phạt: sự bảo vệ khỏi sự thực thi pháp luật và những sự trừng phạt khác nhau do các cơ chế kiểm soát chính thức áp đặt.

Chừng nào ô dù (krysha) của họ còn nguyên vẹn, một người được bảo trợ không cần có sự ngại ngùng nào để vi phạm các luật chính thức hay phạm các tội rành rành. Cố nhiên, họ không thể làm bấy cứ thứ gì họ muốn; nhà bảo trợ chóp bu đưa ra sự sự cho phép chính xác, xác định mức độ và phạm vi được phép của tham nhũng và lãnh thổ (một vùng, một thành phố, một bộ vân vân) mà các hành động tham nhũng của người ta bị hạn chế. Các giới

hạn này cũng bị giám sát một cách nhiệt tình. Nhưng chừng nào họ chơi theo các quy tắc, người được bảo trợ có thể chắc chắn rằng các định chế mà có bổn phận de jure để chống lại họ, như cảnh sát hay sự khởi tố, sẽ bị vô hiệu hóa de facto, bị vô hiệu hóa hay thiên vị có lợi cho các lệnh (phi-chính thức) từ trên xuống của nhà bảo trợ chóp bu.

 Krysha là một yếu tố then chốt của các chế độ chuyên quyền bảo trợ từ hai khía cạnh: (1) nó có nghĩa là vô hiệu hóa các cơ chế kiểm soát có lợi cho các tiêu chuẩn phi-chính thức, và như thế nó tương đương với tính thượng đẳng của các quy tắc phi-chính thức đối với các quy tắc chính thức; (2) triển vọng vứt bỏ krysha khỏi trên đầu của người ta trao khả năng trừng phạt tùy ý và, vì thế khả năng tống tiền cho nhà bảo trợ chóp bu.

Mặt khác, những người không trung thành, gây ra một rủi ro, hay có vẻ như đang hấp dẫn con mồi trong lĩnh vực kinh tế, phải đối mặt với các hình thức khác của sự phá vỡ tính liêm chính. Nó có thể mang tính đạo đức (hạ uy tín, danh tiếng [character killing] qua các cuộc vận động tiêu cực, dùng cả viện công tố trong đội ngũ nhân viên vận động), sống còn (ám chỉ đến tài sản hay điều kiện sống nói chung của một cá nhân), hay thân thể (sự lạm dụng đối tượng mục tiêu bởi cảnh sát hay các diễn viên hung bạo khác như các nhóm tội phạm). Mỗi trong các loại phá vỡ tính liêm chính này có các mức khác nhau: đe dọa, mà ám chỉ đến các thông điệp (lời nói) về cuộc tấn công tiềm năng nếu mục tiêu không tuân theo gia tộc chính trị nhận con nuôi (“một lời mời chào bạn không thể từ chối”); quấy rối, mà ám chỉ đến “phát súng cảnh cáo” mà không gây thiệt hại vĩnh viễn cho mục tiêu nhưng báo hiệu rõ ràng sự thù địch của nhà bảo trợ chóp bu; và tấn công, mà ám chỉ đến sự dùng toàn diện các phương tiện hợp pháp cũng như bất hợp pháp, có tiềm năng dẫn đến sự mất tài sản, tự do, hay tính mạng.

39. CHỦ NGHĨA GIA ĐÌNH VÔ ĐẠO ĐỨC GẮN VỚI KỶ LUẬT TRUNG THÀNH ĐƯỢC THỰC THI là đặc trưng văn hóa nội bộ của gia tộc chính trị nhận con nuôi. Tội lỗi duy nhất trong gia tộc chính trị nhận con nuôi, mà luôn luôn bị trả thù, là sự bất trung. Lòng trung thành là điều kiện của cả sự nhận vào và sự được chia phần.

Những người muốn rời hệ thống, hay quay sang chống lại nó, có thể bị phạt vì các thứ họ có thể chẳng bao giờ bị phạt trong một nền dân chủ tự do, và cách họ bị phạt có thể chẳng bao giờ bị trong một môi trường dân chủ. Như một kết quả của sự thiết lập hệ thống nhà bảo trợ-người được bảo trợ, các công cụ

tùy ý—mà chẳng bao giờ có thể tiếp cận được với hoạt động kiểm soát và đối trọng và tam quyền phân lập—trở nên sẵn có cho việc thực thi sự im lặng và sự vâng lời. Các nạn nhân bị ép buộc dưới sự đe dọa sống còn của họ sẽ im lặng—như quen thuộc từ tội phạm học—vì nếu họ lên tiếng, thì sẽ chỉ mang lại cho họ nhiều rắc rối hơn. Không có phương tiện hòa bình nào—theo ý định cá nhân—để ra khỏi hệ thống: một khi được nhận vào, thành viên hoặc được người đứng đầu gia tộc chính trị thả ra, hay nếu đào ngũ, họ sẽ bị săn đuổi. Bất luận vị trí chính thức nào họ được nhà bảo trợ chóp bu chỉ định, dù là tổng thống của nước cộng hòa, bộ trưởng hay đại biểu quốc hội, họ biết các hậu quả của sự chống đối và sự rời đi.

Mặt khác, trong khi sự bất trung được tính như một tội, các thành viên của gia tộc chính trị phạm tội khác nào đó, dù chống lại luật hay lễ nghi phép tắc, có thể tránh sự trừng phạt chừng nào krysha của họ còn nguyên vẹn. Nếu công luận theo đuổi kẻ phạm tội ồn ào hơn, hay vụ việc vấp phải sự phản ứng quốc tế cực kỳ nghiêm trọng, nó có thể đến việc hy sinh người chịu trách nhiệm. Thế nhưng các cá nhân này có thể vẫn có thể yên tâm về một điều: nhà bảo trợ chóp bu sẽ luôn ở đó vì họ. Nhiều nhất, gia tộc sẽ tạo ra một sự tồn tại mới cho họ—đúng như trong các chương trình bảo vệ nhân chứng—ở nơi nào đó khác, di chuyển họ khỏi tầm mắt công chúng. Tuy vậy, chỉ nếu cá nhân đó trung thành. Điều này cho chế độ sức mạnh của nó: họ không giao nộp người của chính họ cho “các thế lực nước ngoài.” Và cho những người biết những thế bất lợi của sự đối đầu và sự bảo vệ mà sự bám chặt mang lại, không chỉ khả năng đối đầu bị mất, mà lý do căn bản của nó cũng bị mất.

Không phải ngẫu nhiên mà khái niệm “chủ nghĩa gia đình vô đạo đức” của Edward C. Banfield, mô tả hoàn cảnh bị nghèo đói đày đọa, được đan xen với văn hóa mafia của Nam Italy, cũng có thể được dùng để mô tả các quy tắc ứng xử của gia tộc chính trị nhận con nuôi (Moral Basis of a Backward Society, 1967). Sự đoàn kết hầu như vô hạn với các thành viên gia tộc được bổ sung bởi một sự hoàn toàn thiếu đoàn kết với những người bên ngoài gia tộc nhận con nuôi, thể hiện trong một văn hóa và thái độ thờ ơ.

40. CÁC NHÀ TÀI PHIỆT CÓ THỂ QUYẾT ĐỊNH giữa sự thuộc về bên trong đi cùng với các nghĩa vụ và sự tự trị bên ngoài nếu có nhiều gia tộc chính trị nhận con nuôi trong chế độ. Các nhà tài phiệt là các thành viên chủ chốt của gia tộc chính trị nhận con nuôi, mà có thể đã ở đó rồi vào lúc đầu của lịch sử mạng lưới, hay gia nhập muộn hơn khi họ muốn được lợi từ một sự tiếp cận đến các nguồn lực chính trị và kinh tế của một mạng lưới được thiết lập (Bảng 11). Trong số họ, các nhà tài phiệt có ảnh hưởng nhất trong gia tộc chính trị nhận con nuôi là các nhà tài phiệt thuộc giới nội bộ. Họ đã không có tài sản đáng kể để bắt đầu, và thực sự tìm được cách để có được vốn startup của họ từ các vị trí đan xen qua chính trị. Tiếp theo họ trong chuỗi ảnh hưởng là các nhà tài phiệt được nhận làm con nuôi, mà đã tích tụ tài sản của họ bên ngoài mạng lưới, thường trong thời kỳ vô chính phủ tài phiệt như một kết quả của sự tư nhân hóa tự phát, hỗn loạn của tài sản nhà nước (cộng sản) trước kia. Sự kết nạp họ vào một gia tộc chính trị chỉ ổn định hóa vị trí của họ và bảo vệ họ trong thế giới tái phân phối tài sản hung bạo, có động cơ chính trị.

Loại nhà tài phiệt dễ bị tổn thương nhất bên trong gia tộc chính trị nhận con nuôi là nhà tài phiệt được nhà bảo trợ-nuôi dưỡng, mà có được tài sản sau khi mạng lưới bảo trợ được phát triển và họ được nhận vào. Có các kiểu-lý tưởng phụ điển hình khác nhau của các nhà tài phiệt được nhà bảo trợ-nuôi dưỡng, như: người liên kết với gia tộc chính trị nhận con nuôi như một người thân (vợ, chồng, con rể vân vân); người đã là một thành viên của gia tộc chính trị nhận con nuôi chủ yếu trong lĩnh vực chính trị và bỏ lĩnh vực đó cho lĩnh vực kinh tế (các cựu bộ trưởng vân vân); hay người trở thành giàu có như một kẻ bù nhìn kinh tế.

Điểm chung về các nhà tài phiệt thuộc giới nội bộ, được nhận vào, và được nhà bảo trợ-nuôi dưỡng là, họ là các thành viên của một gia tộc chính trị nhận con nuôi; ngược lại, một con đường khác được đại diện bởi các nhà tài phiệt tự chủ, không cam kết vĩnh viễn với bất kể kim tự tháp bảo trợ nào, và họ không muốn tạo ra lực lượng chính trị riêng của họ. Trong khi việc cố gắng thiết lập các mối quan hệ tham nhũng với các diễn viên trong lĩnh vực chính trị, họ cố gắng giữ tính chính trực của họ. Theo một nghĩa, những gì họ phát triển không phải là các mối quan hệ patron-client nghiêm ngặt mà đúng hơn là các mối quan hệ client-client, mà có nghĩa là các giao dịch kinh doanh tự nguyện (mặc dù phi-chính thức) với mọi mạng lưới bảo trợ trên một cơ sở thi thoảng hơn, giữ lại cơ hội tự do tham gia và tự do rút khỏi. Tuy vậy, điều này chỉ có thể trong một nền dân chủ bảo trợ: nếu chế độ là một hệ thống có nhiều-kim tự tháp, và không mạng lưới bảo trợ nào tìm được cách để độc quyền tất cả quyền lực chính trị. Khác đi thì một mạng lưới bảo trợ có chỉ một-kim tự tháp nổi lên, và không gian cho sự di chuyển độc lập hầu như tan biến.

 

Bảng 11: Một loại hình học của các nhà tài phiệt trong các chế độ bảo trợ (với thứ tự giảm theo khoảng cách từ nhà bảo trợ chóp bu trong một chế độ chuyên quyền bảo trợ).

41. CÁC NHÀ TÀI PHIỆT KHÔNG CÒN CÓ THỂ CÓ một sự tồn tại tự trị khi chỉ có một gia tộc chính trị nhận con nuôi chi phối. Dựa vào sự độc quyền quyền lực của nó, một mạng lưới bảo trợ có chỉ một-kim tự tháp phá hủy sự tự trị tương đối của các nhà tài phiệt và nhắm để tích hợp họ vào chuỗi chỉ huy của riêng nó. Các nhà tài phiệt tự trị có ba khả năng nếu một nền dân chủ bảo trợ—nơi họ thiết lập vị trí tài phiệt của họ—biến thành một nền chuyên quyền bảo trợ (Hình 9). Thứ nhất, họ có thể tích cực với nhà bảo trợ chóp bu, chấp nhận tình hình mới và yêu cầu nhận con nuôi. Trong trường hợp này, nhà tài phiệt tự trị trở thành nhà tài phiệt được nhận (làm con nuôi). Thứ hai, họ có thể tiêu cực, không chấp nhận tình hình mới và tích cực chống lại mưu toan thống trị của mạng lưới bảo trợ. Việc này dẫn đến loại nhà tài phiệt đối địch. Nếu mạng lưới có chỉ một-kim tự tháp thắng thế, sự đối địch tài phiệt có thể dẫn đến hoặc sự loại bỏ ép buộc khỏi chế độ, hay sự đầu hàng bắt buộc. Trong trường hợp trước, chúng ta nói về các nhà tài phiệt bị thanh lý: họ bị bạo lực nhà nước trực tiếp tống ra nếu họ có những tham vọng chính trị riêng (như trong “mô hình Khodorkovsky”), trong khi những người không có những tham vọng như vậy và chỉ ủng hộ các lực lượng chính trị thay thế có thể tính đến các hình thức bình yên hơn của sự trục xuất ( “mô hình Berezovsky”). Trong trường hợp sau, chúng ta nói về các nhà tài phiệt đầu hàng. Những người mà trước kia “đã chơi trong đội đối địch” cũng đầu hàng và vào gia tộc chính trị nhận con nuôi; vì họ đang vật lộn để sống sót về mặt kinh tế, với rất nhiều để mất nhưng không vị thế mặc cả được bảo vệ nào với chế độ, họ buộc phải tìm chỗ của họ trong chuỗi chỉ huy dưới nhà bảo trợ chóp bu. Họ được hưởng các đặc quyền, nhưng trả tiền bảo kê cho gia tộc chính trị theo yêu cầu, thỏa mãn tất cả các kỳ vọng.  Cuối cùng, bên cạnh các thái độ tích cực và tiêu cực đối với cố gắng thống trị của nhà bảo trợ chóp bu, nhà tài phiệt có thể cố gắng và vẫn trung lập. Trong khi chiến lược của các nhà tài phiệt tự chủ—giữ khoảng cách ngang nhau từ các mạng lưới bảo trợ cạnh tranh—không còn đứng vững được nữa, quan hệ client-client với gia tộc chính trị nhận con nuôi có lẽ có thể nếu nhà bảo trợ chóp bu không có khả năng bắt nhà tài phiệt đầu hàng. Việc này dẫn chúng ta đến kiểu hiếm hoi và đặc thù của nhà tài phiệt bạn-đồng hành. Các nhà tài phiệt bạn-đồng hành không chịu ơn bất cứ mạng lưới bảo trợ cạnh tranh nào cho sự giàu có của họ: mạng lưới của họ quay lại thời kỳ trước hay trong thay đổi chế độ, hoặc đầu tiên họ đã trở thành các doanh nhân lớn và sau đó trở thành các nhà tài phiệt để sống sót và thịnh vượng trong một môi trường bảo trợ. Trong khi vẫn tự chủ, các ân huệ của các nhà tài phiệt bạn-đồng hành được các bên chính trị khác nhau ve vãn cho sự ủng hộ, và họ được củng cố thêm bởi sự phụ thuộc lẫn nhau này. Trong một nền chuyên quyền bảo trợ, họ được bình định bởi nhà bảo trợ chóp bu, chào mời cho họ các lợi ích để đổi lấy sự đứng ngoài chính trị bảo trợ. Tuy nhiên thiếu sự khuất phục làm cho các nhà tài phiệt bạn-đồng hành bị nguy hiểm: nhà bảo trợ chóp bu sẽ luôn luôn tìm thấy cách để buộc họ khuất phục, gạt họ sang bên lề, hay tiếp quản tái sản của họ nếu có thể.

Hình 9: Các quỹ đạo khả dĩ của các nhà tài phiệt tự chủ trong một mạng lưới bảo trợ có chỉ một-kim tự tháp.

 

Thứ Năm, 19 tháng 6, 2025

Bí mật của hải trình

  (Về tiểu thuyết Thuyền của Nguyễn Đức Tùng, Nxb Phụ nữ Việt Nam, 2025)

Lê Hồ Quang

 

Thuyền có nhịp điệu ngôn từ khá đặc biệt: chậm rãi và bình thản. Nhịp điệu ấy hé lộ những câu chuyện khác, ẩn sau câu chuyện đang kể, một dòng chảy rộng lớn, không ngừng luân chuyển, đẩy con thuyền sự kiện trôi dạt không cùng trong hải lưu mênh mang của hồi ức, suy tưởng, chiêm nghiệm về lịch sử dân tộc, nhân loại và đời sống cá nhân, về những giá trị như sự thật, tự do, tình yêu, nỗi đau, sự cứu rỗi… Phải đọc chậm, vì dẫu có muốn, không thể cản được cái mạch/ nhịp đã được hình thành ngay từ lúc câu đầu tiên xuất hiện, nghĩa là khi con thuyền của câu chuyện xuất bến, bắt đầu hải trình, và nhịp điệu ấy được duy trì cho đến tận dòng kết thúc.

Không thể trích dẫn

 Tạ Duy Anh

Chưa khi nào tôi cảm thấy khó khăn đến vậy, khi đọc và định nói điều gì đó, về một cuốn sách. Cuốn sách đó có cái tên khá khô khan: "Những Ngày Tháng Năm". Và tác giả của nó là Phan Thúy Hà (Sơn Khê)*, một cây bút tôi đã quen tên từ lâu, chưa biết mặt, và đây là lần đầu đọc cô ấy.

Đáng sợ và nể phục.

Chính tôi cũng không chắc chắn mình đang nói cảm nhận về cuốn sách hay tác giả của nó. Có lẽ cả hai.

Không khói hoàng hôn (Tập III - kỳ 13)

 Nguyễn Thị Kim Thoa

Mấy điều trao đổi cùng ông Bùi Tín và… (phần 1)

Tôi là một độc giả không thường trực của diễn đàn Talawas và một vài diễn đàn điện tử khác, chỉ trong một vài tháng mới đây – từ sau khi đã nghỉ hưu. Do vậy, mặc dầu nghe danh Bùi Tín nhiều, nhưng đọc những gì do ông viết thì ít. Và vì thế hiểu ông lại càng ít hơn.

Thứ Ba, 17 tháng 6, 2025

Thành phố Hà Tĩnh nên có con đường mang tên Nguyễn Văn Tý

 Hà Tùng Sơn

 

Không chỉ với người Hà Tĩnh, với mọi người sống trên đất nước Việt Nam này mỗi khi nhắc đến Hà Tĩnh là trong đầu bỗng dưng ngân nga giai điệu của những ca khúc Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh Người đi xây hồ Kẻ Gỗ của nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý.

Một cuốn sách dị thường

 Thái Hạo

1.

Nguyễn Đức Tùng từ Canada về Hà Nội, ra mắt cuốn tiểu thuyết “Thuyền” mà anh vừa in ở NXB Phụ nữ Việt Nam. Tôi không ra dự, tôi ở nhà đón anh và bằng hữu. Đó là lý do, vừa rất thật, vừa không thật…

Giáo sư Nguyễn Phượng gọi cho tôi, “Có thể chúng ta sẽ thức suốt đêm”. Trên đường đi, mọi người nói muốn gặp anh Hoàng Tuấn Công, tôi gọi cho anh. Trời vừa tối, hai xe tình cờ gặp nhau trên đường rẽ vào núi.

Thứ Hai, 16 tháng 6, 2025

Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai (Đọc tiểu thuyết về Thuyền nhân lần đầu tiên xuất bản ở Việt Nam)

Nguyễn Thị Tịnh Thy

1. “Kể lại sự thật không phải là một chọn lựa dễ dàng”. Tác giả Nguyễn Đức Tùng đã viết như thế trong tiểu thuyết Thuyền (Nxb. Phụ nữ Việt Nam, 2025). Không dễ dàng, bởi vì, sự thật mà ông kể lại thuộc về những điều “Sống mà nhớ lấy”[1].

Thuyền viết về một đề tài đau đớn của đất nước, của lịch sử và nhiều người dân Việt Nam trong thập niên 1980 – 1990. Đó là vượt biên.

2. “Vượt biên”! Hai tiếng này, một thời kỳ rất dài, trong đời sống, người ta chỉ được thì thào với nhau. Trong văn học, đó là đề tài cấm kỵ. Anh có thể công bố tác phẩm viết về “vượt biên”, về “thuyền nhân” ở bất cứ nơi đâu trên Trái đất này, trừ Việt Nam. Ngay cả khi hàng Mỹ, tiền Mỹ được gửi về để giúp nhiều gia đình đổi đời; ngay cả khi những thuyền nhân năm nào (vốn bị xem là những kẻ phản bội tổ quốc) đã được phép trở về dưới danh nghĩa “Việt kiều yêu nước”, được phép cưới vợ Việt, đầu tư ở Việt; ngay cả khi văn chương đã Đổi mới với nhiều thành tựu lớn lao, có thể phơi bày hiện thực, phản tư về cách mạng – lịch sử – chiến tranh – nhân sinh – anh hùng… (dĩ nhiên là với mức độ cho phép), thì “vượt biên” và “thuyền nhân” vẫn không được xem là đề tài hợp pháp của văn chương Việt.

Vì thế, tiểu thuyết Thuyền của Nguyễn Đức Tùng được xuất bản, được phát hành một cách hợp pháp, chính danh ở trong nước vào tháng 6 năm 2025 là một dấu mốc cực kỳ quan trọng.

Cũng thật trùng hợp, cách đây hai tháng, vào tháng 4 năm 2025, tác giả Sơn Khê (Phan Thuý Hà) xuất bản tập bút ký Những ngày tháng năm, có một bài liên quan đến thuyền nhân dài 15 trang, nội dung tập trung ghi nhận thành quả của “Con tàu hoà bình” do ông Rupert Neudeck và các cộng sự cứu những thuyền nhân Việt Nam gặp nguy hiểm trên biển Đông. Trong nội dung của bút ký, Phan Thuý Hà đã trích dẫn bài viết “A ship for Vietnam” của Rupert Neudeck trên tạp chí The century of refugees[2], ghi lại lời của vợ ông Rupert Neudeck về công việc đầy nhân đạo và dũng cảm này và lời kể của một số thuyền nhân về những khổ đau, bi kịch mà họ phải gánh chịu.

“Con tàu hoà bình” của Phan Thuý Hà là trần thuật phi hư cấu, tiểu thuyết Thuyền của Nguyễn Đức Tùng là trần thuật hư cấu, dù mức độ và dung lượng khác nhau, nhưng cả hai đều là những tác phẩm đầu tiên viết về thuyền nhân Việt. Sự xuất hiện mang tính tiên phong ấy, dù muộn mằn, vẫn là một thành quả đáng ghi nhận của các tác giả và nhà xuất bản. Nó khai sơn phá thạch cho một đề tài liên quan đến khoảng một triệu người Việt đi tìm “giấc mơ Mỹ”, giấc mơ Tây Âu trong mấy mươi năm cuối thế kỷ XX, với vô số những điều bi hoan ly hợp. Số phận họ, dù đã bị vùi sâu dưới đáy đại dương hay may mắn sống sót thì cũng đã là một phần của lịch sử hiện đại. Lịch sử cần được nhớ lại, được nhắc đến, không thể lãng quên.

3. Tiểu thuyết Thuyền như một bách khoa thư về hiện tượng “vượt biên”. Móc nối, mua chỗ, tìm tàu, kiếm bãi, nguỵ trang, ẩn náu, mua sắm, tập kết, rượt đuổi, trốn chạy, bắt bớ, biển động, lênh đênh, đói khát, cướp – giết – hiếp, mang thai, mất tích, hy vọng, tuyệt vọng, cầu nguyện, điên loạn, ác mộng, hoang tưởng, áo giác, tị nạn, lưu vong, tự do, thất lạc, tìm kiếm, trở về, hải phận quốc tế, thập tử nhất sinh, tử biệt sinh ly, hồn xiêu phách tán, địa ngục trần gian…, tất cả đều có ở đây. Đủ đầy, đau đớn!

Quá khứ trong Thuyền là những gì đọng lại từ ký ức của “tôi” – người kể chuyện – kẻ sống sót trong một chuyến vượt biên đầy kinh hoàng. Một trăm bốn mươi người chen chúc, lênh đênh, vật vạ trên một chiếc thuyền nhỏ bé chất chứa sự hỗn độn của nhớp nháp, tởm lợm, nhục nhã, đau đớn, cuồng hoang, cưỡng hiếp, giết chóc, cướp bóc, hận thù… Bạn gái của nhân vật “tôi” đã lao mình xuống biển tự tử khi bị bọn cướp biển bắt sang thuyền của chúng để làm nô lệ tình dục hoặc để bán vào các nhà chứa. Thoát chết, “tôi” mãi mãi sống trong những ám ảnh, dằn vặt, day dứt của kẻ bị chấn thương tinh thần sau khi đã từng chứng kiến và trải nghiệm những điều không thể chịu đựng nổi. Anh ta luôn mang mặc cảm tội lỗi bởi sự sống sót của mình. Sống, trong trường hợp này là sự trừng phạt hơn là ân huệ. Sống, đồng nghĩa với đày ải nặng nề vì quá khứ cứ tràn về, vây bủa. Anh ta cần được thổ lộ. Một lần cho tất cả, anh phải viết ra. Viết cho tới lòng người, cho thấu trời xanh, cho quỷ khốc thần sầu, cho người chưa biết phải biết, cho người biết rồi sẽ không thể nào quên. Viết như một sự giãi bày, trả nợ, chuộc lỗi, sám hối, gột rửa, hoá giải…

Mang đặc điểm của tự sự chấn thương, cốt truyện của Thuyền có thể gói gọn trong ba sự kiện chính: ra đi, kiếm tìm và trở về. Tuy nhiên, để chọn một từ khoá cho toàn tác phẩm, thì đó là từ “kiếm tìm”. Bởi vì, ra đi là để kiếm tìm: kiếm tìm tự do ở một chân trời xa lạ; trở về cũng là để kiếm tìm: kiếm tìm một hình bóng đã mất, kiếm tìm những kỷ niệm ngọt ngào và cay đắng, kiếm tìm linh hồn của người khác và bản thể của chính mình. Cũng giống như cuộc lữ hành trong Linh sơn của Cao Hành Kiện, giữa ra đi và trở về của “tôi”, vẫn là kiếm tìm, kiếm tìm không ngưng nghỉ: anh đi tìm em – dù anh đã tận mắt nhìn thấy em nhảy xuống biển khơi, tôi đi tìm tôi – tìm ý nghĩa của những gì tôi đã chọn lựa, đã sống, đã mất mát, đã mắc nợ. “Tôi” là kẻ lạc loài khổ đau khi đến được miền đất hứa nhưng mất đi người yêu dấu của mình. “Đánh mất một người phụ nữ cũng giống như đánh mất chính quê hương mình”. Vì vậy, từ giây phút ấy trở đi, cuộc sống của “tôi” là một cuộc kiếm tìm bất tận; kiếm tìm trong đời thực, trong mộng mị, trong ý thức lẫn vô thức. Ở bề mặt sự kiện của cốt truyện, sự kiếm tìm ấy rất cụ thể, đó là tìm “nàng” – Liên Hương – người con gái đã bỏ lại tất cả, cùng người yêu xuống con thuyền định mệnh để rồi mất xác giữa đại dương. Tuy nhiên, hành trình “tôi” đi tìm Liên Hương là hành trình tâm tưởng hơn là hành trình hành động. Trong dòng tâm tưởng miên man, “tôi” tra vấn, định nghĩa, lý giải về những điều khiến nhân loại lao tâm khổ tứ suốt mấy ngàn năm nay: tự do, lịch sử, bình đẳng, cái tôi, hạnh phúc, khổ đau, sự sống, cái chết, linh hồn, chọn lựa…:

“Tự do không phải là một ý tưởng… Tự do không phải là số phận. Tự do là một chọn lựa cá nhân… Đó là chọn lựa khó khăn: một nửa nhân loại sẽ nói không với nó”.

“Con đường tự do mà chúng ta đi khổ nhục thế này ư?”

“Không ai biết làm gì với cái chết. Nhưng chúng ta thường xuyên nghĩ về nó, nói về nó, kể về nó, ca hát về nó”.

“Trong nhiều trường hợp, văn học là sự dối trá. Trong nhiều trường hợp khác, là mặc khải”.

“Lịch sử là quá khứ đã được chọn lọc.

Con người có cần biết những quá khứ khác không?

Để làm gì?

Chẳng để làm gì cả.

Ý nghĩa của sự ra đi?

Mất mát.

Tức là biến mất khỏi một thế giới?

Mất mát là biến mất khỏi một thế giới không được chấp nhận và hiện hữu trong một thế giới khác.

Ước vọng lớn nhất của con người là gì?”…

Nhiều định nghĩa, nhiều câu hỏi của Nguyễn Đức Tùng khiến người đọc phải ngẫm ngợi. Và như thế, theo cuộc kiếm tìm của người kể chuyện, độc giả cũng tự trở thành kẻ kiếm tìm, chứ không thể đứng ngoài cuộc. “Tôi” của Nguyễn Đức Tùng đã tìm thấy ý nghĩa của sự sống và sự chết chưa? “Tôi” của mỗi “ta” trong “chúng ta” đã tìm thấy điều đó chưa, khi ta vẫn còn phiêu dạt trong biển đời mênh mông này, đang ở trong trò chơi của tạo hoá?

Trần thuật từ ký ức, Thuyền có một nghệ thuật viết khá điêu luyện. Sự kiện được trực tả một cách dữ dội và khốc liệt từ điểm nhìn của người trong cuộc. Theo dòng chảy ý thức, câu chữ khi chậm rãi, bình thản; khi nghẹn ngào, xót xa; khi cuồn cuộn trào dâng, chảy tràn không ngưng nghỉ. Chuyện ngắn, chuyện dài, sự kiện, cảm xúc từ ký ức gần xa vẫy gọi nhau, xô đẩy nhau, dằn xóc lên nhau, cay đắng cùng nhau. Tất cả những khổ đau, mất mát cứ ráo riết, chênh chao, hoang hoải hiện về như một cuốn phim rối tung, một cuốn album bị rách rời khiến người đọc phải tự ráp nối lại. Tác giả đổi điểm nhìn, thay ngôi kể, dịch chuyển vị trí của người kể chuyện và người nghe chuyện như những cái trở mình của kẻ đau đớn trên giường bệnh. Ngồn ngộn hiện thực, se sắt cảm xúc, bàng bạc chất thơ, thấm đẫm tâm lý, chứa chan kỷ niệm, da diết nhớ nhung; đối thoại phi lý đan xen những trầm tư triết lý đầy sức nặng nội tâm…, những đặc điểm ấy khiến ngôn từ của Thuyền thực sự cuốn hút; gây xao xuyến, chấn động, choáng váng và ám ảnh.

4. Đại dương có thể vùi sâu sinh mệnh nhưng không thể vùi sâu ký ức. Về động cơ và ý nghĩa của sáng tác, Thuyền đã làm được một việc rất nhân văn, đó là trả món nợ của văn chương đối với một hiện tượng lịch sử và nhiều thân phận cá nhân. Có thể xem Thuyền như một áng văn chiêu hồn cho những thuyền nhân. Không chỉ riêng Liên Hương và các nhân vật khác trong tiểu thuyết Thuyền, những thuyền nhân ngoài đời thật đã bỏ mạng trên biển cả đều là những oan hồn chứ không phải linh hồn. Những hồn ma lưu lạc, những bóng quế lưu vong cần được đường hoàng bước vào, trở về ngôi nhà văn chương trong lãnh thổ nước Việt. Ta hãy chiêu hồn họ trở về đây, cầu siêu cho họ bằng chữ nghĩa. Bất hạnh trong cuộc đời rồi, không thể bất hạnh trong văn chương. Công bằng với những người đã chết và những kẻ bị chấn thương tinh thần hành hạ, đó không phải là sứ mệnh của văn chương sao? Không trốn chạy, không che giấu, không lừa mị, không tránh né sự thật, không đeo mặt nạ cho lịch sử, đó chẳng phải là cách tốt nhất để vuốt mắt cho quá khứ, để quá khứ được ngủ yên hay sao?

Trong tác phẩm, nhà văn Nguyễn Đức Tùng từng viết: “Muốn biết chuyện tương lai, thì lắng nghe tiếng thì thầm của quá khứ”. Chúng ta cần lắng nghe tiếng thì thầm ấy từ ký ức chân thành và nguyên vẹn của người kể chuyện, dù sự chân thành và nguyên vẹn đó làm ta đau đớn. Ký ức của kẻ lạc loài, ngoại vi, bên lề cũng là một phần của ký ức cộng đồng. Ký ức của cá nhân cũng là ký ức của dân tộc. Ký ức “không phải chỉ là sự ghi lại quá khứ, việc gìn giữ những kỷ niệm thời thơ ấu, những đau buồn của tuổi trẻ, vàng son của tự do, mà còn là tấm bản đồ dành cho tương lai, cho con đường vận động về phía trước. Ký ức trở thành động lực cho những ngày sắp tới. Không phải chỉ những mất mát. Mà những mất mát cũng làm nên vốn liếng của thế hệ mai sau”.

Với nhiều người Việt Nam mấy mươi năm qua, nước biển dường như mặn hơn, có lẽ vì nó chứa đầy sự chết bi thảm và sự sống nhọc nhằn của biết bao nhiêu thuyền nhân, chứa đầy nước mắt của bao nhiêu người mẹ mất con trong cuộc di dân dị thường này. Ở chương 10 của tiểu thuyết, khi tàu ra đến hải phận quốc tế, mọi người đều hồi sinh, mừng rỡ, hạnh phúc, nghẹt thở, khóc, lặng lẽ, reo mừng… Lúc ấy, người kể chuyện chợt suy tư:

“Khi một dân tộc sung sướng, người ta làm gì?

Ôm lấy nhau. Khóc.

Người ta làm gì nữa?

Tha thứ. Tha thứ hết”.

Hôm nay, tiểu thuyết Thuyền có thể yên ổn nằm trên tay bạn đọc, đó là dấu hiệu của “sung sướng” và “tha thứ”. Nhược bằng, con Thuyền văn học này vẫn bị quăng quật vì bão tố sau khi xuất bản, bị ép buộc phải “vượt biên”, lưu vong thì thật đáng buồn; bởi vì điều đó chứng tỏ chúng ta chưa phải là “một dân tộc sung sướng”.

Thuyền của người ra đi đã từng lận đận, chao đảo, phiêu dạt, vỡ nát, đắm chìm. Giờ đây, mong rằng con thuyền ký ức của người trở về sẽ cập bến bình yên trong vòng tay chào đón, nâng niu, yêu thương và trân trọng của những người ở lại và còn lại.

“Hồn hề! Hồn hề! Hồ bất quy? […] Thành quách do thị, nhân dân phi”.

(Hồn ơi! Hồn ơi! Sao chẳng về? […] Thành quách còn đây, nhân dân đã khác)[3].

Hồn của người sống và người chết – của chàng và nàng, anh và em, của bé thơ và người già, của người may mắn và bất hạnh, thành đạt và thất bại, xin một lần cùng lên THUYỀN của nhà văn Nguyễn Đức Tùng để trở về cố quốc với tất cả “vinh dự lầm than của kiếp người”[4].

Tôi đã hiểu, đã cảm, đã khắc khoải, hồi hộp, đắng đót, xót xa cùng các nhân vật qua 372 trang tiểu thuyết. “Mực của nhà văn còn quý hơn máu của kẻ tử đạo”, tôi thấm thía câu ngạn ngữ này của người Ả Rập. Tôi lắng nghe tiếng thì thầm của quá khứ, tôi thắp nén tâm nhang cho những người quen và chưa quen đã bất hạnh chìm sâu dưới đáy đại dương, hoặc mang những vết thương thể xác và tinh thần không gì bù đắp nổi để viết nên tâm tình này, với niềm hy vọng “và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai”[5].


[1] Nhan đề tiểu thuyết của nhà văn Nga Valentin Raxputin.

[2] “Bãi biển trên đảo hoang Koh Kra đầy những búi tóc phụ nữ, giày trẻ em, quần áo nhuốm máu, áo ngực rách. Trên bức tường để lại những dòng chữ nguệch ngoạc: “Để tưởng nhớ cha và mẹ”, “Để tưởng nhớ sự đau khổ mà ba chị em tôi đã phải chịu đựng trong hai mươi mốt ngày”. Dòng chữ trên tảng đá: “Hãy chắc chắn rằng người Thái không tìm thấy phụ nữ và trẻ em gái - giấu họ trong hang và bụi cây”, “Đầu tiên bạn sẽ được cho thứ gì đó để ăn, sau đó mọi thứ bạn có sẽ bị lấy đi, kể cả quần áo của bạn, họ sẽ cưỡng hiếp bạn, hết thuyền này đến thuyền khác, họ sẽ đến hàng trăm người và sẽ lần lượt cưỡng hiếp bạn. Sau đó họ giết bạn”” (Những ngày tháng năm, Sơn Khê (Phan Thuý Hà), Nxb. Thông tin và truyền thông, 2025, tr. 239-240).

[3] Phản chiêu hồn (thơ của Nguyễn Du).

[4], [5] Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai (thơ của Tô Thuỳ Yên).

Bước đi khả thi nào cho phát triển Khoa học

 Phan Dương Hiệu

Gần đây, khi được trò chuyện với các trưởng lão trong cả lĩnh vực xã hội và tự nhiên, tôi càng nhận thấy một điều: nếu thực sự có nhiều kinh phí, bước đầu tư hiệu quả trước tiên của chính phủ cho khoa học cơ bản (xã hội và tự nhiên) đơn giản chỉ là tăng trợ giúp gấp 10–100 lần cho những cơ sở (Viện, Đại học), cho những Quỹ khoa học đã có nền tảng vững chắc, đã có đội ngũ tâm huyết đang âm thầm làm việc ngay cả trong điều kiện khó khăn. Ở thời điểm này, việc đánh giá đâu là các cơ sở mạnh, có tiềm năng, hay các Quỹ khoa học nghiêm túc là hoàn toàn dễ dàng.

Hồi ức đến tương lai

 Phạm Xuân Nguyên

Kính thưa các anh chị,

Tôi rất lấy làm tiếc đã không đến dự được cuộc ra mắt cuốn sách này của nhà kinh tế học Trần Văn Thọ. Lý do là trong buổi sáng nay (14/6/2025) cùng giờ này tôi bận làm MC cũng cho một cuộc ra mắt sách: tiểu thuyết Thuyền của nhà văn Nguyễn Đức Tùng ở Canada in ở trong nước, một tác phẩm viết về vượt biên và thuyền nhân (boat people) từ đó đặt ra vấn đề sự thật và ký ức. Hai sự kiện về sách có những sự trùng hợp ngẫu nhiên lý thú diễn ra rất gần nhau (52 Hai Bà Trưng và 36 Lý Thường Kiệt) mà ước gì tôi có thể phân thân để cùng lúc dự được cả hai. Nhưng người phàm thì không thể phân thân nên tôi đành khất cuộc này và xin viết ra vài lời cậy nhờ sư tỷ đồng Phạm là nhà kinh tế Phạm Chi Lan gửi đến anh Trần Văn Thọ và tất cả các anh chị có mặt.

Tôi đã đọc hết cuốn sách của anh Thọ. Sau đây là mấy ghi nhận ban đầu của tôi.

Cánh diều năm cũ

 Tạp bút Đặng Văn Sinh

"Tiếng diều xanh lúa

Uốn cong tre làng"[1]

Tôi ngồi trên phiến đá, trước đây vốn là cái quán nhỏ của bà cụ Mận bán quà bánh cho khách chờ đò ngang qua sông Cái. Nhưng tôi không mấy để ý đến con sông mùa lũ đầy ắp thuyền bè qua lại, mà quay lưng ngắm hoàng hôn đang loang dần khắp mấy quả đồi lúp xúp mọc toàn sim mua. Bầu trời không một gợn mây và sáng lạ lùng, cứ như cố tình muốn kéo dài cảnh chiều tà đầy mê hoặc của mùa hạ miền trung du. Ở đâu đó, có tiếng sáo ngân nga lúc khoan lúc nhặt khiến tôi phải nghển cổ, dõi mắt cố tìm xem con diều của ai đó đang lơ lửng trên chín tầng trời, thả vào không gian những thanh âm đầy quyến rũ của giai điệu đồng quê.

Chủ Nhật, 15 tháng 6, 2025

Thuyền trong lịch sử di cư của người Việt

 Khuất Thu Hồng

Khi đọc "Thuyền" của Nguyễn Đức Tùng, điều ám ảnh nhất với mình không chỉ là những cơn sóng, cơn đói, hay sự hiểm nguy những người vượt biên đã trải qua, mà còn là những câu hỏi sâu xa về thân phận con người, về sự lựa chọn trong hoàn cảnh bất khả kháng. Mình đọc một mạch, từ chiều đến hai giờ sáng. Gấp cuốn sách lại vẫn còn run rẩy và giấc ngủ bị ám ảnh bởi những cảnh tượng tàn bạo và đau đớn mà Tùng trải qua trên con thuyền đi tìm số phận của mình: những lần bị hải tặc tấn công, những người đàn ông bị giết, những người phụ nữ bị làm nhục và cảm giác bất lực khi chứng kiến sự ra đi vĩnh viễn của người con gái mà anh yêu dấu...

Thơ Nguyễn Đức Tùng

 

NGƯỜI ĐI CHÂN ĐẤT (CHƯƠNG 7)

                                                                         Trường ca

Mọi thứ đều phải kết thúc

Bằng cách này hay bằng cách khác

Tôi nhìn thấy một người chồng những hòn đá bên bờ nước

Ở Thái Lan, hòn đá này trên hòn đá khác

Như thế mãi, chúng đứng im, không sợ hãi

Trắng, đen, xanh, buồn, vui

Gaza: Vẽ tranh giữa trời hư vỡ

 Phan Tấn Hải

Có cách nào để sớm có hòa bình cho Gaza, một trong vài vùng đất đau thương nhất thế giới hiện nay? Chúng ta không có câu trả lời. Liên Hợp Quốc cũng bế tắc. Chúng ta, những người sống trong thế kỷ 21, cũng không thể quy trách một ai, vì như dường định mệnh đã sắp sẵn cho cuộc tàn sát từ nửa đầu thế kỷ 20, hay là từ hai ngàn năm trước. Chúng ta hoàn toàn không hiểu, tại sao khu vực được xem là đất thánh của ba tôn giáo lớn nhất thế giới – Do Thái Giáo, Ky tô giáo, và Hồi giáo – lại rơi vào một cuộc chiến bi thảm và dai dẳng như thế? Tuy nhiên, đất trời muôn đời vẫn im lặng. Một cách nào đó, các nghệ sĩ ở Gaza lên tiếng cho dân tộc của họ. Họ đã vẽ, dù không còn đầy đủ màu sơn. Khi giấy và các tấm canvas biến mất, họ lấy các bao bột mì làm nền để vẽ tranh.

Thứ Sáu, 13 tháng 6, 2025

Thuyền (viết nhân đọc tiểu thuyết THUYỀN của Nguyễn Đức Tùng)

Giáng Vân

 

“Có một nơi trên trái đất ở đó người ta không chết, họ chỉ biến mất.

Bạn hỏi: tôi có đi được không?

Không.

Có.

Bạn hỏi: tại sao tôi phải đi?

Tại sao không?

Tôi có thể để lại một thứ gì, không mang theo, được không?

Không.

Ý nghĩa của sự ra đi?

Biến mất khỏi một đời sống.

Tức là chết?

Không. Từ chối nó”*

Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông!

 Phạm Hiền Mây

 

I. NGUYÊN SA – THẦN TƯỢNG THƠ CỦA HỌC SINH, SINH VIÊN MIỀN NAM CẢ TRƯỚC VÀ SAU 1975

Khoảng mười tuổi, tôi đã bắt đầu biết đọc thơ.

Thưa, đọc thơ chớ không phải là đọc chữ. Đọc chữ thì bé nào lên sáu, cũng đều biết, và bắt đầu xem truyện hình. Truyện chữ, thì còn tùy, tùy sở thích đặc biệt của trẻ. Có trẻ, chín tuổi, đã chui xuống gầm giường, đọc một mạch truyện Vòng tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng trong vòng hai, ba ngày, như tôi, chẳng hạn.

Thơ Trần Hoàng Phố

 

TIẾNG SẤM XANH VÀ TIẾNG NÓI KHẢI HUYỀN

 

*

 

Trong chu kỳ của mưa gió bão

và những ngày trời trong xanh

Tôi nghe thấy

một điểm nghẽn của thời tiết

trong tiếng con chim lợn kêu đêm

Ngày lễ hội các thiên thần sẽ đến

Trong bàn tay sấp ngửa của Thượng Đế

Và giấc mơ tiếng chuông lễ khuya

Vang trong đêm vắng

và bay tới đậu trên trái tim người thi sĩ

Một bài thơ như

một bông hoa súng xanh

Nở hy vọng trong đêm ngày lễ thánh

Giật mình nhìn lại và cười vui với tiểu luận

 Lê Thị Hường

Những trang văn của Hồ Anh Thái nặng trĩu những trầm tư về các lĩnh vực văn hóa, con người, cùng với niềm mong mỏi về một giá trị sống giữa những bất an trong lòng xã hội hiện tồn. Niềm tự hào xen lẫn với nỗi buồn. Phê phán và ưu ái. Hoài nghi lẫn tin yêu.

Hồi ức đến tương lai của Trần Văn Thọ: Một luồng gió mới

 Nguyễn Xuân Xanh

“Tôi sinh ra ở nông thôn miền Trung, một trong những vùng nghèo của đất nước. Thời tôi còn nhỏ, thập niên 1950 và 1960, cha mẹ, bà con và hàng xóm ai cũng đầu tắt mặt tối, vất vả ngoài đồng ruộng. Mùa đông gió rét mặc không đủ ấm, mùa hè nóng không ngủ được. Qua sách vở, tôi cũng thấy những hình ảnh đó ở hầu hết các vùng khác của đất nước.

Từ nhỏ, tôi biết nhiều nhạc khúc ca tụng đồng quê, nhưng phần lớn nói lên cuộc sống nghèo khó của người dân Việt Nam. Những ca khúc như Nắng lên xóm nghèo, Quê nghèo, Tình nghèo, v.v. đều phản ánh tình trạng đó. Tôi luôn mong đất nước sẽ phát triển, người dân được sống ấm no, hạnh phúc. Tôi nghĩ mong ước đó cũng thể hiện lòng yêu quê hương đất nước một cách cụ thể. Thời trung học, đọc tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh, qua suy nghĩ của nhân vật Dũng, tôi bắt gặp một định nghĩa về lòng yêu nước rất phù hợp với mục tiêu phát triển cần có của Việt Nam lúc ấy: “Chiều hôm ấy, Dũng như cảm thấy tâm hồn của đất nước, mà biểu hiện cho đất nước ấy không phải là những bậc vua chúa danh nhân, chính là đám dân hèn không tên không tuổi. Dân là nước. Yêu nước chính là yêu chung đám thường dân, nghĩ đến sự đau khổ của đám thường dân”. Đây là định nghĩa về lòng yêu nước rất hay, rất thiết thực, in sâu vào tâm trí tôi, cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ gần như nguyên văn.”

—Trần Văn Thọ

Thứ Ba, 10 tháng 6, 2025

Tóm lược 50 năm văn học Việt nhập cư 1975-2025 (kỳ 3)

 Ngu Yên

 

Nhà văn Monique Truong

Monique T. D. Truong (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1968) là một nhà văn người Mỹ gốc Việt sống tại Brooklyn, New York. Cô tốt nghiệp Đại học Yale và Trường Luật Đại học Columbia. Cô đã viết nhiều cuốn sách và cuốn tiểu thuyết đầu tiên của cô, The Book of Salt, được Houghton-Mifflin xuất bản năm 2003. Đây là một cuốn sách bán chạy nhất toàn quốc và đã được trao Giải thưởng tiểu thuyết Bard năm 2003 và Giải thưởng sách Stonewall, Giải thưởng văn học Barbara Gittings. Cô cũng đã viết Watermark: Vietnamese American Poetry & Prose, cùng với Barbara Tran và Luu Truong Khoi, và nhiều bài tiểu luận và tác phẩm truyện ngắn. (Wikipedia)

Không khói hoàng hôn (Tập III - kỳ 10)

 Nguyễn Thị Kim Thoa

Hoa cỏ quanh tôi (phần 1)

Những lần đi khám bệnh quanh xóm, những buổi đi dạo trên đường đê bao, tình cờ hay cố ý nhìn thấy những bông hoa, cây cỏ bên đường, tôi đã cố gắng chụp cho chúng những tấm hình “đẹp” bằng khả năng mình có được. Những hoa cỏ tôi đã biết tên, hoặc hỏi dân địa phương, tôi ghi lại bằng hình ảnh và đôi điều nhớ nghĩ về chúng.

Thứ Hai, 9 tháng 6, 2025

Ad Reinhardt và những bức tranh đen

 Nguyễn Man Nhiên

Ad Reinhardt (1913–1967) là nghệ sĩ Mỹ tiên phong trong phong trào Trừu tượng và Tối giản. Loạt tác phẩm "Những bức tranh đen" (Black Paintings) của ông gồm các bức tranh gần như toàn màu đen, nhấn mạnh sự tinh khiết tuyệt đối của hội họa, có ảnh hưởng lâu dài đến Nghệ thuật Hiện đại.

Đối thoại với “cái bóng” của Vân Thuyết

 (Tham luận đọc tại buổi ra mắt sách Bến Thi Ca của tác giả Thin Zen Paul Vân Thuyết)

Dương Thắng

  1. Tại sao chúng ta lại có mặt trong khán phòng này ngày hôm nay? Câu trả lời tưởng chừng rất đơn giản và rõ ràng: tới dự lễ ra mắt tác phẩm Bến Thi Ca của tác giả Thin Zen Paul Vân Thuyết, đánh dấu một hành trình sáng tạo thơ hơn nửa thế kỷ của tác giả, để lắng nghe trao đổi với nhau những suy ngẫm, những đánh giá của mình về cuốn sách này. Đến đây thì vấn đề trở nên phức tạp và rắm rối hơn: Chúng ta đang lắng nghe ai? Ông Vân Thuyết đang ngồi ở đây trước mắt chúng ta hay một ông Vân Thuyết khác, đang in đậm bóng dáng của mình trên từng dòng thơ này và cũng chỉ tồn tại trên những dòng chữ này, và tôi đồ rằng ông Vân Thuyết thứ hai này đôi khi đã viết ra những câu thơ lạ lùng mà chính ông Vân Thuyết thứ nhất cũng ngỡ ngàng khi đọc lại nó. Oái oăm thay người mà chúng ta cần đối thoại tìm hiểu khám phá lại chính là ông Vân Thuyết thứ hai này (để dễ phân biệt tôi tạm gọi ông “Vân Thuyết số hai” này là “cái bóng” của ông Vân Thuyết số 1). Còn một vấn đề cốt yếu nữa: Tại sao chúng ta lại cần phải nói về cuốn sách này? Việc chúng ta bàn luận về nó có “chính đáng” không? Và chúng ta sẽ dựa trên cái gì để nói về nó?
Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2025

Suy nghĩ của một người học ‘khối C’…

 Thái Hạo

1.

Sự rớt giá thê thảm của “Khối C” (tức tổ hợp C00), một phần phản ánh những thay đổi mạnh mẽ của xã hội Việt Nam hiện nay, khi ở đó các ngành kinh tế, kỹ thuật, công nghệ trở thành mũi nhọn và chi phối xã hội một cách áp đảo; trong khi ngành nhân văn vốn không trực tiếp sản xuất, không tạo ra của cải, tất bị lép vế.

Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2025

Các nghệ sĩ trường phái New York, chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng và tranh Hành động

 Nguyễn Man Nhiên

1. Sau Thế chiến II, khi cuộc sống nghệ thuật tiếp tục trở lại trong môi trường hậu chiến, nhiều nhà quan sát dần nhận ra rằng nghệ thuật mới thú vị nhất không còn bắt nguồn từ Paris nữa. Đúng hơn, nó được tìm thấy ở New York. Trung tâm của năng lượng đã dịch chuyển. Một số phát triển đã mở đường cho sự nở rộ của nghệ thuật tiên tiến ở Mỹ, chẳng hạn sự thành lập của Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại (MoMA) vào năm 1929.

Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2025

Phỏng vấn trí tuệ nhân tạo về hòa hợp hòa giải dân tộc Việt Nam

 Thực hiện: Trần Kiêm Đoàn – từ Sacramento, California, Hoa Kỳ lúc 5:15 PM ngày 3-6-2025

Trả lời: Trí tuệ nhân tạo Chat GPT – OpenAI

 

Lời mở đầu của người phỏng vấn:

Trước khi thực hiện cuộc phỏng vấn này, tôi đã tham khảo nhiều nguồn thông tin và trực tiếp đối thoại với những nhân vật “sống” trong và ngoài nước. Tuy nhiên, phản hồi nhận được đa phần rơi vào ba mô thức:

Nhà văn Hoài Thanh và tấm lòng thể tất bị đứt gãy

 Lê Học Lãnh Vân

 

Dẫn nhập: TỔNG THỐNG MACRON và CHÍ PHÈO

Tổng thống Pháp sang thăm Việt Nam. Người Việt bực bội vì những bình luận rất thiếu văn hóa và thiếu kiến thức trên mạng xã hội của hàng ngàn Facebooker mà nhiều người Việt ví là Chí Phèo. Sự hiện diện của số người đó chứng tỏ dân trí của đất nước ở tầm hạn chế sự phát triển mong muốn. Tôi chợt nhớ bài TẤM LÒNG THỂ TẤT BỊ ĐỨT GÃY của mình cách đây bảy năm viết về một nhà trí thức Việt Nam, có thể xem là biểu tượng của nhiều nhà trí thức thời chín năm kháng chiến chống Pháp giành độc lập. Xin lục lại đăng lên.

Bảy năm trước, khi hạ câu chót của bài “Trong lúc đất nước vẫn còn loay hoay với những chuyện Chí Phèo”, lòng tôi buồn rũ! Nhiều người thuộc thế hệ trí thức Việt Nam vì quá hăng say lao vào cuộc chiến thời đó mà đánh mất mình. Bao nhiêu nông dân Việt Nam hiền lành hóa Chí Phèo thời Cải Cách Ruộng Đất? Bao nhiêu người trí thức Việt Nam đáng kính hóa Chí Phèo thời Nhân Văn Giai Phẩm? Làm sao trí thức hóa, lành mạnh hóa tư tưởng các Chí Phèo đã sinh sôi nảy nở từ đó tới nay?

Gánh nặng để lại cho đời nay thực không nhỏ...