Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

100 năm ngày sinh Nguyễn Đình Thi: Bài báo của Nguyễn Đình Thi về “thơ triết học” (tạp chí Tri tân, Hà Nội, 1944)

 Lại Nguyên Ân

Khởi lên đề tài bàn luận này có lẽ là từ bài báo của Minh Tuyền[1] đăng tạp chí Tri tân số 118 (tháng 10/1943) nhan đề “Triết thi (Poésie philosophique)”, cho rằng “Triết thi, hay là thơ triết học, là một thể thơ có mục đích phô diễn những quan niệm về tạo hóa, về vũ trụ, về thời gian, về nhân sinh”. “Đã có một đối tượng chung với siêu hình học, triết thi tất nhiên phải có tính cách tổng quát và phổ biến của triết học. Nhưng với một bản thể đặc biệt, với những phương pháp cấu tạo nên bản thể đó, triết thi có một hình dáng, một khuôn khổ không lẫn với triết học”.[2]

Tiến tới kỷ niệm 100 năm Trường Mỹ thuật Đông Dương – Yết Kiêu (24)

Đông Ngàn Đỗ Đức

 

NGƯỜI KHÔNG BIẾT XIN

(Về họa sĩ Nguyễn Bích)

 

Bây giờ thì họa sĩ nhiều như châu chấu, chứ thuở tôi mới vào nghề ít lắm. Ít đến nỗi chúng tôi kể tên vanh vách từng bác khóa Đông Dương, khóa Tô Ngọc Vân trong kháng chiến và những khóa 1, 2, 3 sau hòa bình lập lại 1955.

Thứ Hai, 23 tháng 12, 2024

Thành thật với tự do

Thái Hạo

Theo thói quen của mồm, người ta vẫn thường nhắc đến hai chữ “tự do” như một khao khát, một đòi hỏi; nhưng nếu quan sát kỹ, ta sẽ thấy rằng hầu hết đều sợ hãi tự do. Cảm giác đi một mình khiến đường xa hơn, chân mỏi hơn, lòng hoang mang hơn... Đi một mình có thể còn khiến người ta phát điên. Rất khó để tách mình ra khỏi đám đông.

Tiến tới kỷ niệm 100 năm Trường Mỹ thuật Đông Dương – Yết Kiêu (23)

Đông Ngàn Đỗ Đức

 

NƯỚC THỜI GIAN

(Về họa sĩ Đoàn Văn Nguyên)

Cuộc triển lãm lần này của họa sĩ Đoàn Văn Nguyên mang tên Nước thời gian (11/2019) với 62 tác phẩm trong số 72 bức ông đang có, tài sản một đời vày vò với vóc. Đây là cuộc ra mắt đặc biệt của ông.

Từ Phát triển đến Dân chủ – Sự Biến đổi của châu Á Hiện đại (kỳ 12)

Tác giả: Dan Slater Joseph Wong

Việt dịch: Nguyễn Quang A

Nhà Xuất bản Princeton University Press, 2022

9. Chủ nghĩa xã hội kiến tạo-phát triển

SỰ THỐNG TRỊ VÀ TRÁNH DÂN CHỦ

CÁCH ĐÂY KHÔNG LÂU, cách tự nhiên để chia châu Á đã là chia thành châu Á tư bản chủ nghĩa và châu Á xã hội chủ nghĩa. Không đâu trên thế giới Chiến tranh Lạnh đã gây chia rẽ hơn hay quyết định hơn đến sự phát triển của một khu vực bằng ở đây. Hai làn sóng cách mạng cộng sản bạo lực—ở Trung Quốc và Bắc Triều Tiên trong cuối các năm 1940, và Việt Nam và Cambodia trong giữa-các năm 1970—đã chêm một cái nêm ý thức hệ dài và sâu xuyên qua Đông Bắc Á và Đông Nam Á như nhau. Trong ba cụm được thảo luận cho đến nay—các cụm chủ nghĩa nhà nước, Britannia, và chủ nghĩa quân phiệt kiến tạo-phát triển—việc đánh bại chủ nghĩa cộng sản nằm tại trung tâm của các định chế chính trị và kinh tế chiếm ưu thế mà các nhà cai trị đã xây dựng. Nhưng ở Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, và Cambodia, các đảng cầm quyền đã không tìm cách để xây dựng các sự phòng vệ kiến tạo-phát triển mạnh hơn chống lại cách mạng xã hội chủ nghĩa mà để xây dựng bản thân cách mạng xã hội chủ nghĩa.1

Chủ nghĩa cộng sản rõ ràng là lời nguyền rủa đối với chủ nghĩa tư bản kiến tạo-phát triển. Chỉ với việc vứt bỏ kế hoạch hóa kinh tế tự cung tự cấp thì châu Á xã hội chủ nghĩa mới có thể “gia nhập” châu Á kiến tạo-phát triển và ngừng sự đầy quyết tâm chống lại nó. Như được nêu chi tiết trong chương 6, Trung Quốc đã dẫn đầu. Trong khi chương đó khám phá Trung Quốc trước-1989 như một trường hợp xã hội chủ nghĩa lập dị, chương này đặt Trung Quốc đương thời vào cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển mà đã nổi lên kể từ các năm 1990. Nó sẽ cho thấy rằng Trung Quốc tiếp tục dẫn đường, vút lên về mặt kinh tế trên các láng giềng xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của nó. Tuy vậy, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cầm quyền không nới lỏng sự bám chặt quyền lực của nó ngay cả khi nó đã làm dịu phong cách quản trị của nó trong các thập niên ngay sau thời kỳ toàn trị Maoist.

Thời kỳ cải cách của Trung Quốc bắt đầu trong cuối các năm 1970. Thế nhưng vào cuối các năm 1980, việc ĐCSTQ đàn áp dữ dội các sinh viên biểu tình dân chủ tại Quảng Trường Thiên An Môn đã làm cho rất rõ rằng cải cách chỉ có nghĩa là kiến tạo-phát triển và kinh tế học tư bản chủ nghĩa, không phải chính trị và bầu cử dân chủ. Sự chuyển đổi của Trung Quốc đã không phải là một sự chuyển đổi kép (kinh tế và chính trị), như ở phần lớn Đông Âu. Như chúng tôi lập luận trong chương 6, Trung Quốc năm 1989 đã quá mạnh để sụp đổ như Liên Xô, nhưng cũng quá yếu để thừa nhận dân chủ như Đài Loan và Hàn Quốc. Không giống các anh em xã hội chủ nghĩa của nó ở Liên Xô và Đông Âu, ĐCSTQ kiên định tránh việc dân chủ hóa qua sự yếu kém.2 Và không giống các trường hợp Á châu lân cận trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, ĐCSTQ đã thiếu sức mạnh và sự tự tin để thử nghiệm với nền dân chủ.

Việt Nam đã bắt đầu tiến hành một sự thay đổi kiến tạo-phát triển tương tự khoảng một thập niên sau Trung Quốc, trong cuối các năm 1980. Với sự sụp đổ của Liên Xô, siêu cường đỡ đầu của nó, Việt Nam đã dứt khoát chia tay sự đi cùng với Bắc Triều Tiên, nơi triều đại gia đình Kim nhất quán từ chối các cải cách chính trị và kinh tế như nhau. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) cầm quyền đã cải cách và mở cửa nền kinh tế bị bần cùng hóa và hướng nội của Việt Nam, nó cần quyết định liệu để đi theo một con đường bầu cử và dân chủ tới tính hiện đại chính trị hậu-cộng sản (như ở phần lớn Đông Âu) hay để cứu mô hình chính trị của chủ nghĩa xã hội độc-đảng bằng việc dứt khoát từ bỏ mô hình kiến tạo-phát triển kinh tế chủ nghĩa xã hội (như ở Trung Quốc). Việt Nam đã chọn con đường sau, và ĐCSVN cầm quyền đã đạt được một kỳ công rất giống với kỳ công của ĐCSTQ: duy trì sự thống trị độc-đảng trong khi thúc đẩy sự phát triển kinh tế quốc gia nhanh chóng.

Con đường của Cambodia tới sự phát triển đã gập nghềnh hơn nhiều. Đến đầu các năm 1990, Khmer Đỏ cộng sản diệt chủng đã vẫn nổi dậy chiến đấu chống lại Đảng Nhân dân Cambodia (CPP) xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam dựng lên ở Phnom Penh qua cuộc xâm lấn trong cuối các năm 1970. Sự can thiệp LHQ đưa Khmer Đỏ khỏi rừng rậm và buộc CPP chấp nhận các cuộc bầu cử đa đảng tương đối tự do và công bằng để có đủ tư cách cho viện trợ đa phương to lớn. Trong hơn hai mươi lăm năm, chính trị Cambodia đã là một câu chuyện của CPP do Hun Sen–lãnh đạo cố gắng phát triển nền kinh tế quốc gia và phá hủy, không đơn giản đánh bại, đối lập của nó. Bất chấp tất cả các sự khác biệt quan trọng của nó với Trung Quốc và Việt Nam, Cambodia tương tự đã đi một con đường từ chủ nghĩa xã hội tự cung tự cấp đến chủ nghĩa kiến tạo-phát triển kinh tế dân tộc chủ nghĩa tăng trưởng-cao dưới sự cai trị độc-đảng suốt thời kỳ sau–Chiến tranh Lạnh. Quỹ đạo độc đoán của Cambodia đã không khác biệt một cách có ý nghĩa với quỹ đạo của Trung Quốc và Việt Nam, bất chấp các cuộc bầu cử đa đảng.

Vào các năm 2010, tất cả ba trường hợp xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển đã trở thành các ứng viên khả thi để theo đuổi dân chủ qua sức mạnh, với Trung Quốc là ứng viên mạnh nhất trong số đó. Tuy nhiên như trong cụm Britannia kiến tạo-phát triển, chẳng nước nào đã làm vậy. Điều gì về cụm chủ nghĩa xã hội kiến tạo-phát triển khiến nó tránh dân chủ hơn các trường hợp trong các cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển (Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc) và cụm quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển (Indonesia, Thái Lan, và Myanmar)?

Sự phát triển tổng thể thấp hơn của cụm xã hội chủ nghĩa là một phần cần thiết của câu chuyện, nhưng không phải toàn bộ câu chuyện. Nếu cụm quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển đã không quá kém phát triển để thử nghiệm với các cải cách dân chủ, thì cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển cũng chẳng. Quả thực, nếu bất kể nước nào trong cụm xã hội chủ nghĩa đang trên con đường để trở thành một chế độ độc tài thu nhập-cao, nó chắc chắn là Trung Quốc. Khi nó tiếp tục trở nên giàu với tốc độ chưa từng thấy, tuy nhiên Trung Quốc có vẻ ngày càng thiên về tránh dân chủ như Singapore. Có vẻ nó không thích chọn dân chủ qua sức mạnh, như các đối thủ của nó, Nhật Bản và Đài Loan, đã chọn một khi các chế độ của chúng đã tích tụ đủ sự tự tin rằng chuyển đổi dân chủ sẽ không báo hiệu cái chết của chính chúng cũng chẳng làm cho quỹ đạo kiến tạo-phát triển của chúng mất ổn định.

Sự ghanh đua của Trung Quốc với Nhật Bản và Đài Loan dân chủ là quan trọng. Một trong các lý do chính cho sự khăng khăng tránh dân chủ của Trung Quốc, chúng tôi lập luận, là địa-chính trị. Sự kết thúc Chiến tranh Lạnh đã cải thiện đầy kịch tính các quan hệ của Trung Quốc với Hàn Quốc, nhưng không phải với Nhật Bản hay Đài Loan. Những mối bất bình lịch sử đối với Nhật Bản, một khát vọng mạnh để thống nhất Đài Loan với Trung Quốc, và những nhận thức lâu dài rằng Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc đều là những con rối yếu của Hoa Kỳ tiếp tục định hình quan điểm của Trung Quốc về dân chủ. Hơn nữa, khi các quan hệ Mỹ-Trung xấu đi trong thời kỳ hiện tại của Tập Cận Bình và của đồng thuận lưỡng đảng tăng lên ở Washington rằng Trung Quốc là một mối đe dọa cho trật tự quốc tế hiện hành, thì các triển vọng rằng địa chính trị có thể ủng hộ cải cách dân chủ ở Trung Quốc, như chúng đã ủng hộ các láng giềng của nó trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, trở nên thậm chí xa vời hơn.

Địa chính trị diễn ra theo cách khác ở Việt Nam và Cambodia. Khi Cambodia thử quăng sang một bên hệ thống đa đảng do sự can thiệp LHQ đưa vào, chế độ Hun Sen đã đúc số phận địa-chính trị của nó hầu như hoàn toàn với Trung Quốc. Như thế có sự khuếch tán và sự mô phỏng chế độ bên trong cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển mà phản chiếu những gì chúng ta thấy sớm hơn trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển. Nhưng trong khi dân chủ hóa qua sức mạnh thành công của Nhật Bản đã giúp truyền cảm hứng tự tin vào những cải cách tương tự ở Đài Loan và Hàn Quốc, sự tránh dân chủ độc-đảng thành công của Trung Quốc đã làm cho Cambodia (như Việt Nam trước nó) bạo dạn để mô phỏng tấm gương độc đoán của Trung Quốc.

Câu chuyện địa-chính trị của Việt Nam đang đổi theo một hướng rất khác. Hà Nội ngày càng xem Bắc Kinh với cùng loại oán giận và sự lo lắng mà Bắc Kinh xem xét Tokyo và Washington.3 Khi sức mạnh của Trung Quốc tăng lên, Việt Nam đã trở nên gần gũi hơn với Hoa Kỳ. Nếu Việt Nam tin rằng sự ủng hộ Mỹ là cả thiết yếu cho sự sống sót của nó và tùy thuộc vào việc làm sâu sắc các cải cách chính trị, các tín hiệu địa-chính trị sẽ làm cho dân chủ qua sức mạnh có khả năng hơn. Sự ganh đua địa-chính trị tăng lên giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đang định hình lại cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển vào đúng lúc này, với một hỗn hợp của các hệ lụy thuận lợi và không thuận lợi cho các triển vọng dân chủ trong vùng.

Với rất nhiều sự khác biệt giữa chúng, liệu có hợp lý không để coi Trung Quốc, Việt Nam, và Cambodia là một cụm kiến tạo-phát triển duy nhất? Chúng tôi tin là có, vì vài lý do chủ chốt. Rõ ràng nhất, tất cả ba trường hợp đã đều thử các sự chuyển đổi từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa tư bản, và sự liên kết giữa các mô hình kiến tạo-phát triển và các phương thức dân chủ hóa—con đường từ phát triển đến dân chủ—là ở tâm của phân tích so sánh của chúng tôi. Quan trọng nhất cho các mục đích giải thích của chúng tôi, mà tập trung vào sự tự tin chiến thắng và sự tự tin ổn định, Trung Quốc, Việt Nam, và Cambodia chia sẻ các lịch sử cách mạng bạo lực. Trong tất cả ba trường hợp, các chế độ xã hội chủ nghĩa cầm quyền có thể xác nhận một cách đáng tin cậy là đã mang lại hòa bình và trật tự tương đối cho một xã hội trước kia bị chiến tranh tàn phá. Các bóng ma kéo dài của xung đột lịch sử không chỉ cho các Đảng Xã hội chủ nghĩa này một loại thô của tính chính danh Hobbesian; chúng cũng làm cho sự tự tin ổn định đặc biệt khó để có được, và các cải cách dân chủ đặc biệt mạo hiểm để ủng hộ.

Ý thức hệ xã hội chủ nghĩa cũng quan trọng theo cách tiềm năng khác có hại cho sự tự tin ổn định. Trong các cụm nhà nước chủ nghĩa và Britannia kiến tạo-phát triển, các công dân đã trải nghiệm tiêu chuẩn sống tăng lên qua sự phát triển tư bản chủ nghĩa. Bất bình đẳng thu nhập và của cải đã là một sản phẩm phụ của sự tăng trưởng tư bản chủ nghĩa do nhà nước-lãnh đạo. Ngược lại, trong cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, hàng thập niên hòa nhập xã hội chống-tư bản chủ nghĩa và ý thức hệ xã hội chủ nghĩa đã hợp pháp hóa sự bác bỏ các chính sách nâng cao tăng trưởng nhưng làm sâu sắc bất bình đẳng. Chuyển đổi dân chủ vì thế có thể tăng cường chủ nghĩa dân túy cánh tả trong cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, và đáng kể hơn thế so với trong bất kể cụm nào khác ở châu Á kiến tạo-phát triển, với những hậu quả tai hại cho sự phát triển kinh tế tiếp tục.

Chuyển từ sự tự tin ổn định sang sự tự tin chiến thắng, sự thực rằng Trung Quốc và Việt Nam độc đoán thiếu các cuộc bầu cử đa đảng cạnh tranh đặt chúng vào một hạng hoàn toàn khác với các cụm kiến tạo-phát triển khác. Quan trọng nhất, Trung Quốc và Việt Nam được miễn khỏi các tín hiệu bầu cử rõ ràng về sự suy giảm chớm nở. Các tín hiệu như vậy đã giúp thúc đẩy các sự thừa nhận dân chủ ở Đài Loan và Hàn Quốc, và vẫn có thể làm vậy ở Singapore. Chế độ độc tài độc-đảng, như chúng ta thấy ở Trung Quốc và Việt Nam, không nhất thiết độc đoán sâu hơn chủ nghĩa độc đoán đa đảng, nhưng nó là độc đoán khác biệt theo ý nghĩa quan trọng này. Sau khi không đáp ứng với các tín hiệu bầu cử rõ ràng về sự sụt giảm bắt đầu trong các năm 2010 với các cải cách dân chủ, Cambodia đã gia nhập lại hàng ngũ của các chế độ độc tài độc-đảng và bây giờ không có các tín hiệu bầu cử rõ ràng về sức mạnh của nó, giống các chế độ ở Trung Quốc và Việt Nam.4

Cuối cùng, các cuộc cách mạng dân tộc chủ nghĩa thành công do các đảng cộng sản lãnh đạo ở Trung Quốc và Việt Nam (mặc dù ít hơn thế nhiều ở Cambodia) cung cấp một chuyện kể bình dân và tạo tính chính danh cho sự cai trị độc-đảng lâu dài, có thể được dùng như một thay thế hiệu quả cho dân chủ hóa bầu cử, đặc biệt nếu sự phát triển kinh tế tiếp tục nhanh. Mặc dù nó chắc chắn là vị kỷ cho các chế độ này để tiếp tục tránh dân chủ, không phải hoàn toàn không thành thực để cho rằng sự cai trị độc-Đảng Xã hội chủ nghĩa có thể phản ứng nhanh với các mong muốn bình dân theo những cách mà các nền dân chủ cạnh tranh đa đảng thường không mang lại. Các nền dân chủ đa đảng càng vấp ngã để đáp ứng các thách thức quản trị đương đại, câu chuyện thay thế này sẽ chắc chắn càng trở nên to tiếng hơn, đáng chú ý nhất ở Trung Quốc, mà chúng tôi quay sang bây giờ.

Một Trung Quốc Mạnh

Cho đến 1989, ĐCSTQ đã đơn giản quá yếu để dân chủ hóa qua sức mạnh. Quảng Trường Thiên An Môn đã là câu chuyện không chỉ về tính kiên cường đối với sự sụp đổ mà cũng về sự từ chối để thừa nhận. ĐCSTQ đã thiếu sức mạnh và sự tự tin chế độ tiền lệ cần thiết để đi theo con đường của Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc. Đấy là bài học chính của chương 6, trong đó chúng tôi cho rằng Trung Quốc trong 1989 đã chỉ bắt đầu sự chuyển đổi của nó khỏi chủ nghĩa xã hội, tự tách mình ra khỏi các tai họa của thời đại Mao, và muộn màng bước vào hàng ngũ của châu Á kiến tạo-phát triển.

Ba thập niên kể từ đó, Trung Quốc được công nhận trong chương này trong vị trí đúng của nó như nước lãnh đạo không thể tranh cãi của cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của châu Á. Giàu vượt quá dự đoán của bất cứ ai, Trung Quốc và chế độ ĐCSTQ lãnh đạo nó, là đủ mạnh để xem xét sự chuyển đổi từ một vị thế sức mạnh. Tuy vậy, ngay cả sau khi tích lũy được sức mạnh chế độ ghê gớm, Trung Quốc vẫn hết sức không chắc để làm vậy, phần lớn do các đặc tính chung với các nước khác trong cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển.

Giống Việt Nam và Cambodia, Trung Quốc vẫn là một nước kiến tạo-phát triển đến muộn với các vấn đề lần lữa khổng lồ về sự tương đối nghèo và bất bình đẳng, các vấn đề đặc biệt rõ rệt căn cứ vào di sản xã hội chủ nghĩa của chế độ. Nó cũng có một lịch sử của các xung đột nội bộ tàn phá làm cho sự tự tin ổn định được chế độ và nhân dân Trung quốc đặc biệt đánh giá cao, nhưng một sự tự tin mà cũng đặc biệt khó để có được. Thiếu bất cứ lịch sử nào của các cuộc bầu cử đa đảng, ĐCSTQ cũng thiếu cơ sở bằng chứng rõ ràng cho sự tự tin chiến thắng mà đặc trưng cho các đảng thống trị trong các cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển và Britannia kiến tạo-phát triển. Có lẽ quan trọng nhất, sự định vị địa-chính trị của Trung Quốc như đối thủ siêu cường lớn nhất của nước Mỹ trong thực tiễn loại trừ dân chủ hóa trên cơ sở dân tộc chủ nghĩa. Cho dù dân chủ qua sức mạnh sẽ thúc đẩy sự nhảy vọt lớn nhất đến sự tự do dân chủ cho nhân dân Trung quốc, ban lãnh đạo Trung quốc—nhất là dưới Tập Cận Bình—dường như kiên quyết chống lại việc theo đuổi nó.

Củng cố nền Kinh tế

Ngay sau sự đàn áp Thiên An môn 1989, ĐCSTQ bắt đầu một con đường kinh tế cắt bớt, khắc khổ, và củng cố sự kiểm soát nhà nước. Tự do hóa kinh tế, các nhà lãnh đạo Trung quốc lập luận, đã thúc đẩy các đòi hỏi cho tự do hóa chính trị. Toàn bộ hệ thống như thế cần được kiềm chế trở lại nếu Trung Quốc muốn tránh một tai họa khác.5

Được Thủ tướng Lí Bằng dẫn đầu, chế độ nhanh chóng tái tập trung nền kinh tế, đặt sự nhấn mạnh đến mô hình kiến tạo-phát triển xã hội chủ nghĩa, kế hoạch hóa nhà nước được phe Lí ưa chuộng. Các năm trước các cuộc biểu tình Thiên An môn, theo quan điểm của Lí, là bằng chứng về nền kinh tế đang tự do hóa chạy điên cuồng. ĐCSTQ, sau 1989, đã ưu tiên tái cân bằng nền kinh tế, cho dù nó có nghĩa là sự tăng trưởng chậm lại. Nhà nước đã giảm lạm phát bằng việc đưa lại các sự kiểm soát giá. Chính phủ đã hồi sinh khu vực doanh nghiệp sở hữu nhà nước (SOE) qua các chính sách bảo hộ và một dòng tín dụng ngày càng tăng cho các hãng nhà nước.

Mặc dù các cải cách cắt giảm đã hiệu quả trong việc làm giảm lạm phát, chúng “đã vượt quá” tác động dự kiến của chúng với các hậu quả tức thì và nghiêm trọng cho sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc. Đáng chú ý, năng suất, cũng như tiêu dùng, đã giảm nhanh. Hãy nhớ rằng trong thập niên từ 1979 đến 1988, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của Trung Quốc đã lởn vởn quanh 10 phần trăm; trong 1989 và 1990, nó lao xuống còn chỉ 4 phần trăm.

Chẳng bao lâu sau đó, chính phủ lại sang số lần nữa, quay trở lại một chương trình nghị sự cải cách kinh tế tự do. Đặng Tiểu Bình bắt đầu Chuyến Đi Miền Nam nổi tiếng của ông trong 1992, thăm các tỉnh và thành phố miền nam chủ chốt mà đã nhanh chóng trở thành các động cơ năng động của sự phát triển công nghiệp ban đầu của Trung Quốc. Đặng báo hiệu rằng Trung Quốc phải tiếp tục, thậm chí tăng tốc, con đường cải cách của nó, ủng hộ các khuyến khích thị trường, đầu tư nước ngoài, và thương mại quốc tế. Giang Trạch Dân, trở thành chủ tịch trong 1993, theo sự ra hiệu từ Đặng và đưa vào khái niệm nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Bằng việc chấp nhận dứt khoát mô hình và tên “thị trường”, tuyên bố chính thức của Giang đã là điểm ngoặt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế tiến hóa của ĐCSTQ.6

Mục tiêu của sự chuyển đổi sau-1992 sang một nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đã là để “bỏ kế hoạch.” Việc hủy các biện pháp cắt bớt 1989, nhà nước đưa lại sự định giá thị trường vào cho các hàng hóa và các dịch vụ. Chính phủ đã mở rộng sự tự do hóa giá cả thêm nữa trong các khu vực tiêu dùng, kể cả trong các thị trường năng lượng và thực phẩm. Chính quyền Giang đã thực hiện một loạt cải cách doanh nghiệp, làm tăng tính di động lao động và sự linh hoạt lương, mà đã tăng tốc sự tăng trưởng của các doanh nghiệp tư nhân. Nhà nước khuyến khích tính di động vốn nhiều hơn để tài trợ các doanh nghiệp khu vực-tư nhân. Sở Giao dịch Chứng khoán Thượng Hải, sở giao dịch chứng khoán lớn nhất thế giới hiện nay, được thành lập lại trong 1990 sau khi bị đóng cửa trong 1949 khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) được thành lập.

ĐCSTQ cũng đã tạo không gian cho khu vực-tư nhân đang phát triển nhanh bằng việc cải cách khu vực SOE. Tuy việc này đã không xảy ra nhanh, vì cải cách SOE đã (và tiếp tục là) tương đối chậm chạp do những sự gián đoạn lao động tiềm tàng to lớn nảy sinh từ tư nhân hóa và việc thu hẹp lại các SOE. Đây chỉ là một trong nhiều cách mà di sản xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc là quan trọng, và một trong các nhân tố phân biệt Trung Quốc với các láng giềng Á châu kiến tạo-phát triển của nó mà không có một quá khứ xã hội chủ nghĩa.

Để khởi động quá trình cải cách SOE, Giang đã tuyên bố chiến dịch “giữ (doanh nghiệp) lớn, thả nhỏ” trong 1997. Các nhà lập kế hoạch và quản lý nhà nước được khuyến khích để “buông” các SOE kém hiệu quả trong khi duy trì sự kiểm soát đối với các SOE lớn, nhất là các SOE trong các ngành chiến lược. Việc cải cách từ từ khu vực SOE, cùng với sự tăng trưởng nhanh của khu vực doanh nghiệp tư nhân, đã làm thay đổi phong cảnh công nghiệp của Trung Quốc. Vào cuối các năm 1990, khu vực SOE chiếm chỉ 28 phần trăm tổng sản lượng công nghiệp. Trong khi đó, các công ty khu vực-tư nhân chiếm tuyệt đại đa số sản lượng công nghiệp cũng như xuất khẩu của Trung Quốc.7

Để giải quyết vấn đề tài khóa của nó, ĐCSTQ đã thực hiện những cải cách thuế quan trọng trong 1994, đưa vào vài loại thuế mới để tạo thu nhập cho nhà nước trung ương. Quan trọng nhất, các cải cách đã tập trung các luồng tài khóa cho chính phủ trung ương. Trước đó, tuyệt đại đa số (lên đến 80 phần trăm) thu nhập thuế đã ở lại trong kho bạc tỉnh, ràng buộc khả năng của chính phủ trung ương để phân bổ các nguồn lực cho quốc phòng, đầu tư cơ sở hạ tầng, và các sáng kiến chiến lược khác như phát triển kinh tế quốc gia. Trước 1994, chính phủ trung ương đã buộc phải chịu thâm hụt ngân sách kinh niên, đôi khi cần vay các chính quyền địa phương và tỉnh đổi lấy các IOU (giấy nợ-I Owe yoU).8

Cải cách tài khóa 1994 đã làm tăng đột ngột quy mô ngân sách trung ương và năng lực của nhà nước để tiến hành các chiến lược đầu tư trong nền kinh tế. Giữa 1995 và 2012, thu nhập thuế trung ương đã tăng hơn gấp đôi. Mặc dù các chính quyền địa phương và tỉnh bị mất phần của chúng trong chiếc bánh tài khóa, chúng có được sự tự trị hơn để phát triển các nền kinh tế địa phương của chúng. Ít phụ thuộc vào sự hào phóng tài khóa, các chính quyền vùng nắm bắt các cơ hội thị trường để thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển các hãng sinh lời, đóng cửa các hãng vi phạm, và tăng thu nhập xuất khẩu của chúng. Nói đơn giản, cải cách tài khóa đã tăng tốc các cải cách thị trường của Trung Quốc trong khi cũng củng cố định chế quan trọng nhất của tất cả các định chế độc đoán: nhà nước trung ương.

Chế độ ĐCSTQ đã tự do hóa các quy tắc và các quy định quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hướng vào của nó. Giữa 1979 và 1999, FDI hướng vào được tích lũy của Trung Quốc đã tăng lên hơn 300 tỉ USD và khoảng 1 ngàn tỉ USD một thập niên muộn hơn. Vào giữa-các năm 1990, chỉ vài năm sau Chuyến Đi miền Nam của Đặng, các hãng đầu tư-nước ngoài đã chiếm một phần năm sản lượng công nghiệp và 40 phần trăm của tổng xuất khẩu.

Các hãng chế tạo nước ngoài được thu hút tới Trung Quốc bởi vì cung lao động dồi dào và thị trường người tiêu dùng khổng lồ của nó. Chúng cũng được thu hút tới các đặc khu kinh tế và những dàn xếp thuế được ưu đãi của chúng, đặc biệt trong các tỉnh ven biển thân thiện-xuất khẩu của Trung Quốc. Trong sự chuẩn bị sự gia nhập 2001 của nó vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Trung Quốc đã cam kết giảm thuế nhập khẩu ngang hầu hết các khu vực và tìm kiếm nhiều FDI hơn để thúc đẩy các ngành xuất khẩu của nó. Chính phủ đã hợp nhất và sau đó đã phá giá đồng tiền Trung quốc để tạo thuận lợi cho thương mại và đặc biệt để tăng các mặt hàng xuất khẩu Trung quốc. Như phần của chiến lược “ra toàn cầu” của Giang, Trung Quốc đã vĩnh viễn đảo ngược thâm hụt thương mại của nó bắt đầu trong giữa-các năm 1990.9

Hồ Cẩm Đào kế vị Giang Trạch Dân như chủ tịch của Trung Quốc trong 2003, chỉ định Ôn Gia Bảo làm thủ tướng. Trong hầu hết các khía cạnh, chính quyền Hồ-Ôn (2003–13) đã tiếp tục quỹ đạo tăng trưởng-cao, định hướng-toàn cầu mà Giang đã khởi xướng một thập niên trước. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh đã củng cố tính chính danh thành tích của chế độ cầm quyền. Trung Quốc trở nên giàu hơn, và điều này tạo ra sự ủng hộ cho chế độ ĐCSTQ độc tài.

Tuy vậy, chính quyền Hồ nhận ra rằng thành quả phát triển của Trung Quốc đã không làm lợi cho hầu hết mọi người, và rằng nhiều người, đặc biệt những người trong lục địa và ở nông thôn, bị bỏ lại đằng sau. Nếu chế độ muốn lợi dụng thành tích kinh tế của nó về mặt chính trị, một mình sự tăng trưởng tổng hợp sẽ là không đủ để duy trì tính chính danh của nó. “Chất lượng tăng trưởng,” như Hồ diễn đạt, cần nhiều sự chú ý hơn.

Trong đầu các năm 2000, nền kinh tế nông thôn của Trung Quốc bị đau khổ. Các doanh nghiệp hương trấn được lợi ban đầu từ các cải cách sau-1978 đã bị sự cạnh tranh khu vực-tư nhân chèn ép. Vào giữa-các năm 1990, các doanh nghiệp nông thôn, đã quan trọng cho việc hấp thu dư thừa lao động nông thôn và cung cấp việc làm dựa vào-lương sớm hơn trong thời kỳ cải cách, về cơ bản đã lạc hậu. Sợ rằng sự tăng trưởng thiếu cân đối có thể kích động đối lập chính trị với chế độ, ĐCSTQ đã tập trung vào sự phát triển nông thôn, khuyến khích sự tăng trưởng công nghiệp nhiều hơn ở các tỉnh nội địa của Trung Quốc và cung cấp sự miễn thuế một phần thu nhập cho các hộ gia đình nông thôn.

Vào các năm 2000, hố sâu kinh tế đã rộng ra nghiêm trọng giữa các tỉnh miền tây nội địa và các tỉnh ven biển. Không lâu sau khi nắm quyền trong 2003, chính phủ Hồ đã tăng gấp đôi sáng kiến “phát triển miền tây,” được đưa ra trong cuối các năm 1990 để giảm bất bình đẳng kinh tế vùng.10 Nhiều người trong ban lãnh đạo ĐCSTQ đã lo sự xuất hiện của “hai Trung Quốc”—các thành phố ven biển giàu và các tỉnh nội địa bị bần cùng—sẽ kích sự bất mãn và có khả năng làm giảm sự ủng hộ chính trị cho chế độ cầm quyền và chiến lược phát triển của nó. Chính phủ Hồ-Ôn đã phân bổ một cách không cân đối nhiều nguồn lực hơn cho các tỉnh miền tây cho sự phát triển cơ sở hạ tầng để thúc đẩy sự trao đổi và thương mại, đầu tư công nghiệp vào các khu vực tăng trưởng chiến lược, và giảm thuế để thu hút đầu tư nước ngoài và tạo ra các khu chế xuất được ưu đãi.

Chính phủ Hồ cũng đã ưu tiên cải cách chính sách xã hội, đặc biệt sự mở rộng từ từ của các chương trình bảo hiểm xã hội do nhà nước-tài trợ. Bất chấp hàng thập niên tăng trưởng kinh tế và sự cam kết nhà nước cho sự phát triển xã hội chủ nghĩa, các chương trình phúc lợi do chính phủ vận hành của Trung Quốc thực sự đã loại trừ nhiều người nghèo nông thôn và đô thị. Các gia định thu nhập thấp đã không được hưởng một mạng an sinh xã hội, có nghĩa là họ tự trả tiền cho các dịch vụ xã hội. Trước đó đến giữa-các năm 2000, chẳng hạn, chi tiêu từ-túi-riêng về chăm sóc sức khỏe đã vượt tài trợ chính phủ.11

Chế độ Hồ đã đảo ngược điều này bằng việc tăng phần của nhà nước trong hóa đơn chăm sóc sức khỏe quốc gia. Trong 2006 tài trợ công cho chăm sóc sức khỏe đã cao hơn các khoản chi từ túi-riêng lần đầu tiên kể từ đầu các năm 1990. Trong 2009 chính phủ đã thực hiện một sơ đồ bảo hiểm sức khỏe mới và sâu rộng, phủ không chỉ những người lao động nông thôn và đô thị mà cả các cư dân thất nghiệp và những người phụ thuộc không-làm việc. Phần lớn được tài trợ công, chương trình bảo hiểm phổ quát đã mở rộng độ phủ lên 95 phần trăm dân cư, đảm bảo sự tiếp cận đến chăm sóc sức khỏe và thuốc cho gần như tất cả các công dân, bất kể tình trạng việc làm của họ. Các cải cách chính sách xã hội này đã rất được lòng dân giữa các công dân Trung quốc, tạo ra nhiều sự ủng hộ hơn cho chế độ ĐCSTQ.

Tóm lại, thành tích phát triển kinh tế của ĐCSTQ là rất đáng kinh ngạc. Vào 2010, Trung Quốc đã vượt Nhật Bản như nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Thu nhập trên đầu người đã vút lên cao từ đầu các năm 1990 trở đi, nâng Trung Quốc vào tầng trên của các nước thu nhập-trung bình của thế giới và kéo hàng trăm triệu người khỏi sự nghèo cùng cực, một thành tựu phát triển con người chưa từng có. Nếu chủ tịch Tập Cận Bình hiện thời có thể thực hiện đúng những lời hứa hào phóng của ông, sự nghèo cùng cực ở Trung Quốc sẽ được loại bỏ hoàn toàn qua một hỗn hợp của sự chi tiêu công quá mức và sự tăng trưởng kinh tế tiếp tục.

Trung Quốc cũng đã trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới về mặt tổng lượng thương mại và xuất khẩu. Trung Quốc đã năng nổ đa dạng hóa các thị trường của nó ở phương Bắc toàn cầu cũng như trong các nền kinh tế mới nổi ở Đông Nam Á, Trung Á, và châu Phi. Một thời bị chê vì sự thiếu thương hiệu toàn cầu hấp dẫn của chúng, bây giờ các công ty Trung quốc đang cạnh tranh trong các thị trường tiêu dùng một thời được thống trị bởi các thương hiệu Mỹ, Nhật bản, và Âu châu. Trong 2001 chỉ 11 hãng Trung quốc được liệt kê trên Fortune 500 của thế giới; vào 2020, các hãng Trung quốc đã chiếm 124 trong số 500 hãng lớn nhất trên thế giới, che khuất Hoa Kỳ (với 121 công ty) và hơn gấp đôi Nhật Bản (với 53 công ty).12

Các công ty Trung quốc không chỉ khổng lồ; chúng đang leo lên chuỗi giá trị toàn cầu. Được lợi từ các năm đầu tư công và đầu tư khu vực-tư nhân vào các đại học, các phòng thí nghiệm nghiên cứu, nghiên cứu khoa học và công nghệ, Triển khai, và thương mại hóa, các hãng Trung quốc đang thách thức các hãng lãnh đạo toàn cầu trong những công nghệ tiên tiến.

Sự hiện diện kinh tế của Trung Quốc trên sân khấu thế giới đã phát triển theo những cách khác. Trong các năm gần đây, Trung Quốc đã dẫn đường trong việc hình thành các consortium đầu tư xuyên quốc gia đầy tham vọng, như Sáng kiến Vành đai và con Đường và Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Á châu. Các hãng Trung quốc cũng đã trở thành một trong những nguồn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn nhất thế giới, thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong các nền kinh tế đang lên khác ở phương Nam toàn cầu.

Việc Tích tụ các Sức mạnh Chế độ

Sự phát triển kinh tế phi thường của Trung Quốc đã tạo ra tính chính danh thành tích to lớn cho chế độ. Tuy vậy, trong khi sự tăng trưởng kinh tế là một nguồn quan trọng của sự ủng hộ chính trị của một chế độ độc đoán, nó không phải là nguồn duy nhất. Hơn nữa, như chúng ta đã thấy trong các phần khác của châu Á kiến tạo-phát triển, sự tăng trưởng kinh tế nâng cao các đòi hỏi xã hội cho thành tích chính phủ tốt hơn, ngay cả khi nó nâng cao tính chính danh chế độ. Kể từ vụ thảm sát Thiên An môn 1989, đảng cầm quyền ở Trung Quốc đã ở trên một quỹ đạo rõ ràng để tích tụ các sức mạnh, kể cả nhưng không hạn chế ở tính chính danh thành tích kinh tế.

Một chế độ bị yếu trong cái bóng của 4 tháng Sáu 1989, ĐCSTQ đã nhanh chóng xây dựng lại bộ máy đảng. Thật quan trọng, nó đã thể chế hóa một quy trình kế vị lãnh đạo nội bộ, một hỗn hợp của các tiêu chuẩn phi chính thức về cân bằng phe phái và các cơ chế chính thức cho sự cất nhắc có tính trọng dụng nhân tài lên các cấp bậc đảng. Sự kế vị lãnh đạo có thể dự đoán được, một đặc tính chủ chốt của sức mạnh và tính bền của đảng độc đoán, đảm bảo sự ổn định hơn bên trong đảng và là giảm những sự chia rẽ bè phái mà trước đây đã làm yếu ĐCSTQ dưới cả Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình. Trong chừng mực sự kế vị lãnh đạo xảy ra, sự chuyển tiếp từ Giang Trạch Dân sang Hồ Cẩm Đào trong 2003 đã bình thản, không có sự cố về mặt chính trị, như sự chuyển tiếp lãnh đạo tiếp theo sang Tập Cận Bình.

ĐCSTQ cũng đã tích cực xây dựng lại và định hình lại cơ sở đảng viên của nó. Căn cứ vào những cố gắng của đảng để phát triển nền kinh tế và theo đuổi một con đường thực dụng hơn là ý thức hệ đến phát triển, “các kẻ thù giai cấp” trước kia như các doanh nhân khu vực-tư nhân được hội nhập vào hàng ngũ đảng. Tại Trung Quốc đang hiện đại hóa nhanh, các doanh nhân tư bản chủ nghĩa là một cơ sở ủng hộ quan trọng nếu được giúp đỡ, và một nguồn tiềm năng của đối lập chính trị đối với đảng cầm quyền nếu bị bóp nghẹt. Dù đã nói thế, bất chấp chủ nghĩa thực dụng ý thức hệ của Đặng, di sản xã hội chủ nghĩa của đảng đã khiến khó để ủng hộ các doanh nhân tư nhân. Việc thâu nạp các doanh nhân vào ĐCSTQ đã chậm.

Quá trình thâu nạp này đã lấy được đà trong đầu các năm 2000. Trong 2002, chủ tịch Giang sắp mãn nhiệm đã đưa ra một khẩu hiệu quần chúng mới tại Hội nghị Nhân dân tòa Quốc (NPC-Quốc hội): “ba đại diện.” Đảng cầm quyền, ông tuyên bố, phải đại diện những cố gắng của Trung Quốc để phát triển các hình thức năng suất cao nhất, để hoàn thiện văn hóa xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc, và để đại diện các lợi ích của nhân dân Trung quốc. Đảng tiến hóa, vì thế, cũng cam kết đại diện cho các lợi ích của các doanh nhân, mà đã báo hiệu một cửa mở cho các nhà kinh doanh-tư nhân để trở thành các đảng viên.

Họ đã làm thế theo từng đàn không lâu sau đó. Các ước lượng gợi ý rằng gần một nửa các nhà kinh doanh-tư nhân của Trung Quốc là các đảng viên ĐCSTQ. Dù bởi vì ĐCSTQ đã thành công thâu nạp các “nhà tư bản đỏ” này hay họ đã chia sẻ các quan điểm tương tự với các quan điểm của đảng cầm quyền, giai cấp doanh nhân đang nổi lên của Trung Quốc đã không đòi các cải cách chính trị, như nhiều nhà lãnh đạo ĐCSTQ ban đầu đã sợ (và một số nhà quan sát bên ngoài ban đầu đã dự đoán). Thay vào đó, các doanh nhân nói chung đã ủng hộ đảng cầm quyền và status quo (hiện trạng) chính trị, và họ được xem như các đối tác hơn là các kẻ thù của ĐCSTQ. Nói đơn giản, các doanh nhân đã củng cố liên minh cầm quyền của đảng cầm quyền.13

Sau Thiên An Môn, ĐCSTQ đã lập các kênh mới cho input (đầu vào) từ dưới lên, tạo ra các phương thức tham gia bình dân mới và các nguồn tính chính danh chính trị mới giữa các công dân. Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung quốc (CPPCC) được chế độ ca ngợi như một cơ chế thể chế qua đó các công dân có thể cất lên tiếng nói, ý kiến của họ về mọi vấn đề của chính trị và chính sách, từ chính sách đối nội đến các vấn đề đối ngoại. CPPCC gồm chủ yếu các đảng viên, tuy nó cũng bao gồm các tổ chức đại diện các khu vực khác nhau của xã hội, như liên đoàn thanh niên, các hội doanh nhiệp, thương mại, các tổ chức lao động, và các tổ chức chính trị liên kết-ĐCSTQ khác. Chịu trách nhiệm với NPC, CPPCC định vị bản thân mình như đoàn thể bày tỏ ý kiến quốc gia cho input xã hội, kể cả những phàn nàn chính trị. Nó được dự định để cung cấp van xả-áp lực mà đã hết sức thiếu trong thời gian dẫn đến khủng hoảng tháng Sáu 1989.

Những cố gắng để tạo ra cái các quan chức Trung quốc gọi là “chủ nghĩa độc đoán hiệp thương” tiếp cận xuống tới mức địa phương. Ví dụ, ĐCSTQ đã thực hiện các cải cách bầu cử làng trong cuối các năm 1990 để khiến các cuộc bầu cử nông thôn minh bạch và ít tham nhũng hơn. Mặc dù các cuộc bầu cử này vẫn còn xa mới cạnh tranh, cải cách bầu cử đã dẫn đến sự tham gia công dân tăng lên vào chính trị và quản trị địa phương. Tương tự, sự tăng nhanh của các tổ khu dân cư đô thị bắt đầu trong các năm 1980 có ý định để tạo ra nhiều input xã hội hơn vào các công việc đô thị địa phương. Để cải thiện sự quản trị địa phương và phản ứng chính quyền, chế độ ĐCSTQ cũng đã khuyến khích các thử nghiệm mức địa phương về các thực hành tư vấn để tạo ra nhiều con đường hơn cho input công dân vào các vấn đề chính sách.14

Trước sự đàn áp thẳng tay gần đây dưới thời Tập, chế độ thực tế đã hoan nghênh sự phát triển của xã hội dân sự, và đặc biệt sự hình thành của cái gọi là các tổ chức phi chính phủ (NGO). Các NGO Trung quốc phải đăng ký với các nhà chức trách; vì thế, chúng được nhắc tới như “các NGO được chính quyền tổ chức,” hay các GONGO. Hiện thời ở Trung Quốc có hơn 500.000 GONGO được đăng ký, với những ước lượng về hàng triệu nhóm xã hội dân sự tiềm tàng không có đăng ký hoạt động ở Trung Quốc.

Khu vực NGO không nhất thiết đối kháng với chế độ, như chúng ta thường kỳ vọng trong các xã hội khác. Chính phủ tích cực cộng tác với các nhóm xã hội dân sự, đặc biệt các nhóm liên quan đến cung cấp dịch vụ xã hội và các sự nghiệp phi-chính trị khác. Từ quan điểm của chế độ độc đoán, chừng nào các diễn viên xã hội dân sự—kể cả các nhóm không đăng ký—kiềm chế khỏi các hoạt động chính trị rõ ràng, thì chính phủ sẵn lòng nuôi dưỡng sự phát triển của chúng.15

ĐCSTQ trong các năm 1990 và 2000 đã ngày càng trở nên khoan dung hơn, mặc dù vẫn một cách chọn lọc, với sự bất đồng và phản kháng chính trị. Internet đã cung cấp một diễn dàn quan trọng cho sự phản hồi công dân, kể cả những sự than phiền với chính phủ. Gần đây chế độ đã đàn áp hoạt động vận động “netizen (công dân mạng)” (activism), mặc dù internet tiếp tục là một nơi, dù bị giám sát cẩn thận, cho hoạt động lật đổ chính trị. Về mặt huy động dân chúng và phản kháng, theo nghĩa đen hàng trăm cuộc phản kháng (biểu tình) nhỏ bắt đầu xảy ra hàng ngày ở Trung Quốc. Hầu như tất cả “các sự cố” phản kháng này đã nhỏ về quy mô, gồm chỉ một vài cá nhân. Các cuộc phản kháng cũng thường là về các mối quan tâm địa phương, từ những người tố giác các quan chức địa phương tham nhũng đến những than phiền NIMBY (không trong sân sau của tôi). Đối với ĐCSTQ, sự bất đồng chính kiến đã trở thành một nguồn phản hồi quan trọng mặc dù được quản lý cẩn trọng cho chế độ, miễn là sự bất đồng chính trị được định vị, bị kiềm chế và không lan rộng hay huy động các phong trào phản kháng lớn hơn.16

Cái tất cả điều này thêm vào là sự thực ĐCSTQ ngày nay, không như trong 1989, là một đảng cầm quyền rất mạnh, bình dân, và hết sức thích nghi. Nó đã tích tụ các sức mạnh chồng lên các sức mạnh kể từ thời kỳ cải cách bắt đầu hơn bốn thập niên trước. Sau 1989, đảng cầm quyền đã tổ chức lại thành công về nội bộ và đã củng cố quyền lực của nó. Nó đã tạo ra tính chính danh phổ biến giữa các công dân và sự ủng hộ chính trị trong vị trí lãnh đạo sự biến đổi kinh tế, xã hội, và chính trị phi thường của Trung Quốc. Và quan trọng nhất, nó đã thích nghi và tiến hóa và, ít nhất trong vài thập niên, đã sang tên một chế độ mềm hơn, khoan dung hơn, và cởi mở hơn. ĐCSTQ ngày nay không phải là ĐCSTQ như nó đã là dưới thời Mao, cũng chẳng là đảng cầm quyền trong năm 1978 vào lúc bắt đầu thời kỳ cải cách, cũng chẳng như ngay cả trong 1989 khi chế độ chọn để đàn áp thẳng tay và dùng bạo lực chấm dứt các cuộc biểu tình Quảng Trường Thiên An Môn.17 Nói cách khác, nếu ĐCSTQ thu lượm sức mạnh trong các năm 1980, như chúng tôi lập luận trong chương 6, chúng tôi có thể nói dứt khoát ĐCSTQ ngày nay là một đảng có các sức mạnh phi thường và là đủ mạnh để xem xét việc thừa nhận dân chủ qua sức mạnh.

Các tín hiệu báo điềm xấu?

So với các tín hiệu báo điềm xấu (báo điềm gở) nhưng vẫn làm yên lòng mà đã báo hiệu những sự thừa nhận dân chủ phòng ngừa như trong các trường hợp rộng như Hàn Quốc, Indonesia, và thậm chí Myanmar, các chỉ báo về sự suy giảm chớm nở ở Trung Quốc vẫn không đáng báo động và không rõ cho ĐCSTQ. Đồng thời, sau bốn thập niên tích tụ các sức mạnh chính trị và kinh tế, khả năng của ĐCSTQ để tiếp tục tích tụ sức mạnh như vậy có thể đang tàn đi. Có các dấu hiệu về đảng cầm quyền có thể đã đạt, hay đang sắp đến gần, đỉnh cao quyền lực của nó.18

Nhịp độ phát triển kinh tế của Trung Quốc đã chậm lại, đi từ một sự tăng trưởng trung bình 10 phần trăm một năm xuống “bình thường mới” hiện nay khoảng 6 phần trăm bắt đầu trong giữa-các năm 2010, và chậm thậm chí thêm nữa giữa đại dịch coronavirus bắt đầu trong 2020. Xu hướng chậm lại này không phải là một sự ngạc nhiên. Các nhà kinh tế học cho rằng Chủ tịch Tập, khi lên nắm quyền trong 2013, đã thừa kế một nền kinh tế cần cải cách cơ cấu lớn. Cần các cải cách khó khăn nếu muốn nền kinh tế Trung quốc tiếp tục tăng trưởng với cùng tốc độ như trước kia. Năng suất đã giảm sút trong nền kinh tế Trung quốc bắt đầu trong đầu các năm 2000. Các nền kinh tế mới nổi ở Đông Nam Á và các phần khác của thế giới đang phát triển đã bắt đầu xén bớt lợi thế cạnh tranh của Trung Quốc về lao động chế tác dồi dào và rẻ. Các hãng Trung quốc bắt đầu di chuyển các nhà máy của chúng ra nước ngoài, tìm kiếm các thị trường lao động rẻ hơn ở nơi khác, hệt như các hãng nước ngoài đã nhìn vào Trung Quốc và thúc đẩy sự phát triển công nghiệp nhanh của nước này trong các năm 1980.

Trong khi tiêu dùng trong nước đã tăng lên trong các năm gần đây, một phần lớn của sự tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Trung Quốc có thể vẫn được quy cho đầu tư. Tuy vậy, chiến lược tăng trưởng do đầu tư-dẫn dắt của Trung Quốc có khả năng đang đạt các giới hạn của nó. Những cố gắng hiện thời của chủ tịch Tập để tăng thu nhập nông thôn và giảm bất bình đẳng được dùng một phần để giải quyết sự bất cân đối đầu tư-tiêu dùng bằng việc tăng chi tiêu hộ gia đình ở Trung Quốc. Tuy vậy, những người nghi ngờ sợ các cố gắng này có thể quá muộn vì các nền kinh tế địa phương đang vật lộn với sự nghiện của chúng với sự tăng trưởng do đầu tư-thúc đẩy. Việc tái cân bằng cuối cùng có thể có nghĩa là nền kinh tế chậm lại, mà có thể tỏ ra là hiểm họa về mặt chính trị cho chế độ.

Nền kinh tế Trung quốc cũng ngày càng bị những gánh nặng nợ nần khổng lồ. Những mối lo gần đây về Evergrande và các consortium phát triển bất động sản khác dùng đòn bẩy nợ cao đe dọa gây bất ổn định các thị trường tài chính của Trung Quốc. Khu vực SOE, mà đã là một mục tiêu của những cải cách khó khăn kể từ các năm 1990, cũng tiếp tục hút hết các nguồn lực đầu tư chính phủ. Khu vực vẫn tràn ngập các khoản vay không trả được, phản ánh sự bất lực hay sự không sẵn lòng của nhà nước để buông các hãng zombie (thây ma), không sinh lời. Ngoài ra, các chính quyền địa phương đang mang những gánh nợ không thể chịu nổi, khi chúng đạt các mục tiêu tăng trưởng kinh tế của chúng nhờ đầu tư được tài trợ-bằng nợ. Nợ hộ gia đình và người tiêu dùng cũng tăng lên ở mức vi mô, vì giá nhà ở và chi phí sinh hoạt nói chung tiếp tục tăng vọt ở các thành phố Trung quốc.19 Sự nợ nần tăng lên khiến các nguyên tắc kinh tế cơ bản của Trung Quốc không còn hoạt động đúng nữa.

Các mức bất bình đẳng tăng lên gây ra một thách thức chính trị và kinh tế nghiêm trọng cho chế độ ĐCSTQ, đặc biệt vì sự cam kết của đảng với một ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Hệ số Gini của Trung Quốc đã tăng từ dưới 0,3 vào lúc bắt đầu thời kỳ cải cách trong đầu các năm 1980 lên gần 0,5 trong các năm 2000. Các ước lượng không chính thức cho thấy nó tồi hơn nhiều, gợi ý hệ số Gini của Trung Quốc có thể gần 0,6 hơn, mà sẽ xếp hạng nó giữa các xã hội bất bình đẳng nhất thế giới.

Các mức bất bình đẳng tăng lên một phần là do sự đình trệ về lương nông thôn trong các năm vừa qua và sự giảm sút tổng thể về các cơ hội và năng suất kinh tế ở nông thôn. Giá cả tăng lên đã làm bình đẳng thu nhập trầm trọng ở các thành phố. Tuy vậy, bất bình đẳng tăng lên không được trải nghiệm về một mình bất bình đẳng thu nhập. Các sự chênh lệch của cải đang trở nên đặc biệt rõ rệt ở Trung Quốc, khi sự tiếp cận đến nhà ở và giáo dục ngày càng bị hạn chế. Các sự chuyển giao của cải giữa các thế hệ đã mở rộng khoảng cách của cải của Trung Quốc. Các mức chênh lệch quá xá như vậy cắt đến lõi ý thức hệ xã hội chủ nghĩa và bản sắc của ĐCSTQ.

Việc cân bằng sự tăng trưởng kinh tế với các mối quan tâm khác thích đáng về mặt chính trị nêu ra những thách thức khó khăn cho chế độ hiện tại. Các công dân Trung quốc đã chuyển sự chú ý của họ sang—đã bày tỏ sự bất mãn của họ với—chất lượng cuộc sống của họ. Đúng như chính quyền Hồ-Ôn đã tiên tri tập trung vào “chất lượng tăng trưởng” hơn là chỉ sự tăng trưởng tổng hợp, nhân dân Trung quốc ngày càng chú ý hơn đến các mối quan tâm hậu-duy vật. Sự an toàn người tiêu dùng, chẳng hạn, đã trở thành một tâm điểm cho sự bất đồng quan điểm công dân và sự huy động dân chúng. Cái gọi là các vấn đề và lời than phiền NIMBY, như việc nhà nước thu hồi đất và các chi phí của đô thị hóa nhanh và sự dời chỗ, cũng đang đến mặt tiền chính trị. Các mối lo ngại môi trường liên quan đến ô nhiễm không khí và sự tiếp cận đến nước sạch đã đưa chính phủ vào thế thủ.20 ĐCSTQ đang ngày càng đối mặt với vô số thách thức chính trị và kinh tế.

Cách chế độ chọn để đáp ứng với sự phản kháng đang nổi lên và chính trị gây tranh cãi minh họa liệu nó cảm nhận các thách thức như vậy như tốt hay như các mối đe dọa sinh tồn.21 Ngày càng có vẻ như ĐCSTQ cảm nhận chúng như các mối đe dọa sinh tồn. Mặc dù nó đã tự miêu tả mình như một chế độ khoan dung và tham khảo ý kiến hơn, đảng cầm quyền tiếp tục đầu tư các nguồn lực đáng kể vào bộ máy an ninh nội bộ, phát triển các chiến thuật đàn áp tinh vi để nhổ tận rễ những người bất đồng quân điểm nhạy cảm về chính trị. Việc chế độ ĐCSTQ thường xuyên triển khai các công nghệ tốn kém cho việc giám sát internet, sự kiểm duyệt báo chí và media xã hội, giám sát CCTV, các chiến dịch thông tin sai lệch, sự đe dọa bỏ tù, và thậm chí sự đàn áp bạo lực gợi ý đảng cầm quyền đánh giá chính trị gây tranh cãi nổi lên như các mối đe dọa cho sự ổn định của chế độ. Bất chấp các sức mạnh của ĐCSTQ được tích lũy qua sự phát triển khó tin của Trung Quốc, sự đổi hướng đàn áp của nó dưới chế độ Tập hiện tại không ngụ ý sự tự tin ổn định, mà đúng hơn là ngược lại.

Ngoài các thách thức kinh tế và chính trị trong nước ra, thì tình hình địa-chính trị đối với Trung Quốc đã trở nên ngày càng căng thẳng. Ngày càng niều nước đang chỉ trích Trung Quốc và hồ sơ nhân quyền của nó, các yêu sách lãnh thổ của nó trong khu vực, và ảnh hưởng kinh tế mở rộng của nó về mặt quốc tế. Khi Trung Quốc trở nên hùng mạnh hơn trên sân khấu thế giới, các láng giềng của nó đang trở nên bực dọc và lo lắng hơn về sự bắt nạt của Trung Quốc, và các cường quốc lớn khác đang nghi ngờ sâu sắc hơn về sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Đấy là một sự thay đổi lớn so với các năm 1990, khi Trung Quốc đầu tiên hội nhập mình đầy đủ hơn vào nền kinh tế quốc tế và đã thiết lập các chỗ đứng quan trọng trong các định chế quản trị toàn cầu như WTO, Ngân hàng Thế giới, và nhiều tổ chức khu vực Á châu. Trung Quốc cộng sản đã không là một đồng minh của phần còn lại của thế giới, nhưng nó cũng đã chẳng là kẻ thù hay kẻ thách thức của nó. Tuy vậy, ngày nay nó ngày càng được cảm nhận như, và cư xử như thể nó là, một đối thủ địa-chính trị của Hoa Kỳ và các đồng minh của nó. Các sự chỉ trích toàn cầu về các chính sách Trung quốc—từ sự đối xử của chế độ với những người Uighur Muslim ở Tân Cương, đến các mối lo an ninh về các hãng Trung quốc, đến những cáo buộc về các chính sách thương mại không công bằng—đang đóng góp cho các áp lực ngày càng không thân thiện và cạnh tranh lên Trung Quốc từ phần còn lại của thế giới.

Các hậu quả chính trị, kinh tế, và ngoại giao tương lai của sự ganh đua hiện tại với Hoa Kỳ là mập mờ. Là không rõ, chẳng hạn, liệu bản thân các nhà lãnh đạo Trung quốc xem các cơn gió ngược địa-chính trị là một tín hiệu đáng lo ngại và như các áp lực có thể làm hại chế độ và tính chính danh chính trị của nó ở trong nước. Là rõ, tuy vậy, rằng các cuộc chiến thương mại kéo dài, những sự cãi vã ngoại giao với các nước thân thiện trước kia, các đụng độ biên giới nổ ra lặp đi lặp lại, và một dàn hợp xướng tăng lên của sự lên án quốc tế đối với các hành động trong nước và quốc tế của Trung Quốc sẽ khiến ngày càng khó cho Trung Quốc để tiếp tục theo cách suôn sẻ như nó đã có trong bốn thập niên qua.

Sau khi đã phát triển một thành tích phát triển kinh tế thực sự phi thường, chế độ ĐCSTQ có vẻ đang tiến gần đến một điểm uốn quan trọng. Nó có thể hoặc đi con đường cải cách chính trị tới một tương lai tự do hơn hay tăng gấp đôi sự đổi hướng độc đoán của Tập. Lý thuyết của chúng tôi về dân chủ qua sức mạnh có thể giúp thông báo phân tích này.

Như chúng tôi cho thấy suốt cuốn sách này, các chế độ mạnh chắc có khả năng nhất để chọn thừa nhận dân chủ khi chúng vượt qua đỉnh cao quyền lực của chúng. Hơn nữa, đảng độc đoán cầm quyền càng gần đỉnh cao đó, sự chuyển đổi càng có khả năng sẽ ổn định và đảng cầm quyền đương nhiệm giữ được quyền lực. Nói đơn giản, chế độ càng mạnh, càng tốt cho chế độ đương nhiệm nếu nó chọn nền dân chủ.

Các tín hiệu mà chế độ ĐCSTQ nhận được trong thập niên qua hay khoảng thế, từ các tín hiệu kinh tế đến địa-chính trị, không nhất thiết có nghĩa là đảng cầm quyền đang bắt đầu suy giảm. Tại thời khắc hiện tại, ĐCSTQ có được sự ủng hộ chính trị rộng rãi, và tính chính danh thành tích mà nó đã tạo ra trong bốn mươi năm qua cung cấp cho đảng cầm quyền sức mạnh chính trị và kinh tế đáng kể—bây giờ.

Bởi vì ĐCSTQ ở Trung Quốc là một trường hợp ứng viên cho dân chủ qua sức mạnh, chúng tôi không biết—vì chúng tôi không thể biết chắc chắn tương lai sẽ là gì—liệu thực ra chế độ đã vượt qua đỉnh cao quyền lực của nó và đang ở trong vùng buồn vui lẫn lộn hay không. Như chúng ta thấy với các trường hợp trong cụm Britannia kiến tạo-phát triển, việc đợi để tìm ra với sự chắc chắn, tuy vậy, có thể gây ra các mối đe dọa thực và có lẽ sống còn đối với chế độ đương nhiệm.

Một chủ đề lặp đi lặp lại suốt cuốn sách này là sự phát triển tạo ra sự bất mãn của riêng nó. Thành công quá khứ, do các kỳ vọng tăng lên của mọi người về thành công tương lai, tạo ra các nhóm bất đồng chính kiến biệt lập mà có thể nhanh chóng trở thành đối lập trưởng thành. Bruce Dickson mô tả câu đố như nghịch lý Tocquevillian, hay “cách mạng của những kỳ vọng tăng lên,” mà ông cho là ở lõi của “tình thế khó xử của nhà độc tài.” Trong trường hợp Trung Quốc, Dickson suy đoán rằng “cho dù hiện nay đảng không đối mặt với đối lập có tổ chức, nó có thể bị cách mạng của những kỳ vọng tăng lên phá hủy.”22 Mặc dù các thách thức mà ĐCSTQ hiện tại đối mặt có thể không báo điềm xấu ngay lập tức, tuy nhiên chúng báo hiệu các thách thức xã hội, kinh tế, và địa-chính trị mà chế độ trong hình thức hiện thời của nó không thể giải quyết nổi.

Hệt như mô hình tăng trưởng kinh tế hiện thời của Trung Quốc đã đạt các giới hạn của nó và cần được cải cách đáng kể, công thức tính chính danh thành tích mà chế độ đã dựa vào đến nay để duy trì sự thống trị chính trị của nó có thể cũng sắp hết hạn. Quyết định của ĐCSTQ để tăng các năng lực ngăn chặn và đàn áp của nó trong các năm gần đây, và việc siết chặt quyền lực độc đoán của nó dưới Chủ tịch Tập, gợi ý đảng đương nhiệm cảm nhận rằng cách tốt nhất để đối phó các trở ngại lờ mờ này là di chuyển Trung Quốc ra xa hơn, thay vì gần hơn, con đường dân chủ hóa ổn định, nhà nước-mạnh của các láng giềng Bắc Á gần nhất của nó.

Bất chấp sự tự tin ổn định và chiến thắng ĐCSTQ nên có vì các sức mạnh được tích tụ trong bốn thập niên qua, dường như chế độ đang chọn để tránh xa sự lựa chọn dân chủ-qua-sức mạnh. Như chúng ta đã thấy ở chương 8 trong các trường hợp của Malaysia và Hồng Kông, và như chúng tôi khám phá muộn hơn trong chương này trong trường hợp Cambodia, việc tránh xa con đường này đến với các rủi ro lớn của riêng nó.

Các Triển vọng Dân chủ của Trung Quốc

Trong lý thuyết dân chủ qua sức mạnh của mình, chúng tôi nêu bật nghịch lý của sức mạnh đảng đương nhiệm. Khi “một đảng cầm quyền có được năng lực đương nhiệm đáng kể, điều này không chỉ làm tăng khả năng của nó để duy trì sự cai trị độc đoán, mà có thể làm giảm sự bắt buộc của nó để làm vậy.”23 Nói cách khác, khi một đảng đương nhiệm đủ mạnh để duy trì sự kìm kẹp độc đoán của nó lên quyền lực chính trị trong lúc này, nó cũng đủ mạnh để thừa nhận dân chủ mà không thừa nhận thất bại, như thế làm tăng khả năng nó có thể chọn con đường dân chủ.

Theo quan điểm của chúng tôi, ĐCSTQ rõ ràng là đủ mạnh để chọn cả hai đường; nó đang trong vùng ít đắng cay hơn ngọt ngào rất nhiều. Đảng cầm quyền Trung Quốc có thể khẳng định một cách đáng tin cậy rằng nó đã sắp đặt và trông nom sự phát triển phi thường của Trung Quốc. Đảng ngày nay, không như trong 1989, có một “quá khứ có thể sử dụng được” đáng thuyết phục mà nó có thể khai thác để tạo ra sự ủng hộ cử tri cho đảng dẫn Trung Quốc vào pha tiếp theo của xã hội hiện đại hóa, kinh tế, và chính trị. Thành tích của ĐCSTQ không giới hạn ở kinh tế học. Các cải cách quản trị để làm tăng năng lực tham vấn của chế độ phản ánh tính phản ứng nhanh của đảng với các đòi hỏi và input công dân. Việc ĐCSTQ thâu nạp các doanh nhân tư bản chủ nghĩa phản ánh khả năng của nó để thích nghi với sự tiến hóa kiến tạo-phát triển của Trung Quốc. Các công dân Trung quốc ủng hộ chế độ một cách rộng rãi, thừa nhận vai trò quá khứ và thành tích lịch sử của đảng.24

Nói đơn giản, thành tích phát triển kinh tế và chính trị của đảng sẽ là tấm vé lớn nhất tới sự ổn định và chiến thắng trong một tương lai dân chủ. Về khía cạnh này, Trung Quốc tiếp tục trông ngày càng giống các láng giềng nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của nó, và ngày càng ít gống khối Soviet trước kia mà đã sụp đổ ba thập niên trước. Trong hỗn hợp của chủ nghĩa xã hội kiến tạo-phát triển của Trung Quốc, sự cam kết của chế độ với sự tăng trưởng kinh tế và chủ nghĩa kiến tạo-phát triển đã tiếp tục tăng lên, còn trọng lượng của chủ nghĩa xã hội đã nhẹ đi.

ĐCSTQ lẽ ra phải tự tin rằng nếu nó dân chủ hóa theo các điều kiện và sự định thời gian của riêng nó, Trung Quốc sẽ vẫn ổn định. Nếu ĐCSTQ lãnh đạo quá trình chuyển đổi, như Quốc Dân Đảng (QDĐ) đã làm ở Đài Loan, chế độ đương nhiệm chắc chắn sẽ đưa ra các sự bảo vệ thể chế và các điều kiện hiến pháp để đảm bảo một quá trình chuyển đổi ổn định.25 Ngược với nỗi sợ rằng nền dân chủ sẽ mang lại sự hỗn loạn và sự bất ổn định, người ta có thể kỳ vọng một sân chơi bằng phẳng, dân chủ hơn ở Trung Quốc để mang lại van xả-áp lực cần để tháo ngòi một số căng thẳng chính trị bên trong Trung Quốc, kể cả việc quản lý các mối quan hệ hòa bình và bền vững hơn dọc ngoại vi bất ổn của Trung Quốc. Quả thực, một trong những bài học cốt lõi học được từ cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển là chuyển đổi dân chủ có khả năng nuôi dưỡng nhiều hơn, không phải ít hơn, sự ổn định chính trị ở Trung Quốc.

Đảng cầm quyền ở Trung Quốc là bình dân. Không chỉ các công dân Trung quốc ủng hộ chế độ đang quản trị, như được bày tỏ trong hầu như mọi cuộc khảo sát ý kiến; hầu hết người dân ủng hộ ĐCSTQ một cách cụ thể, mà phải cho đảng đương nhiệm sự tự tin chiến thắng dư dả. Tất nhiên, các công dân chỉ trích đảng và chế độ, và chắc sẽ chỉ trích ngày càng công khai hơn trong một nền dân chủ. Các nhà phê bình ĐCSTQ, chẳng hạn, sẽ hình thành một đảng đối lập với ĐCSTQ trong một nền dân chủ đa đảng. Thế nhưng, hiện tại, không có lựa chọn thay thế khả thi nào cho ĐCSTQ đương nhiệm. Nếu Trung Quốc dân chủ hóa, không có đảng thách thức có thể tưởng tượng được nào có thể làm nó mất ghế như đảng cầm quyền trong ngắn hạn. Hơn nữa, như chúng ta đã thấy trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, các đối thủ của một chế độ độc đoán có thể ủng hộ một đảng kế vị độc đoán trong cuộc bầu cử sau khi nó dân chủ hóa hệ thống chính trị. Nói cách khác, ĐCSTQ nên có nhiều sự tự tin rằng việc thừa nhận dân chủ sẽ không có nghĩa là sự thất bại của nó như các đảng cầm quyền đương nhiệm ở Nhật Bản, Hàn Quốc, và Đài Loan đã tự tin, nếu không phải nhiều hơn.

Có nhiều người bên trong Trung Quốc cho rằng chuyển đổi dân chủ sẽ cản trở sự phát triển của Trung Quốc. Những người chỉ trích chỉ ra tấm gương Soviet và truyện cảnh báo về glasnost và perestroika cho những người muốn là các nhà cải cách dân chủ. Tại Trung Quốc, bài học rút ra từ tấm gương Soviet đã là chuyển đổi dân chủ gây ra sự bất ổn định chính trị và sự rối loạn kinh tế. Nó cũng đã có nghĩa là cái chết chính trị của Đảng Cộng sản Liên Xô (ĐCSLX). Chẳng gì tốt đến từ dân chủ hóa cả, theo chuyện kể phê phán này.

Đó là bài học sai để rút ra từ tấm gương Soviet. Sự thất bại dân chủ ở Liên Xô trước kia và cái chết của ĐCSLX là do sự sụp đổ hơn là sự thừa nhận dân chủ của đảng cầm quyền đương nhiệm. ĐCSLX bắt đầu thừa nhận chỉ một nửa các biện pháp cải cách tự do hóa vào lúc khi chế độ đã mất tính chính danh và không được lòng dân rồi, đến mức khi một sự mở cửa dân chủ xảy ra, đảng cầm quyền đương nhiệm nhanh chóng bị đá ra ngoài. Nếu chế độ Trung quốc có học bất cứ thứ gì từ tấm gương Soviet, thì bài học đó nên là việc đợi quá lâu sau khi một đảng độc đoán cai trị vượt qua đỉnh cao quyền lực của nó khiến cho chuyển đổi dân chủ ít ổn định hơn và ít thuận lợi hơn cho những người đương nhiệm. Như chúng tôi đã cho thấy trong cụm Britannia, khi một chế độ tránh nền dân chủ quá lâu, vượt qua ngày “tốt nhất-trước khi (best-before)” của nó, nó làm tăng rủi ro của việc lao qua vùng buồn vui lẫn lộn (vùng cay đắng-ngọt ngào, bittersweet spot) hoàn toàn, dẫn đến hoặc cái chúng tôi gọi là chủ nghĩa độc đoán cay đắng (Hồng Kông và, ngày càng, Singapore) hay thậm chí sự thất bại hoàn toàn của chế độ độc đoán (như ở Malaysia).

Các Trở ngại cho nền Dân chủ Trung quốc

Bất chấp là một trường hợp thuyết phục cho chế độ ĐCSTQ để thừa nhận dân chủ qua sức mạnh, các triển vọng về chuyển đổi dân chủ vẫn không chắc xảy ra ở Trung Quốc, thậm chí xa vời. Quỹ đạo chính trị, mà chế độ hiện tại ở trên đó, không báo trước điềm tốt cho dân chủ ở Trung Quốc. Một số người đã suy đoán rằng những cố gắng sớm của Tập Cận Bình để củng cố quyền lực cá nhân của riêng ông bên trong đảng có ý định để đặt nền móng cho một kịch bản thừa nhận dân chủ khả dĩ. Việc ĐCSTQ siết chặt sự kìm kẹp độc đoán lên quyền lực và triển khai nhiều chiến thuật đàn áp hơn trong các năm gần đây, tuy vậy, gợi ý rằng những hy vọng đó đã đặt nhầm chỗ, và rằng Tập và ĐCSTQ không đang chuẩn bị cho một hệ thống chính trị tự do hơn.26 Nước đi của Tập để xóa bỏ giới hạn nhiệm kỳ chủ tịch nước trong 2018 xác nhận quỹ đạo hiện nay của ĐCSTQ rời xa khỏi dân chủ hóa.

Hãy gạt suy đoán về các ý định của Tập sang một bên, tuy vậy, có các lý do cấu trúc vì sao một nền dân chủ-qua-kịch bản sức mạnh là hết sức không chắc xảy ra ở Trung Quốc. Thứ nhất, các tín hiệu báo điềm xấu tiềm tàng rằng chế độ ĐCSTQ đang bắt đầu suy giảm hay đã vượt qua đỉnh cao quyền lực của nó vẫn quá không rõ ở Trung Quốc. Như chúng tôi đã tranh luận trong lý thuyết của chúng tôi, các tín hiệu rõ nhất về sự giữ quyền lực của một đảng cầm quyền, dù nó đang lên hay đang giảm, là tín hiệu bầu cử. Hãy nhớ lại rằng trong trường hợp mẫu mực của chúng ta về dân chủ qua sức mạnh, Đài Loan, các cuộc bầu cử đã cung cấp các vòng phản hồi cho chế độ QDĐ để đo tính được lòng dân của nó giữa các cử tri. Sự nắm quyền lực của QDĐ đã chẳng bao giờ bị nghi ngờ, đặc biệt vì quân luật đã cấm sự hình thành các đảng đối lập, mặc dù đảng cầm quyền đã phải tính toán đến sự ủng hộ cử tri teo đi của nó trong các năm 1970 và các năm 1980. Các cuộc bầu cử đã báo hiệu rõ ràng cho đảng cầm quyền đương nhiệm về sức mạnh của nó đang giảm.27

Tại Trung Quốc, các tín hiệu bầu cử giỏi nhất là không đáng tin cậy và tồi nhất là không tồn tại. Các cuộc bầu cử làng và thị trấn cung cấp ít sự rõ ràng bởi vì tham nhũng, hối lộ, thói côn đồ, và sự đe dọa cử tri làm méo mó thông tin đáng tin cậy cho ĐCSTQ về sự nổi tiếng và sự ủng hộ của nó. Khi thiếu các các tín hiệu rõ ràng, đảng cầm quyền có thể ít tự tin hơn về các triển vọng dân chủ của nó, một vấn đề rõ ràng trong tất cả các chế độ độc đoán thiếu các cuộc bầu cử đa đảng.

Thứ hai, ĐCSTQ đã tỏ ra rất khéo léo trong việc né tránh sự đổ lỗi chính trị khỏi ban lãnh đạo trung ương. Giữa sự lên trong chính trị gây tranh cãi sau 1989, đảng khu biệt hiệu quả sự bất đồng chính kiến. Ngoài việc triển khai bộ máy an ninh để dập tắt bất kể cuộc nổi dậy tiềm năng nào, đảng cầm quyền ở Bắc Kinh đã chuyển hướng sự đổ lỗi chính trị cho các cán bộ địa phương. Bất chấp chiến dịch chống tham nhũng của Tập, đã phát hiện ra sự thối nát rộng rãi bên trong đảng và giữa các quan chức chính phủ, hầu hết công dân tiếp tục tin cậy và ủng hộ chế độ trung ương, trong khi thiếu sự tin cậy vào các quan chức địa phương.28

Thứ ba, ĐCSTQ có sức chịu đựng cao đối với bất kể áp lực địa-chính trị để dân chủ hóa nào. Như chúng tôi kể lại chi tiết trong cuốn sách này, các nước trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển đã đối mặt với các mức độ áp lực khác nhau từ Hoa Kỳ để thừa nhận dân chủ. Trung Quốc, tuy vậy, đã chẳng bao giờ là một đồng minh của Hoa Kỳ, và vì thế nó trơ trơ với các tác động liên kết xuyên quốc gia mà thúc đẩy dân chủ hóa trực tiếp và gián tiếp.29 Quả thực, nó ngày càng xem mình là một đối thủ của các nền dân chủ giàu có của thế giới. Các nhà nước khác, quan trọng nhất kể cả Hoa Kỳ, cũng ngày càng xem Trung Quốc như một đối thủ. “Tác động kéo” dân chủ mà đã khuyến khích cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển để thừa nhận dân chủ lại vắng mặt ở Trung Quốc đương thời. Nếu có thể, sự cạnh tranh địa-chính trị giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đã tạo ra môt “tác động đẩy” hay xua đẩy, mở rộng khoảng cách giữa các triển vọng dân chủ và khả năng mau phục hồi xã hội chủ nghĩa độc đoán

Cuối cùng, các triển vọng của nền dân chủ là không rất quyến rũ cho ĐCSTQ. Sự trượt lùi dân chủ khắp thế giới đã ngày càng trở nên phổ biến trong các năm gần đây, khi các nhà lãnh đạo được bàu chuyển sang các lời kêu gọi dân túy và chính trị phân cực để giành quyền lực chính trị. Các nền dân chủ ngày càng có vẻ bất ổn định bởi vì chúng là bất ổn định trong nhiều phần của thế giới, kể cả giữa các nền dân chủ trẻ hơn, được chuyển đổi gần đây hơn nơi “suy thoái dân chủ” toàn cầu là cấp bách nhất.30 Hơn nữa, nhiều người ở Trung Quốc tin chế độ ĐCSTQ là dân chủ rồi, chỉ ra các cố gắng của chính phủ để tạo ra nhiều cơ chế tham vấn hơn, sự thực hiện luật trị (rule of law-nhà nước pháp quyền), và sự ủng hộ công chúng cho chế độ. ĐCSTQ không phải là một nền dân chủ tự do hay thậm chí nền dân chủ bầu cử, nhưng nó tự cho là dân khác theo cách gồm sự tham gia và sự đáp ứng chính trị nào đó.31

Sự khẳng định rằng nền dân chủ tự do là một kiến trúc Tây phương và do đó không phù hợp cho xã hội Trung quốc một cách không ngạc nhiên đã có được sức kéo giữa các nhà lãnh đạo và các công dân Trung quốc, cũng như những người nước ngoài cổ vũ cho ĐCSTQ. Theo dữ liệu khảo sát gần đây của Dickson, hầu hết người Trung quốc tin Trung Quốc là “dân chủ rồi” và rằng sự chuyển đổi sang nền dân chủ bầu cử tự do là cả không cần thiết và không đáng mong muốn.32 Jie Chen cho rằng tầng lớp trung lưu của Trung Quốc không ủng hộ nền dân chủ nhưng ủng hộ chế độ ĐCSTQ.33 Các nhà lãnh đạo Trung quốc thậm chí bênh vực một “Mô hình Trung Quốc” thay thế, như Daniel Bell diễn đạt, mà có tiềm năng hấp dẫn với Trung Quốc hơn nền dân chủ.34 Các khuyến khích cho dân chủ hóa không, sự hấp dẫn của nền dân chủ cũng chẳng đủ để ép ĐCSTQ chọn nền dân chủ, cho dù chế độ đang ở vị thế lý tưởng để thừa nhận dân chủ qua sức mạnh, và để tiếp tục phát đạt trong một nền dân chủ Trung quốc mới.

Việt Nam

Giống Trung Quốc, Việt Nam đã không dân chủ hóa qua sự yếu kém khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt. Không có sự sụp đổ cộng sản nào. Thay vào đó, trong hơn ba thập niên qua, Việt Nam đã gia nhập hàng ngũ của châu Á kiến tạo-phát triển như một thành viên của cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của khu vực. Nó đã đạt điều này qua một bộ các cải cách kinh tế định hướng-thị trường và hướng-ngoại ấn tượng, không phải không giống những gì chúng ta đã thấy ở Trung Quốc. Các di sản và các thực hành xã hội chủ nghĩa chắc chắn vẫn dai dẳng, lại như ở Trung Quốc, trong sự nổi bật tiếp tục của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc gia và trong vai trò độc-đảng tiên phong do Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đóng. Bất chấp các di sản xã hội chủ nghĩa, về mặt so sánh và lịch sử rộng hơn, sự biến đổi kinh tế của Việt Nam kể từ sự kết thúc Chiến tranh Lạnh đã thật đáng kinh ngạc.

Trong hầu hết các khía cạnh, phân tích tiếp sau sẽ vẽ Việt Nam như một phiên bản hơi yếu hơn của trường hợp xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển mà chúng tôi đã khám phá ở Trung Quốc, và như thế một ứng viên yếu hơn cho dân chủ qua sức mạnh. Chế độ ĐCSVN là đủ mạnh để dân chủ hóa qua sức mạnh, trong khi đối mặt chỉ với các tín hiệu yếu ớt và mờ rằng các cải cách dân chủ là cần thiết và chỉ có các áp lực yếu để làm vậy. Tuy vậy, Việt Nam là khác một cách có ý nghĩa với Trung Quốc, và không chỉ yếu hơn Trung Quốc một cách vừa phải, trong ít nhất hai cách chính.

Sự khác biệt chủ chốt đầu tiên nằm trong các định chế chính trị của Việt Nam: một sự khác biệt nổi bật nhất khi Trung Quốc ngày càng trở nên cá nhân hóa dưới Tập Cận Bình. Nói đơn giản nhất, Việt Nam có một cơ cấu quyền lực ly tâm đáng ngạc nhiên cho một chế độ xã hội chủ nghĩa độc-đảng bền bỉ. Các tỉnh có thẩm quyền thực; quốc hội đưa ra các quyết định thực, sau khi tổ chức các cuộc tranh luận thực được truyền hình trực tiếp; các nhà chỉ trích ĐCSVN có các cơ hội thực để khiến cho tiếng nói của họ được lắng nghe cả online và trong các cuộc biểu tình đường phố; và quyền lực chính trị thực được chia sẻ giữa các nhà lãnh đạo ĐCSVN mà kỳ vọng để được thay thế hoàn toàn theo một cách được chính quy hóa, có thể dự đoán được.

Tất cả điều này đã không khác ghê gớm với Trung Quốc trước 2013, giữa chế độ Đặng và chế độ Tập. Có lẽ sự thay đổi quan trọng nhất trong thời đại Tập đã là sự quay lại của Trung Quốc với một cấu trúc quyền lực hướng tâm hơn, với Tập như trung tâm cá nhân không bị thách thức. Các tỉnh, các định chế quốc hội, những người biểu tình, và những người kế vị tiềm năng tới ban lãnh đạo đảng của Trung Quốc tất cả đều có ít dư địa để thao tác dưới Tập hơn trước đó. Trong tất cả các lĩnh vực này có phạm vi lớn đáng kể ở Việt Nam hơn ở Trung Quốc. Liệu điều này có nghĩa các định chế độc đoán của Việt Nam bây giờ đang trở nên “mạnh hơn” hay “yếu hơn” các định chế của Trung Quốc là có thể bàn cãi. Cái không thể bàn cãi, tuy vậy, là các định chế độc đoán của hai láng giềng xã hội chủ nghĩa đang ngày càng trở nên khác biệt với nhau.

Cái cũng không thể bàn cãi là sự khác biệt chủ chốt thứ hai: vị trí địa chính trị của Việt Nam trên thế giới. Trong khi sự ganh đua địa-chính trị sâu thêm của Trung Quốc với Hoa Kỳ làm cho dân chủ hóa ở Trung Quốc ít có khả năng hơn, sự thực rằng Việt Nam xem Trung Quốc như một mối đe dọa lớn hơn và kình địch hơn Hoa Kỳ làm cho dân chủ hóa ở Việt Nam có nhiều khả năng hơn. Khi xem xét loại tín hiệu nào chắc có khả năng nhất làm thay đổi quỹ đạo chế độ của Việt Nam trong các năm tới, các tín hiệu địa-chính trị dường như là quan trọng nhất. Tuy vậy, vì các tín hiệu địa-chính trị không là các tín hiệu rõ nhất cũng chẳng mạnh nhất cho một chế độ đang suy giảm trong lý thuyết của chúng tôi, các triển vọng ngay lập tức cho Việt Nam để dân chủ hóa qua sức mạnh vẫn khá thấp.

Các sức Mạnh Kinh tế

Trong Chiến tranh Lạnh, Việt Nam đã liên minh chặt chẽ với Liên Xô, không giống Trung Quốc đã đi con đường riêng của nó sau sự chia rẽ Xô-Trung 1959. Việc này đã có các hệ lụy sâu sắc cho kinh tế chính trị của Việt Nam, kể cả phương thức của nó ra khỏi chủ nghĩa xã hội nhà nước và bước vào chủ nghĩa xã hội kiến tạo-phát triển. Trong khi Trung Quốc pha trộn chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa dân tộc kỹ trị (technonationalism) tự cung tự cấp trong thời kỳ Mao, Việt Nam đã hết sức phụ thuộc vào viện trợ sau khi đánh đuổi những người Pháp khỏi miền bắc trong năm 1954 và đẩy những người Mỹ khỏi miền nam của nó vào năm 1975.

Hơi nghịch lý, sự phụ thuộc bên ngoài sâu này dưới chủ nghĩa xã hội thời Chiến tranh Lạnh khiến cho Việt Nam dễ hơn để quốc tế hóa và mở nền kinh tế của nó với thế giới tư bản chủ nghĩa khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Việc nó bắt đầu “gia nhập” châu Á kiến tạo-phát triển trong cuối các năm 1980 có thể đã muộn hơn sự gia nhập của Trung Quốc một chút; nhưng một khi nó bắt đầu, nó đã ít do dự hơn. Việt Nam xã hội chủ nghĩa cũng đã điều chỉnh thoải mái hơn Trung Quốc với các quy tắc của sự can dự kinh tế khu vực ở châu Á kiến tạo-phát triển, mặc dù đạt các mức phát triển tổng hợp thấp hơn của láng giềng phương bắc khổng lồ của nó rất nhiều.

Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Việt Nam cũng khác với nền kinh tế Trung quốc bởi vì cách mạng xã hội chủ nghĩa của nó đã khác. Sự lệch quan trọng nhất khỏi kinh nghiệm Trung quốc đơn giản là độ sâu và quy mô của sự biến đổi xã hội trong cách mạng Việt Nam. Mặc dù Việt Nam đã tiến hành một cách mạng xã hội chắc chắn như Trung Quốc đã thực hiện, ĐCSVN cầm quyền đã chiến thắng qua một chiến lược mặt trận-thống nhất đòi hỏi sự thỏa hiệp đáng kể với các lực lượng không-cộng sản.35 Nó như thế đã bị cản trở hơn ĐCSTQ trong khả năng của nó để cách mạng hóa các quan hệ tài sản, loại bỏ các thị trường khỏi dòng chính của đời sống kinh tế, và đòi hỏi sự trung thành ý thức hệ như Mao đã đòi hỏi khi ông tuyên bố thành lập CHNDTH. Điều này đặc biệt đúng ở miền nam, nơi sự cai trị ĐCSVN đã muộn và mong manh hơn. Các quan hệ thị trường đã bắt đầu thịnh hành phần lớn trong nông thôn Việt Nam ngay từ 1979. Nhưng trong khi thị trường hóa nông thôn vào cuối các năm 1970 là một sự thay đổi lớn về hướng sau cái chết của Mao và sự trỗi dậy chính trị của Đặng, thì ở Việt Nam điều này báo hiệu sự thất bại của ĐCSVN để biến đổi và xã hội hóa khu vực nông thôn trước tiên.36

Sự thức đẩy mạnh của ĐCSVN cho chủ nghĩa xã hội trong các năm 1970 có thể đã không biến đổi hiệu quả nền kinh tế chính trị của Việt Nam, nhưng nó chắc chắn đã phá vỡ nền kinh tế một cách tồi tệ. Việc vọng lại những nỗi kinh hoàng của Đại Nhảy Vọt ở Trung Quốc, hệ thống nông nghiệp của Việt Nam đã oằn dưới các áp lực của tập thể hóa cưỡng bức, tạo ra tình trạng hầu như nạn đói ở thành phố và nông thôn như nhau vào cuối các năm 1970.37 Để làm cho mọi chuyện tồi đi một cách đáng kể, Việt Nam thấy mình có chiến tranh với cả Cambodia, mà ĐCSVN xâm lấn để lật đổ Khmer Đỏ diệt chủng trong năm 1978, lẫn với Trung Quốc, mà sau đó đã xâm lấn Việt Nam để trả đũa vì việc lật đổ Khmer Đỏ đồng minh của ĐCSTQ. Đã không có bất cứ triển vọng nào cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa non nớt của Việt Nam để có được vị trí vững chắc và tiến bộ đáng kể dưới các điều kiện thù định như vậy, cả từ bên trong và từ bên ngoài.

Chủ nghĩa xã hội như thế đã tỏ ra là một chuyện hời hợt ở Việt Nam hơn ở Trung Quốc trước khi cả hai nước đi theo “chủ nghĩa xã hội thị trường.” Sự đi theo này giống một cơ chế sinh tồn hơn là một sự thay đổi ý thức hệ trong trường hợp Việt Nam. Mặc dù hội nghị toàn thể (TW) 1979 của ĐCSVN “thừa nhận vai trò hữu ích của khu vực-tư nhân, và trao sự tự chủ lớn hơn cho các chính quyền địa phương,” Tường Vũ cho rằng, “Các nhà lãnh đạo đảng coi các biện pháp này là một sự rút lui tạm thời nhưng không phải là các chính sách lâu dài bởi vì chúng rõ ràng mâu thuẫn với tầm nhìn Marxist về chủ nghĩa xã hội.”38

Tuy nhiên sự rút lui chẳng bao lâu sẽ tỏ ra là lâu dài. Những sự thay đổi địa-chính trị đã xảy ra khắp Việt Nam. Với sự lên nắm quyền của Mikhail Gorbachev ở Liên Xô, tay sai sẽ bắt chước ông chủ. Tại Liên Xô, perestroika đã là khẩu hiệu kinh tế kể từ 1986, vào cuối năm đó, ĐCSVN chính thức công bố chiến lược đổi mới riêng của nó. Tập hợp cải cách tự do hóa và quốc tế hóa kinh tế bao gồm trong đổi mới có nghĩa là Việt Nam nhanh chóng (trong một cú) “gia nhập” châu Á kiến tạo-phát triển.39 Cái chết của nhà lãnh đạo ĐCSVN Lê Duẩn trong 1986 sau khi ông đã lãnh đạo đảng trong hơn hai mươi lăm năm cũng đóng góp cho đà của các cải cách kinh tế dứt khoát, cấp tiến dưới ban lãnh đạo mới của Nguyễn Văn Linh, một người miền nam với các chứng chỉ cách mạng hoàn hảo cần thiết cho việc hợp pháp hóa sự chuyển hướng mới dứt khoát của ĐCSVN khỏi tính chính thống xã hội chủ nghĩa.

Đổi mới đã chẳng bao giờ có nghĩa là dân chủ hóa, hệt như Bốn Hiện đại hóa của Trung Quốc đã chẳng bao giờ có nghĩa là cải cách chính trị. Để đưa ra một sự tương tự Soviet, đổi mới đã nặng về perestroika và nhẹ về glasnost. Mặc dù Nguyễn Văn Linh đôi khi được gọi là “Gorbachev của Việt Nam,” chính xác hơn để gọi ông là Đặng Tiểu Bình của Việt Nam.* Những lời tán tỉnh ngắn với tự do hóa chính trị trong 1988, và đặc biệt quyền tự do báo chí lớn hơn để giúp ĐCSVN xử lý tham nhũng, đã bị đảo ngược nhanh chóng khi các chế độ cộng sản đổ nhào ở Đông Âu và ĐCSTQ thấy mình bị sốc trong 1989.40 Giống đảng cộng sản cầm quyền của Trung Quốc, ĐCSVN của Việt Nam đã kiên định tránh dân chủ hóa qua sự yếu kém.

May thay cho Việt Nam và ĐCSVN, những cải cách đầy kịch tính nhắm tới quốc tế hóa nền kinh tế đến vào một thời khắc đặc biệt thuận lợi, đúng khi Hiệp ước Plaza 1985 đang tháo một cơn lũ đầu tư Nhật bản vào Đông Nam Á. Không có một cơ sở khoa học hay công nghiệp mà có thể thậm chí sánh được với cơ sở của Trung Quốc sau-Mao, Việt Nam tuy nhiên đã có một dân cư được giáo dục tương đối rộng, như người ta kỳ vọng căn cứ vào quá khứ xã hội chủ nghĩa gần đây của nó. Các kết quả đã thật đáng chú ý từ một góc độ toàn cầu, mặc dù bình thường nơi liên quan đến châu Á kiến tạo-phát triển. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm cho Việt Nam vọt lên trên 5 phần trăm vào năm 1988 và đã không rớt xuống dưới sự tăng nhanh hàng năm ấn tượng đó trong ba thập niên tiếp sau, ngay cả trong khủng hoảng tài chính Á châu cuối các năm 1990 và suy thoái toàn cầu cuối các năm 2000.

Rất theo tinh thần của châu Á kiến tạo-phát triển, việc theo đuổi sự phát triển nhanh và nâng cao chỗ của Việt Nam trong trật tự tôn ty khu vực đã trở thành “mối quan tâm chi phối của ban lãnh đạo chính trị Việt Nam” vào năm 2000, khi “đà tới sự tham gia khu vực và toàn cầu sâu rộng trở nên không thể cưỡng lại được.”41 Sự tăng trưởng lên đỉnh gần 10 phần trăm một năm trong giữa-các năm 1990, theo sau việc Mỹ gỡ bỏ những sự trừng phạt chống lại Việt Nam trong 1994, và đã tăng trưởng trung bình một cách điển hình khoảng 6–7 phần trăm suốt vài thập niên qua. Theo những con số của Ngân hàng Thế giới, trong 2020 nền kinh tế Việt Nam đã lớn hơn bốn mươi lần nó đã là trong 1990.

Điểm quan trọng không phải là Việt Nam bây giờ giàu, hay thậm chí thu nhập trung bình thoải mái. Vì Việt Nam đã gia nhập châu Á kiến tạo-phát triển từ một tình trạng kinh tế đặc biệt khó khăn, ngay cả ba thập niên kiên định tăng trưởng nhanh đã là không đủ để khắc phục các di sản hủy diệt của các cuộc chiến tranh tàn bạo và sự quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa tồi. Cho các mục đích giải thích của chúng tôi, điểm quan trọng là ĐCSVN có một thành tích kinh tế cực kỳ mạnh, trên và vượt xa hơn tính chính danh cách mạng nó đã có được từ việc giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi sự chiếm đóng của Pháp và Mỹ.


* Việc các tác giả không đả động gì đến Trường Chinh người có vai trò quyết định về đổi mới và đề cao Nguyễn Văn Linh chứng tỏ hiểu biết của họ về Việt Nam đôi khi cũng sơ sài, có lẽ do họ chủ yếu dựa vào các tài liệu tiếng Anh nói về Việt Nam.
Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2024

100 năm ngày sinh Nguyễn Đình Thi: “Mong anh em hiểu đừng cười”

 Phạm Xuân Nguyên

 

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi sinh ngày 20/12/1924. Hội Nhà văn Việt Nam đã làm lễ kỷ niệm trăm năm sinh của ông vào đúng ngày (20/12/2024). Trước đó, ngày 12/11/2024, Khoa Văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, đã làm cuộc toạ đàm về ông mang tên: Nguyễn Đình Thi – “Bát ngát ánh bình minh”. Ngày 10/12/2024 hội thảo khoa học toàn quốc Di sản văn hoá, văn nghệ của Nguyễn Đình Thi cho hôm nay đã được Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương phối hợp cùng Thành uỷ Hà Nội và báo Nhân Dân tổ chức. Tôi có được mời tham dự một trong ba cuộc này và đã định viết bài đọc theo ý nói ở đây, nhưng nghĩ nói ra không khéo lại bị cho là "phá rối cuộc vui", nên thôi.

Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2024

Tiến tới kỷ niệm 100 năm Trường Mỹ thuật Đông Dương – Yết Kiêu (21)

Đông Ngàn Đỗ Đức


BÀN VỀ CHUYỆN VẼ TRANH PHONG CẢNH

Một lần trò chuyện với nhà điêu khắc X. danh tiếng, ông bảo tôi: “Vẽ phong cảnh là thứ dễ nhất”. Tôi giật mình về ý nghĩ đó của người đã dày dặn trong sáng tác. Sao ông ấy dễ dãi vậy? Với tôi, trong nghệ thuật chẳng có gì dễ cả, kể cả mẹo Trạng Quỳnh mấy giây vẽ được 10 con giun.

Thứ Sáu, 20 tháng 12, 2024

100 năm ngày sinh Nguyễn Đình Thi: Cuộc tranh chấp hai con người trong thơ Nguyễn Đình Thi

(Vài cảm nghĩ khi đọc tuyển Thơ Nguyễn Đình Thi [1])

 

Hoàng Hưng

Nguyễn Đình Thi

Tôi từng yêu và phục Nguyễn Đình Thi, lại có lúc ghét, thậm chí… xin hương hồn tiền bối đại xá, có ý coi thường ông. Giờ đây, có dịp đọc tuyển Thơ của đời ông, khi mình đã đi gần hết đời người, đã chứng kiến và chính mình trải qua bao thăng trầm lịch sử và văn chương, tôi bỗng thấy tràn ngập trong lòng một nỗi cảm thông lớn lao. Cảm thông với một thân phận do điều kiện lịch sử mà suốt đời chịu cuộc tranh chấp nội tâm không nguôi. Tranh chấp giữa con người nghệ sĩ và con người của đoàn thể. Để đi đến một kết thúc xét về mặt nào đấy thì rất buồn nhưng lại là sự chiến thắng tối hậu của nghệ thuật.

“Thể ngiệm” Đặng Đình Hưng

Phạm Xuân Nguyên

(Chiều nay ra mắt cuốn sách di cảo của nhà thơ Đặng Đình Hưng nhân 100 năm sinh của ông tại Nxb Hội Nhà Văn. Tôi được Giám đốc Nxb mời dự và phát biểu. Tôi đã viết sẵn một bài ngắn để đọc. Trước khi đọc tôi có nói: Với Trần Dần, Lê Đạt, những người cùng thế hệ Đặng Đình Hưng, tôi có thể nói miệng về họ vì đã ít nhiều hiểu thơ họ. Nhưng với Đặng Đình Hưng thì tôi phải viết ra để đọc vì tôi đang tìm hiểu thơ ông. Đây có thể là trường hợp hiếm hoi cho đến nay tôi làm vậy trong rất nhiều cuộc tôi đã làm MC sách, đã phát biểu trong những cuộc ra mắt sách.)

Tiến tới kỷ niệm 100 năm Trường Mỹ thuật Đông Dương - Yết Kiêu (20)

Đông Ngàn Đỗ Đức

NHẨN NHA ĐƯỜNG LÀNG NGÕ XÓM

(Về họa sĩ Phạm Viết Hồng Lam)

 

Nghề nào thì học xong ra trường cũng chỉ là nhận kiến thức nền, còn thành nghề hay không phải qua một quá trình vận động tiếp. Quá trình vận động để đi vào nghề, chọn được đường đi, nhanh nhất cũng tròm trèm 10 năm đối với nghề sáng tạo như mỹ thuật, nếu là có duyên. Còn nghề khác thì tôi không biết!

Hãy đưa tôi về nhà

Hoàng Nga

                                                Take me home, country road. To the place I belong…

                                                                                                               John Denver

Chàng bị lọt thỏm vào giữa hai… ông già. Tình cờ. Rất tình cờ.

Tính ra tình cảnh của chàng lúc đó là bị sống giữa một rừng gươm. Vì kể luôn ông hàng xóm ở phía bên kia đường, hoàn toàn đã không có một bông hoa, cho dẫu là hoa dại ven đường ở chung quanh cho vui mắt đi chăng nữa!

Thứ Năm, 19 tháng 12, 2024

Tiến tới kỷ niệm 100 năm Trường Mỹ thuật Đông Dương - Yết Kiêu (19)

Đông Ngàn Đỗ Đức

MỘT CHUYẾN RONG CHƠI

(Về họa sĩ Hoàng Đình Tài)

 

Sáng 8/7/2022, trời đẹp, anh bạn trẻ Hoàng Xuân Tuyền nổi hứng rủ về chơi làng Xuân Cầu (xã Nghĩa Trụ, Văn Giang, Hưng Yên). Ừ thì đi!

Xuân Cầu là ngôi làng cổ, nơi sinh của Hoàng Đình Tài, họa sĩ, bạn nghề của tôi. Tuyền với Tài có quan hệ cậu cháu, theo đằng vợ.

Một năm thành công của A24

Lê Hồng Lâm

 

 

A24 tiếp tục có một năm thành công với nhiều bộ phim nhỏ gây tiếng vang trong một thời đại mà điện ảnh đang bị tầm thường hóa thành content.

Trong chỉ hơn 10 năm tồn tại của mình, hãng phim độc lập chọn lối đi riêng và đề cao những sáng tạo mang tính cá nhân này đã hai lần thắng giải Oscar phim hay nhất (Moonlight & EverythingAll at Once).

Từ mở rộng biên cương trên bản đồ đến xây dựng đảo nhân tạo: Lịch sử 100 năm tranh chấp biển Đông (kỳ 25)

Tác giả: Lê Oa Đằng

Việt dịch: Phan Văn Song

This image has an empty alt attribute; its file name is image-61.png

VI.7. Thành lập thành phố Tam Sa và việc kiểm soát thực tế của nó ở biển Đông

Tạo lập thành phố Tam Sa

Cùng với Chiến lược biển, Trung Quốc cũng tăng cường khí tài hải quân và đồng thời gia tăng sức mạnh “thực thi pháp luật dân sự” ở biển Đông. Từ góc độ luật quốc tế, việc thực thi pháp luật dân sự của một quốc gia tại một khu vực nào đó có thể thể hiện “chủ quyền quốc gia” tốt hơn so với việc chiếm đóng quân sự, vì nó cho thấy việc quản lí của quốc gia đó đã thành “bình thường” hóa, và cho thấy việc quản lí khu vực đó đã đi vào ổn định. Mặt khác, quản lí dân sự cũng tránh được cáo buộc “dùng vũ lực thay đổi hiện trạng”, dù thực tế đó vẫn là phương thức “uy hiếp”.

Từ năm 2009, Trung Quốc bắt đầu thúc đẩy kiểm soát thực tế dân sự ở biển Đông, bao gồm mở rộng phạm vi tuần tra, quấy nhiễu việc khai thác dầu mỏ của nước khác, truy đuổi, bắt giữ tàu cá nước ngoài và quấy nhiễu tàu thuyền nước khác (chẳng hạn sự kiện bãi Cỏ Mây). Năm 2012, Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa, đánh dấu việc Trung Quốc đẩy nhanh tốc độ kiểm soát dân sự ở biển Đông. Ngay từ ngày 29/11/2007, trả lời phỏng vấn “Minh báo” Hong Kong, quan chức ngành tuyên truyền thành phố Văn Xương, tỉnh Hải Nam đã tiết lộ: Quốc vụ viện đã phê chuẩn đề nghị của Chính quyền tỉnh Hải Nam, nâng cấp Phòng điều hành Tam Sa thành “Thành phố Tam Sa”. Sau khi biết tin, Việt Nam đã phản đối. Nhưng khi đó Trung Quốc chưa chính thức tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa. Sách lược thông qua nội bộ trước, chờ thời cơ thích hợp để tuyên bố chính thức là mô thức nhất quán của Trung Quốc xưa nay.

Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2012, trong cuộc đối đầu bãi Scarborough giữa Trung Quốc và Philippines, Trung Quốc đã cướp được Scarborough từ tay Philippines, tinh thần lên cao. Ngày 21/6, Việt Nam thông qua “Luật biển Việt Nam”. Điều 1 trong Luật quy định: “Luật này quy định về đường cơ sở, nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lí và bảo vệ biển, đảo.”[1114] Quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa được chính thức đưa vào Luật, điều này lập tức gây ra phản đối từ Trung Quốc. Cùng ngày, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố, khẳng định Trung Quốc có “chủ quyền không tranh cãi” đối với quần đảo Tây Sa, Nam Sa và vùng biển phụ cận; yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Tây Sa, Nam Sa là “vô hiệu”.[1115] Cũng cùng ngày, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã trả lời, nêu rằng việc Quốc hội Việt Nam thảo luận và thông qua “Luật biển Việt Nam” là đúng trình tự lập pháp thông thường, nhằm tạo thuận lợi cho chính quyền Việt Nam trong việc quản lí, khai thác, bảo vệ vùng biển, vùng đảo do Việt Nam kiểm soát, thuận lợi cho Việt Nam trong công tác khai thác kinh tế biển. Thực ra, đưa vùng lãnh thổ đang tranh chấp vào luật pháp là cách mà Trung Quốc đã làm từ lâu: Luật lãnh hải ban bố năm 1994 và Luật vùng đặc quyền kinh tế ban hành năm 1998 đều đã đưa Hoàng Sa và Trường Sa vào.

Trung Quốc cho rằng, đây là thời cơ thích hợp nhất để công bố thành lập thành phố Tam Sa. Cùng ngày Việt Nam thông qua “Luật biển Việt Nam”, Bộ dân chính Trung Quốc tuyên bố: “Quốc vụ viện Trung Quốc gần đây đã phê chuẩn việc xóa bỏ văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa, Trung Sa, thành lập thành phố Tam Sa, cơ quan chính quyền đặt tại đảo Vĩnh Hưng thuộc Hoàng Sa.” Trung Quốc chọn thời cơ này để thông báo chính thức, khiến người ta có cảm giác đây là biện pháp buộc lòng phải thực hiện do bị Việt Nam ‘khiêu khích’, giành được thế thượng phong trong dư luận. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam bày tỏ, Việt Nam kiên quyết phản đối hành động “cáo buộc vô lí” của Trung Quốc, đồng thời “phản đối mạnh mẽ” việc Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa.

Ngày 17/7, Uỷ ban Thường vụ Hội đồng nhân dân khóa 4 tỉnh Hải Nam thông qua “Quyết nghị của Uỷ ban thường vụ Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Nam về việc thành lập Tổ trù bị Hội đồng nhân dân thành phố Tam Sa”, công tác xây dựng chính quyền Thành phố Tam Sa chính thức được khởi động. Ngày 19/7, Quân Uỷ Trung ương trả lời Quân khu Quảng Châu, đồng ý thành lập Khu phòng vệ quân giải phóng Trung Quốc tại Tam Sa tỉnh Hải Nam, chủ yếu phụ trách công tác quân sự và huy động quân dự bị khu vực trực thuộc thành phố Tam Sa, điều phối quan hệ giữa quân đội và địa phương, làm nhiệm vụ bảo vệ thành phố, giúp đỡ địa phương trong công tác cứu hộ cứu nạn, chỉ đạo hoạt động của dân binh và quân dự bị... Khu phòng vệ Tam Sa là đơn vị lục quân được xây dựng tại vùng cực Nam Trung Quốc, đảm trách nhiệm vụ an ninh lãnh hải trong khu vực này. Cùng ngày, Tổ trù bị Hội đồng nhân dân khóa I thành phố Tam Sa được chính thức thành lập, tiến tới bầu ra 60 đại biểu Hội đồng nhân dân. Ngày 23/7, Đại hội Hội đồng nhân dân khóa I thành phố Tam Sa khai mạc. Sáng 24/7, đại hội thành lập và ra mắt thành phố Tam Sa được cử hành tại đảo Vĩnh Hưng, tấm bia tên thành phố Tam Sa nặng 68 tấn được chính thức khánh thành trên đảo Vĩnh Hưng. Đảng bộ, Uỷ ban thường vụ Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và khu phòng vệ quân giải phóng thành phố Tam Sa treo biển làm việc. Từ đó, Thành phố Tam Sa chính thức được thành lập.[1116]

Đồng thời, mã và dấu bưu điện mới bắt đầu được dùng, và tên gọi của ngân hàng, bệnh viện và các tổ chức khác được thay đổi. Kể từ đó, thành phố Tam Sa được chính thức thành lập.

Bên dưới thành phố Tam Sa, Trung Quốc thành lập 3 đơn vị hành chính: quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa và quần đảo Trung Sa. Quần đảo Tây Sa bao gồm Uỷ ban quản lí cụm đảo Vĩnh Lạc (nhóm đảo Lưỡi Liềm), Uỷ ban quản lí Thất Liên Dữ (chuỗi 7 đảo nhỏ phía bắc đảo Phú Lâm - ND) và Uỷ ban quản lí Vĩnh Hưng (trấn), mỗi Uỷ ban lại phân thành một số “xã [khu]” (cấp thôn). Do quần đảo Nam Sa hơi nhỏ nên chỉ thành lập hai xã là Vĩnh Thử (đá Chữ Thập) và Mĩ Tế (đá Vành Khăn). Còn quần đảo Trung Sa thì ngoài đảo Hoàng Nham ra không có bãi/đá nào lộ trên mặt nước nên chỉ thành lập “trấn ảo quần đảo Trung Sa” cho vùng đất không có thật này.[1117]

Việc thành lập Thành phố Tam Sa đánh dấu việc Trung Quốc gia tăng kiểm soát biển Đông. Các hành động lộ rõ nhất là việc hợp nhất các lực lượng công tác biển, tăng cường kiểm soát nghề cá và xây đảo ở biển Đông.

Tăng cường kiểm soát nghề cá

Trước kia, lực lượng chấp pháp trên biển của Trung Quốc gồm nhiều ban ngành, có tên gọi “Ngũ long trị hải”, tức là đội tàu chấp pháp “hải giám” thuộc Cục Hải Dương thuộc Bộ tài nguyên đất đai; đội tàu “ngư chính” thuộc Cục ngư chính Bộ Nông nghiệp; đội tàu “hải tuần” Cục Hải sự thuộc Bộ Giao thông; đội tàu “hải cảnh” thuộc Cục Biên phòng Bộ Công An; và đội tàu chống buôn lậu thuộc Bộ Hải quan. Trong đó, hải giám (do hải quân đảm trách từ những năm 1980) và ngư chính là mạnh nhất, với nhiều tàu viễn dương trọng tải lớn. Vấn đề lớn nảy sinh từ tình trạng nhiều ngành cùng quản lí là đội ngũ quản lí hoạt động manh mún, khép kín khiến việc điều phối và phân công công việc khó khăn. Có những việc thì các ngành tranh giành nhau, có những việc lại đùn đẩy lẫn nhau, dẫn đến tình trạng thiếu lực lượng chấp pháp.[1118]

Ngày 22/7/2013, Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc thuộc Bộ Tài nguyên đất đai chính thức treo biển thành lập Cục Hải cảnh Trung Quốc. Cục Hải cảnh chịu sự quản lí của Cục Hải dương quốc gia, đồng thời chịu sự chỉ đạo nghiệp vụ của Bộ Công an, thực hiện hoạt động chấp pháp vũ trang trên biển theo danh nghĩa Cục Hải cảnh Trung Quốc.[1119] Trước kia, lực lượng hải giám và ngư chính mạnh nhất chỉ có quyền thực thi pháp luật dân sự mà không có quyền thực thi pháp luật hình sự; còn lực lượng hải cảnh và chống buôn lậu có quyền thực thi pháp luật hình sự thì chủ yếu phụ trách công việc gần bờ. Nhưng khi hợp nhất thì hải cảnh có cả quyền và năng lực thực thi luật ở biển xa, sức mạnh cũng lớn hơn nhiều. Đồng thời, Trung Quốc còn trang bị đầy đủ hơn cho tàu hải cảnh trọng tải lớn, trong đó chiếc lớn nhất có lượng choán nước hơn 10 000 tấn, vượt qua tàu hải cảnh Nhật Bản để trở thành lớn nhất thế giới, quy mô thậm chí hơn hẳn tàu chiến của một số nước ven biển khác.[1120]

Trung Quốc lấy 12° vĩ Bắc làm ranh giới, chia biển Đông thành hai khu vực quản lí nghề cá. Khu 12° về phía Bắc được gọi chung là ngư trường phía Bắc biển Đông, chủ yếu bao gồm Vịnh Bắc Bộ, Hoàng Sa và bãi Scarborough. Ngư trường Vịnh Bắc Bộ và Hoàng Sa về cơ bản đều có xung đột với Việt Nam. Khu 12° về phía Nam được gọi chung là ngư trường phía Nam biển Đông, chủ yếu bao gồm quần đảo Trường Sa và các vùng phụ cận thềm lục địa Philippines, Malaysia, Việt Nam. Tình trạng phía Đông và phía Tây có điểm khác biệt. Phía Tây, đặc biệt là khu vực vượt qua hai bên đường 9 đoạn, gần Việt Nam và quần đảo Natuna của Indonesia, thích hợp với hoạt động kéo lưới của tàu cá; phía Đông, do các đảo, bãi nằm san sát, không thích hợp với hoạt động kéo lưới nhưng lại có nguồn tài nguyên phong phú như san hô, rùa biển, trai cỡ lớn,... Ở ngư trường phía Nam nhìn chung có xung đột nghề cá với Philippines, Malaysia và Việt Nam. Do khoảng cách với đất liền Trung Quốc khác nhau nên hình thức xung đột xảy ra cũng không giống nhau.

Tại phía Bắc biển Đông, xung đột nghề cá giữa Trung Quốc và Việt Nam tương đối nổi bật. Sau khi phân định ranh giới Vịnh Bắc bộ, mâu thuẫn nghề cá giữa Trung Quốc và Việt Nam chủ yếu thể hiện ở việc người Việt Nam đánh bắt cá tại quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc truy đuổi, tịch thu (tài sản) và bắt giữ. Theo thống kê của tỉnh Hải Nam Trung Quốc, số tàu cá Việt Nam vào vùng biển Hoàng Sa tăng từ 215 chiếc năm 2003 lên 900 chiếc trong 8 tháng đầu năm 2007, hơn thế ngày càng gần quần đảo Hoàng Sa, số vụ phá hỏng thiết bị của quân sự và dân sự Hoàng Sa ngày càng nhiều, nhân thân ngư dân ngày càng phức tạp, trọng tải tàu ngày càng lớn và thiết bị không ngừng được đổi mới.[1121] Từ năm 2004 đến 2012, Cục Ngư chính triển khai tổng cộng 168 lần hoạt động giám sát thường ngày và hoạt động bảo vệ cá đặc biệt ở Hoàng Sa; kiểm tra 69 lượt tàu cá nước ngoài (chủ yếu là Việt Nam), thu giữ 8 tàu cá; truy đuổi 1 293 lượt tàu, thu hơn 900 kg thuốc nổ.[1122]

Từ năm 1999, Trung Quốc bắt đầu thực hiện chế độ cấm đánh bắt cá tại khu vực phía Bắc biển Đông, quy định từ 1/6 đến 1/8 hàng năm (thời gian có thể có chút biến động) ngừng hoạt động đánh cá “trong vùng biển do Trung Quốc quản lí” (12° vĩ bắc về phía bắc), bao gồm cả Vịnh Bắc bộ. Lệnh cấm đánh bắt cá này được coi là biện pháp gia tăng kiểm soát thực tế của Trung Quốc đối với biển Đông, khi mới công bố đã bị Việt Nam phản đối. Tuy nhiên, trước năm 2009, Trung Quốc không thực thi luật pháp nghiêm ngặt đối với tàu thuyền nước ngoài (chủ yếu là tàu thuyền Việt Nam), vì vậy phản ứng của quốc tế không lớn. Bắt đầu từ năm 2009, Việt Nam phản đối việc Trung Quốc bắt giữ tàu cá của ngư dân Việt Nam tại vùng biển Hoàng Sa đã thu hút sự chú ý của thế giới. Nguyên nhân khác khiến thế giới chú ý là vào tháng 5 năm đó, lần đầu tiên Trung Quốc thể hiện đường 9 đoạn trong một công hàm gửi Liên Hiệp quốc (xem phần VI.3). Cộng đồng quốc tế bắt đầu đặt câu hỏi, có phải Trung Quốc dùng phương thức bắt giữ tàu cá để thúc đẩy “quyền kiểm soát” trong phạm vi đường 9 đoạn hay không.[1123]

Ngày 31/12/2012, Trung Quốc công bố “Điều lệ quản lí trị an biên phòng vùng biển tỉnh Hải Nam”.[1124] Trong đó, điều 47 quy định “Đối với các tàu nước ngoài xâm nhập trái phép vào vùng biển thuộc thẩm quyền của tỉnh Hải Nam: ‘Điều lệ’ yêu cầu các đơn vị công an biên phòng thực hiện các biện pháp như lên tàu kiểm tra, bắt giữ, truy đuổi, ra lệnh dừng tàu, đổi hướng tàu, chạy quay trở lại theo luật định.” Điều này làm dấy lên nhiều cuộc bàn luận trong cộng đồng quốc tế. Tháng 5/2013, Trung Quốc công bố lệnh ngừng đánh bắt cá, đơn phương đưa vùng biển rộng lớn gần quần đảo Hoàng Sa và Đông Sa (Pratas), đang tranh chấp với Philippines và Việt Nam vào khu vực quản lí của Trung Quốc, đồng thời bắt giữ tàu cá Việt Nam, khiến Philippines và Việt Nam cùng các nước một lần nữa nghi ngờ và phản kháng.

Tháng 11/2013, tỉnh Hải Nam đưa ra “Biện pháp thực thi Luật nghề cá nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của tỉnh Hải Nam”, có hiệu lực ngày 1/1/2014, gây ra sự phản đối từ nhiều nước.[1125] Philippines cho rằng, đây là hành động làm gia tăng căng thẳng tại biển Đông;[1126] Việt Nam gọi điều đó là “phi pháp, vô hiệu lực”, và “yêu cầu Trung Quốc từ bỏ hành động sai trái trên”.[1127] Mĩ gọi đây là hành động khiêu khích (provocative) và ẩn chứa nguy cơ.[1128] Trung Quốc nói Mĩ “có động cơ thầm kín, và có ý đồ khó lường”.[1129] Sự chú ý của mọi người đối với quy định này của tỉnh Hải Nam tập trung ở hai điểm:

Một là, điều 35 của “Biện pháp” quy định rằng “Người và tàu thuyền nước ngoài vào vùng biển do tỉnh quản lí để tiến hành các hoạt động nghề cá hoặc thăm dò tài nguyên nghề cá đều phải được sự phê chuẩn của các ban ngành chủ quản liên quan của Quốc vụ viện”.

Hai là, các ban ngành quản lí nghề cá của Trung Quốc có quyền kiểm tra tàu thuyền nước ngoài.[1130]

Thực ra, hai quy định này không có gì mới, nó đã được ghi chép tương tự tại Luật nghề cá của Trung Quốc trong những năm 1980. Hoa Xuân Oánh chỉ ra: “Nếu phía Mĩ chịu khó nghiên cứu ‘Luật lập pháp’, ‘Luật nghề cá’ và ‘Biện pháp thực thi ‘Luật nghề cá’ được soạn ra lần này của tỉnh Hải Nam, cùng thực tế các luật tương ứng thì sẽ thấy quy định về việc tàu cá nước ngoài vào vùng biển do Trung Quốc quản lí trong ‘Biện pháp’ không khác với ‘Luật nghề cá’ được ban hành năm 1986.” Hơn nữa, việc quản lí nghề cá của các nước về cơ bản là giống nhau, đó cũng là chủ quyền quốc gia, việc Mĩ phản đối xem ra là sự gây rối không hợp lí. Tuy nhiên, xét đến tình hình đặc thù của biển Đông, sự lo lắng của Mĩ và các nước xung quanh không phải là không có lí.

Từ góc độ luật pháp, vấn đề lớn nhất trong quy định này của tỉnh Hải Nam là nó không quy định phạm vi cụ thể của “vùng biển do tỉnh Hải Nam kiểm soát”[1131] nên không có cách nào thực hiện được ở cấp độ pháp lí. Tàu thuyền đánh cá nước ngoài không biết cái gọi là “vùng biển do tỉnh Hải Nam kiểm soát” rốt cục là chỗ nào, cũng không có cách nào biết được phạm vi hoạt động của mình có nằm trong vùng biển đó hay không. Ngay cả ở những khu vực mà Trung Quốc cho rằng họ có quyền thực thi luật pháp, họ cũng không có cách nào xử phạt tàu thuyền nước ngoài “vi phạm pháp luật”, vì về mặt luật pháp, Trung Quốc không thể chứng minh tàu nước ngoài đi vào “vùng biển do tỉnh Hải Nam kiểm soát”.

Nhìn theo quy định của Trung Quốc về các khu vực thuộc quyền quản lí của tỉnh Hải Nam, thành phố Tam Sa bao gồm toàn bộ Hoàng Sa, Trường Sa, Trung Sa (Macclesfield) và bĩa Scarborough. Vì vậy, các nước liên quan không khỏi lo lắng, cái được Trung Quốc gọi là “vùng biển do tỉnh Hải Nam kiểm soát” có củng cố các hành động “bảo vệ quyền lợi” của Trung Quốc tại biển Đông trong mấy năm gần đây ở cấp độ pháp lí hay không? Có phải Trung Quốc sử dụng phương thức “cảnh sát” để cung cấp một ví dụ về việc “kiểm soát thực tế” phạm vi đường 9 đoạn mà Trung Quốc yêu sách, để cộng đồng quốc tế tin rằng “việc kiểm soát thực tế” của Trung Quốc ở biển Đông đã trở thành “hiện trạng” (status quo), từ đó tăng thêm cơ sở pháp lí cho các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với đường 9 đoạn.

Liên hệ tới việc Trung Quốc vừa mới thiết lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) không phù hợp luật pháp quốc tế trên biển Hoa Đông, truyền thông Trung Quốc cũng hô hào nên thiết lập ADIZ tương tự ở biển Đông, sự lo lắng của các nước không phải là thiếu căn cứ. Khi đến thăm Đông Nam Á, ngoại trưởng Mĩ John Kerry đã có chung nhận thức với nhiều quốc gia biển Đông về vấn đề ADIZ, mong muốn Trung Quốc không lập ADIZ ở biển Đông, và không tiếp tục làm căng thẳng thêm tình hình biển Đông một cách giả tạo,[1132] nhưng không nhận được hồi âm từ phía Trung Quốc.

Từ đó có thể thấy, thông qua việc “kiểm soát” hóa một khu vực tranh chấp ở biển Đông để tăng thêm bằng chứng chủ quyền đối với khu vực này là sách lược được Trung Quốc sắp đặt. Theo nghĩa này, mỗi sắc lệnh mới do Trung Quốc công bố có nghĩa là thêm một bằng chứng “kiểm soát” của họ đối với một vùng biển. Mặc dù nói đúng ra, những “bằng chứng” này là không có giá trị theo luật pháp quốc tế để xác định quy thuộc lãnh thổ hay lãnh hải. Tuy nhiên, nếu các nước lân cận hoặc các nước liên quan không lên tiếng phản đối thì rất dễ bị Trung Quốc tuyên bố là đã thừa nhận sự kiểm soát của Trung Quốc, cũng có nghĩa là thừa nhận hiện trạng. Trong khuôn khổ luật pháp quốc tế, điều này rất có thể bất lợi cho các nước. Vì thế, việc các nước đưa ra phản đối việc này là điều có thể đoán trước, và cũng là hành động bình thường.

Tại phía Nam quần đảo Trường Sa, do khoảng cách xa, địa bàn lại rộng nên Trung Quốc chọn phương thức kiểm soát khác. Về phía Tây, do thực lực của Việt Nam cùng một số nước tương đối mạnh, hải cảnh “bảo vệ quyền lợi” của Trung Quốc chưa đủ lực, có nguy cơ cao xảy ra sự cố với nước ngoài, Sau năm 2013, rất ít tàu cá Trung Quốc đến đánh bắt cá ở đây.[1133] Nhưng trong vùng biển phía Đông gần Philippines, với sự hậu thuẫn của hải cảnh (ngư chính), ngư dân Trung Quốc được khuyến khích đến đây đánh bắt.

Do ngư dân Trung Quốc đánh bắt cạn kiệt nguồn cá ven bờ, khiến tài nguyên nghề cá giảm mạnh, họ chỉ có thể đánh bắt tại những nơi ngày càng xa hơn. Ngoài biển Đông ra, tại Hoàng Hải, biển Hoa Đông, thậm chí tận Palau ở Thái Bình Dương xa xôi đã từng xảy ra các vụ ngư dân Trung Quốc bị nước ngoài bắt giữ và xử lí vì đánh bắt trái phép quá mức. Khi đánh bắt ở biển xa, ngư dân Trung Quốc đã dùng phương thức không bền vững để vơ vét vô độ nguồn tài nguyên biển, chẳng hạn sử dụng lưới “tuyệt chủng” (loại lưới có mắt cực nhỏ) và thuốc nổ (ngư dân Việt Nam cũng sử dụng phương thức này). Hơn nữa, mục tiêu của ngư dân Trung Quốc không chỉ là cá mà còn là hải sản quý hiếm được bảo vệ như rùa biển, trai biển, san hô, trai tai tượng ... Hành vi không đếm xỉa đến nguyên tắc bảo vệ môi trường quốc tế này thậm chí còn được chính quyền địa phương khuyến khích. Chẳng hạn, dân đánh bắt chủ lực của thị trấn Đàm Môn luôn có người giao dịch mua bán rùa biển và trai với quy mô lớn. Năm 2012, Hội nghị Hiệp thương chính trị thành phố Quỳnh Hải đã đến thị trấn Đàm Môn khảo sát tình hình phát triển ngành trai tai tượng đã nhận xét “tiềm năng phát triển thị trường rất lớn”, cần “làm lớn, làm mạnh hơn.” Tháng 11 cùng năm, “Hội chợ triển lãm hàng thời thượng quốc quốc tế Trung Quốc” được tổ chức tại Hải Khẩu còn quảng bá “ngọc trai tai tượng đảo Hoàng Nham” là một trong 10 thương phẩm du lịch hàng đầu của Hải Nam,[1134] chẳng hề bận tâm về việc giao dịch trai tai tượng là phạm pháp. “Lệnh cấm đánh bắt cá” vào mùa hè hàng năm ở phía Bắc biển Đông của Chính phủ Trung Quốc biến tướng thành việc khuyến khích ngư dân xuống phía biển Đông đánh bắt cá.

Việc khuyến khích ngư dân đến biển Đông đánh bắt cá có thể tạo thành hiện trạng “sản xuất ở Nam Hải”, quan trọng hơn, đó là giúp hải cảnh Trung Quốc tạo thêm ví dụ về “kiểm soát thực tế”. Sau năm 2009, ngư chính (hải cảnh) Trung Quốc bắt đầu tiến sâu vào khu vực tranh chấp giữa Trung Quốc với Philippines tại phía Nam biển Đông, quấy nhiễu và truy đuổi tàu thuyền Philippines, hoặc lấy lí do “bảo vệ nguồn cá” để ngăn cản tàu chấp pháp của Philippines bắt giữ ngư dân Trung Quốc, với ý đồ tạo ra cảnh tượng giả về kiểm soát thực tế. Nhưng rốt cục, lực lượng hải cảnh Trung Quốc có hạn, không thể giám sát toàn bộ tàu cá Trung Quốc suốt ngày đêm. Vì thế không ít trường hợp ngư dân Trung Quốc bị Philippines bắt giữ. Gặp tình huống này, Trung Quốc dùng áp lực ngoại giao để khẳng định chủ quyền Trung Quốc tại khu vực này và yêu cầu Philippines thả người.

Ví dụ: ngày 7/5/2014, hải cảnh Philippines bắt giữ tàu cá Trung Quốc (Quỳnh Hải 09063) và 11 thuyền viên tại bãi Bán Nguyệt (bãi Trăng Khuyết, Half Moon Shoal). Đó là bãi san hô thuộc Trường Sa, chỉ có một mỏm đá có thể nhô khỏi mặt nước khoảng 1m khi nước dâng cao. Theo Luật quốc tế thì ở bãi này có quyền có lãnh hải, nhưng không có quyền có vùng đặc quyền kinh tế. Cả Trung Quốc lẫn Philippines đều tuyên bố chủ quyền tại đây. Do bãi đá này rất nhỏ, lại không có công trình xây dựng bên trên nên rất khó nói bên nào đang kiểm soát thực tế.

Lí do Philippines bắt giữ ngư dân là vì tàu cá Trung Quốc đánh bắt trái phép động vật quý hiếm được bảo vệ trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Quan chức Philippines phát hiện hơn 500 con rùa biển trên tàu, trong đó có 350 thuộc loại có nguy cơ tuyệt chủng, được LHQ công nhận và được Liên minh bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) xác định là động vật có nguy có tuyệt chủng (endangered species), bị Philippines cấm đánh bắt. Philippines cũng bắt giữ cùng lúc một tàu cá khác của Philippines. Thuyền viên Trung Quốc lí giải rằng họ không đánh bắt rùa biển, còn đổ thừa rằng số rùa đó là do người Philippines bắt, và họ chỉ là người mua lại. Nhưng, đánh bắt là phi pháp và mua bán loại hải sản này cũng là phi pháp.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố “Trung Quốc có chủ quyền không tranh cãi đối với quần đảo Nam Sa, bao gồm cả bãi Bán Nguyệt và vùng biển phụ cận”, yêu cầu Philippines đưa ra lời giải thích hợp lí đồng thời lập tức thả người và tàu. Nhưng Philippines chấp nhận áp lực, sau khi thả 2 ngư dân chưa đến tuổi thành niên, đã tiến hành khởi tố 9 thuyền viên còn lại với hai tội danh là vi phạm Luật bảo vệ động vật hoang dã và xâm nhập trái phép lãnh thổ, kết án họ 1 năm tù giam. Cho đến ngày 8/6/2015, thẩm phán Ambrosio de Luna của Tòa án lưu động tỉnh Palawan mới kí lệnh thả các ngư dân này vào ngày 8/6.[1135]

VI.8. Khủng hoảng tại bãi Nhân Ái (bãi Cỏ Mây/ Second Thomas Shoal)

Tháng 7/2012, tiếp sau sự kiện bãi Scarborough, một chiếc tàu hộ vệ Trung Quốc bị mắc cạn trong bãi Trăng Khuyết phía đông nam bãi Cỏ Mây (Hình 74) làm Philippines kinh hoảng. Philippines lo lắng rằng Trung Quốc sẽ chiếm bãi Trăng Khuyết theo cách tương tự như cách họ chiếm đóng bãi Cỏ Mây. Đây là bãi đá gần đảo Palawan nhất trong quần đảo Trường Sa, cách quần đảo Trường Sa khoảng 57 hải lí. Nếu Trung Quốc chiếm được bãi Trăng Khuyết thì sẽ cắt được liên lạc giữa đảo Palawan và bãi Cỏ Mây. May mắn là sau đó hai ngày, tàu bảo hộ Trung Quốc đã tự thoát khỏi mắc cạn. Các lí giải về lần mắc cạn này không như nhau, đó có thể chỉ đơn thuần là mắc cạn nhưng đó cũng có thể là hành động của Trung Quốc dùng để dọa dẫm Philippines.

Giữa lúc Trung Quốc chuẩn bị tiến thêm một bước ở biển Đông thì quan hệ Trung – Nhật xảy ra cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về đảo Điếu Ngư/Senkaku (xem phần VI.10). Trung Quốc buộc phải hoãn các hành động tại biển Đông lại, dồn sức lực sang đảo Điếu Ngư.

Philippines thua kém Trung Quốc vài thế hệ về sức mạnh quân sự, không thể hy vọng đối chọi với Trung Quốc bằng vũ lực, biện pháp duy nhất có thể chọn lựa là dùng phương thức trọng tài mà Trung Quốc kịch liệt phản đối (xem phần sau). Đơn kiện của Philippines chính thức được phản hồi vào đầu năm 2013. Ngày 24/4/2013, Chánh án Tòa án Luật biển quốc tế Yanai Shunji tuyên bố Uỷ quyền cho 3 thành viên trọng tài chọn ngày xử kiện. Động thái đó khiến Trung Quốc tức giận, ngày 26/4, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oán tuyên bố:

Từ những năm 1970 thế kỉ 20, Philippines đã vi phạm “Hiến chương Liên Hiệp quốc” và các nguyên tắc của Luật quốc tế, xâm chiếm phi pháp một số đảo / bãi trong quần đảo Nam Sa của Trung Quốc, bao gồm: đảo Mã Hoan (Vĩnh Viễn); đảo Phí Tín (Bình Nguyên); đảo Trung Nghiệp ( Thị Tứ); đảo Nam Thược (Loại Ta); đảo Bắc Tử (Song Tử Đông); đảo Tây Nguyệt (Bến Lạc); bãi Song Hoàng (Loại Ta Nam) và bãi Tư Lệnh (Công Đo / Commodore). Phía Trung Quốc trước sau kiên quyết phản đối sự xâm chiếm phi pháp của phía Philippines, trịnh trọng nhắc lại yêu cầu phía phía Philippines rút hết người và thiết bị khỏi các đảo bãi của Trung Quốc.[1136]

Trong 8 đảo nhỏ mà Trung Quốc liệt kê là do Philippines chiếm đóng không có bãi Cỏ Mây. Điều đó dẫn đến suy đoán thái độ của Trung Quốc về bãi Cỏ Mây như sau: phải chăng Trung Quốc không công nhận sự kiểm soát thực tế của Philippines đối với bãi Cỏ Mây? Hay Trung Quốc có ý đuổi Philippines khỏi bãi Cỏ Mây? Quả nhiên, ngày 7/5, Philippines phát hiện thấy một chiếc tàu khu trục hải quân và hai tàu hải giám Trung Quốc cách Cỏ Mây 6 hải lí. Sau đó Philippines phái 3 tàu chiến (tàu tuần tra PS36, tàu khu trục PS47 và tàu chở quân PS71) đến Cỏ Mây nhưng đều bị tàu Trung Quốc chặn giữa đường.

This image has an empty alt attribute; its file name is image-134.png

Hình 74: Bản đồ vùng phụ cận bãi Cỏ Mây và bãi Trăng Khuyết

Ngày 9/5, tại vùng biển phía Đông Bắc Philippines, tàu chấp pháp Philippines đã bắn vào tàu cá Quảng Đại Hưng số 28 của Đài Loan làm 1 người thiệt mạng. Mặc dù sự việc không xảy ra tại biển Đông, không liên quan trực tiếp đến Bắc Kinh, Đài Loan cũng tuyên bố không muốn Bắc Kinh nhúng tay, nhưng Bắc Kinh vẫn thể hiện thái độ cứng rắn. Tình hình biển Đông càng trở nên căng thẳng.

Ngày 10/5, Philippines phản đối Trung Quốc về sự kiện bãi Cỏ Mây, Trung Quốc phớt lờ. Trong hơn 10 ngày tiếp sau, tàu Trung Quốc và Philippines đối đầu nhau tại khu vực gần bãi Cỏ Mây. Mãi đến ngày 22/5, Trung Quốc mới đáp trả:

Bãi Nhân Ái là một phần của quần đảo Nam Sa. Trung Quốc có chủ quyền không tranh cãi tại quần đảo Nam Sa và các vùng biển phụ cận. Việc tàu công vụ Trung Quốc tiến hành hoạt động tuần tra bình thường trên vùng biển liên quan là điều không thể trách được. Trung Quốc đề nghị các nước liên quan tích cực thực hiện đầy đủ “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Nam Hải”, không sử dụng các hành động làm mở rộng, phức tạp hóa tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định ở Nam Hải.[1137]

Về nguyên nhân đối đầu, ý kiến hai bên không giống nhau. Phía Trung Quốc cho rằng, tàu chiến Philippines “mắc cạn phi pháp” trên bãi Cỏ Mây lâu ngày không sửa chữa, có dấu hiệu chìm, do vậy Philippines vội vàng đưa tàu chiến ra chi viện, với ý đồ tăng cường sự hiện diện trên bãi Cỏ Mây vì thế Trung Quốc không thể không ngăn cản. Phía Philippines cho rằng, họ phát hiện thấy tàu hải giám và tàu chiến Trung Quốc tiến vào bãi Cỏ Mây trước rồi mới phái tàu chiến đến giám sát; rằng tàu chiến Philippines tiến vào bãi Cỏ Mây là để tiếp tế cho quân lính, đó là việc làm bình thường. Sau đó, Philippines cho biết thêm, tàu cá Trung Quốc tiến vào bãi Cỏ Mây đánh bắt cá dưới sự yểm trợ của tàu chiến và tàu hải giám cũng là nguyên nhân dẫn đến đối đầu. Theo điều tra, ngày 6/5 thực sự có đoàn tàu Trung Quốc xuất phát từ Hải Nam, nghênh ngang tiến vào biển Đông đánh bắt cá nhưng mãi tới ngày 12/5 mới tới vùng biển nằm giữa bãi Scarborough và bãi Cỏ Rong (Reed Tablemount (14° 00’ N, 117° 14’ E). Khi cuộc đối đầu bắt đầu diễn ra, đoàn tàu này chưa đến bãi Cỏ Mây. Nguyên nhân khiến Trung Quốc lựa chọn để đối đầu với Philippines tại bãi Cỏ Mây nhiều khả năng là vì bãi Cỏ Rong. Năm 2011, Philippines và công ty dầu khí Mĩ hợp tác thăm dò và đồng ý khai thác bãi Cỏ Rong, nhưng việc khai thác bị dừng lại do sự phản đối của Trung Quốc (xem phần VI.5). Bãi Cỏ Mây nằm ở phía Nam bãi Cỏ Rong, nếu Trung Quốc kiểm soát được Cỏ Mây thì sẽ kiểm soát được bãi Cỏ Rong hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, có lẽ nguyên nhân trực tiếp nhất là: một, trả đũa việc Philippines đưa vấn đề tranh chấp biển Đông ra Tòa án quốc tế; hai, bãi Cỏ Mây là đảo duy nhất do Philippines chiếm cứ chưa có công trình kiên cố, việc kiểm soát rất yếu ớt, giả sử Philippines định xây dựng công trình kiên cố thì Trung Quốc phải ngăn chặn việc sự hiện diện kiểu lâu bền của họ ở bãi Cỏ Mây; ba, Trung Quốc có động cơ chiếm lấy bãi Cỏ Mây.

Sau khi thừa nhận đối đầu tại bãi Cỏ Mây, Trung Quốc lập tức tạo thế từ dư luận, đồng thời mở rộng phong tỏa bãi Cỏ Mây. Bên cạnh việc giám sát của hải quân và hải giám, Trung Quốc còn đưa hơn 30 tàu cá đến bao vây khu vực phụ cận Cỏ Mây, tăng thêm khả năng ngăn chặn tàu Philippines đến gần.

Ban đầu, Philippines giữ thái độ cứng rắn. Ngày 23/5, Bộ trưởng Quốc phòng Voltaire Gazmin tuyên bố: “Bãi Cỏ Mây thuộc về Philippines không có tranh chấp” và nói thêm: “Chúng tôi sẽ chiến đấu vì lãnh thổ của mình cho đến người lính cuối cùng.”[1138]

Tuy nhiên, Philippines không dám xung đột trực diện với Trung Quốc, mặc dù các tàu chiến đã đối đầu tại khu vực gần đó nhưng Philippines không dám xông tới, và việc tìm kiếm một giải pháp ngoại giao trở thành lối thoát duy nhất.

Một mặt, Philippines nhường nhịn Trung Quốc: trước hết tỏ thái độ mềm mỏng, tuyên bố không hành động đơn phương. Ngày 27/5, người phát ngôn Phủ Tổng thống Walter tuyên bố: “Để tránh căng thẳng tại bãi Cỏ Mây, Chính phủ Philippines quyết định không thực hiện bất kì hành động nào.”[1139] Đồng thời, ngư dân được khuyến cáo không nên đến đánh bắt trong khu vực gần bãi Cỏ Mây. Bộ trưởng Quốc phòng Philippines đảm bảo với Đại sứ Trung Quốc tại Philippines Mã Khắc Khanh rằng, tàu đến bãi Cỏ Mây chỉ là để tiếp tế lương thực, Philippines không có kế hoạch xây dựng công trình kiên cố tại đây.[1140]

Mặt khác, Philippines kêu gọi kêu gọi cộng đồng quốc tế và dư luận quốc tế giúp đỡ. Trước hết, khi trả lời phỏng vấn hãng Reuters, quan chức quân đội cao cấp Philippines nói, lính thuỷ đánh bộ Philippines trên bãi Cỏ Mây hiện chỉ nấu ăn bằng một máy phát điện. Liên lạc vô tuyến tầm xa phải dùng ắc quy, máy phát điện hết nhiên liệu, ắc quy chưa nạp đủ điện là một “thách thức cực kì khắc nghiệt”. Hơn thế, nguồn vật tư trên tàu chỉ đủ dùng trong hai tuần.[1141] Đồng thời, Philippines công bố hình ảnh binh lính phòng thủ trên tàu để tranh thủ sự đồng cảm. Hai là, ngày 2/6, khi Đối thoại Shangri La nhóm họp tại Singapore, Philippines tuyên bố sẽ tranh thủ cơ hội này để luận bàn toàn diện vấn đề biển Đông, trong đó có bãi Cỏ Rong và tố cáo Trung Quốc ỷ lớn hiếp nhỏ. Thứ ba, Philippines tìm kiếm sự trợ giúp quân sự từ Mĩ. Mĩ, Philippines và nhiều nước ASEAN quyết định diễn tập quân sự vào hạ tuần tháng 6, tại khu vực cách bãi Scarborough khoảng 190 km, quy mô diễn tập lớn nhất trong lịch sử. Philippines cũng tìm kiếm sự trợ giúp từ Nhật Bản. Nhật Bản hứa cho Philippines 10 tàu tuần duyên nhằm cải thiện năng lực tuần tra biển.

Không khí quốc tế khi đó cũng thuận lợi cho Philippines. Trung Quốc và Nhật Bản đã trong tình trạng sẵn sàng đối đầu trong vấn đề đảo Điếu Ngư (Senkaku), trở thành sự kiện ngoại giao, quân sự quan trọng nhất. Mặc dù Trung Quốc dùng tàu hải giám, thậm chí là tàu chiến đến “tuần tra” dọc vùng đảo Điếu Ngư, nhưng không có cách nào đột phá được bên trong, cũng không có cách nào ép được Nhật Bản thừa nhận đảo Điếu Ngư đang trong tình trạng tranh chấp lãnh thổ. Ngược lại, Nhật Bản lợi dụng mâu thuẫn lãnh thổ giữa Trung Quốc với ASEAN, thậm chí cả với Ấn Độ, ra sức xây dựng vòng vây “ giá trị chung” và “lợi ích chung”.

Sau khi xảy ra sự kiện đối đầu tại bãi Cỏ Mây, cộng đồng quốc tế liên hệ với sự kiện bãi Scarborough một năm trước đó và cho rằng đây là điểm nóng mới của việc Trung Quốc “hiếp đáp” các nước láng giềng. “Hiếp đáp” là loại phương thức dùng gần như vũ lực có sự hậu thuẫn của vũ lực để dọa nạt, được xem là thủ đoạn phi hòa bình. Philippines nhờ đó mà chiếm được sự đồng tình của dư luận quốc tế.

Mặc dù Việt Nam và Philippines cũng có tranh chấp lãnh thổ nhưng về cơ bản đã đạt được thỏa thuận giải quyết hòa bình. Hành động của Trung Quốc tại bãi Cỏ Mây khiến Việt Nam cảm thấy bất an, vì rằng đá Tiên Nữ (Pigeon Reef) do Việt Nam kiểm soát thực tế cách bãi Cỏ Mây không xa. Việt Nam và Ấn Độ tuyên bố tập trận chung vào ngày 8/6, đây được coi là một kiểu ủng hộ Philippines. Khi đó, Trung Quốc cũng xảy ra đối đầu với Ấn Độ tại Ladakh. Như vậy, trước Đối thoại Shangri La diễn ra hàng năm, Trung Quốc cùng một lúc có xung đột lãnh thổ với Nhật Bản, Philippines, Việt Nam và Ấn Độ, chịu áp lực nặng chưa từng có.

Thái độ của Mĩ khi đó trở thành mấu chốt. Mĩ và Philippines là đồng minh quân sự, cũng là hai nước luôn phản đối giải quyết vấn đề biển Đông bằng biện pháp phi hòa bình. Sau khi vụ đối đầu ở bãi Cỏ Mây, Mĩ nhiều lần nhắc lại quan điểm mong muốn vấn đề biển Đông được giải quyết bằng phương thức hòa bình. Trong hai ngày 22 và 23 tháng 5, nhóm tác chiến tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân “Nimitz” của hải quân Mĩ rầm rộ tiến vào biển Đông, tiến hành tập trận gần vùng biển Philippines với các hạng mục có tính trực diện, mạnh bạo như yểm trợ tàu vận chuyển, chi viện trên không và trên biển cho binh lính canh giữ đảo, bắn trả tàu. Tuy địa điểm diễn tập không gần bãi Cỏ Mây, nhưng đã phát đi tính hiệu phản đối Trung Quốc rõ ràng. Điều quan trọng nhất là, Tổng thống Obama đã mời Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đến dinh ông ở California để hội đàm vào đầu tháng 6. Đây được coi là cuộc hội đàm có tính then chốt đối với việc Trung Quốc và Mĩ chính thức xây dựng “quan hệ nước lớn kiểu mới” hoặc cấu trúc G2. Quan hệ nước lớn kiểu mới khác với “kiểu cũ” là “không xung đột”. Vì vậy, Trung Quốc không muốn làm hỏng bầu không khí hội đàm.

Do đó, ngày 29/5, Trung Quốc và ASEAN tiến hành họp Nhóm công tác chung lần thứ 8 về thực hiện “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông” (8th ASEAN-China Joint Working Group (JWG) on Implementation of the Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea). Chi tiết cuộc họp không được công bố, nhưng theo Trung Quốc, Hội nghị khẳng định rõ việc thực hiện “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông” đạt được những tiến triển tích cực năm 2012, các bên nhất trí tiếp tục thực hiện hiệu quả, toàn diện “Tuyên bố”.[1142] Trước Đối thoại Shangri La, mặc dù Trung Quốc và Philippines liên tục đối đầu tại bãi Cỏ Mây nhưng không leo thang: Philippines không làm liều vận chuyển vật tư đến bãi Cỏ Mây, còn Trung Quốc cũng không lựa chọn những hành vi quá khích.

Phiên họp Đối thoại Shangri La diễn ra từ ngày 2-4/6 đã không có nhưng cảnh nóng như dự kiến. Các bên liên quan đều thể hiện lo ngại ở các mức độ khác nhau trước việc Trung Quốc dùng thủ đoạn uy hiếp để mở rộng phạm vi kiểm soát thực tế. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam đề nghị các bên liên quan nên xem xét kí kết hiệp ước “không sử dụng vũ lực trước”. Tuy nhiên, cách nói của các bên đều mềm mại. Phó Tổng tham mưu trưởng Trung Quốc Thích Kiến Quốc và Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Gasmin lần lượt phát biểu trong cùng một ngày, đều không đề cập trực tiếp đến sự kiện bãi Cỏ Mây, còn khi trả lời câu hỏi cũng dừng ở đó. Thích Kiến Quốc nhấn mạnh hòa bình về ranh giới biển, thậm chí nguy cấp hơn là về vấn đề đảo Điếu Ngư, ông cũng nhắc lại chính sách “gác tranh chấp”. Với sự đồng thuận ngầm của tất cả các bên, Đối thoại Shangri La đã tạo điều kiện cho việc giải quyết hòa bình sự kiện bãi Cỏ Mây.[1143] Sau đó, Sau đó, tại Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc-Hoa Kì tại California, Obama nhấn mạnh với Tập Cận Bình tầm quan trọng trong việc giải quyết hòa bình vấn đề biển Đông và biển Hoa Đông. Tập Cận Bình cũng nhấn mạnh quyết tâm bảo vệ lãnh thổ của Trung Quốc, nhưng điều đó không mâu thuẫn với việc giải quyết vấn đề một cách hòa bình.

Dưới tác động của nhiều nhân tố, ngày 19/6, Tổng Tư lệnh Philippines đột nhiên tuyên bố, thông qua một phân đội hải quân nhỏ, quân đội đã thực hiện thành công tiếp tế vật tư và luân chuyển người ở bãi Cỏ Mây. Ông nhấn mạnh, không gặp phải tàu Trung Quốc; việc bổ sung vật tư và luân chuyển thực hiện định kì, ngoài bãi Cỏ Mây, cũng được tiến hành tại tất cả các đảo do Philippines kiểm soát. Ông còn nói, Philippines có thể tự do thực hiện bất kì hành động nào trên bãi này mà không cần thông báo cho phía Trung Quốc, vì đó là “của chúng tôi”. Đương nhiên, ông cũng đảm bảo với Đại sứ Trung Quốc tại Philippines Mã Khắc Khanh rằng Philippines không có ý định xây dựng công trình kiên cố trên bãi Cỏ Mây.[1144]

Trung Quốc thì nói: việc tiếp tế vật tư và luân chuyển lực lượng của Philippines phải được tiến hành dưới sự giám thị của tàu Trung Quốc. Ngày 24, Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố, Trung Quốc không thừa nhận “ngồi trên bãi” là một dạng phương thức kiểm soát thực tế.[1145] Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố, Philippines phải thực hiện lời hứa dừng hành vi xâm phạm chủ quyền Trung Quốc.[1146] Cuộc khủng hoảng bãi Cỏ Mây được giải quyết một cách kịch tính trong âm thầm.

Căn cứ vào lời nói của hai bên thì Philippines và Trung Quốc rõ ràng đã đạt được một số thỏa thuận: Philippines hứa không xây dựng công trình kiên cố trên bãi Cỏ Mây, còn Trung Quốc cũng đồng ý chỉ quan sát mà không ngăn cản hải quân Philippines tiếp tế vật tư lên đảo. Như vậy, cả hai bên đều có thể đưa ra cách giải thích có lợi cho mình: phía Philippines, “khi tiếp tế vật tư và luân chuyển quân không gặp phải tàu Trung Quốc”, còn phía Trung Quốc cũng có thể xác nhận “Philippines tiến hành tiếp tế vật tư và luân chuyển quân dưới sự giám thị của tàu Trung Quốc”. Trung Quốc nói Philippines cần phải thực hiện lời hứa kéo tàu chiến rời đi. Không biết chính xác Philippines đã hứa hẹn cụ thể thế nào, nhưng đại thể có hứa sẽ kéo tàu chiến đi, nhưng không định rõ thời hạn. Còn việc “ngồi trên bãi” có được coi là kiểm soát thực tế hay không, hai bên có ý kiến khác nhau, đây là một ví dụ khác về “mỗi bên mỗi phách”. Nhưng trong mọi trường hợp, theo cách nhìn của bên thứ ba, sau khi thực hiện việc tiếp tế vật tư và luân chuyển quân ở bãi Cỏ Mây thì Philippines đã củng cố hơn nữa quyền kiểm soát của mình đối với bãi này, đó là một thực tế không thể chối cãi. Philippines cũng đã tiến thêm một bước trong việc giám sát vùng biển gần bãi Cỏ Mây.[1147]

Sự khác và giống nhau giữa hai sự kiện đảo Hoàng Nham (bãi Scarborough) và bãi Nhân Ái (bãi Cỏ Mây)

Nhiều chuyên gia Trung Quốc dự đoán, Trung Quốc sẽ không cho Philippines tiếp tế vật tư, thậm chí còn cho rằng Trung Quốc sẽ cưỡng ép kéo tàu chiến Philippines đi, nhằm biến bãi Cỏ Mây thành “bãi Scarborough thứ hai”. Những luận điệu đánh đồng kiểu đó đã bỏ qua sự khác nhau về bản chất giữa hai sự kiện.

Trước hết, bãi Cỏ Mây rõ ràng nằm trong phạm vi Hiệp ước quân sự Mĩ - Philippines. Năm 1951, Mĩ và Philippines đã kí “Hiệp ước phòng vệ chung” liên minh quân sự (Mutual Defense Treaty), quy định hai bên có nghĩa vụ bảo vệ về quân sự cho nhau. Việc Trường Sa có thuộc phạm vi “Hiệp ước phòng vệ chung Mĩ - Philippines” hay không vẫn còn mơ hồ. Điều 5 quy định khi một nước bị nước khác tấn công trong 3 phạm vi dưới đây thì nước kia có nghĩa vụ cùng bảo vệ về quân sự: (1) lãnh thổ chính của Philippines và Mĩ; (2) các đảo thuộc quyền tài phán của mỗi bên trên biển Thái Bình Dương; (3) quân đội, tàu biển và máy bay dân dụng của mỗi bên trên biển Thái Bình Dương.

For the purpose of Article IV, an armed attack on either of the Parties is deemed to include an armed attack on the metropolitan territory of either of the Parties, or on the island territories under its jurisdiction in the Pacific or on its armed forces, public vessels or aircraft in the Pacific.

(Cho mục đích của Điều IV, một cuộc tấn công vũ trang được coi là nhằm vào một trong hai bên bao gồm một cuộc tấn công vũ trang nhằm vào lãnh thổ chính của một bên trong hai bên, hoặc nhằm vào lãnh thổ các đảo nằm dưới quyền tài phán của bên đó, hoặc nhằm vào các lực lượng vũ trang, tàu hay máy bay dân dụng của bên đó ở Thái Bình Dương.)[1148]

Vậy, quần đảo Trường Sa có nằm trong phạm vi này hay không? Trong những năm 1990, Kissinger đã từng giải thích bằng điện tín như sau: Năm 1951, khi Hiệp ước này được kí kết, Philippines chưa chính thức tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa; hơn nữa, quần đảo Trường Sa cũng không nằm trong phạm vi Tây Ban Nha chuyển nhượng cho Mĩ, theo quy định của “Hiệp ước Paris”.[1149] Vì thế phạm vi (1) và (2) đều không phù hợp với yêu cầu, có chăng chỉ duy nhất là phạm vi (3).

Trong thư gửi Ngoại trưởng Philippines ngày 6/1/1979, Ngoại trưởng Mĩ Cyrus Vance bày tỏ, địa điểm tấn công quân sự, tàu thuyền công cộng và máy bay được nói tới trong (3) không nhất thiết nằm trong phạm vi (1) và (2): [1150]

..as provided in Article V, an attack on Philippine armed forces, public vessels or aircraft in the Pacific would not have to occur within the metropolitan territory of the Philippines or island territories under its jurisdiction in the Pacific in order to come within the definition of Pacific area in Article V.

(.....như quy định tại điều V, một cuộc tấn công vũ trang nhằm vào các lực lượng vũ trang, tàu hay máy bay dân dụng ở Thái Bình Dương không buộc phải xảy ra trong lãnh thổ chính của Philippines hay lãnh thổ các đảo dưới quyền tài phán của nó trong Thái Bình Dương để nằm vào định nghĩa khu vực Thái Bình Dương ở điều V .)

Trong thư gửi Ngoại trưởng Philippines ngày 24/5/1999, Đại sứ Mĩ tại Philippines Thomas C. Hubbard viết rằng Mĩ tiếp tục giữ vững lập trường đã nêu năm 1979, và Mĩ cho rằng biển Đông thuộc khu vực Thái Bình Dương (the US considers the South China Sea be Part of the Pacific Area).[1151] Sau đó, Ngoại trưởng Mĩ Hillary Clinton nhiều lần nhắc lại rằng Mĩ sẽ tuân thủ nghĩa vụ của “Hiệp ước phòng vệ chung Mĩ - Philippines”.

Theo bức điện tín của Kissinger, giống như quần đảo Trường Sa, bãi Scarborough cũng không nằm trong phạm vi (1) và (2). Hơn nữa, khi đó chưa có quân đội Philippines trú đóng ở bãi Scarborough, và Trung Quốc cũng chưa tấn công (chỉ là đối đầu) tàu Philippines. Do đó, Mĩ không có nghĩa vụ trợ giúp Philippines phòng vệ bãi Scarborough. Nhưng, tình huống của bãi Cỏ Mây có điểm khác biệt: dù nó không nằm trong phạm vi (1) và (2) nhưng Philippines có tàu chiến đậu tại đó, thuộc lực lượng vũ trang Philippines, phù hợp với quy định của phạm vi (3). Nếu Trung Quốc dùng vũ lực lên đảo kéo hoặc tiêu huỷ tàu sẽ cấu thành việc tấn công vũ trang đối với Philippines, động chạm đến phạm vi (3), và Mĩ có thể can thiệp theo “Hiệp ước phòng vệ chung Mĩ - Philippines”.

Điều đáng chú ý là, năm 1951, khi “Hiệp ước phòng vệ chung Mĩ - Philippines” được kí kết thì chưa có xung đột biển Đông. Trong hơn 60 năm sau đó, Hiệp ước này cũng chưa mở rộng phạm vi và nghĩa vụ, vì thế không thể nói Hiệp ước này cố ý nhằm vào Trung Quốc hay quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, do sự tồn tại của Hiệp ước này nên Mĩ phải có nghĩa vụ can thiệp vào vấn đề biển Đông theo các quy định của Hiệp ước, đó không phải là chính sách nhất thời. Philippines và Mĩ không thể đứng ngoài Hiệp ước này, trừ khi họ xóa bỏ hoặc sửa đổi nó. Vì thế, để ngăn chặn Mĩ can thiệp, Trung Quốc quá lắm chỉ có thể sử dụng phương thức chặn trước, không thể liều lĩnh xông vào, trừ khi Trung Quốc quyết định không ngần ngại xung đột trực diện với Mĩ.

Thứ hai, bãi Cỏ Mây rõ ràng nằm trong phạm vi “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông”. “Không tiến hành đưa người đến sinh sống trên những đảo hiện không có người sinh sống” ghi trong điều 5 của “Tuyên bố”, đó là một tiêu chuẩn rõ ràng, có tác dụng ngăn chặn hành động lấn chiếm đảo của các bên trên biển Đông. Mặc dù “Tuyên bố” không có hiệu lực pháp lí, nhưng nó là thỏa thuận quan trọng duy nhất mà Trung Quốc và các nước ASEAN đạt được, và cũng được Trung Quốc và ASEAN nhấn mạnh cần tuân thủ.

Phạm vi địa lí được quy định trong “Tuyên bố” là “biển Đông”, lí giải theo câu chữ tức là toàn bộ biển Đông, các nước ASEAN cũng hiểu theo nghĩa này. Nhưng, Trung Quốc lại cho rằng, “Nam Hải” (biển Đông) là chỉ những khu vực có tranh chấp, tức là quần đảo Trường Sa chứ không bao gồm quần đảo Hoàng Sa và đảo bãi Scarborough cũng đang có tranh chấp. Vì vậy, theo cách diễn giải đơn phương của Trung Quốc, bãi Scarborough không thuộc phạm vi hiệu lực của “Tuyên bố”, cho nên việc Trung Quốc chiếm bãi Scarborough là không vi phạm “Tuyên bố”. Cách diễn giải của Trung Quốc cũng không hoàn toàn vô lí. Nhưng, bãi Cỏ Mây là một phần của quần đảo Trường Sa, thuộc phạm vi bao phủ của “Tuyên bố” mà Trung Quốc cũng thừa nhận. Do đó, nếu chiếm đoạt bằng vũ lực chắc chắn là vi phạm “Tuyên bố”.

Để giành thế chủ động về mặt pháp lí, Trung Quốc quay sang cáo buộc việc Philippines vi phạm “Tuyên bố”. Trước tiên, Trung Quốc cáo buộc việc tàu chiến Philippines mắc cạn trên bãi Cỏ Mây là vi phạm “Tuyên bố”. Nhưng lời chỉ trích và tố cáo này không đứng vững được, vì rằng tàu chiến mắc cạn trước (năm 1999) còn “Tuyên bố” được kí kết sau (năm 2002). “Tuyên bố” không có hiệu lực hồi tố. Bắt đầu từ năm 1999, tàu chiến Philippines đã mắc cạn ở đó, đồng thời có người canh giữ, vì thế nó thuộc cấu trúc “có người ở” tự nhiên. Trung Quốc tranh luận: “mắc cạn” không được tính là “cư trú” theo nghĩa thông thường, chỉ được tính khi có công trình xây dựng kiên cố. Cách diễn giải này gây nhiều tranh chấp, nhưng ngay cả tuân theo logic này, khi Philippines chỉ vận chuyển vật tư và luân chuyển lực lượng mà không xây dựng đảo bằng công trình kiên cố thì không tính là vi phạm “Tuyên bố”. Kết quả là Trung Quốc không có căn cứ để hành động chống Philippines. Trung Quốc không có cách nào để làm gì thêm đối với Bãi Cỏ Mây mà không vi phạm Tuyên bố.

Cuối cùng, nhìn từ góc độ quan hệ quốc tế thì tình cảnh của Trung Quốc đã khác hẳn so với một năm trước đó. Bãi Scarborough chỉ là trường hợp xung đột đầu tiên của Trung Quốc tại biển Đông, khi đó khu vực xung quanh Trung Quốc chưa biến thành thùng thuốc súng. Nhưng sau đó, Trung Quốc đã tấn công mọi hướng, xung đột lãnh thổ với Nhật Bản, Philippines, Việt Nam, Ấn Độ. Các nước này chung tay đối phó với Trung Quốc là điều không tránh khỏi. Nhật Bản và Philippines kết thành một tuyến, Việt Nam và Ấn Độ cũng kết thành một tuyến, chưa kể Nhật Bản và Philippines đều là đồng minh của Mĩ, còn Nga là người ủng hộ vô hình phía sau Việt Nam và Ấn Độ. Tình hình quốc tế rất bất lợi cho Trung Quốc.

Mặc dù Trung Quốc luôn cáo buộc Philippines là “kẻ gây rối” nhưng Philippines vẫn luôn chủ trương giải quyết tranh chấp một cách hòa bình thông qua Tòa án quốc tế, điều đó hết sức phù hợp với kì vọng của cộng đồng quốc tế. Ngược lại, hành vi trong năm đó của Trung Quốc bị thế giới cho là nguyên nhân gây ra bất ổn ở Đông Á, rất bất lợi trước dư luận quốc tế. Trong bối cảnh đó, chính sách tái cân bằng Châu Á nhận được sự hoan nghênh của các nước, trừ Trung Quốc. Trung Quốc càng cứng rắn trước vấn đề biển Đông thì càng làm cho các nước Đông Nam Á ủng hộ sự can dự của Mĩ. Nguy cơ Trung Quốc đối đầu với một dạng hầu như liên minh các nước Châu Á – Thái Bình Dương do Mĩ cầm đầu càng lên cao. Trung Quốc chỉ có thể tạm thu mình.

Ngoài ra, chiến lược trọng tâm của Trung Quốc là xây dựng quan hệ nước lớn kiểu mới, nhằm trở thành đồng lãnh đạo của thế giới. Vì thế, Trung Quốc không những cần phải hợp tác với Mĩ mà còn cần phải xây dựng hình ảnh tích cực trên phạm vi toàn cầu. Dưới tiền đề đó, Trung Quốc chắc chắn không thể phá vỡ đại cục chỉ vì mấy đảo / đá cỏn con. Hơn nữa, tình thế biển Đông vốn xưa nay đã là vấn đề quốc tế phức tạp khác thường, không thể giải quyết dựa trên bãi Cỏ Mây, đương nhiên cần tạm gác lại. Huống chi khi đó Trung Quốc đang chuẩn bị xây đảo nhân tạo (xem phần VI.12), bãi Cỏ Mây không phải là chuyện cấp bách.

Do đó, hành động đối đầu của Trung Quốc không nhất thiết là chiếm đoạt bằng được bãi Cỏ Mây mà chỉ là trả đũa việc Philippines khởi kiện tại Tòa quốc tế. Nhìn lại trình tự sự kiện đối đầu: ngày 24/4 công bố thành lập Tòa trọng tài; ngày 26 Hoa Xuân Oánh liệt kê các đảo do Philippines kiểm soát thực tế không bao gồm bãi Cỏ Mây, điều này có thể là do nhìn thấy điểm yếu tương đối về mặt kiểm soát thực tế bãi Cỏ Mây của Philippines (không có công trình kiên cố); sau khi nghiên cứu, Philippines quyết định xây thêm công trình kiên cố, vì vậy Trung Quốc tiến hành ngăn chặn. Có thể thấy, điểm mấu chốt của Trung Quốc chính là ngăn Philippines xây dựng công trình kiên cố. Trên cơ sở đó, nếu giành được đảo thì đương nhiên là điều tốt, nếu không thì cũng có thể chấp nhận. Suy đoán đó sau này cũng được các chuyên gia Trung Quốc xác nhận.[1152]

Sự kiện đối đầu bãi bãi Cỏ Mây kết thúc như dự đoán. Trung Quốc về cơ bản đạt được mục tiêu của mình: (1) trả đũa hành động khởi kiện Tòa trọng tài của Philippines; (2) lần đầu tiên Trung Quốc nêu việc bãi Cỏ Mây chưa do Philippines kiểm soát thực tế, đặt cơ sở cho những hành động tiếp theo có thể thực hiện sau này; (3) Trung Quốc xác định tàu chiến Philippines trên bãi Cỏ Mây là tàu bị nạn, bác bỏ sự hiện diện quân sự kéo dài 14 năm của Philippines là hành động chiếm đóng, chính thức lí giải sự hiện diện của Philippines trên bãi Cỏ Mây; (4) Trung Quốc nhấn mạnh rằng chỉ khi có sự cho phép của chính họ, Philippines mới có thể vận chuyển vật tư ra bãi Cỏ Mây và sau đó cho rằng họ nắm quyền kiểm soát thực tế bãi đá này; (5) Trung Quốc thành công trong việc ngăn chặn Philippines xây dựng công trình kiên cố, giữ nguyên hiện trạng bãi Cỏ Mây.

Mặt khác, Philippines cũng không phải là kẻ thua cuộc, vì: (1) thành công trong việc vận chuyển vật tư và luân chuyển quân, tiếp tục hiện diện trên bãi Cỏ Mây và duy trì hiện trạng bãi này; (2) nhấn mạnh mình đã trú đóng 14 năm tại bãi Cỏ Mây, hiện vẫn có thể vận chuyển vật tư và luân chuyển quân để chứng minh cho việc kiểm soát thực tế; (3) lần đầu tiên quan chức Trung Quốc thừa nhận Philippines kiểm soát thực tế 8 đảo.

Cách giải thích rằng mỗi bên đều có cái được, không có bên thua nghe ra có vẻ mâu thuẫn. Nhưng đây thực sự là hai mặt của một đồng xu, cũng là ví dụ về việc “mỗi bên mỗi phách” trong ngoại giao.

Mặc dù sau đó Trung Quốc tiếp tục tố cáo Philippines nhưng sự kiện bãi Cỏ Mây đã kết thúc một giai đoạn. Tháng 8/2014, Philippines lại tiến hành vận chuyển vật tư và luân đổi lực lượng nhưng không vấp phải sự ngăn chặn của Trung Quốc. Tuy tàu hải giám Trung Quốc giám sát gần, nhưng không có hành động thù địch nào..[1153] Dù vậy, bãi Cỏ Mây vẫn đầy thách thức với Philippines, làm thế nào để bảo vệ con tàu cũ kĩ trong thời gian dài trên bãi đá để tàu không bị chìm và tiếp tục có người ở là việc không hề dễ.


[1114] http://vietnamlawmagazine.vn/law-of-the-sea-of-vietnam-4895.html Luật này quy định về đường cơ sở, nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển; phát triển kinh tế biển; quản lí đảo và bảo vệ biển đảo. (https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Giao-thong-Van-tai/Luat-bien-Viet-Nam-2012-143494.aspx)

[1115] http://news.xinhuanet.com/world/2012-06/21/c_112269020.htm

[1116] https://zh.wikipedia.org/zh-hk%E4%B8%89%E6%B2%99%E5%B8%82

[1117] Mạng sử chí Hải Nam. Sách ghi chép địa phương “Hải Nam tỉnh chí” ghi chép về quần đảo Trung Sa Tây nam, “phần 1: hoàn cảnh địa lí”, chương 1, cương vực, đảo dữ.

[1118] Hồ Bôn: Cạnh tranh 5 lực lượng trong quản lí biển ở Trung Quốc, Báo Nam phương cuối tuần, 8/2/2010.

[1119] Tổ chức lại Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc, kết thúc thời kì ngũ long trị hải, Nhân dân nhật báo bản hải ngoại, 26/7/2013.

[1120] Tàu vạn tấn của Trung Quốc hạ hải, năm sau đến Biển Hoa Đông và Nam Hải bảo vệ quyền lực, http://m.hexun.com.tw/news/2014-15/171418779.html

[1121] Khởi nguồn và phát triển, tr.109.

[1122] http://politics.people.com.cn/GB/1026/17709615.html

[1123] Lyle Goldstein, Strategic Implications of Chinese Fisheries Development, China Brief, 2009, Vol:9, Issue:16.

[1124] http://www.chinanews.com.gn.2012/12-31/4451913.shtml

[1125] http://www.voachinese.com/content/china-south-sea-20140109/1826400.html

[1126] http://www.bbc.com/zhongwen/trad/word/2014/01/140111_vietnam_philippines_china

[1127] http://www.bbc.com/zhongwen/trad/word/2014/01/140111_vietnam_philippines_china

[1128] http://www.bbc.co.uk/news/world-asia-25666849

[1129] http://news.cina.com.cn/c/2014-01-10/163129209087.shtml

[1130] “Biện pháp thực thi Luật nghề cá nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của tỉnh Hải Nam”, http://faolex.fao.org/docs/pdf/chn140585.pdf

[1131] http://www.law-lib.com ~trang 1, http://www.hinews.cn/news/system/2013/12/07/016278991.shtml ~ bản sửa chữa

[1132] http://www.bbc.co.uk/zhongwen/simp/china/2013/12/131216_kerry_vietnam_china.shtml

[1133] Lâm Phỉ Văn, Trâu Hiển Vĩ: nghề cá của nước ta tại phía Nam Nam Hải hiện nay: khó khăn và đối sách, Thông tin và chiến lược nghề cá, số 3, quyển 29, tháng 8-2014, tr.176.

[1134] http://mp.weixin.qq.com/s?_biz=OTE4MzAyODYx&mid=201038846&idx=1&sn=d5e9338032e53014eba94c0c8399569a

[1135] http://news.ifeng.com/a/20150610/43945780_0.shtml

[1136] http://qa.china.embassy.org/chn/fyrth/t1035477.htm

[1137] http://www.bbc.com/zhongwen/trad/china/2013/05/130529_south_china_sea_second_thomas.

[1138] http://www.philstar.com/headlines/2013/05/945640/well-fight-our-territory-lassoldier Nguồn: Ayungin Shoal is clearly within our continental shelf. As far as we are concerned there is no dispute over the area. It is ours àn there’s no reason to pull out troops there. To the last soldier standing, we will fight for what is ours.

[1139] http://www.chinanews.com/mil/2013/05-28/4864953.shtml

[1140] http://news.sohu.com/20130530/n377503777.shtml

[1141] http://news.sohu.com/20130530/n377581815.shtml

[1142] http://news.sohu.com/20130606/n378219887.shtml

[1143] http://www.iiss.org/en/event.shangri%20la%20dialogue/archive/shangri-la-dialogue-2013-c890

[1144] http://globalnation.inquier,net/78115/afp-confirms-re-provisioning-troop-rotationactivities-in-ayungin-shoal

[1145] http://news.sohu.com/20130624/n379722906.shtml

[1146] http://news.sohu.com/20130627/n380065122.shtml

[1147] Sự cố kĩ thuật của máy bay do thám OV-10 khi đang trinh sát khu vực gần bãi đá Nhân Ái, Ngày 23/6

[1148] http://avalon.low.yale.edu/20th_century/phi1001.asp

[1149] http://www.philippineembassy-usa.org/news/2566/300/Statement-of-Foreign-Affairs-Secretary-Albert-F-ded-Rosario-Regarding-The-Philippines-US-Mutual-Defensetreaty/d,phildet/

[1150] United States Treaties and Other International Agreement, Department of State, Vol.30, Part I, 1978-1979, p.887.

[1151] http://newsonfo.inquirer,net/190811/what-wil-ameriaca-do-if-china-attacks-filipinoforces-in-spratlys

[1152] http://war.163.com/13/0629/15/92IOHP66000140MD.html

[1153] http://mil.sohu.com/20140805/n403148051.shtml