Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 10 tháng 7, 2025

Người chết sống lại như mặt trời

Trần Thùy Mai

(Đọc tiểu thuyết của Nguyễn Đức Tùng, nhà xuất bản Phụ Nữ 2025)

Cách đây nhiều năm, khi đọc thơ Nguyễn Đức Tùng, tôi đã có dự cảm rằng một ngày kia Tùng sẽ viết tiểu thuyết.

Bởi, mỗi bài thơ của anh giống như cánh cổng mở ra một khu vườn đầy bí ẩn. Người đọc thơ bị hút theo một sự thật thấp thoáng trong đó, cho đến khi đi lạc mà không bao giờ cùng đường. Tôi đã nghĩ: thế nào cũng có ngày những bí ẩn ấy tự thoát ra khỏi độ nén của thơ, và sẽ hiển lộ thành những chương hồi lẫm liệt.

Và quả nhiên, hôm nay tôi được đọc “Thuyền”, tiểu thuyết mới của Tùng.

Tiểu thuyết gồm 55 chương, kể về một chuyến vượt biển từ bến Ninh Kiều, đến Songkhla, Thái Lan, với hai nhân vật trung tâm: Tôi và Liên Hương. Có thời gian, không gian và nhân vật cụ thể, nhưng không phải chỉ có thế.

Sự kiện thuyền nhân vượt biển, vào thời điểm này, là một đề tài không dễ viết! Khó, bởi vì, rất nhiều sự việc thảm khốc, chỉ cần tường thuật bằng lời nói thông thường, đã đủ sức lay động vượt xa khả năng của văn chương hư cấu. Nhà văn sẽ không góp thêm được gì nhiều nếu chỉ đơn thuần kể lại! Bởi vậy, trong tiểu thuyết này, Nguyễn Đức Tùng đã không đi theo lối tự sự thông thường như nhiều người đi trước: Cung Tích Biền, Lê Nam... “Thuyền” của Nguyễn Đức Tùng không phục dựng hành trình vượt biển, mà chủ yếu dựng lại thế giới tâm cảm của nhân vật: trước, trong khi, sau, và rất nhiều năm sau chuyến đi.

Dù xương sống của câu chuyện là một chuỗi tình huống nguy nan đến nghẹt thở, nhưng tác giả không chọn cách thắt gút kịch tính của một bộ phim hành động, mà nhấn mạnh vào cảm nhận của nhân vật trung tâm: ý nghĩa của lựa chọn và dấn thân, huyền nhiệm của sự sống và cái chết, sự hiện hữu của linh hồn, sự liên thông giữa những thế giới có thể và không thể nhìn thấy.

Từ những dòng đầu tiên, tác giả đã gợi ý về một Cõi:

Có một nơi trên trái đất ở đó người ta không chết, họ chỉ biến mất.

Bạn hỏi: tôi có đi được không?

Không.

Có.

Người Việt ta thường nói về những Cõi. Cõi trên, cõi ngoài, cõi trời, cõi nhân gian…Đọc tiểu thuyết của Tùng, ta linh cảm được nhiều Cõi, chúng cùng tồn tại, mà nơi chúng hiển lộ chính là ký ức dai dẳng, là những ám ảnh bám níu, những linh cảm mong manh nhưng vô cùng xác tín.

Chuyến vượt biển diễn ra chỉ trong mười mấy ngày, nhưng thời gian của “Thuyền” là nhiều thập kỷ. Trong những người cùng đi, có người đến bến, có người không thể đến, nhưng tất cả họ đều tồn tại. Như nhân vật Liên Hương, dù đã chìm xuống biển sâu ở chương 15, nhưng cô vẫn có mặt cho đến chương cuối  của tác phẩm  (Gọi Hồn).

 “Thuyền” chứa đựng những sự thật đau đớn trong hành trình vượt biển: bão tố, đói khát, lạc đường trên biển cả, trẻ con chết vì kiệt sức, đàn ông bị hải tặc giết, phụ nữ bị cưỡng hiếp, bị bắt cóc … Nhân vật Xíu  mười bốn tuổi, hấp hối trong cơn sốt, “bò đi bò lại trên sàn thuyền, mất ngôn ngữ, nó cởi hết áo ra, có lẽ vì nóng quá, nó muốn chống lại cái chết đang đến gần. (…) Nhìn gương mặt của nó, tôi biết rằng Xíu đang đi qua một đoạn đường khổ ải chỉ có một mình nó, không ai ở chung quanh, không ai biết, không ai nhìn thấy điều gì đang xảy ra, chỉ có nó nhìn thấy điều ấy, những cạm bẫy, những thú dữ, những lửa, chỉ mình nó biết. Con người một mình đi tới cái chết, hoàn toàn cô độc. Thằng bé đang đi. Nó mới mười bốn tuổi. (Chương 20, Nhỏ Xíu)

Lương thực cạn kiệt: “ Cơn đói hành hạ chúng tôi. Nhiều người gỡ những mảnh gỗ mục trên mạn thuyền ăn cho đỡ đói. Người ta bắt chước nhau. Người ta ăn những mảnh vải vụn. Người ta nhai bất cứ thứ gì mềm có thể nhai được. Đôi khi một người may mắn nhai trúng con hàu bám vào ván thuyền. Tôi biết nhiều người đang nghĩ, nếu có người chết, họ sẽ ăn thịt người ấy. Tôi nghe nói có những thuyền vì đói quá người ta giết lẫn nhau để ăn thịt. Tôi canh chừng điều ấy.” (Chương46, Mưa Phải Rơi Trên Mỗi Mặt Người)

Lãm, người đàn ông mất hết vợ con, đến trại tị nạn Songkhla một mình với tóc dài quá vai, râu tua tủa, quên mất tiếng người, trí óc đã trở thành nửa điên nửa tỉnh. Có con chim lớn vụt sà xuống bên cửa lều, đột ngột và mạnh mẽ, như một giấc mơ. Lãm bắt được chiếc lông vũ trên tay, đêm ngủ, anh đặt dưới gối, khi đi ra ngoài, anh gài lên ngực, cảm nhận sự ấm áp: màu lông vũ đen nhánh gợi nhớ đến mái tóc của đàn bà,màu tóc của người chết đuối.(Chương 23, Đảo)

Một ngày trong trại, trên bờ biển, có con búp bê dạt vào mép cát, nhỏ bằng bàn tay, dính đầy dầu mỡ của tàu thủy. “Tôi dùng cát kỳ cọ lần nữa, rửa sạch vết dầu mỡ, tôi ném con búp bê  thật cao lên trời rồi đưa tay bắt lấy, tưởng tượng nghe được tiếng của một đứa bé gái năm hay bảy tuổi. Khi thì tiếng cười như nắc nẻ, khi thì tiếng khóc của nó trên một chiếc thuyền…”(Chương 30, Búp bê)

Mỗi chương của “Thuyền”, thực ra là một bài thơ, một bi ca.  Có chương tỉ mỉ từng chi tiết, có chương chỉ phác thảo vài hình ảnh, mỗi bi ca đều chứa đựng một số phận, một khía cạnh của tính người. Bởi vậy, đừng đọc nhanh quá, hãy đọc chậm, từ tốn, để thấm được vào lòng những cảm xúc nghẹn ngào nén lại trong từng chữ.

Mười sáu tuổi, mang thai vì bị cưỡng hiếp nhiều lần, khi vào trại tị nạn, được hỗ trợ phá bỏ, cô gái im lặng từ chối. “Người thiếu nữ ngồi đó, trên gốc cây cổ thụ gãy, giữa đám cỏ lau trắng xóa, phất phơ, cô đã ngừng hát, cúi xuống chậm rãi nhai những mảnh gạch vụn màu son đỏ, cố nuôi sống cái thai của kẻ thù đang lớn lên, lớn lên trong bụng mỗi ngày, như tình yêu khốn khổ, mù lòa, nguyên thủy của người mẹ.”

Hình ảnh chiếc bụng mang thai chờ ngày sinh nở, lại xuất hiện ngay bên  những nấm mộ mới chôn bên hàng rào kẽm gai. “Người mới chết, xương còn chưa rã mục. Đom đóm bay nhiều quá, xuyên qua lửa lân tinh.” Những con đom đóm bay xuyên qua ánh sáng ma trơi, tạo thành một mảng sáng, làm sống dậy ký ức về ngôi làng tuổi thơ đã bị phá hủy hoàn toàn trong chiến tranh: một cảnh quang im lặng, tất cả các ngôi nhà đã đổ, tất cả mọi người đã chết. “…tôi muốn gọi tên những người đã chết, tại sao người chết không trả lời tôi? Nước mắt tôi chực ứa ra khi nghĩ đến họ. Nhưng trước mắt tôi bỗng một con đom đóm bay ra lập lòe từ trong bụi rậm. Rồi hai con, rồi ba con. Chúng bay ra nhiều hơn nữa (…)Thứ ánh sáng nhỏ bé ấy, nhắc nhở tôi về sự dẫn đường. Ánh sáng ấy như ngọn đèn xa lắc trong sương cuối dốc ngày về, như tàn lửa đỏ khói nhang trước mộ người thân. Ánh sáng ấy là ngôi nhà, là quê hương tự do, đầy lòng an ủi, trong thế giới tàn nhẫn hữu hình và vô hình, là nơi tôi trở lại, sau cùng. Ánh sáng ấy là ký ức của tình yêu.”

Đàn đom đóm ấy là ý niệm về lửa sống mong manh trên tro tàn của chết chóc. Ý niệm về tro tàn, sau rất nhiều năm sẽ tái hiện trong câu chuyện về Ada, cô gái người Canada với chiếc hộp nâu bóng đựng một nhúm tro mà cô luôn đem theo mỗi lần chuyển nhà.  “Sau này tôi không gặp lại Ada, thỉnh thoảng nghĩ về cô, tôi lại nhớ đến cái hộp gỗ. Tôi nhận ra mỗi người đều giữ khư khư cái hộp gỗ đựng một thứ tro tàn nào đó của cuộc đời mình.”

Dù vậy, ký ức không phải chỉ là tro. Như nhân vật Liên Hương, dù đã thuộc về Cõi khác, vẫn không ngừng kết nối với “Tôi”, qua sự mầu nhiệm mà tác giả lý giải bằng hiện tượng quantum entanglement của vật lý học: “ Quấn quít lượng tử là hiện tượng kỳ lạ của hai hạt dưới nguyên tử liên kết với nhau một cách mật thiết ngay cả khi chúng ở xa nhau ngàn dặm. Sao? Không phải hàng ngàn dặm, mà là hàng ngàn năm ánh sáng, hàng triệu năm ánh sáng.” Tác giả đã viết “Thuyền” với niềm tin rằng, trên tro tàn vẫn có ánh lửa, trong hiện tại vẫn có quá khứ, trong mênh mông vũ trụ vẫn có lực hút của tình yêu.  Và, cuốn sách này cũng là một chiếc hộp, mà khi mở ra bạn sẽ nghe từ đó tiếng kêu của con người gọi nhau giữa  sống và chết, đoàn tụ và chia lìa, những “đoạn trường thanh” từ một chặng lưu ly của người Việt.

Tiểu thuyết của Nguyễn Đức Tùng, ra đời bốn thập kỷ sau những chuyến tàu vượt biển, nói với chúng ta về ý nghĩa của sống còn, đồng thời về sự hiện diện của những người chết còn sống: “Người chết sống lại không phải như Chúa trên cây thập giá, mà như mặt trời mọc lên từ phương đông mỗi sáng, vì họ chưa bao giờ chết trong ký ức người thân yêu.”

Khi tôi trở về một ngõ hẻm có ngôi nhà sơn xanh xinh xắn, khi tôi đi dọc bờ biển những thị trấn ở Thái Lan, ở Việt Nam, Cambodia, Malaysia, không phải chỉ nỗi đau buồn thương tiếc dẫn tôi đi, mà còn cả niềm hy vọng rằng những ngày tháng đau khổ ấy sẽ được viết ra, được đọc, đọc lại một lần nữa.”

Vì sao vậy? Vì “Ký ức đang chờ bạn ở đó, cuối đường kia, không phải để níu giữ bạn như một người cũ, mà để chỉ đường.”

SF 27 tháng 4- 2025