Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 10 tháng 11, 2025

Ủy ban Pospelov (4)

 Nguồn: https://bessmertnybarak.ru/article/komissiya_pospelova/

Bản dịch của Văn Việt

Pyotr Pospelov

 

Vi phạm luật pháp Liên Xô của Văn phòng công tố trong việc giám sát điều tra tại Dân ủy Nội vụ

Những vi phạm nghiêm trọng luật pháp Liên Xô, bắt giữ hàng loạt người vô tội, đánh đập dã man, tra tấn và hành hạ người bị bắt xảy ra với sự tiếp tay trực tiếp của Văn phòng Công tố Liên Xô. Hơn nữa, một số trường hợp, chính các công tố viên là những người trực tiếp tham gia vào những hành vi trắng trợn nhất bóp méo nền tảng luật pháp xã hội chủ nghĩa, luật pháp và trật tự xã hội Liên Xô.

Tất cả các vụ bắt giữ công dân đều do Dân ủy Nội vụ thực hiện mà không có sự chế tài của công tố viên. Yêu cầu hiến pháp "không ai có thể bị bắt nếu không có lệnh của tòa án hoặc có sự cho phép của công tố viên", đã mất hiệu lực.

Trên thực tế, công tố viên đã không được giám sát việc điều tra án tại các cơ quan Dân ủy Nội vụ. Thẩm vấn bị cáo chỉ có nhân viên Dân ủy Nội vụ; như quy định, công tố viên không được tham gia các cuộc thẩm vấn.

Vai trò của công tố viên trong việc giám sát điều tra chỉ giới hạn ở việc đóng dấu các tài liệu điều tra, phê duyệt cáo trạng và đưa các vụ án ra tòa.

Nhiều sự thật được xác lập lại, thấy rằng cựu Phó công tố viên Liên Xô Roginsky, khi phê chuẩn cáo trạng các vụ án để chuyển đến Tòa án quân sự tối cao Liên Xô xem xét, ngay cả khi bị cáo không bị buộc tội theo Điều 58-8 của Bộ luật hình sự (hành vi khủng bố), đã tùy tiện đưa vào điều này, cố tình tạo ra "cơ sở pháp lý" nhằm áp dụng nghị quyết của Ủy ban Chấp hành Trung ương Liên Xô ngày 1/12/1934, trong đó đơn giản hóa thủ tục tố tụng tư pháp và thi hành án ngay lập tức.

"Sự giám sát của công tố viên" như vậy chỉ giới hạn ở việc "ghi lại" hành vi trả thù khủng bố đối với nhiều người dân Liên Xô trung thực.

Cũng cần phải nói thêm, cựu công tố viên Liên Xô Vyshinsky, cùng với Yezhov, trong cái gọi là "thủ tục đặc biệt" đã kết án hàng chục nghìn người Ba Lan, người Latvia, các cựu nhân viên hãng Đường sắt Đông Bắc Trung Quốc, v.v. "Cặp bài trùng" này trong một ngày đã ban hành hàng trăm bản án tử hình.

Những vi phạm nghiêm trọng luật pháp trong việc giám sát của cơ quan công tố không chỉ diễn ra ở trung tâm mà còn ở các địa phương.

Tài liệu tại Văn phòng Công tố Liên Xô cho thấy một số công tố viên không những không nỗ lực ngăn chặn tình trạng vô luật pháp đang diễn ra trong các cơ quan Dân ủy Nội vụ mà còn thúc đẩy các Chekists hành động tùy tiện.

Cựu trợ lý Tổng công tố quân sự Kalugin là trường hợp như vậy. Khi còn ở Lãnh thổ Viễn Đông vào năm 1938, ông ta đã dạy các nhân viên Dân ủy Nội vụ cách thẩm vấn, tuyên bố: "Các anh không biết cách thẩm vấn, hãy thẩm vấn theo kiểu-Moskva, còng tay anh ta, đánh một trận ra trò và anh ta sẽ cho các anh một tá kẻ chủ mưu." (Hồ sơ cá nhân của luật sư quân sự lữ đoàn Kalugin L.M.).

Cần lưu ý rằng vì làm sai lệch luật pháp Liên Xô, tháng 3/1940 Kalugin đã bị tổ chức Đảng của Viện Kiểm sát Quân sự Tối cao chính khai trừ khỏi Đảng.

Sự tùy tiện của Tòa án Quân sự tối cao Liên Xô

Nhiều sự kiện đã chứng minh rằng Tòa án Quân sự tối cao Liên Xô, khi xem xét các vụ án về tội phản cách mạng năm 1937–38, đã chà đạp lên nền tảng luật pháp, bắt đầu đưa ra các bản án bất hợp pháp.

Năm 1937–38 đã phát triển một kiểu thực hành độc ác, khi Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô, trong lúc hoàn tất việc điều tra các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án Quân sự tối cao Liên Xô, đã xác định trước hình phạt cho bị cáo. Vì mục đích này, Dân ủy Nội vụ đã lập danh sách án xử thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự tối cao Liên Xô. Các danh sách ghi tên của bị cáo đưa ra xét xử và đề xuất trước hình phạt. Yezhov đích thân gửi những danh sách này cho đồng chí Stalin phê chuẩn hình phạt đề xuất. Trong giai đoạn 1937–38, Stalin được gửi 383 danh sách như vậy gồm 44.465 cán bộ cao cấp, gồm đảng viên, đoàn viên cộng sản, quân nhân và chuyên gia kinh tế. Phần lớn họ bị kết án tử hình bằng cách xử bắn.

Sau khi Stalin phê duyệt danh sách, cán bộ Dân ủy Nội vụ, trước khi chuyển án đến Tòa án quân sự, đã ghi chú theo đó hình phạt đã được phê duyệt. Nếu bị cáo phải chịu án tử hình, thì ghi số "1" (loại thứ nhất) vào cáo trạng; nếu bị cáo bị kết án tù, thì số ghi  "2". Các ghi chú này là định hướng cho Tòa án quân sự Tòa án tối cao Liên Xô khi tuyên bố bản án.

Không có sự xem xét tư pháp nào về thực chất các vụ án tại Tòa án quân sự. Thông qua các hình phạt được định trước, Tòa án quân sự máy móc đóng dấu các tài liệu điều tra sơ bộ.

Toàn bộ "phiên tòa" của Tòa án quân sự, bao gồm cả thời gian thông qua và công bố phán quyết, chỉ mất 15-20 phút.

Theo cách đó, Hội đồng Quân sự đã xem xét án chỉ trong 20 phút và tuyên án tử hình: Phó Chủ tịch Hội đồng Dân ủy Liên Xô Mezhlauk, Dân ủy Công nghiệp Quốc phòng Rukhimovich, Dân ủy Giáo dục Bubnov, Bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Ukraine Popov, Trưởng phòng Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Stetsky và nhiều, rất nhiều người khác.

Một ví dụ nổi bật về sự tùy tiện đối với pháp luận của Hội đồng Quân sự là vụ án Smirnova Lidiya Nikolaevna.

Lý do duy nhất khiến Smirnova bị bắt và kết án là từ năm 1920 cho đến ngày bị bắt, bà là vợ của cựu thư ký Ủy ban Đảng khu vực Azov-Biển Đen B.P.Sheboldayev, người bị buộc tội là thành viên của một tổ chức chống Liên Xô. (Như xác định lại, Sheboldayev bị kết án vô căn cứ). Trong quá trình điều tra sơ bộ, Smirnova kiên quyết phủ nhận mọi thông tin về hoạt động chống Liên Xô của Sheboldayev. Không có bằng chứng nào cho thấy Smirnova có tội trong vụ án này.

Tại Tòa án quân sự của Tòa án tối cao Liên Xô, Smirnova cũng tuyên bố rằng "bà không thừa nhận bất kỳ tội lỗi nào, bà không nghi ngờ Sheboldayev có hoạt động phản cách mạng".

Mặc dù hoàn toàn không có căn cứ nào, Smirnova vẫn bị Tòa án quân sự tuyên án tử hình. Khi Smirnova bị bắt, bà để lại ba đứa con trai – mười hai tuổi, hai tuổi rưỡi và hai tháng tuổi.

Khi xem xét các vụ án hình sự, Hội đồng Quân sự hoàn toàn phớt lờ lời giải thích của bị cáo. Một cách hình thức, họ cần làm rõ vấn đề thừa nhận hay không thừa nhận tội lỗi của các bị cáo, Tòa án Quân sự trong mọi trường hợp đều đưa ra phán quyết có tội.

Cựu Bí thư Ban Chấp hànhTrung ương Đảng Cộng sản (Bolshevik) Kazakhstan, thành viên Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô L.I.Mirzoyan, trước Hội đồng Quân sự đã tuyên bố: "... [rằng] tội lỗi duy nhất của ông là đã khai man trong quá trình điều tra... Ông đã phục vụ Đảng và nhân dân một cách trung thực trong 22 năm, không hề dính líu đến Bukharin, Rykov và những người cánh hữu khác... Bây giờ ông không thể nói dối, và trước khi chết, yêu cầu tòa án tin rằng ông chưa bao giờ phản bội lợi ích của Đảng. Ông không sợ chết, nhưng sợ phải chết một cách đáng xấu hổ của người mang danh kẻ thù nhân dân, điều mà ông không bao giờ làm." (Vụ án Mirzoyan, tập I).

Đạp đổ nền tảng công lý, Hội đồng Quân sự đã tuyên án tử hình Mirzoyan mà không hề xác minh. Mirzoyan hiện đã được phục hồi danh dự.

Kalygina A.S., cựu ứng cử viên cho chức ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, vào Đảng từ năm 1915, trong quá trình điều tra sơ bộ và trong phiên tòa xét xử, đã kiên quyết phủ nhận cáo buộc đối với bà. Mặc dù vậy, Hội đồng Quân sự xem xét vụ án của bà trong vòng 20 phút và tuyên án tử hình.

Hiện thời đã xác định, những cáo buộc bà là ngụy tạo và bà bị kết án vô căn cứ.

  1. K. Pramnek, cựu ứng cử viên cho chức ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, thư ký Ủy ban Đảng khu vực Donetsk, không nhận tội tại tòa, nhưng Hội đồng Quân sự của Tòa án tối cao Liên Xô, sau khi xem xét vụ án trong vòng 20 phút, đã tuyên án tử hình Pramnek.

Hiện thời đã xác minh, Pramnek bị kết án mà vô căn cứ, dựa trên các tài liệu giả mạo.

Là đảng viên từ năm 1899, A.V. Shotman là đại biểu tham dự các đại hội Đảng lần thứ 2, 6, 7, 8, 11, 14, 15, 16 và 17; năm 1917 ông đích thân tổ chức đưa V.I. Lenin sang Phần Lan. Trong một lá thư gửi Altfater ngày 25/4/1918, V.I. Lenin viết: "Người nộp đơn là đồng chí Shotman, một đồng chí kì cựu của Đảng, cá nhân tôi biết rõ và đáng tin tưởng tuyệt đối." (Tài liệu từ cuộc điều tra của Shotman).

Tháng 6/1937, Shotman bị bắt với cáo buộc tham gia vào một tổ chức khủng bố chống Liên Xô. Tại tòa, Shotman không nhận tội, nhưng Hội đồng Quân sự đã tuyên án tử hình mà không cần bất kỳ điều tra nào. Tháng 12/1955, đã xác định vụ án này là giả mạo và Shotman đã được phục hồi danh dự.

Sự kiện cho thấy sự tùy tiện như vậy có rất nhiều.

Có những sự kiện được xác định lại, cho thấy Hội đồng Quân sự thuộc Tòa án tối cao Liên Xô đưa ra mức tuyên án qua điện tín.

Cựu thành viên Hội đồng Quân sự của Tòa án tối cao Liên Xô Nikitchenko (hiện là thiếu tướng đã nghỉ hưu), trong lúc dẫn đầu một cuộc họp tư vấn ở Viễn Đông, không hề xem xét các vụ án, đã tuyên 102 bản án qua điện tín.

Cũng chính Nikitchenko, khi đang ở Viễn Đông, không những không vạch trần việc ngụy tạo hàng loạt vụ án ở đó do các cơ quan Dân ủy Nội vụ tiến hành, mà ngược lại, còn dung túng việc giả mạo và góp phần triển khai nó trong hoạt động của bộ máy Dân ủy Nội vụ.

Trong Ban lãnh đạo Dân ủy Nội vụ Vùng Viễn Đông có một hệ thống được cân nhắc kỹ lưỡng nhằm "chuẩn bị" những người bị bắt cho các phiên tòa của Hội đồng Quân sự. Nikitchenko, người khuyến khích hành vi phạm tội này, cũng biết hệ thống đó. Cựu nhân viên Dân ủy Nội vụ Vyshkovsky khai: “... Việc mớm cung cho người bị bắt và xử lý trước Tòa án quân sự là phổ biến. Chúng tôi được thông báo phải chuẩn bị người để lên Tòa án quân sự có được xác nhận lời khai. Chính chủ tịch phiên họp tư vấn Tòa án quân sự, Nikitchenko, đã nói về điều này.” (Vụ án Vyshkovsky S.L., Tập 20, trang 446).

Cựu nhân viên Dân ủy Nội vụ Dmitriev đã khai về “kỹ thuật” xem xét tư pháp xét xử án của Tòa án quân sự: “...Nếu tại tòa bị cáo từ chối lời khai đã đưa ra trong quá trình điều tra, anh ta sẽ bị lôi cổ khỏi phòng xử án, nếu xác nhận lời khai của mình, anh ta sẽ được dẫn ra ngoài một cách êm thấm. Điều này được thực hiện trước mặt trợ lý của Tổng công tố viên quân sự, trước mặt chủ tịch và các thành viên của Tòa án Quân sự.” (Vụ án Dmitriev P.P., Tập 13, trang 95).

Mochalov, cựu giám đốc sở Dân ủy Nội vụ vùng Primorsky Territory, bị kết án năm 1940 vì làm giả hồ sơ án tử hình, đã khai trước tòa: “... Tôi thậm chí còn sợ phải nhớ lại những gì chúng tôi đã làm. Tôi hiểu mọi thứ trong những ngày này, nhưng tại sao chúng tôi lại làm như vậy và làm thế vì ai thì tôi không thể nói.

... Tại một cuộc họp Hội đồng Quân sự, một bị cáo tuyên bố rút lại lời khai của mình do bị đánh đập. Thẩm phán chủ tọa, Nikitchenko đã nói với anh ta: "Cái gì, anh muốn người ta cho anh thêm sao?" Tất cả vụ án của những người bị đánh đập đều được đưa ra xét xử tại Hội đồng Quân sự. Sau đó, tôi một lần nữa tin rằng việc đánh đập là được phép. Tại cuộc họp thứ hai của Hội đồng Quân sự, người ta báo cáo là có nhiều người hơn bị đánh đập...” (Vụ án Mochalov).

Tất cả những sự thật này cho thấy Hội đồng Quân sự thuộc Tòa án tối cao Liên Xô, từ cơ quan tư pháp cao nhất được ủy quyền bảo vệ tính hợp pháp của Liên Xô, đã biến thành tòa án thực hiện các cuộc trả thù đối với hàng nghìn người dân Liên Xô.

Về việc xem xét các vụ án ngoài vòng pháp luật

Hàng loạt vi phạm luật pháp Liên Xô được thực hiện qua hệ thống tuyên án của các bộ ba, nằm trong ủy ban Dân ủy Nội vụ phòng Công tố Liên Xô và Hội nghị Đặc biệt Dân ủy Nội vụ Liên Xô.

Phần lớn những người bị bắt đều bị kết án bởi bộ ba trong Văn phòng Ủy ban Nội vụ Nhân dân và Bộ Dân ủy Nội vụ – các cơ quan tồn tại đến tháng 11/1938.

Hơn nữa, bộ ba này và các ủy ban được trao quyền quyết định bất kỳ mức độ trừng phạt nào, kể cả xử bắn. Trên thực tế, hai cơ quan này được đặc biệt thành lập cho việc hành quyết những người bị bắt ở quy mô lớn nhất.

Các bộ ba, Ủy ban và Hội nghị Đặc biệt là những thuận tiện cho những kẻ ngụy tạo án vì chỉ xem xét án theo danh sách, không triệu tập bị cáo và nhân chứng, cũng không kiểm tra bằng chứng do điều tra viên thu thập được.

Cùng với bộ ba, cái gọi là "bộ đôi" tên chính thức của ủy ban Dân ủy Nội vụ và Phòng Công tố Liên Xô, đã hoạt động tích cực trong các năm 1937, 1938. Ủy ban này được đặc biệt thành lập để tiêu diệt những người bị bắt trong các chiến dịch quần chúng.

Các cơ quan Dân ủy Nội vụ địa phương lập báo cáo ngắn gọn về từng người bị bắt trong các chiến dịch quần chúng, trong đó chỉ nêu dữ liệu cá nhân người bị bắt và lời cáo buộc ngắn gọn. Các báo cáo này được gửi đến Moskva và được các nhân viên Dân ủy Nội vụ Liên Xô xem xét.

Dựa trên các báo cáo này người ta lập một danh sách cùng chỉ dẫn các biện pháp trừng phạt. Sau khi danh sách được Yezhov hoặc Frinovsky (từ Dân ủy Nội vụ) và Vyshinsky hoặc Roginsky (từ Văn phòng Công tố) ký, các quyết định  được thực hiện ngay lập tức.

Đạp đổ nền tảng pháp lý Liên Xô, ủy ban Dân ủy Nội vụ và Công tố viên Liên Xô đã ban hành quyết định xử bắn hàng chục nghìn công dân Liên Xô.

Quy mô đàn áp do cái gọi là “bộ đôi” tiến hành, được chứng minh bằng hành động sau đây

Chỉ trong ngày 29/12/1937, Yezhov và Vyshinsky, sau khi xem xét danh sách 1.000 người, chỉ do Dân ủy Nội vụ Khu vực Leningrad đệ trình về cáo buộc tội làm gián điệp cho Latvia, đã tuyên án tử hình 992 người. Tuy nhiên, đây chưa phải là giới hạn. Ngày 10/1/1938, "bộ đôi" xem xét danh sách 1.667 người, ngày 14/1 – 1.569 người, ngày 15/1 – 1.884 người, ngày 16/1 – 1.286 người, ngày 21/1 – 2.164 người.

Khi bị bắt, Shapiro, cựu giám đốc Dân ủy Nội vụ Liên Xô, đã khai về tình hình chuẩn bị danh sách để "bộ đôi" xem xét: "... Cho đến tháng 3/1938, tất cả báo cáo điều tra về các chiến dịch quần chúng đều do… Tsarsky và Minaev xem xét, thay mặt cho Yezhov. Các vụ án mà họ xem xét... được hình thức hóa thành biên bản, được Ủy viên Nhân dân tự động ký mà không cần bất kỳ xác minh nào, thậm chí không cần đọc, và cũng được công tố viên ký một cách máy móc. Sau khi Tsesarsky rời đi (đến thời điểm này đã có hơn 100 nghìn vụ án điều tra), các trưởng phòng ban bình thường xem xét các vụ án. Tuy nhiên, tình hình không thay đổi mà còn tệ hơn. Các trưởng phòng ban coi vụ án là gánh nặng quá sức và cố gắng xem xét không dưới 200-300 hồ sơ trong một buổi tối. Thực chất, đây là việc đóng dấu vào hồ sơ mà không phản biện, và mọi người bị kết án 10 năm tù hoặc tử hình.

Việc xem xét án được hình thức hóa bằng các biên bản, trình lên Yezhov hoặc Frinovsky (từ Ủy ban Nhân dân) hoặc Vyshinsky và Roginsky (từ Văn phòng Công tố), những người này ký quyết định mà không đọc hoặc kiểm tra" (Vụ án Shapiro).

Về hoạt động của Hội nghị Đặc biệt, có thể khẳng định chắc chắn rằng nó bổ sung cho hệ thống đàn áp ngoài vòng pháp luật và chỉ khác với bộ ba và "bộ đôi" ở chỗ nó là một cơ quan thường trực.

Tại cuộc họp ngày 31/12/1955, Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã bổ nhiệm một ủy ban xem xét vấn đề đàn áp hàng loạt đảng viên và các ứng cử viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik), những người được bầu bởi Đại hội Đảng lần thứ 17. Ủy ban này trình lên Đoàn chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô xem xét tài liệu xác thực được nêu ở trên.

Chúng tôi đã đích thân kiểm tra tài liệu có tính cơ sở cho phần báo cáo này. Ủy ban đã mời các đảng viên có liên quan sau đây làm công tác chuẩn bị tài liệu: từ Ủy ban An ninh Nhà nước, đồng chí I.A. Serov (ủy viên Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1926), Trưởng ban Bí thư KGB đồng chí Dobrokhotov (ủy viên Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1932); trưởng phòng Kế toán và Lưu trữ KGB đồng chí Pletnev (ủy viên Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1939); Trưởng ban Thanh tra Đặc biệt KGB đồng chí Kallistov (đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1940); từ Văn phòng Công tố viên Liên Xô – Phó Tổng công tố viên quân sự đồng chí Terekhov (đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1943).

Tính bảo mật cần thiết đã được đảm bảo trong quá trình chuẩn bị tài liệu và in ấn các ghi chép này.

Ngoài phạm vi những sự thật đã được làm sáng rõ, chúng tôi cho rằng cần phải báo cáo với Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô một số kết luận cơ bản mà ủy ban đã đạt được trong giai đoạn nghiên cứu vấn đề mà chúng tôi được ủy quyền.

Theo chúng tôi, có hai bối cảnh đóng vai trò then chốt có tính định trước trong việc đàn áp hàng loạt đối với một số lượng lớn công dân Xô-viết trung thực, gồm hàng chục nghìn cán bộ Đảng, nhà nước Xô-viết, chuyên gia kinh tế và quân sự.

Thứ nhất

Vụ sát hại tàn nhẫn S. M. Kirov đã tạo dẫn cái cớ cho phép sử dụng đàn áp hàng loạt và vi phạm pháp luật chủ nghĩa xã hội. Ngay tối ngày 1/2/1934, ngay sau vài giờ vụ sát hại S.M.Kirov, biên bản số 112,  với chữ ký duy nhất của Thư ký Đoàn chủ tịch Ủy ban điều hành Trung ương toàn Nga A. Yenukidze, được chính thức hóa thành Nghị định sau:

1) Cho phép các cơ quan điều tra – tiến hành xét xử những người bị cáo buộc chuẩn bị hoặc thực hiện các hành vi khủng bố chớp nhoáng;

2) Cho phép các cơ quan tư pháp – không trì hoãn thi hành án tử hình đang có đơn xin ân xá của những tên tội phạm thuộc loại này, vì Đoàn chủ tịch Ủy ban điều hành Trung ương Liên Xô không chấp nhận xem xét các đơn xin như vậy;

3) Cho phép các cơ quan Ủy ban Nội vụ Nhân dân – thi hành án tử hình đối với những tội phạm thuộc các loại nêu trên ngay sau khi tòa án ra phán quyết." (Đăng trên tờ Pravda ngày 4/12/1934, như nghị quyết của Ủy ban Chấp hành Trung ương Liên Xô, được thông qua tại cuộc họp ngày 1/12/1934).

Chỉ đến ngày 3/12/1934, nghị quyết này của Ủy ban Chấp hành Trung ương Liên Xô mới được các thành viên Bộ Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) đưa ra biểu quyết (bằng hình thức bỏ phiếu kín).

Nghị quyết đó của Ủy ban Chấp hành Trung ương Liên Xô ngày 1/12/1934, như đã mô tả ở trên, đã mở đường cho các hàng loạt hành vi vi phạm luật pháp chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai

Các cuộc đàn áp hàng loạt lan rộng bắt đầu vào cuối năm 1936, sau bức điện tín của Stalin và Zhdanov từ Sochi vào ngày 25/9/1936, gửi cho Kaganovich, Molotov và các thành viên khác của Bộ Chính trị, tuyên bố như sau: "Chúng tôi coi việc bổ nhiệm đồng chí Yezhov vào chức vụ Ủy viên Nội vụ Nhân dân là một vấn đề hoàn toàn cần thiết và cấp bách. Rõ ràng là Yagoda không đủ khả năng vạch trần khối Trotsky-Zinoviev. Tổng cục Chính trị Liên bang đã chậm 4 năm trong vấn đề này. Tất cả các đảng viên và hầu hết các đại diện Bộ Dân ủy Nội vụ các khu vực đều cho là vậy."

Chỉ thị của Stalin cho rằng "Bộ Dân ủy Nội vụ đã chậm 4 năm" trong việc sử dụng trấn áp hàng loạt, rằng cần phải nhanh chóng "bù đắp" thời gian đã mất, trực tiếp thúc đẩy các cán bộ Dân ủy Nội vụ vào cuộc bắt giữ và hành quyết hàng loạt.

Phải nói rằng chỉ thị này cũng được gắn với Hội nghị toàn thể tháng 2-tháng 3 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik) diễn ra năm 1937. Trong Nghị quyết của Hội nghị toàn thể về báo cáo của Yezhov "Bài học về phá hoại, lật đổ và do thám của các điệp viên Nhật-Đức-Trotsky" nêu rõ: "Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik) cho rằng mọi hành vi bị phát hiện trong quá trình điều tra các vụ án bè lũ Trotsky chống phá Liên Xô ở các địa phương cho thấy Ủy ban Nội vụ Nhân dân đã chậm trễ ít nhất 4 năm trong việc vạch trần những kẻ thù tệ hại nhất của nhân dân".

Trong báo cáo của I.V. Stalin tại Hội nghị toàn thể tháng 2-tháng 3 Ban Chấp hành Trung ương có một điều khoản có vẻ kỳ lạ và khó hiểu, mà rõ ràng vào thời điểm đó không ai chú ý, nhưng giờ đây lại có ý nghĩa và tầm quan trọng hết sức đặc biệt khi xét đến những gì đã xảy ra với thành phần Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik), được bầu tại Đại hội lần thứ 17.

Báo cáo chỉ ra nhu cầu thành lập một "Hội nghị về Chính sách đối nội và đối ngoại" trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik), kéo dài trong vòng sáu tháng. Đến dự hội nghị là các bí thư thứ nhất của các tổ chức tỉnh thành, khu vực và các ủy ban trung ương các đảng cộng sản các nước cộng hòa. Trong báo cáo của mình, I.V. Stalin nói : "Những đồng chí này phải cung cấp không chỉ một mà là nhiều sự thay đổi có khả năng thay thế các lãnh đạo Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta. Điều này là cần thiết và phải được thực hiện."

Câu hỏi đặt ra là: tại sao I.V. Stalin lại cảm thấy cần phải chuẩn bị "nhiều sự thay đổi" cho việc thay thế các nhà lãnh đạo Ban Chấp hành Trung ương vào năm 1937? Rõ ràng là ngay khi đó, ông ta đã ấp ủ ý tưởng thay thế thành phần của Ban Chấp hành Trung ương được bầu tại Đại hội lần thứ 17. Và "sự thay thế" thành phần Ban Chấp hành Trung ương này thực sự đã được tiến hành, nhưng không phải thông qua con đường dân chủ Đảng thông thường, mà thông qua đàn áp tùy tiện hàng loạt và, như hiện nay đã rõ ràng, hoàn toàn vô căn cứ đối với 70% thành viên Ban Chấp hành Trung ương được bầu tại Đại hội lần thứ 17, bao gồm một số thành viên và ứng cử viên của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương.

Tại Hội nghị toàn thể tháng 2-tháng 3 của Ban Chấp hành Trung ương, một số thành viên Ban Chấp hành Trung ương phát biểu bày tỏ nghi ngờ về tính đúng đắn của kế hoạch đàn áp hàng loạt dưới chiêu bài đấu tranh chống “những kẻ hai mang”.

Những nghi ngờ này được thể hiện rõ nhất trong bài phát biểu của đồng chí P.P.Postyshev. Đồng chí nói: "Tôi lập luận thế này: những năm tháng đấu tranh gian khổ đã qua, những đảng viên thối nát đã suy sụp hoặc chuyển sang phe địch, những người vững vàng chiến đấu vì sự nghiệp của Đảng. Đây là những năm tháng công nghiệp hóa, tập thể hóa. Tôi không bao giờ tưởng tượng rằng, sau khi trải qua giai đoạn khó khăn ấy, Karpov và những người giống ông lại về với phe địch. Nhưng theo khai báo, Karpov bị cho là đã được phe Trotsky chiêu mộ từ năm 1934. Cá nhân tôi nghĩ rằng vào năm 1934, thật khó tin khi một đảng viên vững vàng, từng trải qua chặng đường dài đấu tranh khốc liệt với kẻ thù vì sự nghiệp của Đảng, vì chủ nghĩa xã hội, lại theo phe địch. Tôi không tin điều đó.

...Tôi không thể tưởng tượng nổi làm sao một người từng cùng Đảng trải qua những năm tháng khó khăn rồi sau đó vào năm 1934 lại chuyển sang phe Trotsky. Thật kỳ lạ...".

Liệu có phải bài phát biểu táo bạo, theo kiểu Bolshevik này của P.P. Postyshev, là lý do thực sự dẫn đến cái chết của ông?

Nghị quyết của Hội nghị toàn thể tháng 2-tháng 3 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) về báo cáo của Yezhov đã bị những kẻ thù của nhân dân và những kẻ theo chủ nghĩa cơ hội lợi dụng để che đậy hành động khủng bố hàng loạt, nhân danh Đảng, nhằm vào cán bộ Đảng và nhà nước Xô-viết cũng như công dân Liên Xô bình thường. Số người bị bắn năm 1937 tăng gần 300 lần so với năm 1935!

Điều này xảy ra trong giai đoạn mà những cán bộ chủ chốt phe Trotskyist và cánh hữu đã bị trấn áp từ năm 1935-1936 và nửa đầu năm 1937. Vì những cáo buộc "hai mang giả dối", những lời vu khống đủ loại, những "lời khai" sai sự thật do bị đánh đập dã man, nhiều cán bộ của Đảng và Nhà nước Xô-viết bị đàn áp. Đó là những người từng giành chiến thắng trước bọn can thiệp và Bạch vệ, những người từng bảo vệ, từng tích cực đấu tranh vì sự nghiệp của Đảng, vì sự nghiệp chủ nghĩa xã hội trong những năm khó khăn nhất của công nghiệp hóa và tập thể hóa, những người từng đấu tranh tích cực chống lại những người cánh hữu, những người theo chủ nghĩa Trotsky, Zinoviev.

Sự nghi ngờ bệnh hoạn ngày càng lan rộng, sự ngờ vực lẫn nhau được gieo rắc giữa những người cộng sản trong các tổ chức Đảng.

Một số cải thiện trong các tổ chức Đảng được thực hiện nhờ các quyết định của Hội nghị toàn thể tháng 1 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik) năm 1938. Nhưng các cuộc đàn áp hàng loạt vẫn tiếp tục cho đến năm 1939.

Khi làn sóng đàn áp hàng loạt vào năm 1939 bắt đầu suy yếu, khi lãnh đạo của các tổ chức Đảng địa phương bắt đầu đổ lỗi cho nhân viên Dân ủy Nội vụ sử dụng vũ lực với người bị bắt, cho việc đó là tội ác, ngày 10/1/1939 Stalin đã gửi một bức điện mật cho thư ký các ủy ban khu vực và tỉnh thành, Ban Chấp hành Trung ương đảng cộng sản các nước cộng hòa, các ủy viên nhân dân phụ trách vấn đề nội bộ và những người lãnh đạo Dân ủy Nội vụ. Bức điện này nêu rõ:

“Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik) giải thích: việc sử dụng vũ lực của Dân ủy Nội vụ từ năm 1937 đã có sự cho phép của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik)... Ai cũng rõ, tất cả các cơ quan tình báo tư sản đều sử dụng vũ lực chống lại đại diện của giai cấp vô sản xã hội chủ nghĩa, và hơn nữa, sử dụng nó theo những hình thức ghê tởm nhất. Câu hỏi đặt ra là tại sao tình báo xã hội chủ nghĩa lại phải nhân đạo hơn trong đối xử với những điệp viên lọc lõi của giai cấp tư sản, kẻ thù không đội trời chung của giai cấp công nhân và nông dân tập thể. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik) cho rằng phương thức vũ lực phải được sử dụng trong tương lai, như một ngoại lệ, đối với những kẻ thù rõ mặt và không chịu đầu hàng, như một phương pháp hoàn toàn đúng đắn và phù hợp”.

I.V. Stalin sau đó đề nghị các công tố viên địa phương giám sát cuộc điều tra tại các cơ quan Dân ủy Nội vụ và các chủ tịch tòa án khu vực, tỉnh thành, các nước cộng hòa cần biết nội dung bức điện tín này.

Như thế, những hành vi đáng xấu hổ nhất vi phạm pháp luật chủ nghĩa xã hội, những cuộc tra tấn tàn bạo nhất, như đã trình bày ở trên, dẫn đến việc vu khống hàng loạt những người vô tội, đã được I.V. Stalin chấp thuận hai lần (vào năm 1937 và 1939) thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik).

Trong lịch sử nửa thế kỷ của Đảng ta, có những trang thử thách khắc nghiệt, nhưng không có trang nào khốc liệt và cay đắng hơn những cuộc đàn áp hàng loạt năm 1937-1938, điều này không thể biện minh bằng bất cứ điều gì.

Cuộc khủng bố đỏ hàng loạt nhằm vào giai cấp tư sản và các giai cấp thù địch khác trong những năm 1918–1919 hoàn toàn có lý về mặt lịch sử, khi số phận của nước Cộng hòa Xô-viết non trẻ nhiều lần ngàn cân treo sợi tóc, khi chúng ta tiến hành một trận chiến khó khăn, chết chóc với đế quốc can thiệp và Bạch vệ, với các cuộc nổi loạn của kulak, v.v. Nhưng không gì có thể biện minh cho hàng loạt nỗi kinh hoàng của nhiều người dân Xô-viết lương thiện, nhiều cán bộ của Đảng và nhà nước Xô-viết – và nỗi kinh hoàng diễn ra khi chủ nghĩa xã hội đã thắng thế ở đất nước chúng ta, khi công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và tập thể hóa nông nghiệp đã được thực hiện thành công, giai cấp tư sản cuối cùng là bọn kulak đã bị đán bại, khi bè lũ Trotsky, Zinoviev và phe cánh hữu đã bị đánh bại, khi nền tảng xã hội của chúng – các giai cấp bóc lột – cũng đã bị đánh bại.

Các sự kiện năm 1937–1938 gây ra thiệt hại to lớn cho uy tín quốc tế của đất nước chúng ta. Thiệt hại gây ra cho đội ngũ quân nhân trong các cuộc đàn áp hàng loạt là một trong những lý do khiến chúng ta thất bại trong cuộc chiến tranh Phần Lan, những thất bại này đã khuyến khích Hitler và góp phần đẩy nhanh cuộc tấn công của Hitler vào Liên Xô.

Sau khi Yezhov bị cách chức và kết án, Beria và bè cánh của ông ta về cơ bản vẫn tiếp tục chính sách thù địch tiêu diệt các cán bộ Đảng và Nhà nước Xô-viết.

Làm sao kẻ thù của Đảng, những kẻ đã xâm nhập vào ban lãnh đạo Dân ủy Nội vụ, có thể sử dụng các cơ quan này để chống lại Đảng, chống lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo Đảng?

Điều này có thể xảy ra, như nhiều sự kiện và tài liệu cho thấy, chủ yếu là vì Ban Chấp hành Trung ương Đảng, với tư cách một cơ quan tập thể, đã bị loại sức ảnh hưởng đến các cơ quan Dân ủy Nội vụ.

Những hành động đáng xấu hổ diễn ra trong khuôn khổ các cơ quan Dân ủy Nội vụ có sự chấp thuận và thậm chí là "vì lợi ích của Đảng". Trên thực tế, chúng được thực hiện để làm hài lòng một người, và đôi khi theo chỉ thị trực tiếp của người đó (ví dụ, hãy xem bức điện tín mật ngày 10/1/1939).

Đó chính là "tệ sùng bài cá nhân", xa lạ với tinh thần Marx, tinh thần Lenin, được tạo ra bởi sự ca ngợi và tôn vinh vô hạn dành cho I.V. Stalin.

Vladimir Ilyich Lenin đã rất đúng khi ông cảnh báo Đảng: "Đồng chí Stalin, sau khi trở thành Tổng Bí thư, đã tập trung quyền lực to lớn vào tay mình, và tôi không chắc liệu đồng chí có thể luôn luôn sử dụng quyền lực này một cách thận trọng hay không".

Chúng tôi đính kèm các tài liệu sau vào báo cáo:

  1. Bức điện tín của I.V. Stalin ngày 10/1/1939.

2. Giấy chứng nhận ủy quyền của I.V. Stalin về việc xử tử 138 cán bộ lãnh đạo.

3. Bức thư của bị cáo Eikhe gửi cho I.V. Stalin.

Pospelov, A. Aristov, N. Shvernik, P. Komarov