Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 13 tháng 11, 2025

Cho đi lại từ đầu

 Bùi Vĩnh Phúc

Để nhớ lại những bạn văn, những thân hữu, cùng với những bàn viết lữ thứ của họ. Có những kẻ ở ngoài, có nhiều kẻ hiện diện trong bài viết này. Rất nhiều người, bây giờ, đã là “những người muôn năm cũ”.

Và để nhớ lại cả những giọng nói, những tiếng cười mang nhiều hơi ấm. Những lửa và gió dịu dàng, tha thiết. Vẫn còn ngun ngún, phiêu bay.

Tất cả đã cháy, đã chảy, và đã trôi qua đời ta.  

Như lửa của hoàng hôn đỏ rực, như nước của trong xanh chảy mãi một dòng.

Nhưng trái tim, nó giữ lại mọi điều. Nó giữ lại tất cả.

Và hương thơm ấm áp của lửa, của gió, của những rung ngân mềm mại, thiết tha kia, vẫn không mất đi. Thời gian và trái tim người vẫn giữ gìn và ủ ấp chúng. Và những bước chân sóng, ngoài cõi khơi xa của lòng trí ta, vẫn cứ mãi rào rạt mềm mại ngấn trăng.

[BVP, tháng X, 2025]

 

Chaim Soutine. Phong cảnh và nhà cửa, cây cối (Paysage avec maison et arbre), c. 1920–1921. Sơn dầu trên bố.

1.

Tôi nhớ Robert Nathan, qua lời một họa sĩ trong cuốn "Portrait of Jennie" – bản dịch Việt Ngữ là "Chân Dung Nàng Thơ" của Hoàng Ưng và Trần Phong Giao – , có nói đại ý rằng trong đời một người nghệ sĩ, có những giai đoạn mà hắn ta cảm thấy năng lực sáng tạo của hắn bị đông đặc lại. Lúc đó, hắn cảm thấy linh hồn hắn bị giam nhốt giữa đời sống, và hắn không thể tìm được lổi thoát. Đó là mùa Đông của người nghệ sĩ. Mùa Đông dày đặc và giá lạnh bao trùm lên đời sống hắn, khiến cho hắn có những lúc cảm thấy không còn có thể tiếp tục sống nổi.

Tôi thấy sự nhận xét của nhà văn Mỹ này không phải quá đáng. Nó phản ánh một kinh-nghiệm-có-thật của bất kỳ một con người nào tự chọn cho mình một con đường sáng tạo, dù là ở lãnh vực nào: thơ, văn, nhạc, họa, điêu khắc... Đối với một người Việt Nam lưu vong mà đời sống, ở một mức độ nào đó, gắn bó với nghiệp viết lách – hoặc sáng tạo ở một lãnh vực nào khác – tôi nghĩ rằng con người ấy phải cảm nhận cái kinh nghiệm mà Robert Nathan đã nói trên kia ở một mức độ trầm trọng. Ngoài những mùa Đông hắn ta chắc chắn sẽ phải bắt gặp trên con đường đi tới để khám phá những năng lực sáng tạo của mình, còn một mùa Đông rất dài, rất giá lạnh, vẫn đang tiếp tục phủ chụp lấy hắn từ hơn mười một năm nay. Mùa Đông của cuộc đời lưu vong. Mùa Đông của sự bị đẩy bật ra khỏi cái dòng sống thân thiết và hết sức cần cho hơi thở của một kẻ sáng tạo. Tôi tin chắc rằng nhiều người trong chúng ta đã cảm nhận một cách hết sức buổt sắc cái kinh nghiệm xót xa này. Nhất là những bạn bè viết lách của tôi. Tôi biết là, hơn ai hết, họ đã từng chia sẻ với tôi và với nhau những suy nghĩ tôi vừa gợi lại.

Ở một mức độ nào đó, trong thởi gian mấy tháng vừa qua, tôi cảm thấy mình hình như bị rơi vào cơn khủng hoảng vừa nói. Một phần vì bị đời sống quay kéo, vì bị những suy tư, lo lắng vặt vãnh của cái đời sống này câu thúc; phần khác vì những suy nghĩ, dằn vặt không tránh được của một con người lưu vong, với một quá khứ (có khi rất thật, có khi khá trừu tượng, mông lung) bỏ lại ở chốn quê nhà, tôi cảm thấy mình bị rơi vào một tình trạng hẫng, không còn trọng lực. Những con đường, những hàng cây, bóng nắng, những tiếng động, những mùi vị đất-cát-chợ-búa-nắng-mưa-cây-cối của một nơi chốn cố hương kia cứ đánh mãi vào giác quan tôi những tiếng chuông trầm trầm ngân lên ngân mãi. Khuôn mặt của mẹ già, của anh chị và những người thân thiết lại hiện ra mỗi đêm khi giấc ngủ trở về. Tôi ở trong tình trạng bị đông cứng và không làm được gì cả, ngoài việc đọc sách rất nhiều. Sách vở, trong trường hợp này, trở thành những liều thuốc an thần. Chúng không đẩy mình vào giấc ngủ để rồi mình lại bắt gặp những hình ảnh hoang tàn của quá khứ, những giấc mơ xót xa của kỷ niệm. Những quyển sách cứ căng mãi mắt mình ra, rót vào đầu óc mình những tiếng nói của những con người tri kỷ ở khắp nơi trên mặt đất, cho mình nghe lại tiếng reo vi vu của những hàng trắc bá trên đồi núi Lebanon, hay tiếng gầm sang sảng cô đơn của Nietzsche ở Portofino, tiếng hét vang của Nikos Kazantzakis trên những núi đá vùng Địa Trung Hải... Tới một lúc nào đó thì tất cả những tiếng hét tiếng gầm tiếng reo vi vu của người và của thiên nhiên kia dần dần lắng đi. Tâm tư con người bị đẩy trở về cõi quạnh không nơi sa mạc của lòng hắn.

Mấy tháng rồi, tôi không còn viết được gì. Tôi không còn viết được một cái gì. Tôi chỉ có thể đọc sách. Thường thì tôi đọc đến 3 hay 4 giờ đêm rồi lăn ra ngủ một giấc ngủ không mộng mị. Ngoài cửa số kia, trăng mỗi ngày đều có vẻ xanh hơn.

Một hôm, gặp Nguyễn Mộng Giác. Anh là một người bạn lớn tuổi, trầm ngâm (vừa phải), và sâu sắc. Có lẽ phần nào hiểu được cơn đau và nỗi mệt mỏi tinh thần mà tôi đang phải chịu đựng, anh ấy đưa tôi xem lá thư mời tham dự đại hội báo chí Việt ngữ hải ngoại của anh em Độc Lập bên Đức và... cười cười đề nghị tôi thay mặt anh em Văn Học đi qua Đức phó hội một chuyển. Lời đề nghị cũng hay. Tôi cười bảo anh G. rằng, Văn học của mình thì nghèo quá rồi, nhưng còn Độc Lập có giúp gì được về phần tài chánh cho những người tham dự không. Anh G. cười đưa tôi xem thư của Độc Lập trình bày vấn đề tổ chức và cho thấy là anh em bên đó cũng không ở trong hoàn cảnh có thể lo liệu phí khoản cho các tham dự viên được. Thế là vì yếu kém tài chánh, lại không có nhiều thì giờ để rộng chân rộng cẳng, tôi đành từ tạ một chuyến đi Đức hứa hẹn rất nhiều điểm đặc sắc để học hỏi và ghi nhận.

Dù thế, tôi cũng đã nghĩ là mình phải đi đâu một chuyến, may ra có thoát được sự mệt mỏi và đông đặc mà tôi đang phải chịu đựng chăng. Bởi vậy, vài ngày sau, tôi mua vé đi lên (hay đi qua) miền Đông nước Mỹ, Washington D.C., nơi tôi có khá đông bạn bè bằng hữu, phần lớn quen biết qua thư từ, điện thoại, qua việc viết lách của tôi những năm ở Mỹ.

Bài tạp ghi, tạp bút, hay tùy bút này ghi lại một vài kỷ niệm đẹp đẽ của tôi với người và cảnh tại vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn trong chuyến đi vừa rồi. Tháng Mười, 1986. Ngoài ra, điểm quan trọng mà tôi muốn ghi lại ở đây là một số điều tôi tình cờ học hỏi được, cũng như một số suy nghĩ về vấn đề văn nghệ mà tôi có, qua lần đi chơi này. Một điểm khác tôi cũng muốn nói đến khi ngồi xuống viết bài này là cũng tình cờ, rất tình cờ, qua cuộc đi rong của mình, tôi bắt gặp lại những tình cảm rất quê hương lại máy động nhẹ nhàng, êm dịu trong lòng. Những tình cảm máy động một cách rất thiết tha, dịu nhẹ trong lòng tôi ấy không còn là những hình ảnh xót xa, dằn vặt của quê hương nữa. Chúng là những đóa hoa đã khô, đã tàn, đã héo, của bao nhiều mùa thu đã vàng rực trong tâm tư kẻ xa nhà.

Bạn bè, bằng hữu tôi đã cầm lại những cánh hoa tả tơi, héo úa nhưng vẫn còn ngất ngây mùi trăng quê cũ ấy trao lại cho tôi. Và tôi đã cầm lấy những cánh hoa bé bỏng này, trân trọng đưa lên môi mình. Một vị mặn và nóng ấm của đời sống thấm vào vị giác. Tất cả quê hương bỗng nhiên trở về trong một giọt nước mắt. Mặn và mềm.

2.

California cách Hoa Thịnh Đốn ba múi giờ. Máy bay cất cánh từ phi trường Los Angeles lúc 12 giờ trưa. Tôi tới phi trường Washington National Airport vào lúc chín giờ tối. Ngồi trong lòng chiếc Boeing 757 bay suốt chiều ngang của nước Mỹ, nhìn ra ngoài cửa số, thấy những thảm mây, những cuộn mây trắng nõn chất chồng lên nhau và kéo dài ngút mắt, tôi lại nhớ đến những đêm vượt biên. Những liên tưởng không có lý do, hay những lý do, những mấu chốt suy tư đã được chôn giấu kín tại những đáy sâu thẳm nhất của tiềm thức mình. Tôi nhớ đến những đêm vượt biển.

Trời đất đều mênh mông xa thẳm. Và màu đen của đại dương bập bềnh che giấu bao tai họa kia cùng với màu đen của bầu trời đêm lênh đênh trên đầu như muốn đập vào mắt nhìn. Vì thị giác đã bị bôi đen như thế, thính giác con người trở nên hết sức mẫn tuệ. Những tiếng sóng xô tới rồi đập mạnh vào chiếc ghe, vốn làm bằng những mảnh gỗ cũ kỹ, làm vang lên những âm thanh kinh hoàng. Những âm thanh này được chuyển vào những trái tim bít bùng tối đen chưa thấy một tia hy vọng, và cứ thế, những âm thanh của địa ngục kia cứ ngân vang u uất trong từng trái tim mệt lả như những hồi chuông cầu hồn tiếp nối...

Ở trên cao mấy ngàn bộ, nhìn ra ngoài kia là mây trắng lớp lớp thênh thang, trái tim tôi thình thoảng tự nhiên lại cứ gióng giả những hồi chuông cầu hồn cũ. Tự nhiên mà nhớ tới phim Vertigo của Hitchcock. Đầu óc mình thật lạ. Cả trái tim hay gõ chuông kia nữa.

Từ lòng phi cơ bước ra tới cổng đón, tôi đã thấy người bạn đứng cười, đưa tay vẫy vẫy. Tự nhiên, tim thôi lắc chuông. Lòng bình yên và thấy ấm lại. Hai người bạn đi ra chỗ đậu xe. Sau đó, Bùi Bảo Trúc đưa tôi đến một cái quán Mỹ, nhỏ, nhưng sạch sẽ và sáng đèn. Một thứ clean, well-lighted place của Hemingway.

Chúng tôi ngồi ăn qua loa, uống cà phê và nói đủ thứ chuyện.

Những khách Mỹ thỉnh thoảng đi qua ném cho hai gã trung niên Việt Nam đang đấu hót say sưa trong một chốn sạch sẽ và sáng đèn Mỹ một cái nhìn thông cảm. Chắc họ cũng phải đoán biết rằng hai gã này có rất nhiều chuyện để nói với nhau. Những chuyện trên trời dưới biển và những chuyện xảy ra ở một vùng đất bên kia quả địa cầu.

Khuya hôm đó, BBT đưa tôi về nhà của anh. Vợ con anh đã mệt mỏi đi ngủ tự lúc nào. Chúng tôi ngồi ở phòng khách và tiếp tục nói chuyện cho đến khoảng hai giờ đêm mới chia tay đi ngủ.

Ngay sáng hôm sau, một số bạn bè gọi điện thoại đến để hỏi thăm. Tôi cũng gọi đi cho một số anh em khác. Các anh Nguyễn Đình Hùng và Ngô Vương Toại ngay sau đó ghé lại nhà BBT và chúng tôi lại ngồi nói chuyện một lúc. Toàn là hỏi chuyện anh em văn nghệ và báo chí ở Cali. Sau đó, T. phải đi dự (hay ăn) một đám cưới, H. chở tôi tới tiệm sách Alpha của Trần Phùng Linh Duyên, rồi chúng tôi kéo sang quán-phở-ăn-thông-qua-tiệm-bi-da-ăn-thông-qua-tiệm-sách ngồi hàn huyên với bạn bè ở đấy đến quá trưa. Tôi gặp đủ mặt quần hùng báo chí thủ đô trong dịp này: Giang Hữu Tuyên xuề xòa, Phan Tấn Hải trầm ngâm, Vĩnh Liêm nhanh nhẹn, Trần Phùng Linh Duyên hiền lành, và một vài bạn bè văn nghệ khác mà tôi không nhớ hết tên. Nhà văn, thi sĩ và họa sĩ Võ Đình ríu rít ở đầu dây điện thoại sau khi nghe tôi giả giọng Huế đọc hai câu đầu trong một bài thơ đắc ý của anh. Thế nhưng, anh bận chuyện gia đình trong dịp này nên đã hẹn rồi cuối cùng lại phải mấy lần điện thoại xin lỗi không xuống được. Tôi nhớ lần xuống Cali họp mặt văn học ở nhà anh Giác, Võ Đình ngồi xếp bằng, uống rượu Mai Quế Lộ trầm trầm, ngâm thơ rất hào sảng. Và trẻ thơ. Rồi hứng chí, anh vẽ tặng mỗi người có mặt một bức chân dung bằng chì than. Mỗi bức vẽ không quá vài phút mà anh vẫn bắt được cái thần, cái sắc của mỗi người. Những lúc ấy, VĐ trông hả hê và hớn hở trẻ thơ ra mặt. Tôi vẫn thích nhìn anh những lúc như thế, anh VĐ. Cuộc đời phiền tạp và đầy ngộ nhận. Bằng hữu cũng biết bao lần ngộ nhận mình. Tôi muốn mình xé toang mọi ngộ nhận, nếu có, và dĩ nhiên là phải có, trong cuộc đời này. Để nhìn lên trời xanh mây trắng thênh thang. Hãy gõ một tiếng cồng vào mây trắng để thấy sự hiển lộ của vô cùng. Mây dài mây dài trời xanh biếc. Một cõi vô cùng chim vút bay. Tự nhiên mà nghĩ ra hai câu thơ. Ngồi với các bạn bè, bằng hữu của mình, tôi chỉ muốn nghĩ, mơ và mộng tới cõi vô cùng đó.

Nền báo chí Việt ngữ ở vùng Hoa Thịnh Đốn này hình như không được sầm uất và sôi nổi như ở dưới Cali. Chắc là phải như thể rồi. Cali đã từng có một quá khứ lâu đời trong lịch sử báo chí Việt ngữ hải ngoại. Quần hùng tụ tập đông đảo. Các quán biên thùy mọc lên như nấm. Hảo hán nhiều nơi tụ về. Có những hảo hán hành hiệp ở vùng khác cũng phải có lúc ghé qua Cali để thưởng thức và theo dõi các cuộc luận kiếm. Các môn phái và quần hùng kết tập tạo nên cảnh trù phú và nổi sôi trăm vẻ. Cali cho người ta cái cảm giác của những ngày hội. Phèng la, chiêng trống, não bạt inh tai nhưng lễ nghi văn vẻ cũng đủ kiểu. Người ta có thể đồng thời một lúc vừa yêu, vừa thích, vừa quý, vừa... sợ cái không khí Cali chính là vì... như thế đó.

Hoa Thịnh Đốn thì có vẻ hiền lành, lễ nghĩa lắm. Mới mấy tháng trước, hình như ở đây chỉ có hai tờ báo khổ tabloid ra hàng tuần; khi tôi lên vào khoảng cuối tháng Sáu, số lượng báo đã tăng gấp đôi. Bây giờ, ngoài Hoa Thịnh Đốn Việt Báo của Giang Hữu Tuyên, Diễn Đàn Tự Do của Ngô Vương Toại, còn có thêm Diễn Đàn Thủ Đô của Đoàn Hữu Định và Sài Gòn Thời Báo của Hồ Đắc Ngọc. Tất cả đều rất phơi phới. Mỗi người một ngựa. Đường thiên lý chúng ta cùng tiến. Mong rằng nền báo chí thủ đô ngày một đông vui và khởi sắc.

Một trong những người thu góp được nhiều tài liệu, sách báo Việt ngữ ở vùng thủ đô mà tôi được biết có lẽ là giáo sư Nguyễn Ngọc Bích. Một buổi chiều, tôi nhờ anh H. đưa đến nhà giáo sư Bích. Cả hai anh chị Nguyễn Ngọc Bích và Đào Thị Hợi đều có nhà. Sau một lúc ngồi hàn huyên tâm sự và ăn mấy món tráng miệng, tôi được anh chị B. dẫn xuống basement, một căn hầm được chia làm nhiều phòng sáng sủa. Sách vở được bày biện một cách vừa lộn xộn vừa ngăn nắp, có nhiều chỗ được phân theo từng loại rõ rệt. Đây là một trong những thư viện cá nhân mà tôi thấy có được nhiều sách đến thế. Dĩ nhiên, sách về ngôn ngữ cũng chiếm một tỉ lệ khá lớn, vì cả hai anh chị đều nghiên cứu rất kỹ về ngành này.

Tôi là một người mê sách và mê đọc sách từ nhỏ. Rời khỏi quê nhà để tìm tự do, một trong vài điều mà tôi buồn tiếc nhất là phải bỏ lại tủ sách riêng của mình ở nhà gồm chừng bốn, năm ngàn quyển, cộng với tủ sách của QD., ông anh tôi ở cùng nhà, cũng khoảng mấy ngàn quyền. Bởi thế, sang đây, suốt tám, chín năm nay, tôi lại phải hì hục tạo dựng lại cho mình một tủ sách khác. Dù sao, sách của tôi bây giờ cũng vào khoảng vài ngàn quyển, nhưng rải rác khắp bốn phương như những... đứa con tội nghiệp. Chúng được chia cất lung tung ở các garage nhà anh em, bè bạn. Dù sao, trước khi gửi chúng đi ở đợ như thế, tôi cũng đã làm thư mục từng thùng một để tiện lúc cần tra cứu. Chỗ tôi ở, hiện tại, bạn bè đến chơi không có chỗ... gối đầu vì sách chất bốn phía, cả trong tủ quần áo. Nhưng vì toàn là bạn "văn chương" đến chơi nên không ai buồn phiền gì cả vì chuyện này. Nhiều kẻ lại còn lấy làm thích chí và đâm đầu vào lục lọi.

Bởi đời sống như thế nên khi nhìn thấy “hầm” sách của anh chị B., tôi rất lấy làm thú vị. Sách vở đủ loại, đủ kiểu, có lẽ đến năm, bảy ngàn quyển, bày khắp nơi trong căn hầm dù sao cũng còn rất sạch sẽ và sáng đèn này. Anh chị B. cũng cho tôi biết là, dù sao, họ cũng đã từng bị mất sách biết bao lần rồi, nhất là kỳ 1975. Bao nhiều sách quý mang về Việt Nam bị mất hết. Trong căn hầm này, tôi thấy báo chí Việt ngữ những số mới nhất để đầy trên một chiếc bàn lớn. Chị B. cho biết chị phải sắp, soạn và lọc bớt đi mỗi ngày cái lượng báo chí mà anh B. mang về. Nhìn thấy hai người yêu sách báo đến thế, lòng người ta tự nhiên cảm động và có một niềm vui ấm áp nào đó tràn về.

Tối hôm ấy, ở nhà anh T., tôi lại được dịp gặp một số anh chị hoạt động trong lãnh vực truyền thông tại vùng thủ đô như anh chị Lê Văn, anh chị Trần Minh Đức, anh chị Dương Ngọc Hoán & Quỳnh Giao, anh chị Đoàn Hữu Định... Anh chị Lê Văn là người đã thực hiện thành công tốt đẹp những buổi trình diễn "Vang vang trời vào Xuân" hát nhạc Cung Tiến, "Bốn mươi năm âm nhạc Phạm Đình Chương" hát nhạc Phạm Đình Chương, và mới đây buổi tái ngộ thính giả vùng thủ đô của chị Thái Thanh.

Sau buổi cơm tối, chúng tôi cùng ngồi nghe lại với nhau cuốn băng thâu chương trình ra mắt của Thái Thanh mới mấy ngày trước đó. Anh Lê Văn cho biết cuốn băng này ngay sáng hôm ấy đã được phát về Việt Nam qua làn sóng điện của đài VOA. Chúng tôi nghe Thái Thanh hát mà lại nghĩ đến những kỷ niệm của riêng mình ở chốn quê nhà. Những bài hát, giống như những tiếng chuông, lúc bồi hồi thắm thiết, lúc thong thả mộng mơ, đánh vào những hoài niệm, làm bật lên những hình ảnh thân thiết giữa lớp bụi vàng óng của quá khứ lả tả rơi rụng. Chợt thấy lại những buổi chiều tím sẫm trong lòng ta. Những đóa hoa cũ càng xa xưa lại thiết tha một mùi hương cổ lụy. Chúng tôi ngồi và nhớ về Việt Nam ở bên kia quả địa cầu, với anh em, bạn bè và biết bao người thân quý. Một điều xót xa lẫn mỉa mai là những người ấy đã lâu không được nghe Thái Thanh hát, khi chị còn ở trong nước. Bây giờ, ngoài xa vạn dặm, tiếng hát ấy vượt qua cả một đại dương để rồi lại lồng lộng ở quê nhà. Tôi nghĩ chắc là sẽ có những giọt nước mắt rơi xuống ở đâu đó khi nghe lại giọng hát của Thái Thanh.

Chúng ta sống không phải chỉ vì cơm sắn, vì bánh mì, vì hamburger, hot dog... nhưng còn vì những hình ảnh, những tiếng hát, những giọt nước mắt, những nụ cười ta cất giấu mãi trong hồn. Trái tim, những tiếng chuông ngân vang mỗi đầu ngày ban mai rực rỡ, những tiếng chuông lênh đênh mỗi đêm tối vàng bục thảm thương. Trái tim, những tiếng chuông ngân nga vang lên vang lên mỗi khi chiều xuống. Cám ơn Thượng Đế đã còn cho chúng ta một trái tim để giữ gìn, để ủ ấp những hình ảnh và những âm thanh của một đời người. Không có nơi chốn trở về ấy, chúng ta sẽ lạc lõng đi đâu?

Sau đó, chúng tôi ngồi nói chuyện vãn cho mãi đến khuya mới chia tay. T., H. và tôi tiếp tục ngồi bật nhạc nghe và nói chuyện ít đi. Cuộn băng đặc biệt mà tôi được anh T. cho nghe tối hôm ấy, và sau đó được một bản thâu mang về Cali, là cuộn băng Nhạc Chủ Đề của Nguyễn Đình Toàn với các tiếng hát của Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly, Võ Anh Tuấn, Duy Trác, Sĩ Phú. Nguyễn Đình Toàn đọc lời giới thiệu. [1] Tôi được nghe lại nhiều bài hát cũ của một thuở nào lòng còn thiết tha mềm dịu mà bây giờ nghe như đã đi vào xa xôi lắm.

Chẳng hạn như những bài Hướng về Hà Nội, Chuyển bến, Giáo đường im bóng, Dạ khúc (Nguyễn Mỹ Ca), Gió chiều, Trở về dĩ vãng, Nguyệt cầm, Tạ từ... Tất cả những bài hát trong cuốn băng này lại như một chất men gợi lại cơn say cũ. Những buổi ấy, ta còn tóc bồng mắt sáng. Chân bước trên đường mà nghe tiếng những vạt gió thổi lộng trên cao. Những buổi mai tiếng chim ca ánh ỏi đầu ngày. Những chiều xuống ngậm ngùi thổi buồn đầy trong lá. Tiếng ngân nga của những hồi chuông, lại những hồi chuông, rớt rơi đầy hồn tuổi trẻ.

Lời giới thiệu của NĐT rủ rỉ và tha thiết làm vỗ lại những con sóng cũ. Lênh đênh đầy hồn là những rong rêu lãng mạn của những ngày còn có quê hương... Tình yêu và sự lãng mạn có thể cứu sống được một đời người, làm rung động trở lại những nhịp đập của một trái tim già cỗi, tưởng đã cằn khô, tưởng đã mộ tối. Bạn bè, có phải thế không?

Có những lời giới thiệu do chính NĐT viết. Có những đoạn khác, anh lấy gần như nguyên văn trong Tâm tình hiến dâng của Rabindranath Tagore do Đỗ Khánh Hoan dịch. Tất cả những lời giới thiệu, dù sao, đều được đặt đúng chỗ của chúng. Cuốn băng, những bài hát, những lời giới thiệu làm tôi nhớ lại những đêm mưa tí tách rỉ rả mười mấy năm trước, buổi tối, nằm bật radio nghe chương trình Nhạc Chủ Đề của NĐT. Bạn bè thân mến, tôi muốn chép lại đây một đoạn thơ xuôi của Tagore, do NĐT đọc mười mấy năm trước. Tôi muốn chia sẻ với các bạn một ít gió mưa ngày cũ, một ít lửa ấm, và tiếng một người, có phải tiếng một người yêu xa vắng không, thủ thỉ bên tai:

Anh yêu dấu, xin hãy tha thứ tình em. Như chim lạc lối, em sa vào lưới. Khi tim rung động, màn che tuột rơi, tim em phơi trần.

Anh yêu dấu, xin đem xót thương bao phủ trái tim trần trụi ấy, và tha thứ cho tình em.

Nếu không thể yêu em, xin tha thứ nỗi khổ đau em đang chịu đựng.

Đừng đứng từ xa nhìn em bực bội.

Em sẽ lẩn vào xó góc và ngồi trong bóng tối nâng hai tay che kín nỗi bẽ bàng trơ trẽn của mình.

Anh hãy tha thứ nỗi khổ đau em đang chịu đựng. Và nếu yêu em, xin tha thứ nguồn vui của em.

Em xin làm rừng cúi đầu im nghe gió bão của anh thổi tới, và nếu chẳng còn yêu em, xin hãy tha thứ nguồn vui của em, và đừng cười sự buông thả của em đầy mạo hiểm.

Những lời Tagore-Đỗ Khánh Hoan-Nguyễn Đình Toàn ấy khơi lại trong lòng mình những hoài niệm mơ hồ khác, làm mình thương cho người ở lại, thương cho người ra đi, và thương cho cõi lòng nổi trôi tan tác của mình, của anh em bạn bè khắp chốn.

Tôi nhớ mấy đứa nhỏ của T., rất dễ thương, ngồi nói chuyện với tôi một buổi sáng. Chúng nó hỏi tôi rằng ở xa đến có chuyện gì không. Tôi nói là tôi chỉ cốt đến đây để thăm bạn bè và kể lại một số chuyện cũ ở nhà, hồi hơn một chục năm trước, cho nhau nghe mà thôi. Tôi nói rằng ngày trước đời sống ở Việt Nam vui lắm, và rằng bố tụi nó ngày xưa rất nghịch, rất thích đi lang thang cà phê quán cóc các thứ. Vân vân và vân vân. Bọn nhỏ có vẻ ngạc nhiên ngầm hỏi tại sao tôi lại đi xa đến thế để chỉ gặp lại những bạn bè cũ và nói lại những chuyện cả chục năm trước. Một đứa "bút đàm" với tôi – vì con bé vừa bị cắt thịt dư ở cổ họng xong – khoe (hoặc mách) rằng bổ nó có "some sense of humour" (!). Nó bảo rằng có hỏi bố bao giờ nó nói lại được bình thường sau cuộc giải phẫu này, bố chỉ nói "Goodbye to throat!"... Tôi ngồi nói chuyện với tụi nhỏ cũng thấy vui. Tụi trẻ con, thấy bố chúng và tôi suốt hai ba đêm thức khuya ngồi nói chuyện với nhau mà không lộ vẻ gì mệt mỏi hoặc chán nản, có lẽ đã nghĩ rằng những người lớn người nào cũng có vẻ gàn gàn và làm nhiều việc vô bổ. Làm sao tụi nhỏ hiểu được là chúng tôi, những người lớn, đã từng là những đứa nhỏ như chúng nó ngày xưa. Chúng tôi cũng đã có một thời lớn lên, nhưng trong lửa khói, giữa một đất nước tan hoang, phân rã. Chúng tôi đã có những lúc cố gắng làm đẹp cuộc đời trong phạm vi của mình. Có những lúc vấp ngã, có nhiều khi thất bại. Và bây giờ, cơn gió lốc của lịch sử đã đẩy bắn chúng tôi tan tác bốn phương trời. Nhưng chúng tôi vẫn còn một quá khứ để dựa lưng vào mỗi khi mệt mỏi, một quá khứ để học hỏi mỗi khi nhìn lui trở lại. Chúng tôi cần thỉnh thoảng gặp lại nhau, có thể chỉ một hai ngày thôi, để khơi lại sức sống cũ, và cũng có khi để nâng đỡ nhau.

Người Mỹ, khi cần "relax", họ sẽ đi chơi giải trí ở một bờ biển này hay ở một sườn núi kia. Hoặc là họ đi đến sòng bạc. Las Vegas. Reno. Chúng tôi, để lấy lại sức lực, phải gặp gỡ nhau. Nói chuyện, cười đùa, bàn luận. Hoặc chỉ trầm ngâm im lặng ngồi nghe lại với nhau một vài bài nhạc cũ ba bốn chục năm về trước. Thấy lòng mình ướt mèm dĩ vãng. Và dĩ vãng ấy là những giọt nước mát nhỏ xuống cái đời sống khô cằn và máy móc, mệt mỏi này. Tụi trẻ con, tôi không thể giải thích cho chúng nó hiểu được. Đôi mắt của trẻ con ngây thơ dò hỏi. Rồi một ngày mai, lớn lên, hòa nhập vào xã hội này, có thể một lúc nào đó các trẻ con của chúng ta sẽ hiểu về tâm tư của các bậc cha mẹ chú bác chúng nó. Có thể một mai, rồi các cháu sẽ hiểu.

Tối hôm ấy, nghe hết cuộn băng chủ đề NĐT, chúng tôi không ngủ được. Tiếp tục ngồi nói chuyện. Tiếp tục để máy chạy nghe lại những dĩa nhạc bốn, năm chục năm về trước. Where have all the flowers gone? Blowin' in the wind. The green leaves of summer. Tennessee waltz. Yellow bird. Summertime. Bambino. La Paloma... Những cánh chim lại lênh đênh theo gió trở về. Chúng tôi nhớ lại những ngày tuổi trẻ tay thọc túi quần, miệng huýt sáo theo tiếng lá cây xào xạc trên một hè phố vắng. Những con phố cũ bồng nắng ban mai và lam tím sương chiều bây giờ lại thả đầy lá vàng trong lòng chúng tôi... Ổi cung đàn réo vang đêm trường. Dây tơ gào gió đê mê lòng. Lệ tràn vì đâu? Bao tình tê tái nương đàn gió bay tìm ánh trăng sao. (Dạ khúc, Nguyễn Mỹ Ca). Nửa đêm ấy, chúng tôi đi ngủ mà còn như nghe thấy tiếng bước chân tuổi trẻ của mình khua gõ trên một đường phố vắng vẻ nào đó của quê hương.

Ngày hôm sau, tôi được bạn bè dẫn xuống D.C. thăm một vòng các danh lam thắng cảnh. Thì cũng lại đi thăm các bảo tàng viện, tòa nhà Quốc Hội, tượng tổng thống Abraham Lincoln, tượng các cựu chiến binh Mỹ, "cây bút chì" (Washington Monument), và dĩ nhiên là bức tường cẩm thạch đen nổi tiếng, một thứ đài kỷ niệm, ghi tên năm mươi mấy ngàn người lính Mỹ đã hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam, tại Vietnam Veterans Memorial.

Ở đây, rải rác dưới chân bức tường cẩm thạch đen vĩ đại này, tôi thấy có những người đã đến thăm bạn bè hay thân nhân mình, và đã cắm ở lại đó những lá quốc kỳ Mỹ bằng giấy nhỏ, cũng có chỗ là một vòng hoa, có khi chỉ là một đóa hồng. Tôi nhìn thấy có một bài thơ viết rất gọn trên giấy trắng, theo tinh thần thơ Haiku của Nhật, được để lại dưới chân tường bên một nhánh hồng nhung. Hình ảnh thật cảm động. Bài thơ ngắn thôi, đại khái viết, bây giờ ngọn khói đã bay lên cao, và trong khu vườn cũ chỉ còn lại một đóa hồng cúi đầu lặng lẽ. Tôi nghĩ người viết bài thơ và để lại nhánh hồng này là một cô gái Mỹ, có chồng hoặc người yêu chết tại Việt Nam. Cô là một Hòn Vọng Phu của Mỹ. Tôi nghĩ tiếp là con người ở mọi thời và mọi nơi đều đã phải chịu đựng như nhau cái nỗi đau khổ bi tráng mà Thượng Để đã dành sẵn cho nó khi Ngài tạo dựng ra nó như một con người. Nhìn dưới một góc cạnh nào đó, chính nỗi đau khổ làm cho đời sống con người có ý nghĩa, và làm trái tim của nó được tinh khiết hơn.

Chiều hôm ấy, tôi và anh bạn H. ghé thăm tủ sách Cành Nam và phòng tranh của cụ Tá Chi Trương Cam Khải. Ở đây, chúng tôi gặp cả hai cụ Tá Chi và Kim Y Phạm Lệ Oanh, người đã có công dịch và chú giải bộ Thi kinh quốc phong, một tác phẩm văn học đời nhà Chu, tập thơ đầu tiên của Trung Hoa, gồm những bài thơ được phổ biến rộng rãi trong dân gian như một thứ ca dao, và, theo truyền thuyết, đã được Khổng Tử san định lại sau này. Chúng tôi cũng gặp chị Trương Anh Thụy, một trong những người chủ trương tủ sách Cành Nam, ái nữ của cụ Tá Chi, cùng với nhà văn Trương Bảo Sơn, dịch giả cuốn Con nai tơ (The Yearling) nổi tiếng của nhà văn Mỹ Marjorie Kinnan Rawlings, mới từ Canada ghé sang chơi.

Bữa cơm buổi tối hôm ấy ở nhà cụ Tá Chi thật vui. Ngoài những người vừa kể, buổi họp mặt bỏ túi này còn có anh Nguyễn Ngọc Bích, anh chị Trương Cam Vĩnh, anh Đặng Đình Khiết thuộc nhóm Xác Định. Chúng tôi ngồi ăn cơm với cá kho và canh rau đay nóng hổi, nhưng lại thấy thật mát mẻ khi mọi thứ trôi qua cuống họng. Có cảm tưởng là mình đang nuốt những mảnh quê hương vào lòng. Câu chuyện văn nghệ lan man bắt từ thơ cụ Nguyễn Khuyến sang giai đoạn cách mạng của Nhất Linh, Vũ Hồng Khanh, rồi đi một vòng tròn, chúng tôi ngồi phân tích về một số hiện tượng của xã hội Mỹ... Chúng tôi nhắc đến Trương Tửu, Freud, Đàm Xuân Thiện, Euclid, Riemann, Lobatchevsky, v.v., và cả những chuyện cầu cơ, những chuyện ma ở trong Nam, ngoài Bắc.

Nói tóm lại, đây là một buổi họp mặt nói chuyện văn nghệ lan man, không chủ đề, và hết sức thích chí như bất kỳ một buổi họp mặt văn nghệ vô đề nào khác. Có lần tôi nói với một người bạn, nếu ta thử thâu băng lại trọn vẹn một cuộc nói chuyện văn nghệ không chủ đề (và đừng để cho những người trong cuộc biết), ta sẽ thấy đầu óc, ký ức con người rất là phong phú, linh động. Tất cả những đề tài khác biệt và lung tung trong buổi nói chuyện như thế, thoạt nghe, ta tưởng không hề có một liên hệ gì với nhau, nhưng thật sự, chúng gắn vào nhau bằng một mắt xích nào đó rất bất ngờ. Tôi nghĩ, nếu nhìn dưới khía cạnh Tâm lý học, hay chuyên biệt hơn Phân tâm học, việc nghiên cứu những buổi nói chuyện như thế có thể đem đến cho ta nhiều khám phá lý thú. Khi về, tôi được cụ Kim Y và chị Thụy tặng một số sách của tủ sách Cành Nam, đặc biệt là bộ Thi kinh quốc phong của cụ Kim Y. Đây là một món quà quý làm tôi rất cảm động.

Ngày cuối cùng, trước khi sửa soạn trở lại Cali, tôi lại được dip "ngồi quán" với các anh BBTrúc, NĐHùng, Tiến, PTHải để nhìn thấy một khía cạnh nữa của Hoa Thịnh Đốn: khía cạnh ăn uống. Cũng giống như ở Cali, các quán ăn Việt Nam ở đây đều rất được khách và không khi rất là xuề xòa văn nghệ. Tôi đã đến ăn phở 75 của anh Lê Thiệp, nhìn thấy tranh của họa sĩ Ngọc Dũng treo trên tường rất nghệ thuật. Những thiếu nữ Việt Nam trong tranh Ngọc Dũng mặc áo dài vàng, cam hay đỏ, đi thướt tha trên một hè phố nào đó. Hẳn đó phải là một hè phố quê hương trong trí nhớ của anh Ngọc Dũng. Tôi thấy mọi người vào tiệm, ăn uống, chuyện trò vào buổi trưa làm như ai cũng biết mặt nhau. Lê Thiệp chốc chốc lại ghé qua bàn tôi với T. ngồi tán dăm ba câu rồi lại chạy đi tiếp khách...

Ở cái quán tối nay cũng vậy, người ta vào ăn uống, chuyện trò, bắt tay nhau vui vẻ, xem như ai cũng quen ai. Đôi khi, mình tìm được một góc quê nhà ở những nơi chốn như vậy.

Tối đó, lại một buổi họp mặt văn nghệ ở nhà NĐH. Tủ sách của anh H. cũng có một số sách quý.Tôi lại được gia chủ vừa tặng vừa cho mượn trên một chục quyển sách để mang về Cali. Một lần nữa, tôi lại muốn cảm ơn những tình cảm đẹp đẽ mà anh em văn nghệ đã dành cho mình.

Nguyễn Hữu Hiệu vì vợ sinh con đúng ngày hôm ấy nên không sang sớm với chúng tôi được. Khoảng chín giờ rưỡi anh mới gọi lại, định sang nói chuyện văn nghệ, nhưng vì tôi phải về sớm để sắp xếp hành lý nên không ngồi lại thêm được. Thật tiếc. Tôi vẫn thích bản dịch Kẻ tiên triAlexis Zorba, con người chịu chơi của anh. Tôi cũng ân hận vì công việc phải về sớm nên không thể đi thăm hết những bạn bè, thân hữu mà tôi đã dự định.

Đêm hôm đó về nhà anh Trúc. Tôi ngồi sửa soạn hành lý để sáng mai đi sớm trong khi T. đeo headphone ngồi thâu cho tôi trên dưới hai mươi bài hát ngoại quốc cũ kỹ từ mấy chục năm xưa mà tôi rất thích.[2] Những bài hát thổi vào lòng ta tiếng gió, tiếng thời gian lờ lững miên man trôi như một dòng mây trắng. Ly cà phê chúng tôi uống thơm đặc một mùi thơm của kỷ niệm. Chốc chốc, T. lại bỏ headphone ra nói với tôi một vài câu, thường là chú thích về một vài hình ảnh quá khứ mộng mơ nào đó qua giọng hát của một người ca sĩ. Những bài hát, cũng như những bài thơ, những bức tranh, những pho tượng, những truyện ngắn, truyện dài... của bất kỳ một con người nào sống trên quả đất này, một khi đã trở nên bất tử, chúng sẽ còn mãi và là của chung của toàn thể nhân loại.

Thưởng thức một tác phẩm như thế, người ta có thể cảm nhận sự rung động với tất cả thân xác và tâm hồn mình. Một bài hát, nó mang về cho chúng ta cả một thời thanh xuân đã qua, những cánh hoa đã úa đã tàn nhưng mùi hương vẫn còn phảng phất, những con đường mùa thu, những ngõ gió, những tiếng cười, những giọt nước mắt, những hạnh phúc, những chia lìa. Tôi muốn cám ơn đời sống vì nó còn cho tôi có được những hoài niệm. Tôi không bị bắt buộc phải đi mãi một dòng đời về phía trước. Thỉnh thoảng, tôi vẫn muốn đi ngược trở về những ngày heo hút xa xưa, ở đó, có tiếng còi tàu, tiếng vỗ đập sóng sánh của một dòng nước, tiếng những con dế tỉ tê trong những đám cỏ tối đen thoáng gợn lân tinh, tiếng cuộc đời trẻ dại...

T. lại cho tôi một tập thơ Thanh Tâm Tuyền, một tập Thơ Đường của Trần Trọng San, một tập Tâm tình hiến dâng của Tagore do nhà văn Đỗ Khánh Hoan dịch. Sau đó, chúng tôi tiếp tục ngồi mở một số bài thơ Đường ra xem lại. Thấy yêu và thương Lý Thương Ấn thời Vãn Đường với những bài Cẩm sắtVô đề. Đọc bài Cẩm sắt, tới hai câu cuối Thử tình khả đãi thành truy ức / Chỉ thị đương thì dĩ võng nhiên! 此情可待成追憶/只是當時已惘然 (Trần Trọng San dịch xuôi ý: Mối tình đẹp đẽ thời hoa niên, ngày nay không tìm được nữa. Ta hãy để cho tình ấy thành ra kỷ niệm êm đềm. Nhưng tiếc thay ngay thuở xưa, tình ấy đã là một mối tình tuyệt vọng, làm cho ta đau khổ, chán chường!) mới thấy rõ là người xưa cũng quá đa sầu, đa cảm.

 

Hoặc đọc bốn câu đầu của bài Vô đề:

Tương kiến thời nan, biệt diệc nan,

Đông phong vô lực, bách hoa tàn.

Xuân tàm đáo tử, ti phương tận;

Lạp chúc thành hôi, lệ thủy can.

 

相見時難別亦難 / 東風無力百花殘

春蠶到死絲方盡 / 蠟炬成灰淚始乾

(TTS: Gặp gỡ nhau, là một việc khó, mà từ biệt được nhau cũng lại là một việc khó. Gió Đông kia không đủ sức, để cho trăm hoa phải tàn tạ đi, cũng như loài người bất lực, không kéo dài được thời kỳ hội ngộ mà tránh những phút chia ly. Con người đa tình cứ khơi mãi mối cảm hoài cho đến khi tận thế, cũng như con tằm rút mãi đường tơ cho đến khi ruột tằm khô héo, cũng như ngọn nến kia cứ rỏ mãi bao nhiêu hàng lệ đến bao giờ nến cạn thành tro thì lệ mới khô).

Xem thế mới thấy rõ cái tình bạn thắm thiết của người xưa.

Chúng tôi ngồi nói chuyện, xem lại một số sách viết về thơ Đường của nhiều tác giả khác nhau cho mãi đến khuya. Rồi T. đưa cho tôi một quyển sách nhỏ, một tập san thì đúng hơn, tên là Modern Poetry in Translation, bảo: "Ông mang quyển này về xem, tôi nghĩ là ông sẽ thích."  Đây là một đặc san, in khổ nhỏ theo một dạng đặc biệt, giấy cứng, rất đẹp, số mùa Xuân 1980. Ngoài một bài giới thiệu dịch giả nổi tiếng May Hayward của Anh, người từng được xưng tụng là "a prince among translators", một số thơ dịch những bài nổi tiếng của một nhóm học giả cổ thuộc thành phố Tamil Nadu ở Ấn Độ viết vào những thế kỷ đầu tiên của niên lịch A.D., một bài của André Lefèvre bàn về chủ nghĩa thực dụng trong vấn đề dịch, một số thơ của Jose F. Lacaba, một nhà thơ Phi Luật Tân, hai bài điểm sách tập thơ của Mallarmé và tập thơ của Rimbaud, phần còn lại chiếm đến ba phần tư tập sách, là một tập hợp 35 bài thơ của những dịch giả Anh Mỹ nổi tiếng, dịch ra tiếng Anh bài thơ Hoàng Hạc lâu bất hủ của Thôi Hiệu đời Đường. Có một ít điểm lạ lạ, vui vui mà tôi tìm thấy và học hỏi được qua những bản dịch này, ở một đoạn sau tôi sẽ nhắc đến.

Hôm sau, năm giờ rưỡi sáng, chúng tôi đã lên xe ra phi trường. Không khí buổi tinh mơ như có bao phủ một lớp sương xanh mờ mờ. Những con đường vòng vo, cây lá um tùm làm gợi nhớ đến một đoạn đường nhỏ nào đó ở Thủ Đức, ở Vũng Tàu, hay Đà Lạt. Những ngọn đèn đường co ro rét mướt. Tất cả những cảnh ấy làm lòng bâng khuâng vỗ về lại một chút hoài niệm cũ, vu vơ. Trái tim lại bắt đầu rung lên bồi hồi những tiếng chuông xa vắng. Ừ, tương kiến thời nan, biệt diệc nan.

Tôi về đến L.A. lúc 11:00 giờ trưa ở Cali. Anh Phạm Quốc Bảo ra đón, đưa về nhà ăn cơm. Lại những món hết sức Việt Nam, có cả cơm gạo lức nữa. Khi về, tôi được biết Nguyễn Bá Trạc cũng vừa xuống Nam Cali thăm chúng tôi. Ngày hôm sau, tôi bỏ một buổi ngồi quán với các anh Trạc, Vũ Huy Quang và Phạm Duy, rồi ghé về nhà anh Phạm Duy để được nghe băng Hát Chèo và băng thơ Chinh Phụ Ngâm ngâm theo lối miền Bắc. Thật đặc biệt.

Nguyễn Bá Trạc như thường lệ, sau đó, lại kéo tôi ra một tiệm Tàu ăn cơm vịt quay (có khi ông ấy trả tiền, có khi tôi trả), và, như thường lệ, lại "hạch sách" cô "chiêu đãi" một cách... âu yếm là sao tiệm này không chịu dùng nước mắm. Cô "chiêu đãi" lại giải thích.  T. lại lý luận. Cứ thế!  (May, hôm nay Mai Thảo, người rất tôn trọng và yêu quý phái nữ, không có ở đây. Mai Thảo mà thấy cảnh này chắc sẽ không để anh T. “chòng ghẹo” và “làm phiền” người đẹp). Những cảnh như thế này đã xảy ra nhiều lần lắm rồi. Thật ra, anh T. viết văn, làm thơ và nói chuyện rất có duyên, có lẽ cô “hàng quán” cũng không đến nỗi thấy phiền hà gì. Tôi lại nghĩ đến những cặp mắt ngây thơ, dò hỏi của những đứa con người bạn khi hỏi tôi ở xa đến chắc có chuyện gì. Tôi muốn hỏi anh T., đang ngồi cạnh tôi, "Này anh, anh ở xa xuống đây chắc có chuyện gì phải không?"

3.

 

Từ Washington D.C. về, tôi có được một chồng sách quí, mấy cuộn băng nhạc hết sức đặc biệt, và một nỗi cảm động thắm thiết khi nghĩ đến sự đối xử của bạn bè và những tình cảm đẹp đẽ mà tất cả bằng hữu đã dành cho mình. Tôi biết là tôi sẽ giữ được chúng cho đến hết cuộc đời. Đó là bếp lửa ấm cho tôi tìm về giữa những tháng ngày lưu vong mệt mỏi và buồn bã của cuộc sống này.

Buổi tối, tôi mở cuộn băng Hát cho kỷ niệm của Quỳnh Giao tặng ra nghe. Đúng là Quỳnh Giao hát cho kỷ niệm. Từ phần mở, những câu tâm sự chân thật, tha thiết và đẹp đẽ, và phần đóng, những lời cám ơn hết sức hiền lành và khiêm nhượng, đến cách Quỳnh Giao chọn bài, cho thấy chị rất trân trọng với kỷ niệm và với thính giả của mình. Chị đã để cả tấm lòng vào việc thực hiện cuộn băng đẹp đẽ này.

Những bài hát trong cuốn băng là những bài Quỳnh Giao đã hát trên làn sóng điện của Đài Phát Thanh Sài gòn trước kia khi chị hợp tác với các ban Tây Hồ, sau đổi thành Tiếng Tơ Đồng, của nhạc sĩ Hoàng Trọng, chương trình Phạm Duy của Phạm Duy, chương trình Tiếng Nhạc Tâm Tình của ca sĩ Anh Ngọc... Đó là những bài hát chọn lọc của kỷ niệm, chẳng hạn như Kỷ niệm của Phạm Duy, Trở về bến mơ của Ngọc Bích, Giấc mơ hồi hương của Vũ Thành, Ngọc lan của Dương Thiệu Tước, Tiếng thời gian của Lâm Tuyền & Dạ Chung, Bạn lòng của Hoàng Trọng và Hồ Đình Phương, Dạ khúc của Nguyễn Mỹ Ca, Dạ lai hương của Phạm Duy, Mắt biếc của Cung Tiến, Đêm mầu hồng của Phạm Đình Chương, Mưa trên phím ngà của Văn Phụng...

Tiếng hát Quỳnh Giao so với những ngày còn ở Việt Nam bây giờ đằm hơn, ngọt hơn, và rõ ràng là có cái màu hoài hương ở bên trong. Những đoạn chuyển cung, hoặc những nốt láy nhẹ, chẳng hạn như trong Kỷ niệm, cho ta thấy giọng của Quỳnh Giao hết sức điêu luyện đồng thời vẫn rất ngọt ngào và tự nhiên. Cho dù có thể có một số đánh giá cho rằng giọng của chị hơi mỏng; dù sao, chuyện thẩm âm là cái “gu”, cái thích, và cái cảm nhận của mỗi người.  Nhưng cái điêu luyện trong tiếng hát Quỳnh Giao là một điều không thể chối cãi.

Quỳnh Giao cho biết chị chỉ thâu có năm mươi cuộn để gửi tặng bạn bè thân quý, những người hiểu và chia sẻ được những kỷ niệm của mình. Kỹ thuật thu âm khá giản dị nhưng lại rất cẩn thận với sự chăm sóc của anh Lê Văn, trưởng ban Việt ngữ đài VOA. Tiếng hát Quỳnh Giao trong cuộn băng này chỉ được đệm bằng tiếng dương cầm, khi lồng lộng như gió cuốn trên cao, lúc sầm sập đe dọa như sóng xô trong tối, lúc lại thánh thót nhẹ nhàng như tiếng chân chim lách tách trên đầu mái những buổi tinh sương. Tiếng hát Quỳnh Giao chỉ nên đi với dương cầm chứ không nên đi với trống kèn hoặc những hợp âm điện tử của kỹ thuật hiện đại. Đó là một tiếng hát trong sáng, long lanh như một giọt nước treo trên đầu ngọn lá. Tiếng hát ấy có khi lại mềm mại, nuột nà như lụa, như sa-tanh. Bởi thế, sự trong sáng, long lanh, mềm mại, nuột nà kia chỉ nên đi với tiếng dương cầm. Đó là một hôn phối đẹp đẽ và sang trọng.

Những người được Quỳnh Giao nhờ giới thiệu trước những bài hát, trong đó có Cung Tiến, Mai Thảo, Phạm Đình Chương, Vũ Thành, Lê Văn, Văn Phụng, qua cung cách trình bày và qua lối chọn lựa hình thức diễn đạt của họ, đã làm cuộn băng thêm phần giá trị. Tất cả mười ba bài hát trong cuộn băng Hát cho kỷ niệm đều đã được trình bày ở một mức độ nghệ thuật rất cao, và vì thế, phần nào, có thể kén chọn thính giả. Tuy nhiên, đối với người hòa điệu, những bài hát này là những mặt khác nhau của một viên ngọc lóng lánh đưa ta về cõi hạnh phúc. Tùy vào kỷ niệm, quá khứ, mộng mơ của mỗi thính giả mà các bài hát trong cuộn băng có thể được yêu thích một cách khác nhau. Riêng tôi, tôi yêu nhất những bài Kỷ niệm, Giấc mơ hồi hương, Ngọc lan, Mắt biếc, Đêm mầu hồng, Dạ khúc, Dạ lai hương. Hình như những bài hát này nhắc lại cho tôi nhiều kỷ niệm những ngày xa xưa ấy, những buổi tối mưa rơi sùi sụt trong khu xóm nhỏ, phố xá đèn lửa leo lét, tôi nằm trên võng bật radio nghe những chương trình Nhạc Chủ Đề của Nguyễn Đình Toàn vào tối thứ Ba lúc 11:00 giờ, chương trình Phạm Duy tối thứ Hai lúc 10:30, chương trình Tiếng Nhạc Tâm Tình của Anh Ngọc tối Chủ Nhật lúc 9:30, chương trình Tiếng Tơ Đồng của Hoàng Trọng... Những bài hát trong cuộn băng Hát cho kỷ niệm của Quỳnh Giao đã mở về những khung trời xa vắng, có tôi bé nhỏ đi lang thang trên những đường rầy quạnh quẽ, có tôi buổi tối ngồi nhìn trăng lên trên đầu những ngọn cây bông gòn có tơ bay vướng vít. Xin cho tôi đi lại từ đầu ở những ngày kỷ niệm đó, những ngày có tôi ngồi cạnh tôi thôi, với quê hương chung quanh, nghe lòng mình mềm đi với những ước mơ và những hoài vọng thiết tha nồng cháy. Cho đi lại từ đầu. Chưa đi vội về sau. Xin đi từ thơ ấu. Đi vui và bên nhau. Trong tim thì sôi máu. Khoé mắt có trăng sao. Bông hoa cài trên áo. Trên môi một nguyện cầu... Tiếng hát như một dáng chim lả vào không gian kỷ niệm, tím thẫm màu chiều của dĩ vãng.

 

Một người bạn tôi ở tiểu bang khác gọi điện thoại qua thăm, tôi cho nghe thử hai bài Kỷ niệmGiấc mơ hồi hương, người bạn thích quá đòi nghe cả cuộn. Thú thật, tôi thương người bạn trả tiền long distance nên chỉ cho anh nghe thêm ba, bốn bài nữa. Anh bảo, nghe Giấc mơ hồi hương của Vũ Thành, lúc giọng Quỳnh Giao vút lên cao và lả xuống như một cánh chim, lúc tiếng dương cầm chới với, réo rắt, lồng lộng ở những octave tít tắp, anh ta có một cảm giác gai cả người vì hạnh phúc, như lần anh có dịp về Hà Nội sau 1975, ôi Hà Nội điêu tàn nhưng vẫn có một nét gì thơ mộng, đứng trên con đê dài kéo suốt đến đường Cổ Ngư (đường Thanh Niên bây giờ), chỗ gần cầu Long Biên, ở dưới là tiếng vỗ đập sóng sánh của sông Hồng, xa xa là những đồng ruộng chạy dài ngút mắt, gió thổi tốc tóc và áo anh lên, tự nhiên anh muốn khóc khi đứng giữa Hà-Nội-buổi-chiều như thế. Những lời ca và nét nhạc của Giấc mơ hồi hương đã cắt thẳng vào rung động của chúng ta những đường cắt rõ nét và khó bôi xóa được. Tiếng hát Quỳnh Giao là một trong rất ít những tiếng hát hiếm, và quí, lột tả được cái ý, cái tình của bài hát và của tác giả. Cũng như với một số bài hát khác trong cuộn băng, Quỳnh Giao tự đệm dương cầm cho mình hát bài này. Chúng ta đừng quên Quỳnh Giao là một dương cầm thủ xuất sắc, xuất thân từ Quốc Gia Âm Nhạc Viện... Những bài khác, nhạc sĩ Văn Phụng đã giúp phần phụ đệm.

Nghe Giấc mơ hồi hương, chính tôi cũng phải ngây ngất vì cái chỉnh thể hết sức đẹp đẽ của tất cả những nét nhạc, lời ca, giọng hát, và tiếng đàn ấy. Tự nhiên, tôi nhớ đến những đoạn văn đẹp và xót xa trong Áo mơ phai của Nguyễn Đình Toàn, Bếp lửaUng thư của Thanh Tâm Tuyền, Đêm giã từ Hà Nội của Mai Thảo...

Màu kỷ niệm xưa cũ vẫn lóng lánh như trăng ngân.

4.

Modern Poetry in Translation là tên tập đặc san người bạn đưa tôi mang về. Cái tập sách hay thật. Modern Poetry mà lại có dịch thơ Đường. Ba mươi lăm bản dịch khác nhau của toàn là những người... “khá” cả. Tôi đọc phần danh biểu các thi-sĩ-dịch-giả thì thấy những người này toàn là những vị uyên bác như Willis Barnston, giáo sư dạy về văn chương tỷ giảo ở Uni. of Indiana, Bloomington, hoặc như Keith Bosley, nhà thơ và dịch giả, hiện làm cho đài BBC, đã từng dịch những tác phẩm của Nga, Phần-Lan, Việt-Nam và Pháp ra tiếng Anh. Bét nhất trong danh biểu này thì cũng là những sinh viên xuất sắc học về văn chương Đông Nam Á ở các đại học Mỹ.

Tôi đọc phần giới thiệu mới biết rằng sở dĩ có một tập hợp 35 bài thơ dịch Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu chỉ vì bài này quá nổi tiếng và rất khó để chuyển hết tình, ý của tác giả sang một bản dịch. Chính vì nhận chân được giá trị của bài thơ, cùng lúc, thấy được sự thách thức của bài thơ đặt ra cho dịch giả khắp nơi, Hualing Nieh Engle, hiện đang là giám đốc của The International Writing Program tại University of Iowa, mới quyết định, cùng với Angela Elston, thực hiện một đề-án (project) về việc tập hợp những bài dịch Hoàng Hạc lâu của các nhà thơ cũng như dịch giả danh tiếng của Anh và Mỹ. Thế là họ bèn gửi một bản dịch từng-chữ-một (mot-à-mot, word-for-word) – tiếng Anh gọi những bản dịch như thế là a crib, hay a pony, hay a trot, tất cả những từ này đều có dính líu tới ngựa cả, tại sao? – cho những vị có thẩm quyền về dịch, kèm theo một lá thư trình bày rõ mục đích đẹp đẽ của đề-án.

Đây là nguyên tác Hoàng Hạc lâu bằng chữ Hán của Thôi Hiệu:

黃鶴樓

昔人已乘黃鶴去,

此地空餘黃鶴樓。

黃鶴一去不復返,

白雲千載空悠悠。

晴川歷歷漢陽樹,

芳草萋萋鸚鵡洲。

日暮鄉關何處是,

煙波江上使人愁。

Ngoài bản dịch từng-chữ-một như dưới đây:

Brown Crane Building

 

Former person once rode brown (yellow) crane away

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ

This place emptily left brown crane building

Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu

Brown crane once gone never again returns

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản

White clouds thousand years empty long-long (slow-slow)

Bạch vân thiên tải không du du

Clear (sky) river clear-clear Han-yang trees

Tình xuyên lịch-lịch Hán-Dương thụ

Fragrant grass lush-lush Ying-wu Isle

Phương thảo thê-thê Anh-Vũ châu

Sun sets home place what point is?

Nhật mộ hương quan hà xứ thị ?

Mist waves river upon make person sad (melancholy)

Yên ba giang thượng sử nhân sầu

 

còn có một bản dịch xuôi (line translation) làm mẫu cho các dịch giả:

The immortal has ridden the brown crane away,

Now there is left only this pavilion.

The brown crane, once gone, will never return;

White clouds a thousand years emptily pass

In the clear light over the stream, clear is each leaf on the Han-yang trees,

Sweet grass grows heavy on Parrot Island.

The sun sets, which way is home?

Mist and waves on the river make me sad.

Ngoài tất cả những gợi ý ấy, bức thư còn kèm theo một bản viết chữ Hán rất đẹp, có ghi chú đâu là đầu đề, đâu là dòng một, đâu là dòng hai, v.v., của bài thơ (cho những ai có thể đọc được chữ Hán!) cùng với phần ghi chú, trình bày qua về thể thơ Đường (The Form) như kiểu học sinh trung học Việt Nam ngày xưa đã được học, các luật tắc, cách gieo vần, niêm, đối, về đặc tính của chữ, nghĩa và cú pháp Trung Hoa (The Language), và về bối cảnh cũng như trường hợp sáng tác của bài thơ trên (The Legend).

Tất cả những điều đó được trình bày ở một mức độ tạm đủ cho những người được mời tham dự đề-án dịch thuật bài thơ Hoàng Hạc lâu. Điều đặc biệt ở đây là hầu hết các dịch giả được mời tham dự "cuộc chơi" đều không hề có một hiểu biết rõ rệt nào hơn về bài thơ Hoàng Hạc lâu cũng như không hề có một kiến thức căn bản nào về Hán văn. Họ chỉ có bản crib và các dẫn giải đại khái kia. Tất nhiên, như thế, họ sẽ phải dựa rất nhiều vào bản crib để hoàn tất bản dịch của họ. Chuyện này có vẻ là lạ, vui vui, nhưng đây là một khuynh hướng đang lan rộng trong văn-thi-giới Âu Mỹ. Ezra Pound, nếu không phải là người đầu tiên thì cũng là người nổi tiếng nhất trong lĩnh vực dịch này. Ông đã dịch rất hay một số bài thơ chữ Hán, căn cứ trên những bản dịch từng-chữ-một cùng với các ghi chú của những nhà Hán học trong hội Sinologist Fenollosa.

Về phương diện ngôn ngữ, ta thấy dịch giả, hơn bất cứ một nghệ sĩ nào khác dùng ngôn ngữ làm chất liệu diễn tả, qua chính bản dịch của họ, phải cố gắng làm nổi bật được sự liên hệ tương liên giữa cái thể và cái chất, giữa phương tiện chuyên chở và nội dung diễn đạt, giữa cái xác và cái hồn của một bài thơ. Theo thuyết của Sapir-Whorf, ngôn ngữ mà chúng ta sử dụng sẽ cho người khác thấy cái vũ trụ quan của ta, sự tư duy của ta, ý thức và chính bản thể của ta nữa. Nhưng, nếu tôi nhìn ngắm ngôn ngữ từ một góc cạnh chủ quan, nhìn vào bên trong con-người-sử-dụng-ngôn-ngữ của tôi, có thể tôi sẽ thấy là mỗi một con-người-tự-do có một sức mạnh riêng của nó trong việc sử dụng, nhào nắn ngôn ngữ. Ngôn ngữ quyết định cái nhìn, sự tư duy, và sự hiện hữu của bản thể tôi, nhưng tôi cũng có tự do để nhào nắn, bóp, uốn ngôn ngữ với sức mạnh của riêng tôi. Trong nghĩa này, đây chính là cái sức mạnh nóng hổi của mỗi con người riêng biệt khiến nó sáng tạo ra những thể, những cách sử dụng chữ nghĩa mới, nhờ vào cái tính chất dẻo dai, uyển chuyển của chính ngôn ngữ.

Những bài thơ dịch trong tập sách này được phô diễn dưới đủ mọi thể, mọi cách sắp xếp. Hồn của những bài thơ dịch có thể ở đâu đó, gần gũi với nhau, và nhận được mặt mày nhau, nhưng những cái xác của những bài thơ này thì có vẻ xa lạ với nhau quá. Có những bài thơ được kết cấu theo kiểu thơ của thi đoàn Bạch Nga Nguyễn Vỹ, có những bài thơ làm theo kiểu graffiti của Mỹ, giống như mấy bài thơ của các chàng "du sĩ" ghi vội lên tường, có bài được xếp theo kiểu một số bài thơ của e.e. cummings (Mỹ), nghĩa là không những các từ trong một câu bị chặt ra cho xuống hàng, mà các mẫu tự (a,b,c,d),...) trong một từ cũng bị cắt đầu, cắt đuôi cho xuống hàng luôn. Dĩ nhiên, ngoài những cái xác rất lạ kia, cũng có những cái xác bình thường mà chúng ta có thể quan niệm được.

Dù sao đi nữa, trong các bản dịch này, cũng như các bản dịch Việt Nam bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, gần như không có bài nào lột được cái ý thời sự của những cụm từ Hán-Dương thụ và Anh-Vũ châu trong nguyên tác. Hán Dương là một thành phố nằm về phía Bắc địa điểm nơi con sông Hán đổ vào sông Dương tử. Hán là tên một triều đại, cũng là tên để gọi nước Trung Hoa, và cũng là tên để gọi một người Trung Hoa hay một người đáng mặt hảo hán nói chung, như cách dùng của từ Hán tử. Dương là một mặt trong cặp Âm-Dương (yin-yang). Nó có nghĩa là "năng lực sáng tạo", "ánh sáng" (ánh dương), "sự sáng rõ", "tính động"... Bởi thế, Hán-Dương thụ, những cây ở thành phố Hán-Dương soi bóng trên mặt nước, gợi nhắc một cách kín đáo cho ta thấy sức mạnh hoặc cái ánh sáng tiềm tàng soi chiếu khắp chốn của dân tộc Trung Hoa được Thôi Hiệu gói ghém trong bài thơ. Cũng vậy, Anh-Vũ châu và những thảm cỏ thơm mượt (phương thảo thê thê) có một hàm ý văn chương và chính trị trong nó mà khó có bản dịch nào lột tả nổi. Riêng tôi, tôi thích nhất bản dịch của Vũ Hoàng Chương làm sau 30 tháng Tư, 1975, mặc dù tôi cũng rất thích bản dịch của Tản Đà. Bản của Vũ Hoàng Chương thê thiết và xót xa ở bốn câu cuối, nhất là ở hai câu cuối. Những cụm từ còn nắng chiếuchẳng ai chơi nghe ra rất ngậm ngùi. Hai câu cuối thì rõ ràng là Vũ Hoàng Chương đã gửi gấm tâm sự mình, cũng như tâm sự của cả một dân tộc, trong đó.

Tôi chép lại bài dịch thoát của Vũ Hoàng Chương ở đây, sau đó, chép lại 2 trong 35 bản dịch của tập Modern Poetry in Translation, để chúng ta chiêm nghiệm lại thuyết của hai nhà ngôn ngữ Sapir và Whorf, và thấy được cái sức mạnh kỳ diệu của chữ nghĩa, cũng như của những con người sử dụng chữ nghĩa đó.

 

Lầu Hoàng Hạc

 

Xưa hạc vàng bay vút bóng người

Nay lầu hoàng hạc chút thơm rơi

Vàng bay cánh hạc đi đi mãi

Trắng một màu mây vạn vạn đời

Cây bến Hán-Dương còn nắng chiếu

Cỏ bờ Anh-Vũ chẳng ai chơi

Gần xa chiều xuống đâu quê quán?

Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi

(Vũ Hoàng Chương, Sàigòn, Việtnam)

Sau đây là bản dịch của X.J. Kennedy. Một sinh viên xuất thân từ một đại học Mỹ thường là phải biết X.J. Kennedy. Ông nổi tiếng nhờ soạn những cuốn sách giáo khoa có tính cách tổng hợp, dẫn nhập vào truyện và thi ca thể giới. Thuở còn đi học, tôi cũng đã từng say mê những cuốn sách giáo khoa rất đồ sộ và soạn rất công phu của X.J. Kennedy. Tập thơ mới nhất của ông là tập The Phantom Ice Cream Man (Atheneum, 1979). Và đây là bản dịch Hoàng Hạc lâu của ông:

At Brown Crane Pavilion

 

That old god-man rode off on his brown crane.

What's left hehind? This dedicated shack.

A thousand years, hollow white clouds loll by.

Brown crane's long gone. Not likely he'll come back.

By river's glow each leaf struts every vein.

Parrot Island grass – oh, smell it! shed your shoes!

Sun knows its way down home. Wish I knew mine.

Got the mist on the river, waves on the river blues.

(X.J. Kennedy - Bedford, Mass.)

Và cuối cùng, đây là một bản dịch phải nói là... "thần kỳ"! Nếu vừa mê thơ Đường, vừa thích chữ nghĩa ngôn ngữ nói chung, vừa có tính khôi hài, thích nhìn vào những mặt ngộ nghĩnh, bất ngờ và không nghiêm trang của sự vật, sự việc, tôi chắc rằng bạn sẽ thích bài này.

Bởi vì nó "thần kỳ" quá, tôi mạn phép tạm dịch nó sang Việt ngữ và đặt bên cạnh bản dịch Anh Ngữ của Feroz Ahmed-Ud-Din. Ông này sinh ở Pakistan năm 1950 và học tại University of Dacca, Bangladesh. Năm 1975, ông đã xuất bản một tập  thơ, tựa đề là This Handful of Dust. Ông biết tiếng Anh, tiếng Bengali, tiếng Urdu, tiếng Hindi, tiếng Ba-Tư và tiếng Ả-Rập. Ông cũng đã là một thành viên của The International Writing Program tại Đại học lowa năm 1976. Ông đóng góp hai bản dịch cho bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, một bài tựa là Yellow Crane Perch, một bài là Launch Pad. Bài trước dịch sát nghĩa, tầm thường; bài sau rất "hiện đại", tôi xin ghi lại dưới đây.

Quả thật là con người đã sáng tạo và làm chủ ngôn ngữ, và cũng quả thực là ngôn ngữ đã nhận diện con người. Một anh Ấn Độ, học tại Mỹ vào cuối thế kỷ hai mươi, thế kỷ của phi đạn nguyên tử, của hạt nhân hạt đẻ, của dàn phóng, bệ phóng, ống phóng, v.v., thì dĩ nhiên phải dùng ngôn ngữ hôm nay để chuyển đạt ý thơ chứ. Đọc xong bản dịch của anh này, tôi cũng thực băn khoăn là không biết cái anh già kia đã bị bắn đi nơi nao, và tôi cũng muốn “phát điên”. Bạn nào biết tin tức về anh già, xin cho tôi biết với. Thành thật cảm ơn.

Đoạn cuối bài này, viết về chuyện bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu được dịch sang ngôn ngữ hôm nay, đúng ra, là một phần tạp văn có vẻ không có... “liên hệ hữu cơ” với cấu trúc của toàn bài. Nhưng thật ra, bạn bè thân mến, nó là một phần của bài này đấy. Nhìn lại một bài thơ cũ, điều ấy lại làm cho tôi nhớ đến một thuở mộng mơ xa vời, những con đường nhỏ rơi rớt ánh trăng xanh, tiếng nước máy chảy ở đầu ngõ, giọng ca vọng cổ ngân dài hoặc xuống ngọt vào lúc nửa khuya. Nó làm tôi lại muốn gặp lại bạn bè khắp chốn để ngồi nói vu vơ lại những câu chuyện cũ, những câu chuyện đã vương vất trên chúng cái màn sương lam của thời gian, của quá khứ.

Tôi lại muốn, một lần nữa, được xin đi lại từ đầu. Xin cho tôi đi lại từ đầu, từ những ngày xưa trẻ dại.

Bùi Vĩnh Phúc

huntington beach, california

(mồng 10 tháng VII, 1986

nhuận sắc 25 tháng X, 2025)

Ghi chú cập nhật:

[1]  Cuộn băng được nói đến, bây giờ, ở thời điểm hôm nay, tức là vào tháng Mười, 2025, đã được phổ biến rộng rãi qua hệ thống truyền thông của công nghệ hiện đại. Nó được gọi là băng Nhạc Chủ Đề Nguyễn Đình Toàn, với tên đi kèm là Tình Ca 1970. Tuy nhiên, vào tháng Mười, 1986 của bài viết này (đúng hơn là vào trước đó khoảng một hay hai tháng), khi tôi được nhà văn Bùi Bảo Trúc cho nghe, cuốn băng cassette  ấy là một thứ “đồ cổ” rất quý, đươc truyền tay giới hạn trong vòng một vài người bạn văn nghệ trên vùng Hoa Thịnh Đốn.  Đặc biệt trong nhóm nhỏ thân hữu làm việc tại đài VOA ở vùng thủ đô này.

[2]  Cũng giống như trường hợp của băng Nhạc Chủ Đề Nguyễn Đình Toàn, những bài hát “cũ mèm” thời thập niên 1960 này, trong thời khoảng bài viết này được thực hiện vào gần 40 năm trước, là một thứ “của quý”.  Chúng có thể nằm trong những đĩa than 33 hoặc 45 vòng/phút, có lẽ cũng trở nên khó tìm vào thời điểm ấy.  [Các “dĩa hát” này lưu trữ các tín hiệu âm thanh thông qua các rãnh nổi khác nhau trên bề mặt, và, khi nghe, một đầu kim được sử dụng để đọc các rãnh này qua các vòng quay, chuyển đổi thông tin trong rãnh thành âm thanh].  Những bài hát như tôi kể, và đủ thứ tài liệu và thông tin khác, sau này, kể từ đầu năm 2005 trở đi, sau khi YouTube ra đời, thì rất dễ kiếm. Thời đại khác, cuộc sống khác, cũng có thể làm thay đổi cách nhìn, cách sống, cách cảm, và cách… rung động của ta về mọi thứ trong đời.