Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2024

Di sản xanh

Lê Huyền Ái Mỹ

 

clip_image002

Đền tưởng niệm liệt sĩ Trường Sơn Đường 20 Quyết Thắng, Trọng điểm Cà Roòng - ATP.

 

Chẳng biết có phải vì con đường 20 Quyết Thắng bắt đầu từ Km 00 của thôn Phong Nha, bên bến sông Son mà suốt nửa chiều dài nằm trên địa phận Việt Nam (nửa còn lại bên nước bạn Lào) gần như thấm máu của những chàng trai, cô gái tuổi xuân son. Hay cái tuổi họ nằm xuống cũng vừa tròn 20 đã làm nên tên đường, như dòng sông cứ mãi son trẻ giữa rừng già, trong vắt mà chảy vào lòng Trường Sơn hùng vĩ.

Pablo Neruda – Thơ tình

Nguyễn Man Nhiên

 

Pablo Neruda (1904-1973) là một nhà thơ và nhà ngoại giao nổi tiếng người Chile. Là người đoạt Giải Nobel Văn học năm 1971, tác phẩm của Neruda có ảnh hưởng lớn và được tôn vinh rộng rãi. Một trong những cuốn sách đầu tiên của ông, Veinte poemas de amor y una canción desesperada (Hai mươi bài thơ tình và một bài ca tuyệt vọng) (1924), đã trở thành Kinh Thánh cho những người yêu nhau và khẳng định thiên chức làm thơ của ông. Nhà văn Gabriel García Márquez đánh giá: “Pablo Neruda là nhà thơ vĩ đại nhất thế kỷ 20 – bằng bất kỳ ngôn ngữ nào.”

Lịch sử truyền giáo và chữ quốc ngữ (8)

Thụy Khuê

Chương 5

Alexandre de Rhodes

I- De Rhodes, người dẫn đường

clip_image002[4]

Hai bộ sách nghiên cứu xuất bản trong thời kỳ thuộc địa và hậu thuộc địa, xác nhận và vinh danh Alexandre de Rhodes là người dẫn đường cho quân Pháp đến Việt Nam, là tập san Le Bulletin des Amis du Vieux Huế BAVH (Đô thành hiếu cổ) và bộ lịch sử La Geste Française en Indochine (Huân trạng của người Pháp ở Đông Dương).

Thứ Năm, 25 tháng 7, 2024

Han Yong-Un và Hàn Mặc Tử: Thơ ca của niềm im lặng

Nhật Chiêu

image  

Ánh sáng lạ nhất trong thơ ca tiền bán thế kỷ hai mươi ở bán đảo Triều Tiên là HAN YONG-UN (1879-1944) và ở bán đảo Đông Dương là HÀN MẶC TỬ (1912-1940).

Thơ ca của họ vừa sâu thẳm những tố chất truyền thống Đông Á vừa dậy lên những làn sóng mới bất ngờ đến kinh ngạc.

Thứ Tư, 24 tháng 7, 2024

Nghĩ về thơ (8)

 Dương Thắng

 

1. Đâu là nguồn gốc của thơ? Thật khó để tìm ra. Nó bị tan biến vào trong những ngóc ngách sâu thẳm của tâm hồn con người, nó lẩn trốn vào trong cái quá khứ xa xăm thời tiền sử, khi ngôn ngữ lần đầu tiên xuất hiện, nó cũng mất tích trong cái guồng máy bí ẩn và vô cùng kỳ lạ đó là trí não con người.

Thứ Ba, 23 tháng 7, 2024

Chuông nguyện hồn ai – ngày 5 tháng 8 năm 2024, lễ động thổ kênh Funan Techo

Gửi 20 triệu cư dân ĐBSCL bấy lâu không được quyền cất tiếng nói

Gửi Nhóm Bạn Cửu Long

Ngày 5 tháng 8, 2024 sắp tới đây, đúng vào sinh nhật thứ 76 của cựu Thủ tướng Samdech Techo Hun Sen, hiện là Chủ tịch Thượng viện, lãnh đạo đảng Nhân Dân Cam Bốt (CCP), được con trai trưởng của ông là Thủ tướng Hun Manet chọn là ngày Lễ Động Thổ khởi công Dự án Kênh đào Funan Techo – đang được rầm rộ chuẩn bị như là một ngày lễ hội lớn, với đốt pháo hoa và chiêng trống nổi lên từ khắp các chùa chiền cùng với lời cầu nguyện của giới sư sãi trên toàn Vương quốc Cam Bốt. Nhưng với cái giá môi sinh nào phải trả cho cả hai dân tộc Khmer và Việt Nam đang hiển lộ và không còn là những ẩn số.

Ngô Thế Vinh

William Stanley Merwin – Những bài thơ chọn lọc

Nguyễn Man Nhiên

 

William Stanley Merwin sinh ngày 30/9/1927 tại New York. Ông lớn lên ở thành phố Union (New Jersey) và Scranton (Pennsylvania), là con trai của một mục sư Trưởng Lão, và bắt đầu viết thánh ca từ khi còn nhỏ. Merwin theo học tại Đại học Princeton. Sau khi tốt nghiệp năm 1948, ông đã đi khắp Châu Âu, dạy học và làm dịch thuật tự do. Ông đã sống ở Majorca, London, Pháp, Mexico, Boston và New York.

Giới thiệu Tạp chí TRIẾT số tháng 7, 2024: Chuyên đề Kant và AI (Tapchitriet.com)

 TRIẾT: Tạp chí Triết học và Tư tưởng hân hạnh giới thiệu số 12 đặc biệt về Immanuel Kant – nhân kỷ niệm 300 năm sinh nhật của ông – và AI (Artificial Intelligence/Trí Thông minh Nhân tạo). Đây là hai chủ đề về hai thời đại cách biệt cả về thời gian lẫn bản chất văn minh. Ba trăm năm trước, khi Kant gióng tiếng chuông thức tỉnh lý trí cho Tây Âu thì hầu hết nhân loại vẫn còn ở trong bóng tối về khả thể tự ý thức. Lịch sử nhân loại qua thời quán Khai sáng mà Kant đã sống vẫn còn đang bị ngự trị bới ý chí quyền năng mà văn minh Tây Âu – dù đã thừa kế di sản triết học lý tính Hy Lạp – vẫn chỉ là một giai thời bình minh ló dạng cho các nguyên lý về tự do cá thể, khoa học kỹ thuật, về khả năng dung hợp văn hóa toàn cầu, đa dạng, bao gồm, cho một nhân loại biết tôn trọng lẫn nhau, biết dùng lý tính và lẽ phải để thuyết phục lẫn nhau – thay vì dùng vũ lực để chinh phục kẻ không tương đồng về văn hóa, chính trị, tôn giáo. Ước mơ của Kant cho đến hôm nay dầu sao cũng đã được dần hiện thực hóa như là một điều sẽ phải đến cho cứu cánh tính lịch sử con người, của khối nhân loại biết và có khả năng và ý chí sử dụng lý trí của mình.

70 năm sự kiện di cư 1954

Mạnh Kim

 

70 năm đã trôi qua kể từ cuộc thiên di vĩ đại nhất Việt Nam đương đại. Gia đình ông nội tôi là một trong những gia đình có mặt trong cuộc di cư lịch sử. Khi mẹ mang bầu tôi thì ông nội tôi mất. Bố tôi mất sớm nên tôi cũng không có cơ hội hỏi ông về những gì xảy ra vào năm 1954.

Lịch sử truyền giáo và chữ quốc ngữ (7)

 Thụy Khuê

 

Chương 3

Cristoforo Borri

 

IV. Phương pháp truyền giáo của Borri

clip_image002

 

Trong bốn nhà truyền giáo Dòng Tên đầu tiên đến Đại Việt: Francesco Buzomi (Ý), Francesco de Pina (Bồ), Pedro Marques (Bồ lai Nhật) Cristoforo Borri (Ý), chỉ có Borri ghi lại phương pháp truyền đạo của mình trong sách Ký sự Đàng Trong, nhờ đó, ta có thể hiểu được phần nào chính sách truyền giáo của La Mã, đối với Á châu, một châu lục lớn, có nền văn minh lâu đời, với những tín ngưỡng, phong tục cổ truyền, khó có thể một sớm một chiều lay chuyển được.

Chủ Nhật, 21 tháng 7, 2024

“Chân lý của vũ trụ là chân lý của con người”

Tương Lai

clip_image002

Rabindranath Tagore, thi hào và triết gia Ấn Độ nói vậy trong một buổi trao đổi giữa hai bộ óc vĩ đại của nhân loại cách đây ngót một thế kỷ – ngày 14.7.1930 – tại ngoại ô Berlin, nơi tá túc của Albert Einstein[*]. Tôi xúc động ghi lại đây đôi dòng để dẫn vào những suy tư về hiện tượng Thích Minh Tuệ đang rọi chiếu vào tâm hồn, làm lay động dữ dội nhịp đập trái tim về một hình tượng cao cả vừa xuất hiện giữa trần thế bụi bặm chúng ta đang phải ngụp lặn trong đó.

Tôi vẽ để làm sáng tỏ ba điều

Bùi Thanh Phương

 

Họa sĩ Việt Hải có lần đã kể với tôi câu chuyện về Bùi Xuân Phái từ năm 1958, khi đó Việt Hải đang là sinh viên trường mỹ thuật, Việt Hải cũng là học viên do Bùi Xuân Phái phụ trách, giảng dạy. Trong buổi họp "phê và tự phê" Việt Hải là thư ký, ghi chép lại những lời tự phê của chính người thầy đang dạy mình. Trong buổi họp phừng phừng khí thế đấu tranh ấy, Vũ Giáng Hương (cũng là học trò của Bùi Xuân Phái) làm chủ tọa, người ta đã tra vấn trong nhiều giờ với nhiều câu hỏi. Theo họa sĩ Việt Hải thì, rất nhiều vấn đề mà thời gian quá lâu đã làm ông quên nhưng vẫn còn nhớ khi người ta hỏi Bùi Xuân Phái:

Trao đổi về đề xuất Tách môn Văn học ra khỏi môn Tiếng Việt

Văn Việt: Dưới đây là đề xuất của Thái Hạo, “Cần tách môn Văn học ra khỏi môn Tiếng Việt” và phần trao đổi của PGS Bùi Mạnh Hùng. Văn Việt xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc và mong có thêm nhiều ý kiến cùng thảo luận về vấn đề này.

***

Thái Hạo:

Cần tách môn Văn học ra khỏi môn Tiếng Việt

Từ nhiều năm nay, tôi luôn lặp lại điều này: Môn Ngữ văn phải là một môn dạy tiếng Việt. Và khi đó, cái tên của nó có thể là (môn) Việt ngữ, Quốc ngữ.

Môn học này trong nhà trường mấy chục năm qua chỉ có cấp Tiểu học là mang tên Tiếng Việt, còn từ THCS đến THPT đều gọi là Ngữ văn, với phần văn học/ văn chương chiếm vị trí và vai trò áp đảo. Là một người dạy học, tôi nhận thấy phần tiếng Việt ở 2 cấp học sau cùng này gần như chỉ gá vào “cho đủ thành phần”, còn trên thực tế, cả trong dạy, học và thi cử, nó đã bị xem thường và bỏ qua. Đây là một tai họa. Nó dẫn đến thực tế rằng đa số học sinh (và cả giáo viên) không biết (nói và) viết tiếng Việt một cách thông thạo và hiệu quả.

Dù ai cũng biết rằng “văn chương là một loại hình nghệ thuật ngôn từ”, nhưng không phải vì thế mà đồng nhất nó với ngôn ngữ của một quốc gia. Văn chương chỉ là một loại “phong cách ngôn ngữ” bên cạnh các phong cách khác như ngôn ngữ hành chính, ngôn ngữ sinh hoạt, ngôn ngữ khoa học, ngôn ngữ chính luận, ngôn ngữ báo chí... Trong khi đó, nó chưa hẳn đã là thứ “phong cách ngôn ngữ” mà người dân sử dụng thường xuyên, liên tục và gắn chặt với cuộc sinh tồn của họ mỗi ngày, nếu so với các dạng phong cách và các loại hình văn bản khác.

Bằng việc đặt trọng tâm vào nội dung văn học/ văn chương, chúng ta đã biến môn học quan trọng này thành một môn nghiên cứu/ phê bình văn học trong nhà trường phổ thông. Tất nhiên, nó cũng chẳng tới đâu, vì lớt phớt, cưỡi ngựa xem hoa.

Văn học/ văn chương là một môn nghệ thuật, cũng như hội họa, điêu khắc, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh... Tất nhiên, do tính lịch sử của mình, văn học/ văn chương có thể quen thuộc hoặc có vị trí nhất định của nó trong toàn bộ tiến trình văn hóa của một cộng đồng; tuy nhiên không phải vì thế mà dành cho nó một đặc ân bất thường như cái cách mà nó đang được dạy trong nhà trường.

Cũng như các môn nghệ thuật khác, văn học/ văn chương chỉ phù hợp với người có năng khiếu. Chúng ta đã đối xử với môn Âm nhạc và Mỹ thuật một cách xứng đáng và hợp lý, là cho chúng một vị trí trong chương trình học. Vậy, tại sao lại không cư xử với văn chương theo cùng một cách như thế?

Môn tiếng Việt (Việt ngữ/ Quốc ngữ) cần được dạy xuyên suốt chương trình phổ thông và đánh giá năng lực tiếng Việt trên phương diện quốc gia (ví dụ như đưa vào đề thi tốt nghiệp THPT). Còn Văn học/ Văn chương thì nên đối xử như đang đối xử với Âm nhạc, Mỹ thuật... Tách môn Văn học ra khỏi Ngữ văn, lúc này, nó sẽ được những học sinh có năng khiếu hoặc có đam mê hoặc có nhu cầu chọn học để thỏa chí hoặc để theo đuổi nghề nghiệp.

Bắt cả triệu học sinh phải học văn chương suốt bậc Phổ thông với tư cách là một loại hình nghệ thuật, điều đó rất phản khoa học. Nó chẳng khác gì việc bắt tất cả đều phải học Âm nhạc hay Mỹ thuật. Có bao nhiêu em thích văn chương, có bao nhiêu em muốn chọn văn chương làm nghề nghiệp tương lai, mà quý vị lại bắt cả nước phải học như thế? Và cái quan trọng là nó có ích gì, hay chỉ gây hại khi ép buộc những ai không thích nhưng phải è cổ ra học thuộc văn mẫu?

Tiếng Việt là thứ ta sử dụng hàng ngày, nó là một phương tiện, một công cụ trọng yếu của mỗi người trong biểu đạt, chia sẻ, học hỏi, và thực hiện các quyền công dân của mình. Nhưng, do không được dạy dỗ một cách đến nơi đến chốn, ngày nay dù học suốt 12 năm ròng rã nhưng đa số không viết nổi một bài luận với chủ đề quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày, không trình bày nổi một sự việc khi gặp rắc rối, không biểu lộ được quan điểm của mình trước các vấn đề xã hội hàng ngày. Cả một cộng đồng như ngô như ngọng.

Môn Ngữ văn trong nhà trường thất bại, theo tôi, là vì thiếu khoa học ngay từ đầu khi xác định mục tiêu và xây dựng nội dung, cấu trúc; tiếp theo là đặt ra tham vọng quá lớn và phi lý khi đã cào bằng văn chương, bắt cả xã hội phải học và thi.

Đã đến lúc nên tách nó (văn chương) ra thành một môn riêng như Âm nhạc, Mỹ thuật, và ai thích thì lựa chọn, như tất cả các môn tự chọn khác trong chương trình. Từ đây, tập trung dạy tiếng Việt cho tử tế. Đó là cách cứu vãn tiếng Việt trước tình thế quá bi thảm hiện nay.

                                                                                                                 T. H, 16/ 7/ 2024

Trao đổi của PGS Bùi Mạnh Hùng:

Cách đây mấy hôm, anh Thái Hạo, nguyên là một nhà giáo dạy Ngữ văn và hiện là một cây bút được rất nhiều người theo dõi trên mạng xã hội, có nêu một ý kiến quan trọng trên trang FB của anh ấy: Cần tách môn Văn học ra khỏi môn Tiếng Việt.

Cụ thể, anh Thái Hạo cho rằng, lâu nay trong dạy, học và thi cử, tiếng Việt đã bị xem thường và bỏ qua. Đây là một tai họa. Nó dẫn đến thực tế rằng đa số HS (và cả GV) không biết viết (và nói) tiếng Việt một cách thông thạo và hiệu quả. Để khắc phục tình trạng này, theo anh, môn Tiếng Việt (Việt ngữ/ Quốc ngữ) cần được dạy xuyên suốt chương trình (CT) phổ thông và đánh giá năng lực tiếng Việt trên phương diện quốc gia (ví dụ như đưa vào đề thi tốt nghiệp THPT). Còn Văn học/ Văn chương thì nên đối xử như đang đối xử với Âm nhạc, Mỹ thuật,... Tách môn Văn học ra khỏi Ngữ văn, lúc này, nó sẽ được những HS có năng khiếu hoặc có đam mê hoặc có nhu cầu chọn học để thỏa chí hoặc để theo đuổi nghề nghiệp.

Anh Thái Hạo là người có nhiều trải nghiệm về lĩnh vực dạy học Ngữ văn, viết văn rất có nghề và đặc biệt là rất sắc sảo trong việc phân tích, đánh giá nhiều vấn đề về giáo dục, văn hóa, xã hội,…. Do vậy, ý kiến đề xuất trên của anh Thái Hạo được hàng ngàn người bấm like, hàng trăm ý kiến thể hiện sự đồng tình. Với tư cách là “người trong cuộc”, tôi muốn chia sẻ với các đồng nghiệp, bạn bè và những ai quan tâm một số ý kiến về vấn đề được anh Thái Hạo nêu ra. Việc trao đổi này nhằm đáp ứng mong muốn của anh Thái Hạo là “thấy một cuộc thảo luận sâu rộng về vấn đề này, với sự tham gia của nhiều thầy cô và chuyên gia”. Vấn đề được bàn có thể coi là hệ trọng. Nếu chấp nhận giải pháp mà anh đề xuất thì môn Ngữ văn ở Việt Nam sẽ thay đổi hoàn toàn, có thể tốt hẳn lên hoặc kém hẳn đi. Nên nó xứng đáng được quan tâm và trao đổi thấu đáo.

Trước hết nói về tên gọi. Đúng như anh Thái Hạo nói trong một ý kiến trao đổi ngắn với tôi trên trang FB của anh ấy, cái môn mà ta gọi là Ngữ văn thì nhiều nước gọi bằng tên gọi tiếng mẹ đẻ. Ta có thể dẫn ra một số ví dụ như: Tiếng Anh (Anh, Australia, Canada, New Zealand), Tiếng Pháp (Pháp), Tiếng Đức (Đức), Tiếng Nhật (Nhật Bản),... Một số nước khác gọi bằng những cái tên tương tự, ví dụ Hàn Quốc gọi là Quốc ngữ, Hoa Kỳ gọi là Language Arts (đôi khi gọi đầy đủ hơn là Language Arts and Literature), có thể tạm hiểu là Kĩ năng ngôn ngữ (một số người dịch là Ngôn ngữ nghệ thuật, không biết vì sao lại có sự nhầm lẫn như vậy!). CT và SGK 2018 của chúng ta lần này thiết kế theo mô hình CT và SGK của các nước phát triển như Hoa Kỳ, Australia, Hàn Quốc, Anh,... (Tôi không có điều kiện nghiên cứu kinh nghiệm của Pháp vì không biết tiếng Pháp và được biết gần đây Pháp không có đổi mới gì đáng kể về CT và SGK). Thật ra, khi xây dựng CT Ngữ văn 2018, phương án gọi tên môn học này là Tiếng Việt (bên cạnh một số tên khác như Quốc ngữ, Quốc văn, Việt văn,…) thay cho tên Ngữ văn đã từng được đặt ra, nhưng phương án đó bị gạt đi nhanh chóng, vì chắc chắn sẽ bị phản đối do nhiều người nghĩ rằng môn Văn bị loại bỏ. Công cuộc đổi mới CT và SGK không tạo được sự đồng thuận chỉ vì cái tên môn học thì rất “thất sách”. Có thể CT mới chết từ trong trứng nước chỉ vì cái tên mới của môn học. Vì vậy, tên gọi Ngữ văn đã được giữ nguyên như chúng ta thấy.

Thứ hai là nói về cách tiếp cận. Không phải ngẫu nhiên mà các nước phát triển đều thiết kế CT và SGK theo cách tích hợp như CT và SGK Ngữ văn 2018 của Việt Nam. Nói chính xác là chúng ta học hỏi kinh nghiệm của họ. Nếu tách Tiếng Việt và Văn học thành hai môn riêng biệt thì Việt Nam sẽ "không giống ai" trong thế giới tiến bộ mà lại rất giống với ta đã cách đây mấy chục năm. Việt Nam từng có hai môn riêng biệt như thế (có một khác biệt đáng kể là có cả môn Tập làm văn). Nhiều người cứ chỉ trích GS. Nguyễn Đăng Mạnh và GS. Trần Đình Sử đã làm hỏng môn học này vì gộp Văn và Tiếng Việt vào một môn chung là Ngữ văn. Nghĩ vậy là chưa hiểu thực tế xây dựng CT, biên soạn SGK và dạy học Ngữ văn ở Việt Nam và oan cho các ông. Chất lượng của môn học này trong nhà trường phổ thông không phải vì cái tên. Việc tích hợp hai “mảng” Tiếng Việt và Văn học là tất yếu, còn cái tên là Ngữ văn hay Tiếng Việt không làm thay đổi bản chất của môn học. CT Ngữ văn được triển khai như hiện nay ở Việt Nam hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển CT trên thế giới; cho đến nay tôi chưa thấy có cách nào khác tốt hơn. Các nội dung anh Thái Hạo hình dung cho môn Tiếng Việt (nếu được tách thành môn độc lập) như dạy về nghĩa và cách dùng từ ngữ (Hán Việt, tục ngữ, thành ngữ,...); dạy về cách viết câu, viết đoạn, viết các loại văn bản; dạy về cách đọc các loại văn bản khác nhau (hành chính, chính luận, nghệ thuật,...); dạy về cách bình luận, tranh luận, bút chiến, hùng biện,... thì đều đã có trong CT Ngữ văn 2018. Theo CT Ngữ văn mới này, hoạt động thực hành đọc, viết, nói và nghe được triển khai dựa trên nguồn ngữ liệu đa dạng, có văn bản văn học, văn bản nghị luận, văn bản thông tin (nghĩa là đủ các loại văn bản thông dụng mà con người tiếp xúc hằng ngày). Việc đọc tác phẩm văn học không chỉ giúp HS phát triển năng lực thẩm mỹ (chẳng lẽ có những người không cần đến năng lực này?), giáo dục cho các em nhiều phẩm chất quan trọng (tình yêu gia đình, lòng nhân ái, niềm trắc ẩn đối với tha nhân,...) mà còn giúp HS học hỏi được cách sử dụng ngôn ngữ một cách tinh tế; giúp HS mở rộng vốn sống, trải nghiệm để các em có cái để viết, để trao đổi, tranh biện,...; qua đó phát triển kĩ năng sử dụng tiếng Việt. Khó mà kể hết những tác dụng của việc học văn học. Nhưng chỉ chừng ấy thôi thì cũng đủ để khẳng định rằng, không thể coi Văn học chỉ là môn tự chọn, là môn năng khiếu hay môn có vị trí "ngang bằng" với Âm nhạc, Mỹ thuật,... được. Tách Tiếng Việt thành môn riêng còn có nguy cơ dạy nhiều kiến thức ngôn ngữ học, biến môn học này thành một món rất hàn lâm. Còn nếu đưa một phần Văn học vào đây thì có khác gì cách xây dựng CT 2018 như hiện nay đâu? Lại có thêm câu hỏi đặt ra: Vậy thì phần văn học nào thì đưa vào môn Tiếng Việt (bắt buộc), phần văn học nào thì làm thành nội dung của môn Văn học (tự chọn)? Lưu ý là CT Ngữ văn 2018 cũng đã có hệ thống chuyên đề (3 chuyên đề/năm) cho HS lựa chọn, trong đó có tám chuyên đề về văn học dành cho HS có năng khiếu, sở thích hay định hướng nghề nghiệp có liên quan đến môn Ngữ văn.

Tôi đồng tình với đánh giá sau của anh Thái Hạo: Trong thi cử, tiếng Việt đã bị xem thường và bỏ qua khi đánh giá chất lượng của bài thi, bằng chứng là tỉ lệ điểm dành cho kĩ năng diễn đạt của HS trong các bài thi theo đáp án chấm bài của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như của các sở lâu nay là không đáng kể. Nói rằng cách ứng xử đó đối với tiếng Việt góp phần dẫn đến tình trạng sử dụng tiếng Việt yếu kém đến mức “thảm họa” như hiện nay cũng không sai. Tuy nhiên, giải pháp cho vấn đề không phải là tách Tiếng Việt thành môn riêng như anh đề xuất.

Tiện thể, xin chia sẻ một ý nhỏ: Có người cho rằng Tiếng Việt là môn khoa học còn Văn học là môn nghệ thuật. Nói như vậy là hiểu chưa đúng về vai trò, vị trí của môn học này ở phổ thông. Chỉ có Việt ngữ học (học ở đại học) mới là môn khoa học. Chỉ có sáng tác văn chương (có thể học ở trường viết văn) mới thuộc lĩnh vực nghệ thuật. Còn môn Ngữ văn (hiểu nôm na là gồm Tiếng Việt và Văn học) ở phổ thông trước hết là môn học công cụ giúp HS phát triển kĩ năng đọc, viết, nói và nghe, đúng tính chất là môn học công cụ như anh Thái Hạo kì vọng. Thành công của việc đổi mới CT và SGK Ngữ văn lần này tùy thuộc vào rất nhiều thứ, nhưng riêng cách tiếp cận về CT và SGK mà chúng ta lựa chọn thì có thể khẳng định là đúng đắn. Dĩ nhiên, cách tiếp cận đúng đắn không đảm bảo sản phẩm chắc chắn sẽ tốt. Cụ thể, CT và các bộ SGK Ngữ văn kì này tốt hay chưa tốt cần chờ thêm thời gian, không ai dám quả quyết trước điều gì.

Vấn đề này nói cho hết nhẽ thì cần có một cuộc hội thảo như anh Thái Hạo mong muốn (thật ra đã từng có những cuộc trao đổi rộng rãi). Tuy vậy, hi vọng những gì tôi nêu ở trên sẽ là thông tin hữu ích cho những ai quan tâm và bàn luận về tên gọi môn học Ngữ văn cũng như mô hình CT và SGK mà chúng ta đang triển khai.

                                                                                                      B. M. H, 19/ 7/ 2024

                                                                                                  (Nguồn: FB '>'>Bùi Mạnh Hùng)

Đôi nét về nghệ thuật Trừu tượng

Nguyễn Man Nhiên

Nghệ thuật Trừu tượng (Abstract Art) là trào lưu hội họa ra đời vào đầu thế kỷ 20 và hoàn toàn cấp tiến vào thời điểm đó. Nghệ thuật Trừu tượng sử dụng ngôn ngữ thị giác từ những hình dạng, khuôn mẫu, màu sắc và đường nét để tạo nên một tác phẩm có thể tồn tại độc lập, ở một mức độ nào đó, với những tham chiếu có thực từ thế giới.

Cinephile tháng 7: Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh

Lê Hồng Lâm

 

Sau hai tháng liền bắt khán giả phải "sợ” với Bi, đừng sợ Sống trong sợ hãi – hai nỗi sợ mang tính hiện sinh trước sinh tồn của đời người với nhiều bế tắc và thậm chí cùng quẫn, tháng này, Cinephile mời các bạn thưởng thức một tác phẩm trong lành về làng quê và tuổi thơ nghèo: Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh.

Với tôi, đây là một bộ phim gợi nhớ cảm giác hoài hương và hoài nhớ tuổi thơ trong trẻo, được lãng mạn hóa qua những khung hình bay bổng và thơ mộng, dù đôi khi nó hơi đẹp và "long lanh" quá so với thực tại trong ký ức của tôi. Đó cũng là bộ phim chuyển thể thành công cuốn truyện dài của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, vì bên cạnh nỗi hoài hương đó, cả cuốn sách và bộ phim đều nhắn gửi một thông điệp đến tuổi nhỏ: làm sao để diệt trừ đi những sân hận và cái ác hồn nhiên bên trong tâm hồn một đứa trẻ. Trong bài review về bộ phim này trước đây, tôi đã từng viết một bài nói về ba lần ác của thằng Thiều với em trai mình cho đến lần cuối cùng nó thức tỉnh và nhận ra vẻ đẹp của tình thương và lòng cao thượng. Đó cũng là lúc nó nhận ra được vẻ đẹp của "hoa vàng trên cỏ xanh".

Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2024

Hoạ sỹ Lê Minh Phong và những bức tranh “tự thắp lên ánh sáng”

Thủy Tiên - Lê Minh Phong

clip_image002

Triển lãm “Nằm mộng” hồi đầu tháng 7 năm 2024 khép lại, Art Republik Vietnam đã có một cuộc phỏng vấn với hoạ sỹ Lê Minh Phong để hiểu thêm về cõi tranh liêu trai và mộng mị của anh. Ở đó, các nhân vật đã khấp khởi lạc quan hơn, mải miết đi trên hành trình tìm kiếm bản mệnh của mình.

Tự do báo chí

 George Orwell, https://www.orwellfoundation.com/the-orwell-foundation/orwell/essays-and-other-works/the-freedom-of-the-press

Quậy Nguyễn dịch

Đây là lời tựa cho cuốn Trại Súc vật, lần đầu tiên được in trong Phụ trương Văn học của tờ Times năm 1972, với lời dẫn của  Sir Bernard Crick. Bản thảo gốc được Ian Angus tìm thấy năm 1972.

Thứ Năm, 18 tháng 7, 2024

“Trong vô vàn” của Dạ Ngân, tôi chọn một

Mai Quỳnh

image  

Trong vô vàn là tập tản văn thứ bảy của nhà văn Dạ Ngân (NXB Hội Nhà văn + Tao Đàn). Tác giả đã cẩn trọng lựa chọn 50/268 bài báo trong vòng 5 năm rưỡi trước đây đưa vào tập này. Vì thế, hơn 200 trang tản văn đã hội tụ những chủ đề rõ nét.

Vòng đời đã khép – Tưởng niệm Phật tử Tâm Bồ Cao Huy Thuần

Nguyễn Tường Bách

image  

Kính thưa chị Liên, kính thưa tang quyến,

Kính thưa quí vị Tăng Ni, kính thưa quan khách tang lễ, các bạn thân mến,

Tôi lấy làm hân hạnh và cám ơn tang quyến được nói vài lời tưởng niệm anh Cao Huy Thuần. Được nói về một huynh trưởng vừa mới ra đi.

Thứ Tư, 17 tháng 7, 2024

Luận án của Thích Chân Quang: trường, thầy và trò

Nguyễn Hoàng Văn

 

Luận án tiến sĩ “Nghĩa vụ con người trong pháp luật Quốc tế và Pháp luật Việt Nam” của ông Vương Tấn Việt, tức “nhà sư” Thích Chân Quang, đang được mổ xẻ thẳng thắn và thấu đáo từ những chiều hướng khác nhau. Để tránh lập lại tôi sẽ đề cập đến mấy điểm bên lề chưa ai nhắc đến nhưng phần nào nói lên thực chất của “môi trường học thuật” và “giới nghiên cứu” liên quan đến luận án này.

Về “môi trường học thuật” thì, trong tiếng Anh ghi ở luận án, là “Hanoi Law University”. Tôi tự hỏi mình rằng đây là trò mạo xưng hay chỉ đơn thuần là “Ngu si hưởng thái bình”, là “Điếc không sợ súng”? [1]

Để là “university” thì phải đáp ứng tiêu chí đào tạo đa hệ và đa ngành: từ cấp cử nhân đến tiến sĩ, từ khoa học tự nhiên đến khoa học xã hội, đủ ngành kinh doanh, nghệ thuật, kỹ thuật, v.v. Vẫn có những “University of Technology” thí dụ như University of Technology Sydney (UTS) ở Úc thế nhưng những đại học này không chỉ chuyên về “technology” mà từ này chỉ nói lên ưu thế kỹ thuật bởi UTS còn bao gồm các ngành Luật, Y tế, Xã hội học, Nghệ thuật, v.v.

Nếu chỉ đào tạo đơn ngành thì, dù là đa hệ và lớn, danh giá đến đâu, cũng không mang tên “university”, như “London School of Economics and Political Science” (LSE) nổi tiếng của nước Anh mà nhiều người Việt thế hệ trước hay dịch là “Trường Kinh tế Chính trị Luân Đôn”.

Đây là một trong những đại học hàng đầu thế giới trên lĩnh vực khoa học xã hội bao gồm các ngành kinh tế, chính trị, xã hội, luật và nhân chủng học. Trường này đã đào tạo nên nhiều nhà lãnh đạo và nhân vật nổi tiếng trên thế giới khắp Á, Âu, Phi, Mỹ và, trong số đó, quen thuộc với chúng ta nhất, có lẽ là bà Thái Anh Văn, Tổng thống vừa mãn nhiệm của Đài Loan và cố Thủ tướng Lý Quang Diệu của Singapore.

Nổi tiếng và lớn như thế nhưng LSE chỉ mang tên là “School”. “Đại học Luật Hà Nội” là một cơ sở đào tạo của Bộ Tư pháp và, rõ ràng, tầm cỡ, thế giá và lĩnh vực đào tạo không thể nào sánh ngang với LSE, thế như về danh xưng thì cao hơn hẳn: một bên là “university”, một bên là “school”.

Ở Hà Nội cũng có một “University of Law” khác, như là thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội, trong tiếng Anh là “Vietnam National University, Hanoi” (VNU). Nếu Đại học Quốc gia Hà Nội là một “university” thì những đại học thành viên, trong tiếng Anh, phải là cái gì đó khác chứ không phải là “university”. Thế nhưng VNU có gần một tá thành viên là “university”, theo website chính thức:

-       “University of Science” (Trường Đại học Khoa học Tự nhiên)

-       “University of Social Sciences and Humanities” (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn)

-       “University of Languages and International Studies” (Trường Đại học Ngoại ngữ)

-       “University of Engineering and Technology” (Trường Đại học Công nghệ)

-       “University of Economics and Business” (Trường Đại học Kinh tế)

-       “University of Education” (Trường Đại học Giáo dục)

-       “University of Medicine and Pharmacy” (Trường Đại học Y Dược)

-       “Vietnam Japan University” (Trường Đại học Việt - Nhật)

-       “University of Law” (Trường Đại học Luật).

Cha mẹ cũng là “university”, con cái thành viên cũng là “university”, thế là thế nào? Nghe cũng như câu đồng dao của trẻ em “Kỳ nhông ông kỳ đà, kỳ đà cha cắc ké, cắc ké mẹ kỳ nhông”!

Tại Tây phương, các “university” có nhiều thành viên trong những danh xưng “school”, “college”, “faculty” cùng các viện (institute) hay trung tâm nghiên cứu (center).

Đại học Quốc gia Úc (The Australian National Univerity: ANU) là một đại học danh giá, từng đạt vị trí thứ 30 trong danh sách những đại học hàng đầu thế giới: các trường thành viên của ANU đều mang danh “college” và “school”, thí dụ “College of Arts & Social Sciences”, “College of Business & Economics” hay “Medical School”, v.v. Havard University là đại học hàng đầu thế giới và chẳng một thành viên nào mang danh xưng “university”, tất cả đều là “School” hay “Institute”, thí dụ như trường luật “Harvard Law School”, trường y “Havard Medical School”, v.v.

Chỉ có nước CHXHCNVN mới “hơn người” với các “University of Education”, “University of Law”, “University of Medicine and Pharmacy”, v.v. Nếu đọc cái danh sách “oai phong” này thì chắc chắn giới hàn lâm ngoại quốc sẽ lắc đầu rồi… cười!

Và như có thể thấy trong danh sách nêu trên, trong tiếng Việt, họ phân biệt bằng cách gọi đại học mẹ là “ĐẠI HỌC” và cơ sở thành viên là “TRƯỜNG ĐẠI HỌC”.

Trông cũng giống như tiền tố “sub” trong tiếng Anh:

-         Committee: ủy ban // Sub-committee: tiểu ban, phân ban

-         Đại học: đại học mẹ // Trường đại học: đại học con, đại học thành viên

nên, ở đây, phải chăng từ “TRƯỜNG” đã nghiễm nhiên là một “tiền trí từ” với chức năng hạ giảm tầm vóc của danh từ “đại học” đi sau?

Gì thì gì, có thể nói rằng với cách phân loại “đại học / trường đại học” kỳ quái này, chính Bộ Giáo dục & Đào tạo cũng đã góp tay vào việc làm… hỗn loạn tiếng Việt.

Bây giờ thì đến giới nghiên cứu, là Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Minh Đoan và Tiến sĩ Trần Kim Liễu trong vai trò giáo sư hướng dẫn, Thích Chân Quang trong vai trò nghiên cứu sinh.

Mở đầu luận án là lời giới thiệu “Thông tin về những điểm mới của luận án”, đứng tên bộ ba Đoan, Liễu, Việt (Thích Chân Quang). Có nghĩa là bộ ba là đồng tác giả, hay ít ra người soạn, người duyệt. Sau đây là đoạn đầu tiên:

“Là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống về nghĩa vụ con người trong Pháp luật quốc tế và Pháp luật Việt Nam. Luận án có những đóng góp về mặt khoa học như sau:”

Như có thể thấy, “câu” đầu tiên là một câu què và họ đã cẩu thả ngay từ lúc nhập đề. Để nó có nghĩa thì phải thay cái dấu chấm bằng một dấu phẩy:

“Là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống về nghĩa vụ con người trong Pháp luật quốc tế và Pháp luật Việt Nam, luận án có những đóng góp về mặt khoa học như sau […]”

Tuy nhiên bản tiếng Anh thì khác:

“This is the first scientific work to study human responsibilites in international and Vietnamese law intensively, comprehensively, and systematically. This thesis contains new scientific contribution as follows:”

Như vậy thì phần tiếng Việt, viết sát theo bản tiếng Anh, phải là:

“Đây là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống về nghĩa vụ con người trong Pháp luật quốc tế và Pháp luật Việt Nam. Luận án có những đóng góp về mặt khoa học như sau […]”

Ba thầy trò này làm tôi nghĩ đến một luận điểm của Phan Khôi trong cuộc tranh luận về tiếng Việt gần một thế kỷ trước. Trong bài báo “Viết chữ Quốc ngữ phải viết đúng” trên tờ Phụ Nữ Tân Văn số 31, ngày 5/12/1929, Phan Khôi viết:

“Chẳng những một mình ông, tôi thấy có nhiều người cũng nói như ông vậy. Họ nói: chữ quốc ngữ viết thế nào cũng được, không cần phân biệt t với c, có g với không g. Nói vậy thì sao họ học chữ Pháp họ lại viết theo từng nét? […] Tôi mong rằng về sau đừng có ai nói như ông nữa mà làm cho tôi thương tâm quá! Vì trong sự này tôi thấy ra cái tánh nô lệ của người ta: các anh bồi từ phòng khách đến phòng ăn, phòng ngủ của Tây thì các anh giữ quét dọn sạch sẽ luôn, còn chỗ xó của vợ chồng anh ấy nằm thì tha hồ là dơ dáy.” [2]

Nhưng đừng vội tưởng rằng khi thoái mái làm dơ tiếng Việt và nơm nớp làm sạch tiếng Tây vì bị sợ bị chê dốt, luận án sẽ cực kỳ chuẩn xác với tiếng Anh. Trên thực tế nó sai một cách ngô nghê, thậm chí sai ngay trong khái niệm căn bản của đề tài là “Quyền” và “Nghĩa vụ”. Phần mở đầu luận án có đoạn (tôi gạch dưới những từ cần góp ý):

“Trong lý luận cực kỳ cơ bản của pháp luật, Quyền và Nghĩa vụ là hai mặt của một vấn đề. Nếu con người cho rằng mình có Quyền thụ hưởng (enjoyment) thì cũng đồng nghĩa với việc phải có Nghĩa vụ cống hiến (dedication)…”

Không thể tưởng tượng nổi!

Thứ nhất, Thích Chân Quang hoàn toàn hiểu sai từ “enjoyment”. Đó chỉ là việc “hưởng thụ” những thứ như một ly cà phê ngon trong một buổi sáng đẹp trời sau vườn nhà, có nhạc hay, có những người bạn thân thiết, v.v. Còn ý niệm “thụ hưởng” mà tác giả muốn đề cập như là quyền lợi của một công dân, mặt đối lập của “nghĩa vụ cống hiến” thì phải là “entitlement”.

Tại nước Úc tôi đang sống thì “entitlement” là những quyền lợi mà công dân Úc được nhận như trợ cấp sinh viên, trợ cấp giữ trẻ, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp y tế, trợ cấp thiên tai, trợ cấp dưỡng lão v.v. Năm 2014, khi chính phủ của Đảng Tự Do mạnh tay cắt giảm các khoản trợ cấp xã hội, yêu cầu công dân phải chia sẻ gánh nặng với chính quyền, ông Joe Hockey, nguyên Bộ trưởng Kinh tế liên bang, tuyên bố: “The age of entitlement is over”. [3]

Thứ hai, cái gọi là “nghĩa vụ cống hiến” của ông Thích Chân Quang, thực ra, nên gọi là “nghĩa vụ / bổn phận” và, trong tiếng Anh, phải là “obligation”, hoàn toàn không phải là “dedication”.

“Dedication” ngụ ý “cống / dâng hiến” với một ý nghĩa cao thượng, xuất phát từ trái tim, từ lý tưởng sống, từ tâm nguyện của từng con người. Khi chúng ta nói nhà ái quốc Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đã “cống hiến” cả cuộc đời cho đất nước; Bác sĩ Alexandre Yersin đã “dâng hiến” cả cuộc đời mình cho khoa học và cho đất nước Việt Nam; Bác sĩ kiêm nhà thần học và nhạc sĩ Albert Schweitzer, Nobel Hòa Bình 1952, đã cùng vợ “cống hiến” cả cuộc đời cho người dân Gabon ở Phi châu; nhà hoạt động nhân quyền Kailash Satyarthi trao huy hiệu giải Nobel Hòa Bình 2015 cho Tổng thống Ấn Độ để “dâng hiến” vinh dự cao quý này cho tổ quốc mình, v.v., đó mới là “dedication”. Còn nếu người dân có bổn phận phải đóng thuế, phải tham gia “nghĩa vụ lao động / quân sự”, v.v. thì lại là “obligation”.

Cả việc chuyển ngữ hai ý niệm cốt lõi của đề tài nghiên cứu mà Thích Chân Quang thể hiện một thứ tiếng Anh… ăn đong. Phải chăng ông sư này chỉ đơn giản tra từ điển, tìm thấy những từ liên quan thì vớ ngay, không mảy may nghĩ rằng trên đời này có nhiều kiểu “thụ hưởng” hay “cống hiến” khác nhau?

Mà đâu chỉ là tiếng Anh. Riêng trong đoạn dẫn trên thì cách vận dụng tiếng Việt cũng quá kém, từ những ý niệm như “nghĩa vụ cống hiến” thay vì “bổn phận” cho đến cụm từ “lý luận cực kỳ cơ bản”. Đã gọi là “lý luận” thì phải có tính hệ thống, mà đã mang tính hệ thống thì làm sao có thể cô đọng đến mức “cực kỳ cơ bản”? Chúng ta có thể gọi là “ý niệm”, “khái niệm”, “quy luật” hay “nguyên tắc cực kỳ cơ bản”, nhưng bảo “lý luận cực kỳ cơ bản” thì hoàn toàn không ổn nếu không nói là rất sai về mặt logic!

“Cha nó lú còn có chú nó khôn”, nếu Thích Chân Quang sai thì vẫn còn có hai ông thầy làm công việc “hướng dẫn” chứ? Tư cách học thuật của họ ở mức nào mà lại để lọt những cái sai “cực kỳ cơ bản” như thế?

Nhưng trên nền tảng của tiêu chí hàn lâm dễ dàng gây tranh cãi này, họ lại bốc ra một thứ “khẩu khí” cao ngất trời xanh. Trong lời giới thiệu “cái mới” của luận án, chúng ta nhận ra một tham vọng mang tầm cỡ thế giới:

“Thứ sáu, đặc biệt là luận án xin được đề xuất dự thảo bản ‘Tuyên ngôn về Nghĩa vụ con người’ với những nội dung gợi ý phong phú, toàn diện và thuyết phục để kiến nghị Liên hợp quốc ban hành với mong muốn cộng đồng quốc tế, cũng như mỗi quốc gia hãy nhìn nhận và hành động đúng hơn đối với vấn đề Nghĩa vụ con người trong Pháp luận quốc tế và Pháp luật quốc gia vì một thế giới hạnh phúc, an bình.”

Và, trong phần kết của luận án:

“Trong những giải pháp mà luận án đề ra để nâng cao vai trò của Nghĩa vụ con người cũng như thúc đẩy việc thực thi có hiệu quả Nghĩa vụ con người, để chung tay xây đắp một thế giới văn minh đạo đức và phát triển bền vững, đặc biệt chúng tôi đề xuất bản Tuyên ngôn Toàn cầu về Nghĩa vụ con người. Chúng tôi tin rằng bản Tuyên ngôn này sẽ đáp ứng tính khoa học, lương tâm đạo đức của con người, cùng sánh vai kết hợp với Tuyên ngôn Quốc tế về Quyền con người tạo thành đôi cánh vững chắc cho thế giới bay lên.”

Thật không có gì nực cười hơn!

 “Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền” (Universal Declaration of Human Rights: UDHR) được Ủy ban dự thảo của Liên Hiệp Quốc soạn thảo cả năm trời (1948). Ủy ban này đặt dưới sự lãnh đạo của Eleanor Roosevelt, phu nhân cố Tổng thống Franklin D. Roosevel, có sự góp mặt của nhiều nhà luật học hay triết gia uyên thâm, những người rất từng trãi và tiếng tăm trong lĩnh vực ngoại giao và nhân quyền. Họ đến từ nhiều quốc gia khác nhau, với uy tín học thuật mang tầm thế giới, ấy vậy mà Ủy ban còn phải tham vấn rất nhiều học giả khác, cẩn thận từng từ, từng câu; thí dụ từ “nhân phẩm” (dignity) mà còn tranh luận dằng dai. [4]

Còn Thích Chân Quang? Đúng nghề thì ông đi giảng đạo mà cũng giảng sai Phật pháp, bị hầu như cả nước phản đối; nghiên cứu học thuật thì tùy tiện, tùy hứng, tiếng Anh chỉ ở mức ăn đong, tiếng Việt thì như đã thấy, “môi trường học thuật” thì chẳng chút tiếng tăm nào trong khu vực chứ đừng nói quốc tế. Vậy thì họ lấy tư cách nào mà đòi công bố một tuyên ngôn có thể “sánh vai kết hợp” với UDHR làm “đôi cánh vững chắc cho thế giới bay lên”?

Đây, nói theo nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, là “thủ dâm chính trị”. Còn nói theo nhà thơ ngụ ngôn Pháp Jean de La Fontaine trong bài “Con nhái muốn to bằng con bò” mà Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch sang tiếng Việt là “Ngậm hơi, cổ bạnh, bụng trương”:

Tức mình chị nhái oắt ta

Lại phồng bụng quá vỡ ra chết liền

Ở đời lắm kẻ thật điên

Sức hèn lại muốn tranh tiên với người

Tuy nhiên, từ một góc nhìn khác, Thích Chân Quang tỏ ra không điên mà rất khôn lanh, rất thực tế khi những ý kiến trong luận án gãi đúng vào chỗ rất ngứa của nhà cầm quyền. Nhà cầm quyền lúc nào cũng đánh tráo mình với tổ quốc để đòi hỏi người dân phải cống hiến, phải tiết chế việc đòi hỏi dân quyền, là điều mà chúng ta thường nghe từ mồm đám dư luận viên: “Đã đóng góp được gì cho đất nước chưa mà đòi hỏi này, đòi hỏi kia, phê phán này, phê phán nọ!”

Nói cách khác thì đó là một luận án phò chính thống. Tuy không thể sánh ngang về tầm vóc, Thích Chân Quang cũng giống Trương Nghệ Mưu lúc làm phim Anh hùng để biện minh và ca ngợi Tần Thủy Hoàng, xem tên bạo chúa “phần thư khanh Nho” này là người thống nhất thiên hạ, chấm dứt tình trạng máu chảy đầu rơi, đem lại ổn định. Đây luôn là lý lẽ của bọn độc tài, nhân danh sự ổn định để dập tắc những khát vọng cải cách, để cấm công dân phản kháng, đòi hỏi quyền lợi và nhân phẩm.

Với những gì mà chúng ta chứng kiến thì, có thể nói, Thích Chân Quang đang “tranh tiên”, đang gây sự với những con người đường hoàng, tử tế: những người Việt và những Phật tử tử tế, những nhà nghiên cứu học thuật tử tế. Và khi công bố một “nghiên cứu” phò chính thống như vậy, nhà sư này làm tôi nghĩ ngay đến ngạn ngữ: “Làm đĩ chín phương cũng chừa một phương để lấy chồng”.

 

Tham khảo:

 

  1. https://luanvan.moet.gov.vn/?page=1.33&view=38582
  2. Dẫn theo Nguyễn Ngọc Thiện & Cao Kim Lan (2002.) Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX – tập 1, NXB Lao Động, trang 106.
  3. https://www.smh.com.au/politics/federal/hockey-calls-end-to-age-of-entitlement-20140203-31xgl.html
  4. https://www.un.org/en/about-us/udhr/drafters-of-the-declaration

 

Chất lượng đề thi Ngữ văn và những câu hỏi về trách nhiệm

Thái Hạo

                                                                                                 Im lặng có phải là vàng?

Môn Văn là môn thường được/ bị bàn luận nhiều nhất sau mỗi kỳ thi. Lý do có vẻ khá đơn giản: vì văn, hiểu theo nghĩa rộng, là việc sử dụng tiếng mẹ đẻ, và bất kỳ ai là người Việt thì cũng đang nói và đọc tiếng Việt hàng ngày. Vì thế, ai cũng ít nhiều có “thẩm quyền” về môn này, hay ít nhất là có một sự quan tâm. Bởi thế, ta nên thấy rằng việc xã hội thường bàn luận sôi nổi về đề Văn cũng là điều dễ hiểu, và có phần lành mạnh nữa. Tuy nhiên, đây không phải lý do duy nhất, mà vấn đề chủ yếu nằm ở chỗ khác: chất lượng của đề thi. Trong bài viết này, chúng tôi xin lấy dẫn chứng ngẫu nhiên, là ba đề thi: Đề tuyển sinh vào lớp 10 của tỉnh Thanh Hóa, đề thi tuyển sinh lớp 10 trường chuyên KHXH&NV Hà Nội, và đề thi Tốt nghiệp THPT 2024. Ở bài viết này, chúng tôi cũng chỉ chọn bàn về chất lượng ngữ liệu và đề cập những vấn đề có liên quan đến nó.

Lịch sử truyền giáo và chữ quốc ngữ (6)

 Thụy Khuê

Chương 3

Cristoforo Borri

III. Quan Khám lý Trần Đức Hòa và cơ sở Nước Mặn

clip_image002

 

Cristoforo Borri dành hai chương III và IV, trong Phần II của Ký Sự Đàng Trong để viết về nhân vật mà ông quý trọng và tôn vinh: quan Khám lý Trần Đức Hoà – ân nhân thứ hai của đạo Chúa (sau Minh Đức Vương Thái Phi) – là người đã cứu sống cha Buzomi và mời các giáo sĩ về vùng ông cai trị, năm 1618, trong cơn sóng gió, các giáo sĩ phải lẩn tránh, ông đã cấp nhà ở và dựng nhà thờ cho họ ở Quy Nhơn, tạo ra cơ sở đạo Chúa ở Nước Mặn.

Thơ Đặng Tiến (Thái Nguyên)

CHÂN DUNG 55 – NGUYỄN TUÂN

 

[Chưa chắc đã cần cho bạn nên không cãi cự với ai]

÷÷÷÷÷÷

Tôi cứ băn khoăn

Băn khoăn mãi không thôi

Khi đọc ai đó từng khen "Vang bóng một thời" đã gần như hoàn mĩ

Lời khen thật lòng không vụ lợi như một dấu khuyên son...

Thế rồi

Ai đã dắt lối?

Ai đã đưa đường?

Để ra nông nỗi...

SÔNG ĐÀ dở ngô dở ngọng dở ông dở thằng làm dáng

Thứ Ba, 16 tháng 7, 2024

Một người tài hoa bậc nhất đã về với đất Mẹ

Nguyễn Văn Hiệp

 

Sáng nay, thân quyến, bạn bè, đồng nghiệp đã đến tiễn đưa nhà phê bình Đặng Tiến về với đất Mẹ, xã Hòa Tiến, Hòa Vang, Đà Nẵng, trong giai điệu bài "Cát bụi" của Trịnh Công Sơn. Bốn năm trước, tôi cũng đã nghe giai điệu của bài này cất lên thật buồn trong buổi vĩnh biệt Chu Văn Sơn, cũng là một người tài hoa, tình nghĩa.

Gia đình muốn Hiệp Văn phát biểu đôi lời trong buổi tiễn đưa anh, sau những lời phát biểu của gia tộc Đặng, của võ sư Nguyễn Văn Dũng, nhà nghiên cứu văn học Bửu Nam, họa sĩ Đặng Mậu Tựu, chị Hoàng Kim Oanh, và nhiều người bạn thân nữa của anh Đặng Tiến.

Sau đây là phát biểu của Hiệp Văn, trong nỗi thương tiếc vô hạn nhà phê bình tài hoa bậc nhất của văn học Việt Nam đương đại.

Tế Hanh: “Đời tôi thực hay mộng / Đời tôi buồn hay vui”

Ý Nhi

clip_image002

1.

Trong các nhà thơ đương đại của Việt Nam, Tế Hanh có dáng vẻ của một thi sĩ hơn cả, không phải chỉ bởi “đôi mắt nồng nàn lạ” (Hoài Thanh - Hoài Chân: Thi nhân Việt Nam) mà còn là, hay chính là, bởi vẻ buồn ngơ ngác của ông, không phải chỉ trên vẻ mặt mà cả trong cách hành xử, ứng đối của ông với mọi người, mọi sự.

Những giọt ký ức lấp lánh: - Hiền ơi! Thầy đây.

Nguyễn Thị Hiền

image

Nhà văn KIM LÂN (tác giả: Nguyễn Thị Hiền) Sơn mài 50cm × 70cm

Tất cả các gia đình trên Đồi Cháy đều đói. Không đủ gạo để ăn, mẹ tôi và các bác trồng ngô, trồng khoai, trồng sắn. Vẫn không đủ ăn.

Bọn trẻ con chúng tôi thi nhau đi kiếm rau dền, rau sam, rau má, rau rệu... mọc ở ven ruộng, ven đường đi, rồi lấy củ chuối ăn độn thêm. Mỗi chúng tôi chỉ được ăn một bát, chưa kịp no đã hết cơm rồi, mà đâu có phải là cơm không, có cơm độn ngô, khoai, sắn là may, đôi lúc còn phải ăn cả củ chuối và rau đi mót về ăn thêm cho đỡ đói.

Đóng góp vào việc liệt kê thư mục Cao Huy Thuần

Nguyễn Ngọc Giao

 

Cũng như anh chị em Ban biên tập Diễn Đàn, tôi được gia đình anh Cao Huy Thuần và thầy Thích Thiện Niệm thông báo về diễn biến bệnh tình của anh. Lo mừng xen kẽ nhau nhiều ngày, cho đến nửa đêm chủ nhật 7.7 khi được chị Mỹ Lộc (California) và thầy Thiện Niệm (Paris) báo tin anh tạ thế. Vốn là người trong ban biên tập phải viết bài về bạn bè từ trần, lại được chị Thúy Nga thúc giục viết bài cho kịp số Tuổi Trẻ Cuối Tuần (ra ngày 14.7), tôi đã bắt đầu viết được mấy đoạn. Nhưng rồi tinh thần không một phút yên tịnh, công việc dồn dập, viết tiếp không nổi. May thay, ngay từ ngày thứ hai 8.7 báo chí trong nước đã đưa tin, đăng tiểu sử, rồi những bài tưởng niệm rất cảm động của bạn bè khắp nơi, trong nước và ngoài nước, xuất hiện trên báo chí và nhất là các mạng xã hội. Diễn Đàn đã đăng trên trang chính, liệt kê trên mục ZOOM, và giới thiệu khá nhiều bài trong mục Thấy Trên Mạng.

Thứ Hai, 15 tháng 7, 2024

Tiếng Việt từ TK 17: các cách dùng bên kia, hôm kia, hôm kìa, hôm kiết, hôm kiệt, ngày kia, ngày kìa – tương tác giữa thời gian và không gian” (phần 46)

Nguyễn Cung Thông[1]

 

Phần này bàn về các cách dùng bên kia, hôm kia, hôm kìa, hôm kiết, hôm kiệt, ngày kia, ngày kìa từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm cùng thời. Phần sau mở rộng chủ đề bàn thêm về tương quan giữa không gian và thời gian trong tiếng Việt, đặc biệt là từ lăng kính liên hệ gia đình/xã hội qua cách dùng đại từ nhân xưng. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), ĐNA (Đông Nam Á), LM (Linh Mục), CG (Công Giáo), PG (Phật Giáo), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), P (tiếng Pháp), A (tiếng Anh), L (tiếng La Tinh), VNTĐ (Việt Nam Tự Điển/Hội Khai Trí Tiến Đức), ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị), v.v. Kí, kì còn có thể viết là ký/kì (Kí ~ tên người, tên sách) và trang/cột/tờ của VBL được trích lại từ bản La Tinh để người đọc tiện tra cứu thêm. Liên hệ Hán Việt hay tương tự - ghi nhận trong bài - không nhất thiết khẳng định nguồn gốc của các từ liên hệ (có gốc Việt cổ, Thái cổ, Chăm cổ hay Hán cổ).

Đường về thủy phủ: Khi mặt trời mọc là mình đến nơi

Nina Hòa Bình Lê

clip_image002

 

Cuốn sách này, như chính tựa đề, Đường về thủy phủ, đã báo hiệu điều gì đó huyễn hoặc. Vì vậy, bạn đọc nếu chờ đợi một câu chuyện tiểu thuyết thông thường có đầu đuôi, có lô-gích, có sự tình chặt chẽ hợp lý, xin gấp sách lại, hãy tìm đọc một cuốn khác.

Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2024

Lê Huỳnh Lâm hay Nỗi cô đơn của Thế hệ Hậu-gãy-cầu

Đặng Quốc Thông

 

1.

Kỳ về Việt Nam vừa rồi, chúng tôi ghé Huế, một phần vì rất lâu rồi không ghé, phần khác là để thăm anh Nguyễn Phúc Vĩnh Ba và tìm hiểu thêm về một việc. Lần đầu đi uống cà phê với anh Vĩnh Ba, anh hẹn ra quán Spatel d’Annam, có lẽ là quán cà phê đẹp nhất ở Huế, ở ngay bên Đại Nội, lịch sự, rộng, thoáng, mát mẻ, nhiều khách nhưng không ồn ào. Lần thứ hai hẹn đi uống cà phê, anh Vĩnh Ba hỏi muốn gặp ở đâu. Trong đầu tôi đã có hai quán: Quán Rơm Coffee and More ở 148 Lương Ngọc Quyến và Gác Trịnh tại 19, tầng 2, Nguyễn Trường Tộ. Vì chưa dám chắc về tình cảm của anh đối với người nhạc sĩ phản chiến gốc Huế, tôi đề nghị với anh quán thứ nhất, nhưng anh gạt đi. Thấy vậy, tôi đề nghị gặp ở Gác Trịnh, anh vui vẻ bảo: “Được đọ”.