Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 13 tháng 7, 2025

Đọc sách ngày Chủ Nhật: Oswald Spengler – Kỹ thuật và bản chất con người

 Dương Thắng

Oswald Spengler. Con người và Kỹ thuật: Một đóng góp cho triết học đời sống (nguyên tác Đức ngữ: Der Mensch und Technik. Bản dịch Pháp ngữ: L’homme et la Technique). NXB Khoa học Xã hội, 2022.

Đã có rất nhiều ngộ nhận về cuốn sách Con người và kỹ thuật, một đóng góp cho triết học đời sống của Oswald Spengler. Có người cho rằng đó chỉ như một phụ lục sơ sài cho cuốn Phương Tây thời mạt vận, tác phẩm nổi tiếng được Spengler xuất bản trước đó; lại có người coi đây tương tự như những lời tố cáo của các nhà bảo vệ môi trường về sự nguy hiểm của nền kỹ trị liều lĩnh của con người.

Trên thực tế Con người và kỹ thuật đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong những suy ngẫm của Spengler về văn hóa – trong cuốn sách, ông trình bày một dạng triết học nhân học dung hòa giữa công nghệ với bản chất con người, và đưa ra gợi ý về những cách mà một nền văn hóa đang khủng hoảng và bế tắc có thể khai thác/tận dụng kỹ thuật để bù đắp cho sự teo tóp dần dần của chúng.

Được xuất bản vào năm 1931, cuốn sách là một văn bản quan trọng của Oswald Spengler nhưng đã bị lãng quên gần một thế kỷ. Sự quan tâm của giới học thuật đối với Spengler có xu hướng tập trung vào lý thuyết lịch sử văn hóa trước đó của ông và những chẩn đoán bi quan về “số phận” của nền văn minh phương Tây được trình bày trong cuốn Phương Tây thời mạt vận (1918). Các triết gia lại càng tỏ ra ít quan tâm hơn đến Spengler, họ coi ôngchỉ là một nhà sử học nghiệp dư hoặc đơn giản là một nhân vật chưa có đủ có tầm vóc triết học.

Nếu như trong thời kỳ đầu âm điệu chủ đạo trong các tác phẩm của Spengler là những suy đoán và tiên tri nghiệt ngã về lịch sử thì vào cuối sự nghiệp của mình, ông đã tìm cách hóa giải những chỉ trích chống lại thuyết quyết định luận lịch sử và chủ nghĩa bi quan về văn hóa[1] của mình bằng cách viện dẫn tới kỹ thuật. “Kỹ thuật” ở đây được hình thành như một lực lượng văn hóa và siêu hình đặc biệt, lực lượng đại diện tiêu biểu nhất cho năng lực nhận thức và sáng tạo của con người, chúng được tạo ra theo cái cách để “bản thể của kỹ thuật” có thể liên kết được với “linh hồn của con người”. Bằng cách đó, Spengler đã tìm cách dung hòa công nghệ với bản chất con người trong một nền triết học nhân học nguyên bản.

Việc không đánh giá đúng tầm quan trọng của kỹ thuật là một bức xúc chung của một số người cùng thời với Spengler. Năm 1930, Walter Benjamin đã cảnh báo chống lại những người ca ngợi “công nghệ và vật chất” là “sự mặc khải cao nhất của sự tồn tại”. Ông nhấn mạnh rằng “chân trời của họ rực lửa nhưng rất hạn hẹp” vì nó thiếu chiều sâu đạo đức hoặc tâm linh; kết quả là, “công nghệ của họ đã định hình nên bộ mặt khải huyền của tự nhiên” dẫn đến việc “hàng triệu cơ thể con người... bị sắt và khí gas nhai nát.”[2]

Stefan Zweig, gần hơn với Spengler, vào năm 1925 đã mô tả về “sự đơn điệu hóa của thế giới”. Sự biến đổi không ngừng của xã hội dưới tác động của công nghệ khiến mọi thứ bị san phẳng thành một lược đồ văn hóa giản đơn: “hương thơm tinh tế của cái đặc thù trong các nền văn hóa đang bốc hơi, những tán lá đầy màu sắc bị tước bỏ với tốc độ ngày càng nhanh, chỉ còn những pít-tông màu xám thép của các chuyển động cơ học của cỗ máy thế giới hiện đại”[3].

Những mối nguy hiểm do công nghệ gây ra vì thế là muôn hình vạn trạng, từ khả năng hủy diệt đến sự đồng nhất văn hóa của các xã hội dưới sự áp chế hay cưỡng bức của tính duy lý mà Max Weber coi đó là “số phận” của thời đại chúng ta. Tuy nhiên, dù nguy hiểm đến đâu thì nguyên nhân cũng giống nhau: không đánh giá đúng “bản chất” của kỹ thuật. “Công nghệ” không chỉ là một tập hợp các thiết bị điện và cơ khí, mà còn là một lực lượng văn hóa mạnh mẽ, chừng nào nó còn không bị kiểm soát, nó sẽ còn đe dọa tiêu diệt con người và nền văn hóa trong cơn bùng nổ điên cuồng của các thiết bị, máy móc và các quy trình kỹ thuật.

Phơi bày “bản chất của kỹ thuật” và giải thích tầm quan trọng của nó đối với bản chất con người – và nói rộng ra là đối với văn hóa – đó là mục đích chính của tiểu luận Con người và kỹ thuật của Spengler. Sự bành trướng không ngừng của kỹ thuật vào trong đời sống văn hóa và chính trị của nước Đức Quốc Xã những năm 1930, sự tôn sùng của Goebbels và những tên Quốc xã khác dành cho chế độ Quốc Xã, một “thời đại vừa lãng mạn, vừa rắn như thép” (tuyên bố của Goebbels) đã làm tăng thêm cảm giác bi quan và củng cố niềm tin vào thuyết tất định luận lịch sử của Spengler.

Giống như Heidegger, người tiếp bước sau ông, Spengler coi việc phân tích kỹ thuật không chỉ đơn thuần là một nghiên cứu lịch sử hay triết học, mà còn là một dự án văn hóa và chính trị mang tính phê phán; do đó tác phẩm Con người và kỹ thuật bắt đầu bằng việc nêu rõ “vấn đề của kỹ thuật và mối quan hệ của nó với Văn hóa và Lịch sử”. Vấn đề này sẽ phải được giải quyết từ những góc nhìn đủ rộng lớn. Dẫu rằng kiến thức có được hầu hết là do tự học và không sở hữu bằng cấp hay địa vị học thuật cao, Spengler vẫn là một nhà tư tưởng vĩ đại và táo bạo: ông coi sự nghiệp của mình là tìm ra “lịch sử của Con người từ nguồn gốc của nó” để có thể cung cấp “một cái nhìn toàn diện về bí mật vĩ đại của số phận loài người”.

Theo Spengler, kỹ thuật không chỉ đơn giản là việc đa dạng hóa của các thiết bị cơ khí và điện tử đã được phát minh ra từ đầu thế kỷ XIX. Thật vậy, Spengler luôn chỉ trích “quan niệm sai lầm cho rằng kiểu dáng của máy móc và công cụ là mục tiêu của kỹ thuật”. Nhận thức thực dụng, vụ lợi về công nghệ như một tập hợp các thiết bị nhằm tiết kiệm sức lao động là đặc trưng của “những người theo chủ nghĩa duy vật”, những người coi lý tưởng cao nhất là “sự tiện ích”.

Không chỉ bằng lòng với việc thiết lập kỹ thuật như một hiện tượng có ý nghĩa văn hóa, Spengler còn đi xa hơn nữa, xác định nó như một lực lượng siêu hình mạnh mẽ gắn bó mật thiết với “linh hồn của con người”.Theo Spengler, kỹ thuật đã xuất hiện “từ bthuở khai thiên lập địa” và “là một cái gì đó phổ quát, vượt ra ngoài phạm vi nhân loại”, là nền tảng của mọi sự sống và mọi lịch sử – nhìn chung, với Spengler, kỹ thuật là một lực lượng siêu hình có khả năng làm sống động mọi sinh vật và thúc đẩy chúng cạnh tranh và thống trị lẫn nhau. Kỹ thuật và tâm hồn dường như là những người bạn đồng hành kỳ quặc. Thông thường, những thảo luận về “linh hồn” dường như thuộc về triết học và thần học thời, nhưng ở đây trong một câu chuyện liên quan đến công nghệ đương đại, Spengler đã táo bạo khẳng định rằng “linh hồn của con người” là phần bổ sung cho “bản chất của kỹ thuật”. Theo một nghĩa nào đó, cả “linh hồn của con người” và “bản chất của kỹ thuật” là giống nhau: chúng đều là xung lực chủ động và năng động “tích cực và sẵn sàng chiến đấu” với mục đích duy nhất là sáng tạo và biến đổi.

Cũng theo Spengler, sự hồi sinh của nền văn hóa Đức nói riêng và của thế giới phương Tây nói chung chỉ có thể đạt được thông qua sự hiệp thông chặt chẽ với kỹ thuật. Nhưng Spengler cũng đưa ra ngay lập tức một cảnh báo. Trong quá trình đấu tranh với Tự nhiên, nhân loại đã “giành lấy đặc quyền sáng tạo” của nó nhưng lại không hiểu được “bản chất của kỹ thuật”. Kết quả là, “nhà cách mạng nhỏ bé này đã nổi dậy chống lại tự nhiên để rồi lại trở thành nô lệ chính mình. Con thú săn mồi, kẻ biến người khác thành vật nuôi của mình để bóc lột họ, cuối cùng đã tự bắt mình làm nô lệ”.

Ngày nay, gần trăm năm sau khi cuốn sách Con người và kỹ thuật được xuất bản, chúng ta không thể bỏ qua tính cấp thiết ngày càng tăng trong những lời cảnh báo của Spengler. Dự đoán của Spengler rằng “vào đầu thế kỷ 21, các thành phố được bố trí cho 10 đến 20 triệu cư dân, trải rộng trên các khu vực rộng lớn của vùng nông thôn, với các tòa nhà sẽ lấn át những tòa nhà lớn nhất hiện nay và giao thông và giao tiếp sẽ trở nên tuyệt vời đến mức điên rồ” giờ đây đã trở thành sự thật. Giờ đây, khi quá trình “công nghệ hóa” thực phẩm, chăm sóc sức khỏe, giải trí và tất cả những thứ khác vẫn đang tiếp tục phát triển như vũ bão, lời cảnh báo của Spengler rằng chúng ta sẽ bị kỹ thuật bắt làm con tin – thứ kỹ thuật mà chúng ta vẫn hiểu một cách thiển cận là các thiết bị nhằm tiết kiệm sức lao động chứ không phải là các xung lực văn hóa mạnh mẽ như Spengler kêu gọi – dường như càng rõ nét hơn. Vì thế, tác phẩm này khiến chúng ta có nhu cầu lật lại những đánh giá trước đây về Spengler và nghĩ về một vị trí xứng đáng với tầm vóc của ông trong lịch sử triết học châu Âu hiện đại.

*****

Bạn nào quan tâm đến cuốn sách này có thể đặt mua sách tại đây: https://sachkhaiminh.com/con-nguoi-va-ky-thuat-mot-dong...

 

 

[1] O. Spengler là một nhà sử học và triết gia lịch sử người Đức, được biết đến nhiều nhất với cuốn Phương Tây thời mạt vận (Der Untergang des Abendlandes), xuất bản vào các năm 1918 và 1922, bao phủ toàn bộ lịch sử thế giới. Trong cuốn này ông đề xuất một lý thuyết mới về văn minh nhân loại, theo đó các nền văn minh cũng giống như những cơ thể sống, có tuổi đời là hữu hạn và nhất định rồi sẽ bị tiêu vong. O. Spengler cùng với Arnold J. Toynbee thường được xem là một trong hai triết gia lớn nhất về lịch sử của thế kỉ 20. Trong khi Toynbee đại diện cho khuynh hướng lạc quan, Spengler tiêu biểu cho chủ nghĩa bi quan về lịch sử văn minh.

[2] Walter Benjamin, “Ý thức hệ của chủ nghĩa phát xít Đức” (Theories of German Fascism) (1930), đăng lại trong Sách nguồn về Cộng hoà Weimar (The Weimar Republic Sourcebook), Nhà xuất bản Đại học California, 1995, tr. 159-164.

[3] Stefan Zweig, “Sự đơn điệu hoá của thế giới” (The Monotonisation of the World) (1925), đăng lại trong Sách nguồn về Cộng hoà Weimar (The Weimar Republic Sourcebook), Nhà xuất bản Đại học California, 1995, tr. 397- 400.