Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2024

Tản văn của Thái Hạo: Về quê hương

Tập sách Hơi thở trong bàn tay của Thái Hạo (NXB Đà Nẵng, in lần đầu tháng 5.2024) dày 227 trang, gồm 46 bài viết.

Văn Việt xin trích đăng một số bài trong tập sách, là cách để tăng thêm nối kết giữa tác giả - độc giả.

Cụm bài này là nhung lắng đọng về làng quê - ngọn nguồn, không gian - lịch sử đã nuôi nấng tâm hồn tác giả, gồm các bài: Cỏ dại, Làng Cóc, Nước Am, Làng May.

 

Phùng Khánh và Phùng Thăng: lộ trình suy tư triết học – phác họa hiện tượng luận tình yêu

Thái Kim Lan

Sáng tinh mơ gặp một bài viết năm 2016 cho Thư Quán Bản Thảo do anh Trần Hoài Thư chủ biên. Đăng lại để tưởng nhớ hai vị nữ kiệt văn chương của Huế mình.

T. K. L.

Bài viết này chỉ là một phác thảo gợi ý về sự nghiệp và ảnh hưởng của hai nhà nữ trí thức miền Nam trong những thập niên 60, 70. Phùng Thăng tạ thế cuối thập niên 70. Phùng Khánh đã là Ni sư giữa thập niên 60 và trở nên một Ni sư Trưởng lỗi lạc trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam trước và sau 1975, liễu sinh 2003.

Sẽ là một thiếu sót lớn nếu không đề cập và tìm hiểu tư tưởng của hai vị, bởi vì ảnh hưởng của hai vị đối với thanh niên trí thức miền Nam thời ấy thật lớn lao, như chính người viết bài này đã từng thú nhận.

“Tôi đã gặp chị Phùng Khánh lần đầu tiên như thế, không bằng hình hài, mà qua Câu chuyện dòng sông hay Siddharta của H. Hesse, qua ngọn bút dịch thuật tài hoa của chị (và Phùng Thăng, chú thích của người viết). Như một kẻ đầu đàn trong giới nữ lưu tiếp cận với văn hóa Tây phương, Phùng Khánh đã khám phá Siddharta như một của báu và trao lại cho chúng tôi. Từ đó không thể nào quên những giây phút lạ lùng giữa những cuốn hút “của dòng văn, con mắt của chính mình đã hơn một lần choàng tỉnh nhận ra của báu trong nhà tìm kiếm mãi” đang được một người ngoại cuộc nâng niu, rồi có một người trong cuộc trang trọng trao lại cho mình. Bỗng như một liên cảm, tuy chỉ văn kỳ thanh mà đã thấy tri ân chị Phùng Khánh xa lạ chưa quen.” (Thái Kim Lan, Tưởng niệm Ni sư Trí Hải).

Không những tác phẩm đã dẫn trên mà về sau, bản dịch tác phẩm Triết học Phật giáo của Phùng Khánh đã là sách gối đầu giường.

Thao thức băn khoăn của anh Trần Hoài Thư thật đúng: “Người ta nhắc nhiều đến Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng, Trùng Dương, ngay cả Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca, nhưng họ quên sự đóng góp lớn lao cho một thế hệ băng hoại, mất niềm tin” của Phùng Khánh và Phùng Thăng.

Quả thật tư tưởng và tác phẩm cũng như hành trạng của họ không những mang lại vẻ cẩm tú trên văn đàn miền Nam thời đó mà còn soi sáng trí tuệ và tâm thức của thế hệ đồng thời. Bù trừ sự lãng quên ấy, việc nghiên cứu trở nên cần thiết trong dự án nhận định tổng quan về mảng văn học miền Nam, nữ giới nói riêng và cho nền văn học Việt Nam nói chung, không những là điều kiện cần mà còn phải là điều kiện đủ, bởi tính cách đóng góp vào gia sản tinh thần Việt Nam mà Phùng Khánh và Phùng Thăng đã thực hiện khác với những tác phẩm văn chương thời bấy giờ, nhấn mạnh sự khai ngộ một con đường mới nhằm thay đổi tâm thức con người đang bị khủng hoảng về mọi phương diện.

Sự khai ngộ ấy nhằm chuẩn bị hành trang cho thế hệ mới trong mọi thời, không chỉ cho miền Nam thời ấy mà cho thế hệ tương lai, trên toàn thể Việt Nam ngay cả bây giờ. Đóng góp văn học của Phùng Khánh và Phùng Thăng còn khác biệt hơn nữa so với những tác giả nữ đương thời ở miền Nam cũng như miền Bắc sau 75, ở điểm, công trình của họ không bao giờ phảng phất tính làm dáng giới tính nhằm gây sốc cho độc giả mà ngược lại chính trí tuệ và tài hoa của những nữ lưu trí thức này đã tỏa sáng sức thuyết phục, có sức mạnh chuyển hóa người đọc.

Trong bài viết này, xin mạn phép không dùng danh hiệu Phật giáo của cố Ni sư Trưởng Trí Hải mà chỉ dùng tên ngoài đời “Phùng Khánh” khi đề cập đến tư tưởng của người. Vả chăng, đối với sự nghiệp văn, triết, giáo lý Phật giáo của chị Phùng Khánh hay cố Ni sư Trưởng Trí Hải, người viết bài viết này thật chưa đủ khả năng để trình bày một cách bao quát, mà chỉ chú trọng đến tương quan tư tưởng triết học của Phùng Thăng với sự nghiệp độ sanh qua văn chương và hành thâm bát nhã của Phùng Khánh.

Đặc biệt nổi tiếng là những bản dịch: Câu chuyện dòng sông, Bắt trẻ đồng xanh, Triết học Phật giáo, Gandhi tự truyện, Câu chuyện triết học, Thanh tịnh đạo luận, Thắng Man, Tạng thư Sống Chết, Giải thoát trong lòng tay. Ni trưởng còn trước tác một số tác phẩm khác mà quan trọng nhất là các bản Toát yếu Trung Bộ Kinh (ba tập) và những bài giảng về Phật học cho ni chúng và Phật tử.

Về dữ liệu tham khảo, ngoài những công trình dịch thuật nổi tiếng của hai vị như Câu chuyện dòng sông, Sói đồng hoang của H. Hesse, Bắt trẻ đồng xanh của J. D. Salinger… sự nghiệp văn học, tôn giáo, đạo đức của Phùng Khánh rộng lớn so với số liệu các tác phẩm triết học của Phùng Thăng hiếm hoi, tuy nhiên bài viết này lại đưa ra một tương quan tỉ lệ ngược: chính tư tưởng triết học của Phùng Thăng đã chuẩn bị tri thức cho tự ngã khai phóng, vẽ nên sơ đồ hành động mà đồng thời và về sau Phùng Khánh đã thực hiện. (Chính tác giả Phùng Khánh đã có lần tâm sự tiếc đã không theo môn triết học, phải chăng lúc ấy Ni sư đang nhớ người em gái của mình?). Sơ đồ ấy phác thảo một con đường mới: con đường trở về nội tâm, tự khai phóng trong tự do và tình thương. Phác thảo ấy căn cứ trên nền tảng triết lý truyền thống Đông phương (chủ yếu là Phật học và Thiền học) được giải trình trong ánh sáng của những thành tựu tri thức triết học Tây phương (hiện tượng luận của Husserl và triết học hiện sinh của Sartre và Heidegger).

Có thể nói Phùng Thăng và Phùng Khánh thuộc những người tiên phong thực hiện cuộc đối thoại liên văn hóa trong bối cảnh lịch sử của xã hội miền Nam thời bấy giờ đang bị khủng hoảng vì chiến tranh, mâu thuẫn văn hóa đông tây đang xâu xé thế hệ trẻ, ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa Tây phương chế ngự cuộc sống, sự băng hoại và mất niềm tin của con người càng ngày càng trầm trọng. Một cuộc đối thoại bình đẳng trong trí tuệ và nhất là trong tình thương mà chính họ đã khai lập giữa ba đào thời thượng.

Trong cuộc đối thoại này, trước hết mọi thứ nhân danh đã trở nên xơ cứng giáo điều tước đoạt tính tự chủ của mỗi con người cần được giải thể bằng một phương pháp luận triệt để, phương pháp của Thiền học trong quy chiếu hiện tượng luận như một khoa học về khả năng trí tuệ của con người. Tôi tạm gọi con đường mà hai vị nữ thức giả đã đi “Hiện tượng luận tình yêu”, có thể trong tiến trình suy tư về con đường ấy trên trang giấy này, tên gọi của phác thảo được thay đổi.

“Hiện tượng luận tình yêu” như là con đường tư tưởng Phùng Thăng và Phùng Khánh thoạt tiên có thể gây ấn tượng vượt khỏi giới hạn tư liệu mà chúng ta có được về tác giả Phùng Thăng, như đã biết qua việc sưu tầm của Thư Quán Bản Thảo (hiện nay tôi sử dụng nguồn tư liệu ấy cho bài viết), luận án triết học của chị Chỉnh lý tư tưởng Tây phương và tác phẩm luận đề Theo dấu tình yêu đã bị thất lạc, chỉ còn những tác phẩm dịch và lời giới thiệu của chị, một vài tiểu luận đăng trong tạp chí Tư Tưởng Vạn Hạnh. Xem ra ít ỏi so với đề tài đưa ra. Nhưng nếu đọc kỹ các lời giới thiệu, và đọc sâu những tiểu luận, nhất là tiểu luận Vang bóng Nguyễn Du, và có lẽ chỉ cần tiểu luận độc sáng ấy thôi, cũng đủ cho ta hiểu được yếu tính của tư tưởng văn - triết học Phùng Thăng và Phùng Khánh, mà trong những dòng kế tiếp sẽ đề cập đến.

Khi hạ bút viết cụm từ “Hiện tượng luận tình yêu”, đã thấy nhiều đôi mắt từ nhiều góc đổ dồn đến hai chữ “tình yêu” theo thói quen “nhân danh tình yêu” như Phùng Thăng đã có lần đề cập: “Người ta chỉ nhân danh tình yêu để nói mà không để chính tình yêu được nói”. Trong con mắt của người Phật tử chẳng hạn, hai chữ “tình yêu” e không thích hợp cho một ni sư hay không đúng theo giáo lý diệt tham ái, có lẽ nên dùng “tình thương” chăng. Nói như thế là đã “nhân danh”.

Vậy Tình Yêu tự nó lên tiếng như thế nào? Có một tiếng nói “tình yêu”? Nếu có một tiếng thì nguy cơ tiếng ấy lại là nhân danh chứ không là tình yêu. Tiếng nói của tình yêu là gì nếu không chính là “YÊU”, là hành động yêu thương? Thể theo dòng biện luận của Phùng Thăng, có thể hiểu YÊU là một hiện tượng của hiện hữu, của giống “hữu tình”, thuộc thế giới hữu tình và đa tình đa đoan, nó bao trùm tình thương, trong nhịp đập của trái tim.

Yêu là hiện tượng đang xảy ra, như tôi yêu Tổ quốc, quê hương tôi, tôi yêu anh, yêu em, trong thuần chất của tình yêu, chứ không phải là một mệnh lệnh của cha mẹ hay lời kêu gọi “hãy yêu nhau đi, cho rừng xanh lá”.

Tiếng nói của tình yêu là hiện tượng yêu, không biện minh, không lên tiếng, nó là một trực giác trực tiếp cho ta cảm nhận “yêu”. Hiện tượng luận của Husserl nói về “cái nhìn yếu tính” (Wesenschau) chính ở điểm khi hiện tượng “yêu đồng nghĩa với yêu” trong cảm nhận trực quan của chủ thể, sau khi tất cả những hiện tượng “nhân danh” bị tróc hết vỏ ảo danh. Tróc hết mọi ảo ảnh của hiện tượng, YÊU là một hành động hiện sinh, một sự xảy ra như cú nhảy của con ếch vào nước ao trong thơ Bashô. Phùng Thăng cho rằng những người khác, - tha nhân đối với chủ thể, - khi nhân danh tình yêu mà nói về tình yêu - đồng nghĩa họ không yêu đích thực. Trong YÊU cũng như khi “TÔI LÀ”, khi tôi hiện hữu, thì mọi ngôn ngữ ngay cả tư duy, ý tưởng, nguyên lý nhị nguyên không còn lý do tồn tại, chỉ có trực quan TÌNH YÊU hiện hữu trong đồng nhất thể tính của hành động YÊU THƯƠNG. Chỉ trong tình yêu đích thực, con người bình đẳng, không phân biệt, chỉ khi tình yêu nói tiếng yêu thương, quê hương tâm linh mới hiện hữu thật sự cho con người. Tìm được tình yêu đích thực, cánh cửa quê hương tâm linh mới mở rộng cho con người trần thế.

Nhưng con người vẫn sống trong đọa đày vì sân hận và vô minh, vì bị bủa vây và gây mê trong vũng lầy của những nhân danh tình yêu. Chọn Simone Weil mà không chọn Simone de Beauvoir, bạn đồng song với Simone Weil trong phân khoa triết thời ấy, lại là bạn đời của J.-P. Sartre (trong khi chọn dịch Sartre), và chọn dịch cuộc đối thoại của Simone Weil với linh mục Perrin đều không phải là sự tình cờ, - (có thể đã nằm trong luận án triết học Chỉnh lý tư tưởng Tây phương?) - chính vì mong ước tiếng nói đích thực của tình yêu đang nghẹn tắt trên trần thế được khơi nguồn trở lại, chính vì muốn có người đồng điệu BIẾT YÊU. BIẾT - YÊU cần có sự soi rọi của trí tuệ, soi sáng hiện tượng yêu thương đã bị những lớp nhân danh xóa lấp. Vượt lên trên những xóa lấp biến con người thành những đàn cừu, những vệ binh không hồn hay tín hữu được ân sủng, Weil đã lựa chọn ở lại trần thế. Phùng Thăng gọi Simone Weil là kẻ lạ mặt ở Thiên đường, chốn dành cho những kẻ được ân sủng hạnh phúc. Chọn lựa làm kẻ cô đơn, chối bỏ ân sủng, để cùng chung với những người trần, bởi vì chính trí tuệ của Simone Weil chưa tìm được câu trả lời thỏa đáng cho những nghịch lý giữa ân sủng Thượng đế và khổ đau của loài người, của phi lý giữa Thiên đường và hỏa ngục vô biên. Và nhất là trái tim của Simone Weil không thể ngưng đập cho con người. Simone de Beauvoir có lần đã nói bà ganh tị với S. Weil, chính vì “con tim của Weil luôn có thể đập tròn trái đất”.

Giới thiệu tư tưởng của S. Weil, đồng thời chính Phùng Thăng như đã nội tại hóa (Verinnerlichung) cho mình TÌNH YÊU đầy trí tuệ của Weil:

“…Qua toàn thể văn phẩm, tâm hồn Simone Weil vẫn là một tâm hồn quằn quại cô đơn nhưng rất sáng suốt trong công cuộc đi tìm một Quê Hương tâm linh đích thực cho mình. Chính sự sáng suốt ấy đã đưa Simone Weil đến chỗ khước từ thiên đường hữu hạn để chọn hỏa ngục vô biên vì quá xót thương và muốn chia sớt những lầm than của trần thế. Trong nguyện ước của nàng, như có vọng âm những lời phát nguyện của các vị Bồ tát Phật giáo từ muôn nghìn thế kỷ. Trên thiên đường hữu hạn ấy, nếu được chọn, Simone Weil sẽ vẫn mãi mãi là một kẻ xa lạ lạc loài, vì nàng không ước muốn. Nàng chỉ ước muốn Thiên Đường chính thực, Quê Hương tâm linh bình đẳng cho tất cả Loài Người.”

Weil đã trần tình điều kiện cho tình yêu đích thực “được nói”:

“Dù thế nào, khi con hình dung một cách cụ thể hành động gia nhập Giáo hội của con như một điều sắp sửa xảy ra, thì không có ý tưởng nào làm con khổ sở hơn ý tưởng tự tách mình ra khỏi đám người lương rộng lớn đang khốn khổ. Nhu cầu khẩn thiết của con, có thể gọi thiên mệnh của con, là sống giữa những con người và những môi trường khác biệt bằng cách hòa lẫn vào đời sống của họ, cùng mang với họ một sắc mầu, ít nhất là trong mức độ mà ý thức không chống đối, tan biến giữa họ, để được thấy họ trong những thực thể không giấu giếm, che đậy, giả trang. Con muốn biết con người như vậy để yêu thương họ tự bản chất của họ. Bởi nếu con không thương yêu họ trong nguyên thể, thì con chưa thương yêu chính họ, và tình yêu của con không có thực.” (S. Weil, thư gửi Linh mục Perrin).

Trong lúc khước từ tình yêu cá nhân, chỉ dành trái tim cùng trí tuệ cho tình yêu chân lý, tình yêu đích thực, S. Weil đã xây dựng một triết lý theo đó để hành động một cách triệt để và sẵn sàng chết để “hòa lẫn” với con người, để “tan biến” với con người. “Yêu thương con người tự bản chất”, trong nguyên thể, hiện tượng luận tình yêu của Weil ẩn hiện hình ảnh các vị Bồ tát Phật giáo, như Phùng Thăng nêu ra. Hình như S. Weil là hiện thân ngắn ngủi của một vị Quán Thế Âm, muốn lắng nghe “chất người” trung thật nhất trên thế gian để cùng chia xẻ cho đến chết. Một liên tưởng không phải tình cờ mà chính là một chất tố quan trọng trên con đường tìm về nội tâm, xây dựng hiện tượng luận tình yêu mà Phùng Thăng mơ ước.

Khác với Weil triệt để với quan điểm của mình đến héo khô, Phùng Thăng đã nếm trải tố chất của tình yêu, yêu chồng, yêu con, yêu văn chương, yêu người và sau đó khởi đầu hành trình cô đơn của một Bồ tát trở lại trần, chứng nghiệm mọi nghịch lý cay đắng của cuộc đời.

Simone Weil là một, Nguyễn Du là hai, chỉ hai người thôi trong diễn đàn văn học đã được Phùng Thăng nhận ra bóng dáng của những vị Phật hữu tình nơi điểm chung của họ là tình thương vô hạn.

“Và Nguyễn Du thoát xác thành Đại sĩ, để đi vào tận thế giới không tên của trăm nghìn kiếp sống. Lòng xót thương của người không chỉ hạn cuộc trong cõi người ta, dù đó là loài chúng sinh đa tình nhất. Lòng xót thương đã khiến người nhận ra tính đồng thể mà chỉ có các Bồ tát, kẻ giác ngộ trong loài hữu tình, mới thấy rõ để từ đấy, phát nguyện độ tận chúng sinh. Một tình thương bao la như thế biết dung vào đâu trong sanh tử…”.

Lòng xót thương của Nguyễn Du đến thập loại chúng sinh đang quằn quại trong địa ngục trần gian, bởi khổ cũng chính là yếu tính của hiện sinh – đã khiến người nhận ra tính đồng thể của mọi loài hữu tình – trong tình yêu cũng như trong khổ não mọi người đều bình đẳng như là con người nguyên thể, cho nên Weil mới tan hòa với họ và Nguyễn Du đau đớn với họ. Không chỉ kêu lên tiếng đứt ruột với Kiều, tình yêu của Nguyễn Du lên tiếng vào tận thế giới không tên của trăm nghìn kiếp sống, “một tình thương bao la như thế biết dung vào đâu trong sanh tử…?” nếu không phải là luôn lên đường lênh đênh vạn nẻo?

Cho nên hành trạng chủ thể “hiện tượng luận tình yêu” chính là hành trạng của vị Bồ tát nguyện trở lại trần để đi hết cõi trần của người sống, hết 10 tầng địa ngục, đau nỗi đau của thế gian, độ tận chúng sinh. Có thể nói hình ảnh hay ý niệm Bồ tát giữa loài hữu tình do Phùng Thăng đưa ra trong cuộc chuyện trò Đông Tây thật đắc song song với những khái niệm chủ đạo của triết lý Simone Weil, và chủ nghĩa hiện sinh của Sartre đến từ hiện tượng luận Husserl với những cặp phạm trù hiện sinh: phi lý - tự do - trách nhiệm.

Cái sinh thể đã liễu tri chân lý, đã giác ngộ tính vô thường của cõi trần gọi là Bồ tát ấy trước tiên là một CON NGƯỜI như mọi người, chỉ duy đã thấu suốt chân lý của cuộc đời. Sự thấu suốt này không do khả năng siêu nhiên mà qua trải nghiệm tận cùng khổ ải, qua nhiều tầng địa ngục, tri kiến tận cùng định luật vô thường vô ngã để phá vỡ xích xiềng của thập nhị nhân duyên cho đến khi nhận ra tính không của mọi pháp và giác ngộ giải thoát.

Trong tiến trình luân hồi, Bồ tát trực nghiệm tự do giải thoát khỏi mọi ràng buộc thế gian. Nhưng có lẽ chứng nghiệm tự do tuyệt đối nhất chính là lúc Bồ tát từ chối bước vào ngưỡng cửa Niết Bàn, thệ nguyện trở lại trần gian một lần và có lẽ vạn lần nữa, để đi từng bước khổ cùng với sinh linh, đi và cứu độ chúng sanh thoát khỏi mọi ràng buộc luân hồi. Bồ tát khi thành tựu giác ngộ giải thoát, có nghĩa đã đạt được mục đích cao nhất của thân phận làm người: tự do. Nhưng tự do nhất mà cũng phi lý nhất chính là lúc từ chối tự do của mình để trở lại cõi trần, nhận lãnh trách nhiệm sống tù đày trong cõi thế, cũng chỉ vì một lý do duy nhất chứ không vì một ràng buộc ngoại lai nào: xảy ra như một trực kiến trong tâm: TÌNH THƯƠNG NGUYÊN ỦY đối loài người. Tình ấy chỉ xảy ra trong tự do, không nhân danh một đấng siêu việt nào.

Cũng như Simone Weil từ chối bước vào Giáo hội, ngưỡng cửa của Thiên đường hữu hạn, mặc dù mang trong mình khả thế bước vào, để ở lại thực hiện tình yêu đích thực trong hỏa ngục vô biên, tình yêu trong tự do yêu thương, không nhân danh một tình yêu nào dù là tình yêu Thượng đế: “Không phải vì Thượng đế yêu ta mà ta yêu Thượng đế mà vì Thượng đế yêu chúng ta nên chúng ta yêu chúng ta” như Weil đã khẳng định tính tại thế của tình yêu, bao lâu con người ở cõi trần ai.

“Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này” như Phùng Thăng đã dẫn lời của tác giả Câu chuyện của dòng sông H. Hesse, bản dịch văn chương tuyệt tác của Hesse dưới ngọn bút tài hoa của Phùng Khánh và Phùng Thăng.

Trên bình diện hiện tượng học, cái nhìn trực quan “Yêu” vẫn còn nằm trong phạm vi nội hàm yếu tính (Wesen), không thuộc vào thể tính (Sein), nhưng nó lại là một yếu tính hầu như làm nên thể tính, đổ đầy hiện hữu của con người. Tình yêu (tha thiết yêu thương trần gian điên dại này) làm nên ý nghĩa của hiện sinh con người trên trần thế trong phận người không có quyền định đoạt trước sự hiện hữu của chính nó trên thế gian. Biết “yêu” tha thiết là lên tiếng trả lời với định mệnh đang trói buộc tôi rằng tôi hiện hữu. Ý chí yêu cuộc sống trả lại quyền tự do tự chủ của con người và với tự do, con người từ đó có thể mang trách nhiệm biến đổi đời người.

Lộ trình tư duy của Phùng Thăng bao gồm cuộc đối thoại đông tây đã được chính Phùng Thăng điều khiển với ngọn bút của một trí tuệ tự chủ, sung mãn trực giác thiên tài. Trả lời những vấn nạn ngay chính trên quê hương về truyền thống triết lý Á đông đang bị lung lay bởi ảnh hưởng trào lưu phương Tây, nhất là với triết lý hiện sinh đang ồn ào trỗi dậy, những vấn đề triết lý đạo Phật trong tương quan với Thiền học hay khuynh hướng thời thượng chối bỏ truyền thống, rập mẫu chạy theo Tây phương, thêm vào đó sự vô vọng mất niềm tin trong chiến tranh của nhiều thế hệ, Phùng Thăng mẫn cảm và tinh tế chọn món ăn tinh thần từ chính phương Tây khi nói về Thiền học. Alan Watt, Hesse, Sailinger, Weil đều là những nhà tư tưởng, văn hào lỗi lạc có ảnh hưởng lớn trên văn đàn thế giới. Muốn biết mình là ai có lẽ một trong những bước đầu là nên biết người khác nói về mình như thế nào để đừng vội vàng chối bỏ mình, đồng thời từ góc nhìn khác ấy, có được nhận thức đúng đắn về mình và từ đó sửa mình.

Tính cân phân trong giao thoa này không phải đến từ những thỏa hiệp chung chung mà từ cái nhìn phê phán, nói theo ngôn ngữ của Phùng Thăng là “chỉnh lý” tư tưởng, trong trường hợp này chỉnh lý tư tưởng Tây phương - (tôi ước ao làm sao đọc được luận án này!) - bằng chính những ngọn bút Tây phương - qua đó thấu triệt được con đường nội tâm mà tác giả (dịch giả) chọn lựa cho mình và cho người đọc. Cuộc “chỉnh lý” xảy ra gấp ba, chỉnh lý đối tượng nghiên cứu, chỉnh lý chính tư duy của người chấp bút trong tiến trình dịch và giới thiệu và đánh thức ý thức phê phán, gợi ý lên đường tìm về nội tâm cho đối tượng người đọc.

Ý thức rõ mọi tri kiến cần có nền tảng triết lý như là điều kiện khách quan khoa học, Phùng Thăng chọn giới thiệu những tác phẩm văn chương tiêu biểu liên quan đến triết học hiện sinh của J.-P. Sartre, trong đó Phùng Thăng nhấn mạnh tương quan nền tảng của hiện tượng luận, thật rất đắc:

“Với phương pháp mô tả theo hiện tượng học, nền văn nghệ thời mới đã thực hiện được cuộc hôn phối toàn bích với khoa triết lý. Trong số những triết gia ở trên đỉnh cao của thời hiện đại, Sartre là hình ảnh biểu trưng toàn vẹn lối quả quyết trên, nhờ vào thiên tài văn nghệ và sức sáng tác phong phú của ông…” (Phùng Thăng, Lời giới thiệu dịch phẩm Buồn nôn của J.-P. Sartre)

“Thật rất đắc” ở chỗ qua sự giới thiệu tác phẩm này, một cuộc gặp gỡ lương duyên khác hầu như đã xảy ra trên lộ trình tư tưởng của người giới thiệu: cuộc gặp gỡ Đông - Tây giữa hiện tượng luận và phương pháp quán tưởng của Phật học, đặc biệt của phái Yogacara và Thiền môn. Nếu “Epoche” là phương pháp giải lược (Reduktion) hiện tượng của hiện tượng học, đóng ngoặc các hiện tượng ngẫu nhiên, để hướng đến trực quan ý thức nhìn thẳng vào sự vật, khai ngộ được yếu tính của sự vật, thì Sartre còn đi xa hơn nữa, mô tả hiện tượng luận của ông “nhằm xoáy sâu cái nhìn xuyên thủng qua những lần vỏ ngoài bao bọc, để đạt đến tri kiến đích thực về bản chất của thực tại. Tri kiến ấy là tri kiến của hiện tính (existence). Sự vật hiện hữu.” (Buồn nôn, đã dẫn) như Phùng Thăng nhận định:

Với Buồn nôn, Sartre “muốn đưa ta chạm mặt thực sự với một trực giác nguyên ủy, làm trung tâm điểm cho nền hiện sinh vô thần của ông: trực giác về sự hiện hữu của sự vật.” (Phùng Thăng, Buồn nôn, giới thiệu).

Từ trình bày hiện tượng luận của Sartre về trực giác hiện hữu sự vật, từ phương pháp giải lược hiện tượng của Husserl, vẫn trên lộ trình tư tưởng của Phùng Thăng, chúng ta có thể hiểu rõ hơn phương pháp quán tưởng của Phật giáo và Thiền học trong nỗ lực từng bước giải thể ảo tưởng mê mờ, đạt được chánh tri kiến về bản chất của sự vật “như sự vật là”. Còn xa hơn Husserl, Sartre, Heidegger trong thiết lập trực giác hiện hữu, nhấn mạnh vai trò của ý thức con người trong tương quan với thể tính (Être), Phật học và Thiền học giúp ta khải ngộ “tính không”, “vô ngã”, để phá vỡ mọi nhị nguyên mà ngôn ngữ hiện tượng luận hay chủ nghĩa hiện sinh vẫn còn ràng buộc, che giấu hoặc tái tạo lại ở ngõ sau.

“Wesenschau” của Husserl, hay tri kiến trực quan vẫn còn ở bên bờ của “Wesen”, của yếu tính chứ chưa qua bờ bên kia của “hiện sinh” (Être) và Kant vẫn có lý khi cho rằng giữa yếu tính và thể tính là hố thẳm khó vượt qua. Bởi lẽ cái nhìn trực quan vẫn dừng lại ở “Wesen” nội tại trong lúc siêu việt vẫn không ló dạng. Cần một cú nhảy để qua bờ bên kia. Thiền sư Huệ Năng đã thực hiện cú nhảy ấy: “Bản lai vô nhất vật”… đó là điều Lục tổ Huệ Năng giác ngộ… “vật là những hạn từ chứ không phải những thực thể. Chúng hiện hữu trong thế giới trừu tượng của tư tưởng, chứ không phải trong thế giới cụ thể của thiên nhiên. Bởi đấy, người nào đã liễu ngộ thật sự điều ấy thì sẽ không còn tự quan niệm mình như một Ego (ngã), ngã của người đó là cái “nhân vật” xã hội của họ, một toàn bộ khá độc đoán của kinh nghiệm và những cảm giác mà người ta đã dạy họ tự đồng hóa với nó. Đã hiểu được thế, người ấy vẫn giữ vai trò xã hội của mình nhưng không còn là tù nhân của vai trò mới, hay đóng giữ vai trò của một người không có vai trò nào cả.” (Alan Watts, Thiền Beat, Thiền square và Thiền hay Thiền nổi loạn và Thiền bảo thủ, Phùng Thăng dịch, Tạp chí Tư tưởng – Viện Đại học Vạn Hạnh, số 1, tháng 8/1967).

Đây không còn là lý thuyết suông hay nhân danh ngụy tạo, bởi vì trực quan về vô ngã và tính không của mọi hiện tượng đến từ trải nghiệm khổ mà con người muôn kiếp trải qua trong vòng sinh tử. Phật giáo cho rằng Khổ hay Tính Không (có nghĩa vô thường, vô ngã) như kinh nghiệm sống trong dòng biến đổi hé mở cho ta thấy được chân trời siêu việt, khả thể của thế giới nhân loại đồng thể. Chính nơi chân trời của khổ đế, tình thương mới được cảm nhận thực sự.

Cũng như giữa những người khốn cùng, S. Weil chứng thực rằng, chính trong khổ tận, con người cảm nhận được hiện diện của tình yêu. Trong một ghi chú về những kinh nghiệm siêu nhiên đã trải qua, S. Weil thú nhận đã chứng ngộ Hư Vô như trung tâm điểm của vũ trụ, trong sự trống rỗng vắng bóng tất cả mọi yếu tính nội hàm, tình yêu được cảm nhận như sự có mặt của đấng siêu nhiên hay Thượng đế... “Thượng đế nằm chính trong hư vô toàn hảo” và “yêu chân lý có nghĩa chịu đựng sự trống vắng của hư vô và sau đó chấp nhận cái chết”.

Sự khủng hoảng của triết học Tây phương, duy vật hay duy lý, trong đó có cả hiện tượng luận của Husserl, triết học hiện sinh của Heidegger, nằm ở sự trống vắng nền tảng TÌNH YÊU đích thực như một hệ luận của giác ngộ về thể tính của vạn vật, cho nên hành trình tư duy Tây phương vẫn còn mãi lận đận trong hư danh, ảo tưởng, không tìm thấy được sự bình an cho tâm hồn. Một Trần Đức Thảo giỏi giang có thể đọc suốt nghìn trang hiện tượng luận của Husserl, có thể phê phán cả hệ thống triết học hiện sinh, thấu triệt biện chứng duy vật, nhưng lại rơi vào cạm bẫy của chủ nghĩa nhân danh tình yêu, suốt đời khắc khoải.

Có lẽ vì ông quên trở về với Nguyễn Du như Phùng Thăng đã về và đã hiểu. Hiểu Nguyễn Du có nghĩa: “Ai đã từng sống vô biên trong khổ đau cũng như trong hoan lạc; từng trải qua những ngày lạnh và những đêm hoang vu? Đừng khóc Tố Như vì người sẽ cười trên nước mắt “khéo dư” ấy. Nhưng hãy đọc một nghìn lần kinh Kim Cang rồi đọc lại Nguyễn Du và khi ấy nếu thấy lệ trào lên mi, hãy để cho nó thầm lặng chảy.” (Tuệ Không Phùng Thăng, Vang bóng Nguyễn Du, Tạp chí Tư Tưởng, Viện Đại học Vạn Hạnh, số 8 tháng 12/1970, số Chuyên đề về Nguyễn Du).

Tại sao kinh Kim Cang mà không phải một bản triết luận hay thánh kinh nào khác? Ấy chính vì sau quán tưởng rốt ráo hiện tượng “mộng huyễn bào ảnh”, Bồ tát cho (hay yêu thương) mà không dấy lên một ý tưởng rằng có một người cho, có nghĩa không nhân danh một ai, ngay cả chính chủ thể cho, như thế cho hay yêu mới xảy ra đích thực trong tự do.

Từ đó “giọt lệ thầm lặng ấy” không chỉ cho Nguyễn Du mà cho tất cả sinh linh trần thế, chảy mà thảnh thơi, tự do khóc vì yêu thương chân thực, không còn đắng cay độc địa của hận ghét, khi thấu suốt kinh Kim Cang mà chính Nguyễn Du đã nghìn lần đọc.

Cho nên Phùng Thăng cùng với Phùng Khánh đứng về phía TÌNH YÊU trong ánh sáng của kinh Kim Cang và nếu ai có cười tôi thô lậu vì chữ “tình yêu” ấy thì cứ cười “khéo dư” với những nhân danh tình yêu. Bởi vì đã có một nhà thơ khác, sau 200 năm, Bùi Giáng đã khóc cười với Phùng Khánh và Phùng Thăng:

Mẹ về bảo nhỏ con thôi

Đừng đeo đai nghiệp suốt đời lầm than

(Thơ Bùi Giáng, Thích Phùng Khánh ca)

Con thương Phùng Khánh vô ngần

Phùng Thăng thân mẫu cũng gần như nhiên

Nguyệt rừng lộng lẫy man nhiên

Trăng ngàn thơ dại ngậm nghiêng nghiêng vành

MẸ TỪ BI có thể là một chữ khác cho TÌNH YÊU ĐƯỢC NÓI, bao la vô cùng. Lộ trình tư tưởng TÌNH YÊU của Phùng Thăng, dù cuộc đời chị ngắn ngủi, nhưng dài vô tận và rộng vô cùng, cuộc đi như một hành trình tiếp sức, Phùng Khánh đã lên đường từ đó thực hiện hạnh nguyện Bồ tát độ tận chúng sinh. Nụ cười trong suốt của Ni sư Trí Hải là thực chứng của những “giọt nước mắt thầm lặng rơi” trong tình thương vô hạn, nối tiếp Nguyễn Du, Phùng Thăng, Bùi Giáng cùng vô lượng chúng sinh. Các vị có chết đâu mà vẫn hiện diện trong tâm tư của con người:

“Chúng ta cũng chỉ là những làn sóng trên đại dương và vũ trụ. Hơi thở vào của mỗi người là hơi thở ra của người khác và của cây cối, mọi sinh vật khác. Trong ta có toàn thể mọi người, mọi sự.” (Thích nữ Trí Hải, Cảm hứng từ những pháp thoại Osho).

--------------------

Chú thích:

1. Vẻ đẹp văn chương của những tác phẩm dịch của Phùng Khánh và Phùng Thăng không ai là không ca ngợi, cho đến bây giờ, 50 năm sau, Câu chuyện dòng sông, Bắt trẻ đồng xanh vẫn cuốn hút người đọc không những vì nội dung câu chuyện, mà chính vì vẻ đẹp văn chương Việt mà hai chị chuyển tải. Trí tuệ và tài hoa đã đành, nhưng vẻ sáng của đức hạnh từ bi – một chữ khác của “tình yêu”? – vẫn không ngừng rọi soi cho kẻ đi sau. Nếu ta biết đương thời, phong trào giải phóng phụ nữ, phong trào nữ phái rộn rã khắp nơi trên Âu châu, nữ giới đòi truy nhận bình đẳng nam nữ, tuy không đề cập tới những vấn đề ấy trực tiếp, không cần dùng đến giới tính để gây chú ý ồn ào như François Sagan hay như Simone de Beauvoir, sự nghiệp văn chương của hai chị chứng tỏ sự trưởng thành về tư tưởng và tự do trí tuệ chính là sức mạnh đích thực của nữ giới. Hai chị đúng là “femmes de lettres” của Việt Nam.

2. “Phác thảo hiện tượng luận tình yêu” như đã nói trên có thể được gọi là “Phác thảo hiện tượng luận đại bi”. Dùng chữ “tình yêu” như một dẫn chứng ngôn ngữ của Phùng Thăng.

3. Bài của Thái Kim Lan về cố Ni sư Thích nữ Trí Hải tức Phùng Khánh: Tưởng niệm Ni sư Thích Nữ Trí Hải Câu chuyện dòng sông và dịch giả Phùng Khánh.

This image has an empty alt attribute; its file name is image-48.png

Phùng Khánh thời sinh viên

This image has an empty alt attribute; its file name is image-49.png

Phùng Thăng, tranh Đinh Cường

Thứ Năm, 17 tháng 10, 2024

Han Kang và tính phức tạp của dịch thuật

Bản dịch tiếng Anh cho các tác phẩm của Han Kang đã được tán dương rộng rãi. Liệu chúng có trung thành với nguyên tác?

Jiayang Fan, The New Yorker ngày 8/1/2018[L1]

Quyên Hoàng dịch

Một bản dịch văn học phải sát nghĩa đến mức nào? Nabokov, người thông thạo ba ngôn ngữ và viết văn bằng hai thứ tiếng, tin rằng “bản dịch văn học sát nghĩa, vụng về nhất vẫn hữu ích gấp ngàn lần hơn một diễn giải mỹ miều nhất”. Mặt khác, Borges lại giữ quan điểm rằng người dịch không chỉ nên sao chép văn bản mà cần tìm cách chuyển hóa và làm giàu thêm cho nó. “Dịch thuật là một trình độ văn minh tiên tiến hơn,” Borges cả quyết – hoặc, tùy theo bản dịch mà bạn bắt gặp, “một trình độ viết lách cao hơn”. (Ông viết dòng này bằng tiếng Pháp, một trong nhiều ngôn ngữ mà ông thông thạo.)

Vòng luẩn quẩn của sự đọc

Đinh Thanh Huyền

 

Dạo gần đây, thỉnh thoảng dư luận lại dậy sóng vì một văn bản trong sách Ngữ văn hoặc một đề thi ở tỉnh này tỉnh kia. Có những cuộc tranh luận căng thẳng đến mức tác giả sách giáo khoa hoặc chuyên viên môn Ngữ văn của một Sở, phòng giáo dục nào đó phải lên tiếng giải thích với công luận. Những ồn ào quanh chuyện dạy văn, học văn dường như không có hồi kết, thậm chí có sự việc trở thành quá khích, người ta chửi nhau, nhiếc móc nhau bằng đủ mọi kiểu ngôn từ nặng nề. Hiện tượng này chủ yếu xảy ra với môn Ngữ văn, ít thấy ở các môn học khác. Lí do đầu tiên hẳn là vì văn chương là thứ dễ bị tấn công nhất. Phàm ai có thể đọc được chữ thì đều có thể tiếp nhận văn học dân tộc mình. Và khi đã đọc được văn bản thì ai cũng có thể phê phán, bình phẩm, khen chê đôi chút. Hệ quả là khi một văn bản nào đó được đưa vào giảng dạy hoặc làm đề thi, văn bản đó, tác giả của nó và người soạn sách, soạn đề đều trở thành nạn nhân tiềm tàng của những vụ “ném đá”, tấn công dữ dội trên mạng xã hội, trên báo chí. Từ hiện tượng này, nhìn sâu rộng hơn, ta sẽ thấy có những vấn đề lớn vừa là nhân vừa là quả.

Vết thương chưa lành ở xứ vạn đảo

Bài và ảnh của Hồ Anh Thái

Những người đến Indonesia để du lịch hoặc làm việc đều được khuyến cáo có cách xử sự đúng mực ở một nước có cộng đồng đạo Hồi đông đảo nhất thế giới. Xã hội Hồi giáo có những quy tắc nghiêm ngặt mà dứt khoát người làm khách phải biết để tôn trọng và tránh gây bất bình, thậm chí gây xung đột.

Chùm thơ thế giới

Bản dịch của Nguyễn Man Nhiên

 

 

JOHN ASHBERY

 

 

NHỮNG TÁN CÂY

 

Chúng thật kỳ diệu: từng cây

Nối liền với láng giềng, như thể lời nói

Là một màn biểu diễn tĩnh lặng.

Sắp xếp một cách tình cờ

 

Để gặp nhau xa xôi vào sáng nay

Khỏi thế giới như đồng ý

Với nó, em và anh

Đột nhiên trở thành những gì mà cây nỗ lực

 

Cố nói với ta rằng chúng ta là:

Rằng sự hiện diện giản đơn của chúng

Mang một ý nghĩa nào đó; rằng chẳng bao lâu

Ta có thể chạm vào, yêu thương, giải thích.

 

Và vui mừng vì không tự mình sáng tạo

Ra vẻ đẹp này, chúng ta bị vây quanh:

Một sự im lặng đã tràn ngập tiếng ồn,

Bức tranh trên đó hiện ra

 

Một dàn hợp xướng của nụ cười, buổi sáng mùa đông.

Chìm trong ánh sáng bí ẩn, và di chuyển,

Những ngày của chúng ta khoác lên vẻ trầm lặng

Những âm điệu này dường như là sự tự vệ của riêng chúng.

Thứ Tư, 16 tháng 10, 2024

Han Kang, Giải thưởng Nobel văn chương 2024. Tất cả những linh hồn bị tổn thương

Volker Weidermann, Tuần báo DIE ZEIT, ngày 10 tháng 10 năm 2024

Người dịch: Đỗ Thị Thu Trà

Hiệu đính: Nguyễn Xuân Xanh

Thời gian như một con sóng, gần như tàn nhẫn trong sự khắc nghiệt của nó khi nó cuốn trôi cuộc sống của cô, một cuộc sống mà cô phải liên tục nỗ lực để nó không tan vỡ.― Han Kang, The Vegetarian

Cơn mưa này là nước mắt của những linh hồn đã khuất. ― Han Kang, Human Acts

Tình thế của con người – tình thế của thơ

Trương Đăng Dung


… Thế giới vẫn không ngừng tiếng súng

đạn bắn vào con người trong chiến tranh

đạn bắn vào con người trong hoà bình

lớp lớp xương người làm cốt sắt

bê tông trái đất nặng nề quay.

 

Không có gì mới đâu, thi sĩ

mỗi ngày sống là một ngày thất vọng

từ Tây sang Đông

người sợ con người.

 

Hai mươi bốn năm rồi thêm một lần khóc bạn

giữa Châu Âu bất an

tôi ngửa mặt nhìn trời.

Hungary, 17/08/2016

 

(Bên mộ một nhà thơ)

 

Thơ Mai Quỳnh Nam

Nhà thơ Mai Quỳnh Nam vừa cho ra mắt bạn đọc tập thơ thứ 9 của mình: Một phía (NXB Hội Nhà Văn/ 2024). Văn Việt trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ Đặng Tiến (Thái Nguyên) và một chùm thơ được trích từ tập thơ mới này.

Thơ Mai Quỳnh Nam có thể gọi là thơ cực hạn, thơ tối giản. Nó gợi nhớ đến tuyệt cú/ tứ tuyệt, haiku hoặc những châm ngôn, triết lí trong cổ thư.

Nếu haiku gần như là sự tường trình cực hạn về một "sự kiện" (theo nghĩa rộng nhất) nào đó mà bất chợt thi sĩ phát hiện ra. Đôi ba chi tiết của sự kiện được tường trình gần như chính xác, chúng được sắp đặt gần như ngẫu nhiên và tạo ra những liên hệ, những tương tác. Nghĩa của bài haiku là do người đọc tìm ra, gọi ra những liên hệ, những tương tác ấy. Bạn cứ đọc một bài haiku bất kì sẽ được kiểm chứng.

Nếu tuyệt cú là sự phát hiện một khoảnh khắc nào đó của cuộc nhân sinh mà người làm thơ ngộ ra chân lí. Nó khiến ta nhớ đến khái niệm sát na trong Thiền học. Thơ tuyệt cú ở những bài hay nhất thấm đẫm hương vị Thiền. Bừng tỉnh. Giác ngộ...

Thì thơ Mai Quỳnh Nam khác. Khác rất xa. Mỗi bài thơ cực hạn của ông như khiến ta giật mình mà nhận ra trong cái dòng chảy đời thường tưởng như bằng phẳng, tưởng như nhạt nhẽo, tưởng như chẳng có gì phải để ý tất thảy đều hợp lí "như là", "vốn là" nhưng thực chất trong quan sát của Mai Quỳnh Nam nó không "như là", "vốn là" mà đầy bất an, đầy bất ổn, phi lí một cách... rất không phi lí! Mai Quỳnh Nam giúp ta nhận ra. Giúp ta giật mình. Không phải là để tỉnh thức, giác ngộ mà là đớn đau, tủi hổ vì bấy lâu nay, thậm chí cả một đời ta sống chung, chấp nhận như-không-hề-chi!

Đ. T.

Thứ Ba, 15 tháng 10, 2024

Thơ Han Kang

Han Kang (한강), sinh năm 1970 tại Gwangju, Hàn Quốc, là nhà văn nổi tiếng với lối văn xuôi đầy chất thơ, tập trung vào những chấn thương lịch sử và sự mong manh của cuộc sống con người. Bà đã giành giải Nobel Văn chương 2024 nhờ những tác phẩm khám phá sâu sắc nỗi đau cá nhân và tập thể.

Han Kang học văn học Hàn Quốc tại Đại học Yonsei và bắt đầu sự nghiệp văn chương với thơ và truyện ngắn từ năm 1993, nhanh chóng khẳng định tên tuổi với những tác phẩm độc đáo, mang đậm dấu ấn cá nhân, được đánh giá cao bởi sự kết hợp tinh tế giữa tính bạo liệt và sự dịu dàng. Văn của Han Kang thường xoay quanh những vấn đề sâu sắc về xã hội, tâm lý con người, đặc biệt là những nỗi đau, mất mát và sự cô đơn. Bà sử dụng ngôn ngữ giàu chất thơ, tạo nên những bức tranh đầy ám ảnh và xúc động. Trong các tác phẩm của mình, Han Kang đối mặt với những chấn thương lịch sử và những quy tắc vô hình, phơi bày sự mong manh của cuộc sống con người. Bà có nhận thức độc đáo về mối liên hệ giữa thể xác và tâm hồn, giữa người sống và người chết, và trong phong cách thơ ca và thử nghiệm của mình, bà đã trở thành một nhà cải cách trong văn xuôi đương đại.

Nổi bật trong sự nghiệp của Han Kang là tiểu thuyết ba phần The Vegetarian (Người ăn chay, 2007), một câu chuyện đầy ám ảnh về bạo lực, sự đàn áp và tự do cá nhân. Lấy bối cảnh ở Seoul ngày nay, câu chuyện kể về Yeong-hye, một người phụ nữ có một giấc mơ khiến cô quyết định trở thành người ăn chay và những hệ lụy phức tạp từ quyết định này. Đây là cuốn tiểu thuyết tiếng Hàn đầu tiên của Han Kang được dịch sang tiếng Anh, bởi dịch giả Deborah Smith, được xuất bản vào năm 2015. Năm 2016, cuốn sách này đoạt Giải Man Booker quốc tế cho thể loại hư cấu. Các tác phẩm khác của Han Kang như Greek Lessons (2011) và The White Book (2016) cũng nhận được nhiều lời khen ngợi, tập trung vào các chủ đề đau khổ, mất mát và nỗi ám ảnh của con người.

Han Kang là một nhà văn Hàn Quốc tài năng với những tác phẩm giàu tính nhân văn và sâu sắc. Giải Nobel Văn chương 2024 của Viện Hàn lâm Thụy Điển là một sự ghi nhận xứng đáng cho những đóng góp của bà vào nền văn học thế giới.

 

Thứ Hai, 14 tháng 10, 2024

Đọc sách: Bản chất của người

Hồ Anh Thái

Bối cảnh của tiểu thuyết là phong trào biểu tình ở Gwangju năm 1980, chống chế độ độc tài Chun Doo-hwan. Vụ đàn áp này về sau đã bị những chính phủ dân chủ ở Hàn Quốc coi là một trang đen tối trong lịch sử đất nước. Nhiều hành động sửa sai đã được thực hiện.

Tản văn của Thái Hạo: Về không gian sống

Tập sách Hơi thở trong bàn tay của Thái Hạo (NXB Đà Nẵng, in lần đầu tháng 5.2024) dày 227 trang, gồm 46 bài viết.

Văn Việt xin trích đăng một số bài trong tập sách, là cách để tăng thêm nối kết giữa tác giả - độc giả.

Cụm bài này viết về không gian sống của tác giả, những nối kết giữa con người - vạn vật, gồm các bài: Con cóc, Tiếng cuốc, Nửa ngày, Nửa đêm.

 

Con cóc

 

Chiếc lu nhỏ này là một ngôi nhà, ngôi nhà của con cóc cô độc. Tôi nói cô độc vì luôn thấy nó một mình. Thường thì lũ cóc sẽ ở cùng nhau, trong góc nhà hay một cái xó tối nào đó. Chen chúc, chậm rãi, lim dim…

Quần-đảo-tráo-tên (6)

 Trường ca thời sự của Đỗ Quyên


CHƯƠNG 10

Tọa độ     

 

 

ĐỊNH LUẬT QUẦN ĐẢO VÀ ĐOẠN TRƯỜNG QUẦN ĐẢO

 

… Năm rồi

trường đoạn Quần Đảo

mà cũng là đoạn trường sử thi tráng lệ và âu yếm trong bản trường ca lớn suốt nửa thế kỷ của Đất Nước (nhưng hơi tiếc mấy năm đầu nó chỉ thuộc về nửa Đất Nước và đó lại chính là nền tảng của tác phẩm ấy

   thôi cho qua chuyện trong nhà

   kìa người hàng xóm thụt ra thụt vào

   chuyện trong nhà thôi đi nào

   kia hàng xóm người thụt vào thụt ra)

Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2024

Trắng

Hiền Trang

Han Kang, một trong những tên tuổi văn chương Hàn Quốc nổi bật trên văn đàn thế giới những năm qua, đã viết riêng một cuốn sách cho màu trắng vì lẽ đó, vì trên màu trắng, mọi sắc độ khác đều hiển hiện, những sắc độ của nỗi buồn, của hồi ức, của sự mất mát, của niềm cô độc, của bản chất mong manh nơi cuộc sống, của những khoảng lặng im dài ra mãi không ngừng.

Bay theo đàn chim thiên di

Nguyễn Xuân Thiệp


This image has an empty alt attribute; its file name is image-20.png


Mùa thu…

Chim thiên di, từng đàn từng đàn, sáng chiều bay qua bầu trời. Và này, em hãy nghe giai điệu dặt dìu của ca khúc To be by your side của Nick Cave hòa trong tiếng gọi đàn và nhịp vỗ cánh của bầy chim: "And I know just one thing/ Love comes on a wing/ And tonight I will be by your side/ But tomorrow I will fly away/ Love rises with the day/ And tonight I may be by your side/ But tomorrow I will fly/ Tomorrow I will fly/ Tomorrow I will fly..." (Và này, anh chỉ biết một điều/ là / tình yêu chúng ta đến trên một cánh bay/ Và đêm nay anh sẽ ở bên em/ Nhưng ngày mai anh sẽ bay xa.../ Tình yêu dậy cùng với ngày lên / Và đêm nay có lẽ anh sẽ ở bên em / Nhưng ngày mai anh sẽ bay xa.../ Bay xa...).

Quần-đảo-tráo-tên (5)

Trường ca thời sự của Đỗ Quyên


CHƯƠNG 9

Kinh tuyến

NGƯỜI RANH GIỚI

VIP nầy[246]

Nhiều lúc như một cái bùng-binh[247]

(hay một vài trong 10

đôi khi đồng thời cả 10

tùy thời điểm, nội dung đề tài, diễn đàn đăng tải)

ở hòn ngọc viễn đông

đệ nhất bùng binh tự do

đệ nhị bùng binh quảng trường trang liệt nữ

đại khái cứ thế cứ thế

cư dân thành phố rành

(là nói rành về các bùng binh

chớ hổng phải rành về VIP mà trường-ca-ca đang thử tí lạm bàn)

Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2024

Giải Nobel và chuyện chăn gà

Hoàng Dũng

 

Hình dưới đây chụp ngày 21.1. 2017, cho thấy quan chức Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang xin lỗi văn nghệ sĩ – tất nhiên là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hàn Quốc và văn nghệ sĩ xứ kim chi, chứ không phải là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và văn nghệ sĩ xứ ta.

Thơ Han Kang

Hiền Trang dịch

 

Vậy là danh hiệu "nữ nhà văn châu Á đầu tiên giành giải Nobel" đã có chủ. Nếu có gì tôi tiếc nuối thì đó là, việc Han Kang được trao giải có lẽ cũng đồng nghĩa với việc các nhà văn nữ châu Á khác mà chúng ta vẫn nhắc nhiều mỗi mùa Nobel như Tàn Tuyết hay Yoko Tawada sẽ khó có cơ hội được vinh danh. Vì cũng như cuộc thi hoa hậu thôi, còn bao nhiêu hạng mục, trao cho cô da trắng rồi, da nâu rồi, da đen rồi, da vàng rồi, vẫn chưa xong, bao nhiêu vùng lãnh thổ khác cũng đang đợi công bằng mà.

Nhưng thôi, ai được chả được, quan trọng có Nobel thì hằng năm cả văn đàn đều có dịp chạy ra xem náo nhiệt. Xin dịch mấy bài thơ của Han Kang, gọi là góp vui. Tôi tra thấy bà có một tập thơ nghe tên rất hay "Tôi cất buổi tối vào ngăn kéo". Văn chương bà cũng thơ. Thế thì thơ hẳn phải hay.

Giáo dục khai phóng nhìn từ hiện tượng Chu Ngọc Quang Vinh

Lê Học Lãnh Vân

1) Khái niệm Giáo dục Khai phóng xuất hiện từ xa xưa. Nội hàm chính của Giáo dục Khai phóng là đào tạo con người với các ý nghĩa cao thượng và luôn hướng thiện. Cho dù có biến thiên qua các thế kỷ, thậm chí qua các thiên niên kỷ, nội hàm đầy tính nhân văn cao cả này luôn được giữ gìn vun đắp thêm. Ta có thể hiểu Giáo dục Khai phóng là truyền lại kiến thức, tinh thần, phương pháp học các kiến thức khoa học, tự nhiên và xã hội, mà người tiếp thụ có thể dùng chúng một cách tự do, nhân bản. Nói một cách khác, Giáo dục Khai phóng nhằm giải phóng trí tuệ con người trong đó sứ mạng tạo con người có nhân cách quan trọng hơn con người có nghề nghiệp. Sự nghiệp giáo dục ấy cần trách nhiệm của cả người dạy lẫn người học.

Ý nghĩa đó thực nhân văn, hiểu theo đó ta thấy Giáo dục Khai phóng tại Việt Nam không chỉ là sự nghiệp của các mái trường từ tiểu học, trung học lên đại học, mà còn là sự nghiệp chung của cả xã hội trong đó hệ thống chính trị giữ vai trò then chốt vì sự phân quyền trong xã hội Việt Nam rất giới hạn do độ đậm đặc của tính toàn trị.

Bài viết của Anders Olsson, Chủ tịch Ủy ban Nobel, về nhà văn đoạt giải Nobel Văn chương 2024 Han Kang

Bản dịch của Văn Việt

 

Han Kang한강 sinh năm 1970 tại thành phố Gwangju, Hàn Quốc; năm chín tuổi, bà cùng gia đình chuyển đến Seoul. Bà xuất thân từ một gia đình có truyền thống văn học, với cha là một tiểu thuyết gia có tiếng. Bên cạnh việc viết lách, bà còn dành tâm huyết cho nghệ thuật và âm nhạc, được phản ánh xuyên suốt trong toàn bộ tác phẩm văn chương của bà.

Kẻ song trùng trong truyện kỳ ảo

Liễu Trương

Kẻ song trùng là một chủ đề độc đáo, phong phú trong văn chương kỳ ảo. Nhưng trước tiên kỳ ảo là gì? Nhiều nhà nghiên cứu ở Pháp đã đưa ra một định nghĩa. Pierre-Georges Castex, trong cuốn Le conte fantastique en France (Truyện kỳ ảo ở Pháp) cho rằng “Đặc điểm của kỳ ảo là một sự xâm nhập hung tợn của điều huyền bí trong khung cảnh của đời sống hiện thực” (tr. 8). Đối với Louis Vax, tác giả cuốn L’art et la Littérature fantastique (Nghệ thuật và Văn chương kỳ ảo), thì “Truyện kỳ ảo… thích cho chúng ta thấy những con người như chúng ta, ở trong cái thế giới hiện thực, thình lình bị đặt trước cái không thể giải thích được” (tr. 5). Còn Roger Caillois định nghĩa kỳ ảo trong cuốn Au cœur du fantastique (Tận trong kỳ ảo) như sau: “Mọi kỳ ảo là sự cắt đứt cái thứ tự được nhìn nhận, là sự đột nhập của cái không thể chấp nhận giữa sự hợp lý hằng ngày không thể biến chất.”

Quần-đảo-tráo-tên (3)

 Trường ca thời sự của Đỗ Quyên


CHƯƠNG 5

“Thủy triều người nhân loại bể”[144]

 

 

5.1   BÀI HỌC MƠ SÁNG TÁC THỰC                     

 

… Đổ Quiên

ngươi mơ hay tỉnh

nghe đây nghe đây

 

nống lên

hô biến

 

phản Tự sự

bỏ Khách quan

giải Cấu trúc

phóng Ngôn từ

phá Trật tự

chống Diễn dịch

liên Văn bản

đồng Sáng tác

nhòa Trung tâm

tâng Ngoại biên

phỏng Lịch sử

cởi Linh thiêng

Hài giễu nhại

(bửu bối này thần kỳ

đi thẳng tới tận quần

chúng cùng giới tinh hoa)

nhập nhằng Thể loại

sáo chộn[145] Thể tài

Văn phong anh Hai

Ngẫu nhiên dán ghép

thay máu Tâm thức

Hoàn cảnh vượt rào

cảnh giới Cảm quan

Phì đại tới từng Cực tiểu[146]

 

túm lại

Thy pháp

    Chào nưu

Chủ nghỹa

Khuinh hướng

Hậu hậu đậu

 

cứ dzậy cứ dzậy

tà la tùm lum

và hơn dzậy nữa

tùm lum tà la

bí kíp chỉ là

Nhận thức qua Cảm xúc

 

Thật lòng ta muốn bổ sung

cho bản trường ca quần đảo

tùy nghi tùy hứng tùy tâm

đặng ra tác phẩm xứng tầm nước non

 

hay dở nào vẫn cần

Chuyền thống vững nền

vẹn toàn Bản xắc

Giân tộk Đạy trúng

Kách tân Toàn kầu

                               nhé

 

cũ mới gì luôn phải

yêu Tổ quốc quý đồng bào

thương nhớ biển đảo dạt dào nhớ thương

                                                                   nha       

 

(cùng chốt khẳng định ngay và luôn

một và chỉ một điều tiên quyết

Trung tâm tạo bởi lục bát trên

không ở đâu và không khi nào

bị phá hay bị hủy

bị xóa hay bị bỏ

vi phạm dù trong nghĩ suy

đã là hỏng hết bánh kẹo[147])

 

tà la tùm lum

cứ dzậy cứ dzậy

tùm lum tà la

và hơn dzậy nữa

 

bí kíp chỉ là

yêu Tổ quốc yêu đồng bào

thương nhớ biển đảo dạt dào nhớ thương

 

Cuối cùng mách nhỏ nước đi chính

 

chương đầu Thủ

chương cuối Vĩ

 

như nhà ngươi

thoáng nhận ra

cốt lõi gốc
khi đau đáu

dựng khung bài

tự sướng mãi

trường ca tư liệu

Quần-đảo-tráo-tên

 

hậu sinh khả úy

khà khà khà

nghe rõ chửa

tiến hành nào

ngay và luôn

khả úy hậu sinh

tin thì tin không thì thôi

trường ca trường cốc để đời mới ngoan

 

*

… Dám thưa mọi cao kiến

Tiền nhơn dạy trong mơ

kẻ hèn xin lĩnh hội

đội muôn lời tri ơn

 

riêng dàn bài Thủ - Vĩ

nhọc nhằn quá đỗi em chã[148] dám theo

chí khí đành rằng cũng uất phết

giang hồ mê chơi hên mà chưa quên quê hương

ngặt nỗi tài thấp phận thấp thần thế cũng thấp thân thể càng thấp[149]

em chã dám thật tình em chãdám

 

Thưa vâng

       quả có vậy

trường-ca-ca em may bữa đó Phật độ buông tay chỉ trăng mà trỏ cho vật báu

 

rằng

Vật-nuôi-cưng khốn khó

Hai-quần-đảo một-Tổ-quốc

trong thập niên qua sở hữu

Thủ và Vĩ

              hai kiệt tác

viễn kiến kèm tâm huyết

chưa kể nội dung nội hàm nội lực nội công cùng những miếng mảng thi pháp

 

trường-ca-ca em đây

    như Tiền nhơn cũng tỏ

làm sao đủ vốn sống kiếp này

thẩm thấu

      viễn kiến

      tâm huyết

      nội dung

      nội hàm

      nội lực

      nội công

chất chứa nơi hai kiệt tác

 

kiếp sau tà tà tính tiếp

     (chẳng nhẽ món nợ quần đảo di truyền tới tận hai kiếp)

 

Quả có vậy

                 thưa vâng

hai ông-thần

hai tác giả

hai tác phẩm tầm thủ-vĩ

 

Thủ

Đảo Chìm[150]

của một ông thần-thơ mà có nhẽ ba phần năm dân số nhẵn mặt trơn tên[151] bởi nước ta là quốc gia thi ca có hạng

 

La Meurtrissure - Painful Loss[152]

(tạm dịch Nỗi Mất Mát Bầm Gan)

của một ông thần-hoàng mà nếu một phần năm dân số làng-nước-nam còn chưa tường tên tỏ mặt thì người làng-nước-nam ta chưa thể gọi là yêu người yêu nước

 

Đó

     Top 2 trong Tứ Đại Danh Tác Biển Đảo Nước Nam[153]

     (cực kỳ oách

     oách vô cùng Tổ quốc ta ơi[154])

 

 

5.2   TỪ TIỂU-THUYẾT-THỜI-SỰ ĐẾN TRƯỜNG-CA-THỜI-SỰ                       

 

Hoa nhà trồng được không nhẽ không trưng

          phí rượu phí hoa

chả ưa chém gió chỉ ham gom tí tẹo gợn khí cho chuyện biển đảo nước non thành bão

 

… Mươi năm trước vẫn đề tài lớn vô cùng (cũng Tổ quốc ta ơi)

chuyện dài ngàn năm vui buồn ân oán bên này bên ấy

trường-ca-ca ta nom vớ vẩn thế thôi vẫn gồng mình còi ráng sức mọn đặng ra nổi một cuốn sách[155]

 

văn ích ra phết chứ chả chơi[156]

(đây đâu ở không

ném chữ xem tăm

uổng gỗ cây rừng

bla bla bla bla[157])

 

tiểu-thuyết-thời-sự

chả giống bố con nhà nào từ trước đến lúc ấy hẳn nay vẫn thế

hơi bị oách

(thì cứ nống lên oách đi

         mất gì của bọ[158])

 

Giờ tới cái trường-ca-thời-sự 

mang khá nặng đẻ khá đau

 

cùng tựa nền đất chung nhưng là cây độc lập

(may sao vẫy dụ được không ít quý bạn đọc kéo đến nhòm ngày hóng đêm

lại nống lên rồi hì hì

                              bọ chả mất gì)

 

cây mới này

không um tùm xum xuê rậm rì lằng nhằng chuyện quan hệ hai quốc gia láng giềng dằng dai chinh chiến mà một bên rành rành bị bên kia xâm lăng xâm lấn xâm lược xâm phạm xâm hại xâm đoạt xâm cướp xâm nhập suốt dăm thiên niên kỷ qua[159] cho tới vụ Giàn khoan

 

cây mới này

chỉ đau đáu chăm chăm nhăm nhăm nhằm nhắm một hướng vươn thẳng băng

quanh quanh hai đại biến cố đại dương

                                                     hai quần-đảo-bị-tráo-tên

            tức ta tức tưởi…

 

 

*

… Không phải áo thụng vái áo thụng đâu

vẫn cứ kể một trùng hợp

thể nào cũng có bạn ít nhiều khoái tỉ

 

các cụ đồ xưa dạy chí nhớn tìm nhau

“les beaux esprits se rencontrent”[160] (ngài văn hào tây nọ cũng từng phán thế)

chí trường-ca-ca bằng con chấy cọng rau

chả hiểu sao ba cái chuyện thời sự dẫn đụng voi rừng cành gộc[161]

 

Số là thế này

chương khai mở tiểu thuyết thời sự Trung-Việt Việt-Trung

hình thức và nội dung y chang một truyện ngắn ngon lành riêng rẽ

Chuyện Tổ Quốc Moving Bất Thành[162]

 

tóm tắt truyện như vầy

(thôi thì cứ văn xuôi thẳng băng cho sớm chợ quê

thơ thẩn vần vèo âm điệu rách việc lê thê 

xuống chữ lên dòng nhọc hơn lão nông lên bờ xuống ruộng)

 

Là người gốc Vượt Nam định cư tại thành phố biển Hongcouver, thi sĩ Đậu Phủ đau đáu hoài về thân phận ngàn năm nhược tiểu của đất nước quê nhà dưới ách ngoại xâm bởi nước láng giềng Chung Huê.

Một trong các dự án bất thành của thi sĩ là chương trình moving toàn bộ tổ quốc Vượt Nam sang xứ Calada - quốc gia hiện đại và văn minh đầu tiên, và cũng là chủ nhân ông vĩnh viễn của nửa địa cầu phía Nam với 34 thứ nhân quyền (nhưng không có quyền gây chiến và quyền làm thơ).

Truyện ngắn được diễn tiến trong một bối cảnh thường niên suốt hơn thập kỷ của các chiến dịch hải chiến đối phó với nạn châu chấu từ đại lục xâm lấn hải đảo cửa ngõ Vượt Nam…

 

*

… Không phải áo thụng vái nhau đâu

vẫn khẳng định bạn hiền tri kỷ

cùng chung một họ lại có tầm nhìn liên tài

vạch trúng cái hồng tâm ở ta về lối viết[163]

tài thật tài thật tài đến là cùng tiên sư anh Thi Pháp[164]

 

Thề có sóng biển đông quật ngửa (nhưng rồi lại cho lồm cồm bò dậy được ngay)

nếu ta nói điêu điều chính ta cũng không tin ta

 

viết được hai phần ba (đúng ra ba phần tư nhưng viết vậy cho hiệp vần a)

của trường ca

về hai quần đảo của chúng ta

tác giả là ta mới sực nhớ ra

bài bạt mang tầm cặp đôi huyền thoại Tử Kỳ - Bá Nha

dạo ấy nằm lòng mà nay mới sém già đã suýt quên hết cả

ha ha ha

 

Thề phát nữa có gió biển đông cảnh báo

nhập cuộc trường ca đây ta đâu dám dòm lại pho tiểu thuyết oách một thời

mỗi tác phẩm tử tế nào chịu ôm phận sái hai

khi chính người viết đã trót ẵm tính từ tử tế cho thanh danh tác giả

 

A nhưng này

riêng lối viết gần như mặc định

(đời thằng nhà văn nhà thơ được nuôi báo cô

trời cho với tới một lối viết riêng

đã có thể sướng như điên vợ khen ngỏm củ tỏi được rồi

đổi xe đổi vợ đổi nhà

đổi nghề đổi sếp chốc đà phút giây

đổi thi pháp chuyện tháng ngày)

 

Và thế là cũng rất

vô tình

(thật lòng đấy khỏi thề bồi nữa nhé

sóng và gió biển đông Tổ quốc đang bận nhiều đại sự tày trời)

 

ta nhi nhiên xài xể nơi đây

 

thi pháp đại dương

 thi pháp đại dương

  thi pháp đại dương

trường ca quần đảo

 trường ca quần đảo

   trường ca quần đảo…

 

 

5.3   ĐIỆP KHÚC

    

… Bạn đã nghe về hai trận hải chiến xa xưa?

Bạn đã biết ai đã thua cả hai lần giữ nước?[165]

 

 

CHƯƠNG 6

Vĩ độ  

 

 

6.1  HAI CHUYỆN TÌNH HAI QUẦN ĐẢO         

 

Trường-ca-ca choàng tỉnh thức

sóng vỗ ru bờ đong đưa

ý như muốn bảo rằng chưa

bình minh mới còn nhu nhú

 

6 đồng hành nữ chung phòng

giường tầng hẳn đương say nồng

chiều qua liên hoan đằm thắm

sắp tạm biệt đảo buồn lắm

 

mười ngày trôi một chuyến đi

thâm nhập thực tế hiếm khi

hải trình 1000 hải lý[166]

biển là quê đảo là nhà[167]

năm chục chàng nàng thi sĩ

văn sĩ nghệ sĩ họa sĩ…

 

… Nàng thơ nghiêng người ngó cửa

còn khép kín gió động lay

ngoài ấy chàng sĩ quan trẻ

đêm qua đứng gác trao tay

 

quờ lên áo choàng ngực trái

tấm huy hiệu thép lạnh sắc

theo hơi búp hồng mềm ấm

nữ sĩ vuốt vuốt vuốt vuốt

 

bản thảo trường ca quần đảo

khung bài phác từ đất liền

cả năm trước ngày xuất phát

ý tưởng nuôi dưỡng triền miên

 

nhưng đến nơi nàng lăn tăn

viết sao thấm máu biển xanh

suốt trời thẳm xương tiền bối

bao đời trấn giữ vang danh…

 

… Quay đầu lướt gió con tàu

dần dần khuất mặt trời đâu

giàn khoan đâu bãi đảo đâu

bàng dừa bão táp phi lao

cánh tay họng pháo một màu

 

trời biển ơi[168] thoắt trào dâng

sóng lòng cả trăm nhân mạng

cười khóc than kêu vui sầu

mươi phút trước giờ ly biệt

 

biển trời ơi bỗng lặng yên

bao nhiêu chàng nàng sĩ sĩ

bấy nhiêu cái đầu muốn rủ

bấy nhiêu cái nhìn vô biên…

 

Chợt trường-ca-ca thảng thốt

cúi ngực trái ngó trân trân

sao thế này ơi trời biển

nàng giật tấm huy hiệu đỏ

 

giơ lên soi khóc đây rồi

con hằng cầu biển trời ơi

quần-đảo-bị-tráo-tên đó

đã về phục sinh Chúa tôi

 

đoạn nàng quay sang những người

kề bên ngắm soi ngực trái

lắp bắp lắp bắp xin lỗi

thế này sao trời biển ơi…

 

… Thì ra quả là duy nhất

cái của nàng trường-ca-ca

sau chữ “Huy hiệu chiến sĩ…”

là tên quần-đảo-đi-xa

 

tất cả mọi người tất cả

những kỷ niệm chương vuông đỏ

xanh dương huân chương quân chủng

hai hàng chữ vàng vẫn nổi

 

một dòng “Huy hiệu” sáng bừng

một dòng “Chiến sĩ” kèm tên

chính danh quần đảo sa trường

Tổ quốc đang giữ chặt lòng

mà đoàn sĩ sĩ vừa thăm…

 

… Cả tàu sóng lại trào lên

trăm nhân mạng tay nhanh truyền

vuông đỏ tấm huy hiệu đó

quần-đảo-bị-mấtngời tên

 

vị Trưởng đoàn Chuẩn đô đốc

nhè nhẹ đỡ khẽ nâng nâng

những ngón tay sần rám sạn

chiều qua rung cài nơi ngực

5 chàng nàng sĩ đại diện

(có trường-ca-ca hiển nhiên)

 

tướng quân cả cười trong gió

“cánh văn nghệdzui quá ta

đùa dai như là quỷ ma

bái phục quý cô quý bà”

 

bay bay mái tóc muối tiêu

Chuẩn đô đốc dần xuống giọng

“thiệt lòng mỗi lần gắn tặng

qua cũng xốn xang nhiều nhiều

 

cứ nhủ bao giờ tới nhỉ

ngày chủ quyền trả về ta

để trao tấm bằng kỷ niệm

vàng tên quần-đảo-đang-xa”

 

hu hu tướng quân nghệ sĩ

còn hơn nhiều đám sĩ sĩ

lệ dào nhòa gương mặt bóng

thơ ngây tỏa tựa hài đồng…

 

Đoàn tàu HQ 23

lặng lẽ đường về quân cảng

nghĩ tới quần-đảo-vắng-nhà

chẳng ai còn tâm tư hỏi

 

kỳ diệu nhãn tiền xảy ra

tên quần đảo đây đang còn

tên quần đảo kia đã mất

hô biến hóa thân biển biết…

 

Vĩ thanh 1:

 

… mô Phật ạ đơn xin nhận kỷ luật đồng kính gởi các cơ quan chức năng tui là nữ họa sĩ thị màu thành viên kiêm phụ trách nhóm họa sĩ khối văn nghệ sĩ trong đoàn công tác liên danh đột xuất đặc biệt số 13 để tham quan tặng quà động viên và không thể thiếu là sáng tác về biển đảo theo con tàu HQ 23 mang tên hải lý (và sau chuyến đi hai chúng tôi tha thiết ước mong con tàu nhân duyên này được đổi tên thành tình-hải-lý hoặc chí ít thành lòng-hải-lý lý do xin sẽ giải trình ở dịp khác trong vòng một năm tui xin hứa)

 

mô Phật ạ dạ vâng nữ họa sĩ thị màu tui đang viết đơn ngay trên boong tàu HQ 23 vì e rằng khi về đất liền sẽ tạo nghiệp chướng do hành động nghịch dại trẻ trâu không xứng với xương máu mồ hôi của các chiến sĩ đồng bào đã đang và sẽ còn hy sinh mất mát vì hai quần đảo pháo đài tiền tiêu thiêng liêng vô ngần thân thương hết đỗi trên lãnh hải Tổ quốc

 

mô Phật ạ số là khuya hôm qua khi mọi người trong đó có nữ thi sĩ trường-ca-ca đang ngon giấc nồng say để sáng nay còn trở về đất liền kết thúc hai tuần sôi động thì cái đứa gây tội lỗi là thị màu tui đã len lén tháo tấm huy hiệu khỏi áo khoác mà nhỏ trường-ca-ca đang mặc và rồi mau lẹ âm thầm thay tráo các chữ tên quần đảo của chúng ta đang còn bằng tên quần đảo cũng của chúng ta đã mất

 

mô Phật ạ đó là tại bởi 4 lý do mà lý do nào cũng chính đáng

 

mô Phật ạ lý do thứ 1 nhỏ trường-ca-ca lúc đó còn là bồ của tui thì tui mần chuyện chi chi với nó cũng từ bổn phận cùng trách nhiệm của tình yêu lứa đôi trong tình đồng nghiệp văn nghệ sĩ xen tình đồng hành công tác thực tế

 

mô Phật ạ lý do thứ 2 mười bốn ngày qua nữ sĩ trường-ca-ca sống dở chít dở với bản trường ca dang dở của mình khi nó giở chứng theo cái tính khí thất thường mà đám thơ thẩn đứa nào cũng sở hữu tức là trường-ca-ca đã thay tráo chủ đề chính của bản trường ca từng được cấp trên xét duyệt (nói về binh tình biển đảo chung chung với điểm nhấn tất nhiên là về quần đảo đang được tham quan) trở thành chủ đề về quần-đảo-đang-xa (nữ tác giả đã nhập vai đến mức mấy đêm qua tui nằm trong tay nó thay vì nói mớ âu yếm gọi tên tui như bao đêm trong đất liền thì nó đều thê thiết kêu tên quần-đảo-đi-xa)

 

mô Phật ạ lý do thứ 3 tui cũng nghĩ giống nhỏ bồ về quần-đảo-vắng-nhà nên thấy phải làm gì tại đấy lúc đó ngoài việc vẽ nặn mấy cái tranh tượng dễ ợt về quần-đảo-đang-còn cũng cần thiết nhưng các đồng nghiệp khác đã nặn vẽ cả rồi

mô Phật ạ lý do thứ 4 hơi bị tế nhị nhạy cảm nên tui xin trình bày dài dòng à nha vâng cũng vẫn cái sự riêng tư nhỏ như con thỏ đặt cạnh chuyện chủ quyền đất nước to tựa con voi rằng tôi chút phận đàn bà (dù dính chút song tính) ghen tuông thì cũng người ta thường tình chuyện là vầy lúc đó tui đang giấc mộng ngon lành cành bàng vuông (hình chiếc bánh chưng[169]) trên bắp tay trần mập khỏe mà vỡn ấm mềm của trường-ca-ca thì bỗng dưng nó tung mền vùng dậy vội đội nón cối nhanh cài dép râu để mặc tui nằm xụi lơ gần như hổng mảnh che thân (dẫu hổng còn tơ vâng tui biết cái tấm thân già dở của mình lắm) rồi xăm xăm băng lối vườn (rau các chiến sĩ ta trồng xanh rờn quanh đảo nơi mà đến một cái gai cũng không sống được[170]) khuya một mình[171] ra ngoải mần chi đó tới tận 23 phút lận và khi vào nó chả thèm thanh minh thanh nga thanh tâm tuyền gì sất cứ hồn nhiên bảo là nói chuyện chia tay với chàng trực ban thiếu úy bọ (thiệt tình đây là đơn từ nghiêm chỉnh đâu phải chốn chợ Phây chém gió chứ cấp bậc lùn như rứa dưới tầm đại bác của nữ họa sĩ thị màu tui à nha) nhưng phải công nhận chàng nầy cực bô trai gấp hai lần deyanov thể hình chuẩn dài dai lại trẻ hơn nàng ta tới dăm ba tuổi họ vừa mới cặp chỉ qua mấy ngày trên đảo tui biết thừa mà cứ phải mần thinh hu hu

 

mô Phật ạ trong khi tưởng tượng các kịch bản đã xảy ra (dù không thèm hỏi nhưng tui đoán cùng lắm là chia tay kiểu vũ uyên thời uýnh mẽo bao cấp “phút đưa nhau ta chỉ nắm tay mình điều chưa nói thì bàn tay đã nói mình đi rồi hơi ấm còn ở lại còn bồi hồi trong những ngón tay ta[172]) chớ đâu dám liều chết đến mức chia chân chia đùi như đám 4.0 bây giờ vì tui được một thượng cấp tầm trung ương quản lý bật mí riêng rằng kỷ luật thép trên đảo ấy nghiêm bậc nhất toàn quân chủng đúng thế không nghiêm ngộ nhỡ bên bển họ phóng thả người nhái mỹ nhân kế sang đánh úp đảo giữa đêm à) rồi đang xảy ra và sẽ xảy ra với hai người

 

mô Phật ạ tui liền nổi cơn tam bành nhưng nhờ Phật độ chỉ trong 23 sát na thôi nên không thể có phản ứng phụ như “tiếng gọi lính mịt mù bão cát tiếng gọi lính từng giây khẩn thiết”[173] để phải nén lại lặng lẽ mần thinh (như cả chục lần từng mần thinh trước chục lần quá đáng của nó trong suốt mấy năm qua với đỉnh cao xảy ra ngay đêm trước hôm xuất hành ra đảo chứ đâu xa)

 

mô Phật ạ thế là tui quyết định bày chuyện (thực ra ủ mưu từ mấy hôm trước lận) chọc chơi nữ sĩ trường-ca-ca bằng tay nghề của một nghệ sĩ đồ họa có số má hẳn hoi lại con nhà nòi hành nghề phố làm bạc đô thành rồi mang nghề vào hòn ngọc viễn đông như tui thì việc chế tạo đảo tráo gắn tháo vài con chữ kim loại trên huy hiệu trong nửa tiếng đồng hồ chỉ là muỗi

 

mô Phật ạ trên đây là sự thật toàn bộ sự việc trẻ trâu vừa xảy ra rất không tương xứng với sự kiện và địa danh giữa đại dương phên dậu bao la hùng thiêng trong dòng sinh mệnh dân tộc ngàn đời

 

mô Phật ạ kính mong các cơ quan chức năng trong ngoài nghệ thuật trên dưới quân đội giữa chính quyền tâm đoàn thể hãy xét đơn cho tui được lãnh kỷ luật đích đáng nhất và lời trước cuối cùng của đơn là tui yêu nhỏ trường-ca-ca này có sóng gió làm chứng tui yêu hai quần đảo này huy hiệu đỏ cãi cho tui[174]

 

chào thân ái và quyết lãnh kỷ luật đích đáng nhất (mà từ đó 4 chúng tôi sẽ như 4 hònđảo tìm nhau xếp lại đội hình”[175]) đa tạ mô Phật ạ

 

Vĩ thanh 2:

Một năm sau…

 

Biển một bên em một bên[176]

tin hồng thực ra chẳng mới

phây mạng từng tưng bừng đăng

đẹp duyên phụng loan cầm sắt

cô dâu họa sĩ xinh tài

chú rể nguyên Chuẩn đô đốc

cả hai tân gái tân trai

biển một bên anh một bên…

 

… Kết cho toàn bộ chương hồi

từ cuộc tráo tên huy hiệu

tới chuyện song hỷ tướng - sĩ

nữ sĩ - thiếu úy thành thân

tất cả không có gì lạ

vẫn chuyện thường ngày ở huyện[177]

dẫu là huyện đảo sa sa…

 

 

6.2   BÊN LĂNG ÔNG CHỜ RA BIỂN       

 

Mỗi lần về thăm hòn ngọc

viễn đông tên gọi chưa xa

thường ngụ nơi phố hoàng đế

đầu tiên của quốc gia ta

 

sau hơn ngàn năm trển thuộc

đại cồ bốn cõi từ rày

tự chủ chính thống độc lập

vương triều chính thể tới nay

 

Nhà cách hai đường song hành

tiền tiêu nhị danh quần đảo

vài trăm thước tây chim bay

xe ôm lòng vòng thoải mái

mươi mười lăm ngàn xong ngay

 

Nhớ đận 20 năm trước

sình thối kênhđen phát khiếp

hổ danh tên vàng tên cát

nay bộ đôi đàng hạng nhất

 

cây cối xanh màu tràn ngập

đôi bờ vườn cảnh hoa tươi

ô kìa như lửa huệ chuối

xưa ai qua đều bịt mũi

 

gái trai hẹn hò đưa rước

thể dục sớm U90

điểm lý tưởng dân thư giãn

tệ nạn đi chỗ khác chơi[178]...

 

Lần rồi tái thăm hòn ngọc

viễn đông để ngóng viễn dương

đầu nằm ghếch lên tên thật

chân hóng nơi bị mất tên

 

… Kể luôn sự nầy nhân thể

mấy dịch vụ xe công nghệ

thông tin cập nhật chậm trễ

cứ xài tên phố hoàng đế

 

bao bận dở công lỡ việc

trùng lặp mới cũ tùm lum

đường sá tên đổi triền miên

ấy cái nước mình nó thế[179]...

 

trước thời 1975

đạo lộ suốt từ lăng ông

cho chí đầu cầu hoa bông

vang danh tả quân lẫm liệt

 

bỗng ngày 14 tháng 8

năm tái thống nhất sơn hà

tên đại lộ liền bị đổi

nối danh vị tổ tiên hoàng

(dài theo con đường quận 1)

 

mãi nhờ giỗ Ông lần thứ

188 quả thật may

16 tháng 9 năm hai

ngàn hai mươi thì lại được

 

phục hồi tên cũ là đường

mang danh hai lần tổng trấn

(chưa kể quận kế kề trên

cũng vác tên ông đường khác[180])…

 

Bất quá tam trường-ca-ca

vô lăng lạy Ông vái Bà

phẫu thuật ô kê bà xã

tiền trúng số đủ tậu nhà

(quẻ đầu đậu ngay lần đó

xăm sau chắc hổng còn xa)

 

mới rồi khờ biết gì đâu

vừa lạy khấn đầu mấy câu

vừa xin viễn hành hải đảo

ổng mắng quân bây ngu lâu

(tội kia phải đáng thiến… đầu)

 

tụi tau mở khai bờ cõi

ngon lành hơn cả cành đào

dọc xứ nam kỳ chiến địa

yên hàn thịnh vượng làm sao

 

tau mà còn gươm tổng trấn

(à nay tổng trưởng đại tướng)

quần đảo kia mất sao đành

mà trót ngu rồi để mất

thu hồi tính sổ cao xanh…

 

… Lần tiếp tái hồi hòn ngọc

viễn đông sẽquá vãng thăm

tứ cố lăng ông mộ bà

mộ bà lăng ông tứ cố[181]

 

 

6.3   ĐIỆP KHÚC

 

… Bạn đã nghe về hai trận hải chiến xa xưa?

Bạn đã biết ai đã thua cả hai lần đánh giặc?[182]


(Còn tiếp)



[144] Theo chữ thơ Chế Lan Viên (Bài Bể Và Người, Tlđd).

[145] Theo “Xáo chộn chong ngày” (Thơ Bùi Tr/Chát).

[146] Theo quan niệm chung về nghệ thuật Hậu hiện đại.

[147] Thành ngữ hiện đại.

[148] Thành ngữ hiện đại.

[149] Theo “Tài cao, phận thấp, chí khí uất / Giang hồ mê chơi quên quê hương” (Thơ Tản Đà).

[150] Tập truyện-ký của nhà thơ Trần Đăng Khoa xuất bản lần đầu năm 2000 (từng được nhà văn Lê Lựu đánh giá là "thần bút"). Sách gồm 2 phần: Phần 1 mang tên Đảo Chìm có 16 truyện ngắn về những người lính Quân đội Nhân dân Việt Nam tại quần đảo Trường Sa mà nhà thơ đã gặp gỡ trong thời gian đóng quân ở đấy; tên Phần 2 là Thời Sự Và Ký Ức. Dung lượng cuốn sách chỉ gần 100 trang in. Từ đó đến nay, tháng 6/2024, sách được tái bản tới lần thứ 45 - một kỷ lục trong xuất bản ở Việt Nam. Tác giả tự đặt tên thể loại cho Đảo Chìm là tiểu thuyết mini. (“Đảo chìm” wikipedia.org 14/3/2024).

“Chẳng ai có thể kể tường tận diễn biến cốt truyện theo lẽ thông thường: Nhân vật chính là gì, cốt truyện ra sao, diễn tiến thế nào… Nếu có kỳ công xâu chuỗi, móc nối, thì chính người kể sẽ thấy sự rời rạc, gò ép trong ngữ điệu của mình. Nhưng nếu để “Đảo Chìm” ùa ra trước mắt, qua từng chương, từng chương sẽ cười rinh rích, cười rung cả rốn, rồi lại ầng ậng ở mắt, nghèn nghẹn ở cổ, và với người mau nước mắt có thể nấc lên khi dòng cuối cùng của cuốn sách này khép lại. Một lần như thế. Và lần sau lại như thế.” (“Trần Đăng Khoa riêng một Đảo Chìm”; Anh Thư, giaoducthoidai.vn 20/6/2024).    

[151]Nói xấu” nhà văn”; Nguyễn Hữu Quý, vannghequandoi.com.vn 13/9/2024.

[152] Tên bản tiếng Pháp-Anh của bộ phim “Hoàng Sa – Việt Nam: nỗi đau mất mát” (nguyên bản tiếng Pháp “Hoang Sa Vietnam - La Meurtrissure”). Phim dài 59 phút với nội dung nói về cuộc đời hàng ngày của ngư dân huyện đảo Lý Sơn và huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, bám biển sinh nhai và giữ biển cho Tổ quốc Việt Nam. Ba trọng điểm của bộ phim: 1. Hoàn cảnh cực kỳ gian khó và hiểm nguy của việc hành nghề biển xa bờ tại vùng quần đảo Hoàng Sa khi họ bị bắn giết, cầm tù bởi hải quân Trung Quốc; 2. Những phụ nữ ngư dân đã phải hy sinh gấp bội khi chồng con, anh em của mình đang vật lộn nơi sóng gió nguy nan; 3. Đời sống tâm linh qua các mộ gió, lễ hội nhắc tới các Đội Hoàng Sa có từ thế kỷ thứ 17 trước cả thời vua Gia Long.

Tác giả của bộ phim này có họ tên kép André Menras - Hồ Cương Quyết khi ông trở thành công dân song tịch Pháp-Việt vào năm 2009 của Việt Nam. Năm 1968 từ Pháp tới Việt Nam dạy tiếng Pháp, với tinh thần phản chiến đứng hẳn về phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam; năm 1970 A. Menras đã cùng một người bạn leo lên tượng Thủy quân Lục chiến ở Sài Gòn để treo cờ Mặt trận, rải truyền đơn đòi Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam, và bị xử tù ba năm. Ra tù, bị trục xuất về Pháp ông tiếp tục tranh đấu vì nền độc lập và thống nhất của Việt Nam; và quay trở lại Việt Nam hoạt động mạnh mẽ hơn khi giới cầm quyền bành trướng Bắc Kinh có những hoạt động hiếu chiến trên Biển Đông, nơi họ đã chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974, và tàn sát 64 chiến sĩ Việt Nam tại đảo Gạc Ma - quần đảo Trường Sa năm 1988. André đau lòng nhất là về điều kiện sống và đấu tranh của ngư dân miền Trung Việt Nam. Tên cuốn phim nói lên “nỗi đau” của chính người viết kịch bản và đạo diễn - André Menras-Hồ Cương Quyết.

(Hồ Cương Quyết, vi.wikipedia.org 19/1/2024); “Hoang Sa La Meurtrissure” & “Hoàng Sa Việt Nam: nỗi đau mất mát”, youtube.com 30/10/2011; “Bộ phim “Hoàng Sa Việt Nam - Nỗi đau mất mát” bị cấm tại TPHCM?”, rfa.org 30/11/2011; “Giao lưu với André Menras - Hồ Cương Quyết, tác giả bộ phim tài liệu “Hoàng Sa – Việt Nam: Nỗi đau mất mát”, vanviet.info 10/7/2014; “Hoàng Sa - Việt Nam: nỗi đau mất mát”, tuoitre.vn 12/7/2014; “Chiếu phim tài liệu “Hoàng Sa - Việt Nam: Nỗi đau mất mát”, dangcongsan.vn 11/7/2014; “Lên đỉnh vinh quang rồi bị lãng quên như đồ phế thải” - Trích một chương hồi ký “Vietnam, entre le meilleur et le pire” sắp xuất bản - André Menras, diendan.org 12/5/2024).

 

[153] Tham khảo: “Danh sách các tác phẩm được trao giải thưởng sáng tác về Biên giới, biển đảo - Đợt 1” (vanvn.net 24/11/2020):

- Hạng Mục Tôn Vinh (12 giải): Không phải trò đùa (Khuất Quang Thụy); Huyền thoại tàu không số (Đình Kinh); Trường Sa kỳ vĩ và gian lao (Sương Nguyệt Minh); Biển xanh màu lá (Nguyễn Xuân Thủy); Trường Sa trong mắt trong (Nguyễn Mạnh Hùng); Nậm Ngặt mây trăng (Nguyễn Hùng Sơn); Tình không biên giới (Kim Quyên); Tổ quốc nhìn từ biển (Nguyễn Việt Chiến); Đảo chìm, Hơi thở rừng Hồi (Vương Trọng); Sóng trầm biển dựng (Đoàn Văn Mật); Hạ thủy những giấc mơ (Nguyễn Hữu Quý); Nơi khôn thiêng của biển (Lương Hữu Quang).

- Giải Nhất (4 giải): Đảo chìm Trường Sa (Trần Đăng Khoa); Mình và họ (Nguyễn Bình Phương); Ba phần tư trái đất (Thi Hoàng); Từ biển mà đi, Thơ viết về biển, Mộ gió (Trịnh Công Lộc).

- Giải Nhì (10 giải): Khúc tráng ca về biển (Chu Lai); Hòn đảo phía chân trời (Trần Nhuận Minh); Sóng Cửa Đại (Võ Bá Cường); Dòng sông chối từ (Bùi Việt Sỹ); Nước non mặt biển (Nguyễn Quang Hưng); Mang quê ra đảo (Nguyễn Thị Mai); Gửi bạn bè làm xong nghĩa vụ (Phạm Sĩ Sáu); Dưới mặt trời (Nguyễn Hoa); Tiếng chuông chùa trên đảo (Lê Quang Sinh); Ly cà phê đại dương (Nguyễn Thanh Mừng).

- Giải Ba (18 giải): Biển xanh (Chu Văn Mười); Đi qua Gạc Ma đến đảo Sinh Tồn (Lê Hoài Nam); Dòng chảy cuộc sống Trường Sa (Võ Thị Xuân Hà); Nhật ký hải trình nhà giàn (Phan Mai Hương); Những đứa con của đất (Mai Nam Thắng); Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển, cung đường bất tử (Vũ Thanh Sơn); Xà Xía không xa xôi (Ngô Thế Trường); Hồn biển (Nguyễn Văn Đệ); Lốc rừng (Vũ Quốc Khánh); Sa Mộc (Phạm Vân Anh); Tổ quốc đường chân trời (Nguyễn Trọng Văn); Những ngọn sóng vỗ từ tâm thức Việt (Nguyễn Thị Lan Thanh); Lão ngư Kỳ Tân (Bùi Minh Vũ); Ngang qua bình minh (Lữ Mai); Tìm trầm (Nguyễn Thị Vân Anh); Đất đi chơi biển (Phạm Đình Ân); Bên bếp lửa Trường Sa (Nguyễn Hưng Hải); Lốc biển (Nguyễn Minh Khiêm).

- Giải thưởng cho tập thể (7 giải): Báo Văn nghệ; Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam; Tạp chí Nhà văn và tác phẩm; Tạp chí Văn nghệ Quân đội; Trang Web Hội Nhà văn Việt Nam (Vanvn.net); Tạp chí Thơ; Tạp chí Hồn Việt.

(“Hội Nhà văn Việt Nam trao Giải thưởng Sáng tác về biên giới, biển đảo”, nhandan.vn 22/11/2020).

[154] Theo “Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi” (Thơ Tố Hữu).

[155] "Trung-Việt Việt-Trung"; Đỗ Quyên, tiểu thuyết thời sự, 2016.

[156] Theo “"Có văn có ích, có văn chơi” (Tản Đà).

[157] Tlđd.

[158] Phương ngữ miền Trung.

[159] “Tính ra, nhân dân Việt Nam đã tiến hành hơn 210 cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc. Thời gian chống ngoại xâm lên đến 12 thế kỷ, chiếm hơn một nửa thời gian lịch sử. Hầu như không có thế kỷ nào Việt Nam không phải kháng chiến chống xâm lược. [...] Hơn 210 cuộc chiến tranh [ngoại xâm và nội thù trong] 4 nghìn năm thì trung bình 19 năm 1 cuộc. Nói như Lão Tử và Platon [...] dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không lúc nào có tình trạng hoà bình trong lòng mình.” (“Một đất nước chiến tranh”; Đoàn Công Lê Huy, phaphoan.com 23/4/2024).

“Chúng ta có lúc chìm trong bóng tối phương Bắc cả mười thế kỷ, như nằm trong bụng con trăn khổng lồ.” (“Nhà văn Nguyễn Bình Phương: Dân tộc mình xứng đáng có tương lai tốt đẹp!, tuoitre.vn 1/9/2024).

[160] Voltaire (1694 - 1778).

[161] “[...] Mao Trạch Đông qua đời [...] làm tôi nhớ có lần anh Trần Bạch Đằng nói sau sự kiện Hoàng Sa tháng 1.1974. Anh nói, muốn thoát cảnh “núi liền núi sông liền sông” thì phải lấy xà beng xắn cái dải đất hình chữ S cho xà lan kéo đi chỗ khác.” (“Gặp chị ở Mátxcơva”, nguoidothi.net.vn 28/5/2024).

[162] Mươi năm qua "Chuyện tổ quốc moving bất thành" đã được in ấn theo nhiều phiên bản (như vanchuongviet.org 2/6/2014, damau.org 9/6/2014, vanviet.info 5/72014, trieuxuan.vn 11/5/2020  cùng một số địa chỉ nay không còn truyenthong.info, giangnamlangtu.wordpress, nhattuan, và gần nhất là trong sách Trung-Việt Việt-Trung) với nhiều tu chỉnh câu chữ, trường đoạn, thông tin. Điều khác nhau chủ chốt giữa các bản thảo là ở tên vài địa danh chính: Kanada / Calada; Đại Việt / Vượt Nam; Trung / Chung Huê... Vào năm ngoái, bản chót - hiện chưa đăng tải - đã tham dự tuyển truyện song ngữ Việt-Anh của một báo mạng văn chương ở Hoa Kỳ, và cuộc thi truyện ngắn của một tuần báo văn nghệ ở Việt Nam.   

[164] Theo “Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng! Tiên sư anh Tào Tháo.” (Trích truyện của Nam Cao).

[165] Theo “Bạn đã nghe về trận hải chiến xa xưa? / Bạn đã biết ai đã thắng dưới ánh trăng sao đêm ấy?” (W. Whitman, Tlđd).

[167] “Đảo là nhà, biển cả là quê hương” - một phương châm của Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam.

[168] “Lingik tathik lơy” - tiếng than của người Chăm, Tlđd.

[169] Thơ Nguyễn Ngọc Phú, Tlđd.

[170] Thơ Trần Đăng Khoa, Tlđd.

[171] Trích Truyện Kiều (Nguyễn Du).

[172] Thơ Lưu Quang Vũ (Bài Hơi Ấm Bàn Tay).

[173] Trích trường ca Hữu Thỉnh, Tlđd.

[174] Theo "Tôi yêu đất nước này có cỏ cây làm chứng / Tôi yêu chủ nghĩa này cờ đỏ cãi cho tôi" (Thơ Trần Dần).

[175] Trích trường ca Hữu Thỉnh, Tlđd.

[176] Theo “Biển một bên và em một bên” (Thơ Trần Đăng Khoa, Tlđd).

[177] Thành ngữ hiện đại.

[179] Ngạn ngữ hiện đại.

[181] Theo “Tam cố thảo lư” (Điển tích Tam Quốc - Trung Hoa).

[182] Theo “Bạn đã nghe về trận hải chiến xa xưa? / Bạn đã biết ai đã thắng dưới ánh trăng sao đêm ấy?” (W. Whitman, Tlđd).