Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 2 tháng 8, 2025

Lão Tạ "Quốc Dân Đảng"

 Nguyễn Xuân Thọ

Nhà tôi ở Cologne (Köln) cách Troisdorf 30 phút xe hơi. Đô thị nhỏ 75.000 dân này lại có những lò chế tạo vũ khí, cơ khí truyền thống như Dynamit Nobel, Degusa, Mannsteadt… nên rất trù phú. Mỗi lần có bạn bè ở Việt Nam sang, tôi hay dẫn đến đó thăm khu lưu niệm ông Rupert Neudeck, người sáng lập tổ chức Cap-Anamur, người đã cứu vớt hơn 11.000 người Việt tỵ nạn trên Biển Đông rồi đưa về Đức. Một chiếc thuyền gỗ của "Boat people" được tàu Cap Anamur vớt lên cũng được trưng bày ở đó. Ông bà Neudeck còn giúp một số thuyền nhân về định cư ở Troisdorf.

Shame (2011) – Chứng nghiện & cõi u tối của bản năng con người

 Lê Hồng Lâm

Cuối tuần rồi, tôi dành thời gian cho một cuộc marathon với điện ảnh: xem liên tiếp ba bộ phim xuất sắc thời đầu của Steve McQueen, một đạo diễn điện ảnh người Anh vốn xuất thân từ một nghệ sĩ thị giác rất tài hoa. Người mà ngay từ bộ phim đầu tay - Hunger (2008) đã giành được giải Camera d'Or tại LHP Cannes và thành công rực rỡ, đưa tên tuổi của Michael Fassbender tỏa sáng rồi trở thành một ngôi sao quốc tế chỉ vài năm sau đó với hai bộ phim tiếp theo: Shame (2011 - vai diễn giúp anh thắng giải Nam diễn viên xuất sắc nhất tại LHP Venice) và 12 Years a Slave (2013 – thắng 3 giải Oscar trong đó có Phim hay nhất, Michael Fassbender cũng được đề cử Oscar lần đầu tiên trong sự nghiệp).

Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2025

Vài nhận định về nhóm Mở Miệng (2005)

 Như Huy

LÝ ĐỢI, BÙI CHÁT VÀ MỞ MIỆNG NHỮNG NĂM 2000 – NHỚ LẠI 20 NĂM TRƯỚC CHO VUÔI

Vào những năm đầu 2000, văn nghệ Việt Nam rất vui. Một trong những cuộc vui thời đó, đó là sự ra đời của nhóm thơ "ngoài lề" có tên Mở Miệng, "gồm Lý Đợi, Bùi Chát, Khúc Duy, Nguyễn Quán". Để nói rộng ra, thì thời đó còn nhiều nhân vật thi sỹ hay ho khác, như Phan Bá Thọ, lớp trước thì có Nguyễn Quốc Chánh, Trần Tiến Dũng. Đó quả thực là một thời nở rộ của các thứ suy tư-ngôn ngữ phi chính thống, cả về ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng.

Chính sự nở rộ này đã tạo ra một dạng sốc tiếp nhận, không chỉ của phe chính thống, mà của chính phe phản-chính thống với nhau. Nhiều cuộc đấu khẩu, đấu bút, thậm chí có khi đấu tay chân đã xảy ra.

Các mối quan tâm từ thế giới đều đã chiếu vào các sự sôi nổi-hỗn loạn này, mà có lẽ "Mở miệng" hồi đó, đã trở thành trung tâm của spotlight.

Theo tôi có hai sự kiện quan trọng vào thởi điểm đó cho thấy điều này. Một là bài phỏng vấn của Jean Claude Pomonti với Mở Miệng.

Jean-Claude Pomonti là nhà báo Pháp nổi tiếng chuyên về Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam và Campuchia. Ông là phóng viên đầu tiên của báo Le Monde tại Đông Nam Á từ 1968, và tiếp tục sống ở đây sau khi nghỉ hưu năm 2005. Pomonti nổi tiếng với các bài báo sâu sắc về Chiến tranh Việt Nam, cải cách kinh tế và xã hội Việt Nam sau chiến tranh, nhận giải Albert-Londres danh giá. Ông được xem là nhân chứng và nhà phân tích phương Tây uy tín, góp phần giới thiệu hình ảnh Việt Nam ra thế giới qua các tác phẩm như sách Vietnam. L’éphémère et l’insubmersible.

Wiki về Jean-Claude Pomonti

https://en.m.wikipedia.org/wiki/Jean-Claude_Pomonti

Sách của Jean-Claude Pomonti về Phạm Xuân Ẩn

https://nld.com.vn/.../viet-kieu-pomonti...

https://baobinhphuoc.com.vn/.../mot-nguoi-viet-tram-lang...

Bà con cô bác có thể tự tìm bài phỏng vấn này với từ khoá "Jean-Claude Pomonti, mở miệng, Lý Đợi, Bùi Chát", trên tienve.org (trang này đang bị chặn – phải dùng vượt tường lửa nếu muốn đọc lại) [Chú thích của Văn Việt: Jean-Claude Pomonti, Thư từ thành phố Hồ Chí Minh: THƠ KHÔNG BIÊN GIỚI, https://tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=4415]

Sự kiện thứ hai là buổi đọc thơ Mở Miệng do viện Goethe tại Hà Nội tổ chức. Viện Goethe lúc đó có giám đốc là ông Xavier Augustine, rất năng nổ trong việc giới thiệu các giọng điệu mới mẻ trong nghệ thuật và thi ca Việt Nam. Cũng cần nhấn mạnh vai trò của Đinh Bá Anh, lúc đó là cán bộ phụ trách chương trình viện Goethe, một người am hiểu và có quan hệ tốt với anh em văn nghệ ngoài lề.

Tôi, Như Huy, được mời viết tham luận về thơ Mở miệng để đọc tại viện Goethe vào buổi đó. Tham luận này, sau đó đã không được đọc, cùng với việc buổi đọc thơ bị huỷ vào phút chót do yêu cầu từ phía Việt Nam (theo lời ông Xavier Augustine gọi điện cho tôi).

Nhân đang mood hồi ức, xin đăng lại bài tham luận dự định đọc tại viện Goethe khi xưa, mà theo tôi, đây chính là một trong hai bài viết chính thức đầu tiên về Mở Miệng (bài kia, cũng của tôi, đăng trước đó, ở trang talawas).

Kính

 

Một trong những đặc trưng quan trọng nhất của Mở Miệng – theo cách nhìn của tôi – chính là việc họ đã quyết định thôi không làm thơ nữa[1]. Chính đặc trưng này sẽ là chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa tiếp cận được với các thực hành của Mở Miệng trong bề mặt của văn chương trẻ Việt Nam vài ba năm trở lại đây.

Nói một cách nào đó, từ khước làm thơ không hẳn là một hành vi; đúng hơn: đó là một thái độ. Có thể nói, từ khước làm thơ, trước hết, chính là một thái độ. Thái độ này phản ánh – nhìn từ góc độ lý thuyết – một sự sụp đổ niềm tin vào vai trò tác giả như một kẻ sản xuất văn bản nguyên gin, giữ vai trò phát ngôn độc nhất và một chiều tới công chúng. Nhìn dưới góc độ văn hóa xã hội, thái độ từ khước làm thơ này của nhóm Mở Miệng phần nào cũng đã phản ánh được sự thắng thế của một xu hướng mới mẻ nơi bề mặt văn hóa xã hội Việt Nam ở thời điểm hiện tiền. Thời điểm của những đổi thay giá trị vùn vụt. Khi mà – trên cái sân khấu mới của một xã hội càng ngày càng thị dân hóa – sự xuất hiện của những mẫu người hùng mới, thay thế các mẫu người hùng cũ ở các mặt văn hóa xã hội, đã chính là các tín hiệu thông báo một sự thay đổi tận gốc rễ các giá trị.

Không khó khăn lắm để thấy rằng, nổi bật trên các nhãn báo hay các game show truyền hình – những hàn thử biểu rất nhạy cảm của nội tình văn hóa xã hội mọi quốc gia – chính là khuôn mặt của những mẫu anh hùng truyền thông mới, những kẻ đồng thời, vừa là mẫu mực, vừa là nguyên nhân, vừa tạo ra và duy trì khiếu thẩm mỹ đại chúng, mà cũng vừa chính là hệ quả của cái khiếu thẩm mỹ đại chúng ấy

Các mẫu anh hùng truyền thông mới này, như chúng ta thấy, trong âm nhạc đại chúng, thường mang những cái danh xưng sáng lóa như Ưng Hoàng phúc, Nhật Tinh Anh, Đan Trường, Đàm Vĩnh Hưng, v.v. với các tiêu chuẩn nông, dễ, mang tính sử dụng cao, loè loẹt, cùng các bộ cảm xúc đóng gói sẵn. Chính những mẫu anh hùng này đã thay thế hẳn cho các mẫu các anh hùng kiểu cũ với tiêu chuẩn là khiếu thẩm mỹ tinh tế, tác phong hướng tới giản dị thâm trầm kèm theo một định nghĩa về nghệ thuật gắn với sự đào luyện và năng khiếu như kiểu Trần Hiếu, Trịnh Thị Nhàn, Đặng Thái Sơn, Cung Tiến... Ngoài ra, các mẫu anh hùng truyền thông mới ấy còn là các mô hình lấp lánh như kiểu Lại Văn Sâm, Long Vũ, Thanh Bạch, v.v., những MC của các game show truyền hình (là dị bản của những radio game trước đây, từng được Jean Baudrillard cho là "một dạng nghi thức – cũng hệt như các buổi lễ hiến tế nguyên thủy vậy")[2] với vai trò là những "thầy pháp" tân thời, mang quyền năng làm chủ được hai tiêu chuẩn chủ yếu của một xã hội tiêu dùng, là khả năng chỉ ra được các hàng hóa thông dụng, tốt, rẻ, cũng như khả năng làm chủ và cung cấp các kiến thức dạng phổ thông đóng gói. Chính những mẫu người hùng này, với một bản chất mới mẻ mang tính tương tác với công chúng, đã thay thế hẳn cho những kiểu thức truyền thông một chiều của những giọng đọc truyện đêm khuya đầy cảm xúc hoặc các chương trình tìm hiểu, giáo dục kiến thức về nhạc thính phòng (những dạng kiến thức thường gắn với sự đào luyện) vào các tối thứ bảy qua hệ thống loa đài truyền thanh trước đây – ở cái thời hẳn còn chưa xa quá đến mức chúng ta không ai còn nhớ. Trong khu vực nghệ thuật thị giác, các tân anh hùng truyền thông là những dạng họa sĩ đang sở hữu những mô hình phong cảnh đồng quê hay phố thị với cảm xúc đóng gói sẵn và được sản xuất hàng loạt như Đào Hải Phong, Phạm Luận, Nguyễn Thanh Bình, v.v., chính họ đã và đang thế chỗ các mẫu anh hùng ẩn dật, nghèo khổ với tiêu chuẩn nghệ thuật là tính độc đáo và tính duy nhất như là Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng hay Nguyễn Tư Nghiêm...

Trong bối cảnh của một sự sang trang hàng loạt các chuẩn cũ về tài năng, cái đẹp, sự đào luyện, sự kín đáo..., để thay vào đó là sự nông, tính bề mặt, thái độ phô trương và sự dễ dãi..., bối cảnh của một xã hội tiêu dùng – như Jean Baudrillard cũng đã từng tiên báo – khi bắt đầu có sự thắng thế của cái đội lốt (simulation), hay của những vật mạo giả (pseudo-objects) trước những vật thuần thực (real-objects), của sự "xói mòn ranh giới giữa hai chuẩn văn hóa cao và thấp"[3], của cuộc đối mặt giữa sự tái chế văn hóa (cultural recycling) và bản thân văn hóa[4], thì rõ ràng việc từ khước làm thơ của nhóm Mở Miệng không phải là không thể hiểu được.

Tuy nhiên, điểm đáng nói tới ở đây là sự từ khước làm thơ của Mở Miệng không chỉ là một sự từ khước theo kiểu bẻ kiếm hay cáo quan. Thực chất là, thông qua sự từ khước ấy, Mở Miệng cũng đã dấn bước vào một chọn lựa mới – chọn lựa đứng về phe người đọc – hay nói chính xác hơn: chọn lựa trở thành "Kẻ đọc".

Bằng việc chọn lấy vai trò "Kẻ đọc", Mở Miệng đã tự nguyện biến thành tấm gương trong suốt soi chiếu thẳng vào cái văn cảnh xã hội mới đang bao quây xung quanh họ, để rồi sau đó, thu nạp lại vào trong các thực hành của nhóm trọn vẹn khí quyển của chính cái văn cảnh xã hội đang trong quá trình thay đổi tận lõi cốt mọi giá trị ấy.

Thay vì là những kẻ độc lập và biệt lập đeo đuổi và tìm cách sáng tạo ra các tiền đề thẩm mỹ mới, Mở Miệng đã chọn lấy vị thế của những kẻ tiêu thụ và diễn giải văn bản xã hội. Thậm chí có thể nói, bằng việc giải huỷ vai trò kẻ sản xuất thẩm mỹ để nhận lãnh vai trò kẻ tiêu thụ văn bản xã hội, Mở Miệng đã tự nhòa hóa và phân rã bản thân thành chính những sợi chỉ mà từ đó văn bản xã hội hiện tại được dệt nên.

Không phải ngẫu nhiên mà các thủ pháp và đôi chút lý thuyết nào đó được Mở Miệng ưa thích và chọn để tựa vào khi thực hành nghệ thuật luôn là những thủ pháp, lý thuyết thuộc về "Kẻ đọc".

Các thủ pháp và lý thuyết ấy, chủ yếu là biếm phỏng (parody) và nhại văn (pastiche), có mặt trong một số sáng tác thời kỳ đầu của Khúc Duy cũng như được sử dụng xuyên suốt trong các sáng tác của Bùi Chát và Lý Đợi cho tới nay là những dạng thủ pháp và lý thuyết mà, để được khởi hoạt và rồi tạo sinh văn bản, luôn đòi hỏi phải có sự tồn tại trước đó của một phông nền khác. Phông nền khác ấy có thể là một phong cách, một hình hệ (trong trường hợp nhại văn)[5] hay cũng có thể là một (nhiều) văn bản cụ thể (trong trường hợp biếm phỏng)[6].

Chính cái phẩm chất ký sinh của các thủ pháp và lý thuyết nói trên đã vạch ra rõ nét thân phận "Kẻ đọc" của những chủ thể khởi hoạt chúng – trong trường hợp này là nhóm Mở Miệng[7].

Dưới góc nhìn này, ta có thể thấy rõ, mọi đánh giá và phán xét nhắm vào Mở Miệng bắt nguồn từ tiền đề coi họ là những kẻ sáng tác sẽ đều sai địa chỉ ngay từ đầu và thường dẫn tới những phản ứng cực đoan chính từ phía người đánh giá và phán xét.

Một kiểu đánh giá khác cũng thường hay nhắm vào Mở Miệng là dựa trên quan điểm cho rằng: bởi Mở Miệng thường sử dụng những thủ pháp và lý thuyết mà tại phương Tây người ta đã dùng từ lâu – cho nên những thực hành của họ là vô giá trị.

Chưa cần bàn tới vấn đề nguồn gốc của các thủ pháp mà Mở Miệng thường sử dụng có phải là thuần tuý từ phương Tây hay không[8] thì chỉ với ngay những nhận xét kiểu nói trên – theo tôi – đã là những kiểu nhận xét hời hợt, nếu không muốn nói là mang đậm màu sắc của chủ nghĩa hậu thực dân.

Ở đây có hai vấn đề cần lưu ý. Vấn đề thứ nhất là, thường trong một mối quan hệ tương tác hai vế, một bên là các thủ pháp hay lý thuyết nào đó và một bên là cái môi trường văn cảnh thực tế – nơi sẽ dung chứa (hay loại thải) các thủ pháp và lý thuyết ấy – thì (do mô hình quan hệ nhân quả), bao giờ vế chủ, vế có vai trò quyết định tính hợp pháp của mối quan hệ khép kín và chứa đựng lẫn nhau này, cũng là vế của môi trường hay văn cảnh thực tế. Bởi lẽ, chính vế ấy mới là nơi khởi phát nhu cầu để vế kia hồi đáp. Chính trong hành vi thích nghi cao độ với môi trường văn cảnh thực tế – và rồi thỏa mãn được mọi nhu cầu phát sinh ra từ môi trường và văn cảnh ấy – mà vế kia, vế của những thủ pháp và lý thuyết đặc thù nào đó mới có thể tự biện minh cho sự hiện diện của chúng.

Lý Đợi, thành viên sáng lập Mở Miệng, NXB Giấy Vụn và đồng điều hành NXB Giấy Vụn

Như thế, do bản chất gắn bó không thể tách rời của môi trường văn cảnh và các lý thuyết, thủ pháp, cho nên mọi đánh giá và phán xét về các lý thuyết hay thủ pháp nào đó sẽ chỉ được coi là hợp pháp, nếu như các đánh giá và phán xét ấy được bảo chứng bằng những khảo sát vào bản thân môi trường văn cảnh cụ thể, cũng như vào mối tương quan của môi trường văn cảnh ấy, với các lý thuyết, thủ pháp đang khởi hoạt trong đó.

Nhìn từ góc độ này, hẳn chúng ta đều sẽ nhận thấy là, các nhận định về việc Mở Miệng cóp nhặt các thủ pháp và lý thuyết của phương Tây (đã làm từ lâu), và vì thế những thực hành của họ là vô giá trị – đã bất hợp pháp ngay từ điểm khởi đầu, bởi các nhận định ấy đã không tính đến một yếu tố quan trọng nhất – đó là yếu tố văn cảnh hay tình huống mà trong đó Mở Miệng tồn tại và khởi hoạt các thủ pháp, thao tác của họ.

Rõ ràng là ở đây, trong một khí quyển văn hóa xã hội và truyền thông tại Việt Nam đang đổi thay nhanh chóng và mạnh mẽ, trong một môi trường thông tin tại Việt Nam không còn quá cách ngăn với thế giới bên ngoài như trước, sự hiện diện của Mở Miệng đã có thể coi chính là một phản ứng hóa học tất yếu xảy ra, khi các điều kiện chuẩn bị về mặt văn hóa xã hội, truyền thông và thông tin được cung cấp đầy đủ.

Và cũng từ góc độ này, nếu chúng ta bắt đầu ngừng việc coi các thực hành của Mở Miệng như thể một bó rời các thủ pháp và lý thuyết tồn tại biệt lập với tình huống và văn cảnh xã hội, để bỏ công gắn các thực hành ấy trong mối tương sánh với văn cảnh nơi chính chúng đang khởi hoạt, hay nói cách khác, nếu chúng ta khảo sát kỹ lưỡng và coi các thực hành – hay thậm chí chính bản thân sự hiện diện của Mở Miệng như thể một "văn bản" – để rồi soi vào đó những đổi thay đang diễn ra trên bề mặt văn hóa xã hội Việt Nam trong thời điểm hiện tiền, thì có lẽ sự có mặt của Mở Miệng, quan điểm nghệ thuật của Mở Miệng cũng như các thủ pháp và lý thuyết nào đó mà Mở Miệng chọn để sử dụng, dù là có nguồn gốc từ bất cứ đâu đi chăng nữa, đều sẽ có thể được biện minh và do đó xứng đáng nhận được sự thông cảm từ chúng ta.

Vấn đề thứ hai tôi muốn lưu ý ở đây là, trong một thế giới mà do các tiến bộ vượt bậc trong công nghệ in ấn, truyền thông, thông tin và giao thông liên quốc gia[9], nên hiện tại, dường như đã biến thành một dạng siêu thị văn hóa vĩ đại – thì có lẽ, với vai trò là một khách hàng mặc nhiên của siêu thị ấy, Mở Miệng có "chọn mua" một món đồ, một thủ pháp, một lý thuyết nào đó đang được bày bán công khai trên các quầy giá siêu thị, để rồi đem sử dụng cho tình thế và điều kiện của họ, thì cũng chẳng phải là một điều gì thậm phi lý.

Có chăng, điều cần xét tới ở đây, chỉ là việc các thủ pháp và lý thuyết mà họ "chọn mua", và rồi đem sử dụng cho môi trường hay hoàn cảnh của họ, có "lắp" được vừa khít vào môi trường hay hoàn cảnh ấy hay không?

Nói cách khác, vấn đề ở đây chỉ là việc các thủ pháp và lý thuyết được Mở Miệng chọn lựa và sử dụng có được văn cảnh hóa và thời đại hóa vừa vặn vào với văn cảnh và thời đại của họ (tôi nhấn mạnh), để rồi từ đó, hiện diện và mở ra những thao tác đắc địa trong chính cái văn cảnh và thời đại ấy hay không mà thôi?

Theo nhận định chủ quan của cá nhân tôi, trong một xã hội Việt Nam đang có những thay đổi giá trị theo chiều hướng hàng hóa hóa và đại chúng hoá (một kiểu đại chúng hóa mang tính thành thị và tự nguyện, khác với kiểu đại chúng hóa mang màu sắc công nông và phần nào có tính chất trại lính trước đây) thì việc Mở Miệng chọn sử dụng những thao tác và thủ pháp biếm phỏng (parody), nhại văn (pastiche), đ(nh)ạo văn (playgiarism)[10]... cho nghệ thuật của họ để rồi qua đó bày tỏ thái độ của những kẻ đọc, kẻ tiêu thụ hay kẻ diễn giải văn bản chứ không phải thái độ của những kẻ viết, kẻ sản xuất hay kẻ khởi đầu văn bản – hẳn cũng đã có những điểm tựa không phải không đáng thuyết phục cả về mặt nghệ thuật lẫn xã hội.

Thêm nữa, nhìn dưới góc độ dụng học (pragmatics) thì rõ ràng là những thủ pháp và lý thuyết mà Mở Miệng đang đưa vào sử dụng trong tình thế và văn cảnh xã hội Việt Nam hiện tại, khi đối chiếu với chính cái tình thế và văn cảnh xã hội ấy, hẳn có lẽ cũng có được những lý do tồn tại – nếu không đắc địa hơn thì ít ra cũng phải ngang bằng với lý do tồn tại của một số thủ pháp và lý thuyết khác cũng đang đồng thời hiện diện trên mặt tiền văn nghệ Việt Nam.

*

Nói tóm lại, dù nhìn dưới bất kỳ một góc độ nào thì những người quan tâm tới hiện tình văn nghệ Việt Nam trong vài năm qua cũng khó có thể phủ nhận về sự hiện diện của một nhóm thơ ở Sài Gòn mang tên Mở Miệng. Sự hiện diện ấy được thể hiện qua những thực hành đa dạng của nhóm thơ đó – từ viết tuyên ngôn nghệ thuật, tranh luận, bút chiến cho tới các tập thơ photocoppy, thơ CD-Rom, cũng như còn được thể hiện qua các ý kiến đánh giá đa chiều, khen có, chê có trên rất nhiều báo chí, kể cả báo viết lẫn báo mạng về họ.

Và theo tôi, có lẽ chính sự hiện diện ấy của Mở Miệng (cũng như một số sự hiện diện đặc sắc khác – tất nhiên là với những mối quan tâm khác, ví dụ như sự hiện diện của thơ Phan Bá Thọ, của Thuận với tiểu thuyết Chinatown, của Thảo Hảo với các tản văn đặc sắc trong Nhân trường hợp chị thỏ bông, của Thúy Quỳnh với tiểu thuyết 21 khúc biến tấu, của Nguyễn Thế Hoàng Linh với tiểu thuyết Chuyện của Thiên tài cũng như các sáng tác thơ văn của một số tác giả khác như Nguyễn Hữu Hồng Minh, Phan Huyền Thư, Vương Văn Quang, Đỗ Trí Vương, Lynh Bacardi, Khương Hà Bùi, Nguyệt Phạm, Thanh Xuân, Trần Nguyễn Anh, Phương Lan...), phần nào đó cũng đã làm cho bề mặt của văn nghệ Việt Nam thoát khỏi tình trạng ù lì và một giọng, tình trạng mà bất cứ khi nào sóng đôi cùng với văn nghệ, nhất là văn nghệ trẻ, tại bất cứ đâu và ở bất cứ thời đại nào, đều luôn đồng nghĩa với băng hoại.

[1] Xem thêm Thơ và chúng tôi không làm thơ, Lý Đợi, talawas 16-17.4.2004 hay Tản mạn đôi chút với bài thơ "Vô địch" của Bùi Chát, Như Huy, talawas 12.1.2004.

[2] The Consummer Society, Myth & Structure, Jean Baudrillard, published 1998 by SAGE Publications (tr. 103).

[3] Jean Baudrillard, sđd (tr. 15).

[4] Jean Baudrillard, sđd (tr. 101)

[5] "Nhại văn (pastiche) thường xuyên là sự cóp phỏng – không nhắm vào một văn bản đơn (Albertsen 1971, 5; Deffoux 1932, 6; Hempel 1965, 175), mà vào những khả năng vô hạn của văn bản, nó thuộc về những gì mà Daniel Bilous (1982; 1984) gọi là liên phong cách (interstyle) chứ không phải là liên văn bản (intertext)", Linda Hutcheon, Theory of Parody, The Teachings of Twentieth Century Art Forms, University of Illionois Press, 2000. (tr. 38).

[6] "Biếm phỏng (parody) là sự tái hiện mạo xưng, thường có tính hài nhạo, nhắm vào một văn bản văn chương hoặc một đối tượng nghệ thuật", là sự "tái hiện lại một hiện thực đã được mẫu hóa, dạng hiện thực mà bản thân cũng đang tái hiện lại một hiện thức gốc khác", "với mục đích bóc trần ra mưu chước hay phương sách của văn bản mẫu thông qua sự đồng hiện của cả hai mã trong cùng một thông điệp (Ziva Ben- Porat, 1979)", Linda Hutcheon, sđd (tr. 49).

[7] Lẽ dĩ nhiên là tôi rất biết rằng trong thời điểm hiện tại có một số tác giả khác trong môi trường văn nghệ Việt Nam cũng đang sử dụng khá thành công các thủ pháp này, tuy nhiên, đây là bài viết riêng về các tác giả của nhóm Mở Miệng nên xin phép chưa đề cập tới các tác giả khác đó.

[8] Chúng ta cũng có thể nhớ ngay tới các thủ pháp như đế, giễu, nói ngoa, phóng đại, nói kép nghĩa, nói lái, nói xuyên tạc, và nhất là kiểu nói biếm phỏng trong nghệ thuật hề chèo Bắc Bộ. Lấy một thí dụ mà theo tôi là tiêu biểu cho thao tác "tái hiện mạo xưng? (alleged representation) hay "xuyên văn cảnh hóa" (trans-contextualization) thường thấy ở biếm phỏng. Trong một vở chèo cổ, câu nói nền phông Tiếng lành đồn xa, Tiếng dữ đồn xa đã bị hề biếm phỏng thành Quan đồn lột da, Quan phủ lột da, hay trong một vở khác, hề nhại người nói chữ: Con Chiến quốc đa nhi phúc đại tự vâm vâm sa lao thượng bất đắc. Tuy nhiên, nghĩa của câu này, theo cách hiểu của hề là: Con "đánh nước" (hề hiểu "chiến quốc" theo nghĩa đen là "đánh nước") vào nhiều nên bụng to như vâm cát bò (hề hiểu "lao" là "bò lên bò xuống" chứ không phải "con bò") lên chẳng được. Hà Văn Cầu, Hề chèo, NXB Văn Hóa, 1973, (tr. 42, 43).

[9] Dù không thuộc về nhiều quốc gia đã và đang được hưởng lợi nhiều nhất từ các tiến bộ này, nhưng rất may mắn, hiện Việt Nam cũng chưa đến nỗi nằm trong số các quốc gia đang ở ngoài hẳn phạm vi của các tiến bộ ấy.

[10] Xem thêm bài phỏng vấn Quyền tự do không làm thơĐa Cháy phỏng vấn Buồi Chét, talawas 22.2.2005.

Bùi Chát và nghệ thuật của sự “đang trôi”: Phiêu du giữa tự do và khoảng trống về ý niệm

 Tobi Trần - Giám tuyển Độc lập

Có lẽ chưa bao giờ trong mỹ thuật Việt Nam lại xuất hiện một hiện tượng như Bùi Chát, một người vốn bước ra từ thế giới của chữ nghĩa, của độc bản thi ca lại chọn hội họa như kênh phát ngôn thứ hai. Anh đến với tranh như thể bước vào một vùng nước mới mà không cần bơi, cứ thả mình trôi, để mặc ý thức và màu sắc va chạm trong vô định.

Thứ Năm, 31 tháng 7, 2025

Trò chuyện với nhà thơ Hoàng Hưng

 (Da Màu thực hiện qua điện thư, từ 11/7/2025 đến 21/7/2025)

Da Màu (DM):  Theo dõi trang mạng Văn Việt,[*] chúng tôi được biết Văn Việt mở mục "Văn học Hải ngoại sau 1975" từ đầu năm 2018, nhằm giới thiệu tác phẩm của nhiều tác giả sinh sống ở hải ngoại từ 1975. Là người “chăm lo” mục đặc biệt này, xin anh cho biết, tính cho đến nay, Văn Việt đã giới thiệu được bao nhiêu tác giả/tác phẩm của Văn Học Hải Ngoại.

Nghĩ về cơ hội có thêm một không gian lưu niệm danh nhân

 Nguyễn Thế Thanh

Hôm nay, 24.7.2025 là sinh nhật 104 của Giáo sư, Tiến sĩ Trần Văn Khê, nhạc sĩ, nhà nghiên cứu nổi tiếng về âm nhạc dân tộc Việt Nam – người đã từ Pháp trở về Việt Nam sống và làm việc những năm cuối đời tại TP.HCM từ năm 2006. Ông tạ thế ngày 24.6.2015 trong sự tiếc thương, kính trọng của tất cả những người yêu quý di sản văn hóa Việt Nam.

Thứ Tư, 30 tháng 7, 2025

Sau ngày thương binh liệt sĩ

 Lê Học Lãnh Vân

Việt Nam gánh chịu hai cuộc chiến quá khốc liệt. Cuộc chiến chín năm chống Pháp và cuộc chiến hai mươi năm tiếp theo khi hiệp định hòa bình Genève đã được ký kết năm 1954 chia Việt Nam thành hai Miền Nam Bắc. Hai cuộc chiến ấy được thế giới gọi là cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất và cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai.

Thơ Palestine

 Hoài Phương dịch

THƠ TỪ GAZA

Nadine Murtaja

     

Một bài thơ không đề của một người viết trẻ tuổi tên Nadine Murtaja. Bạn chỉ mới 21 tuổi và là một sinh viên nha khoa trước khi chiến tranh và pháo kích đã san bằng trường đại học, khiến bao người ly tán và sự học của bạn ngừng trệ. Bạn bắt đầu làm thơ từ năm 16 tuổi và bạn mong mình sẽ sống sót, để có thể cống hiến cuộc đời mình vì tự do của Palestine.

Bài thơ này tìm thấy trên trang instagram @Wawog_now (Writers against the war on Gaza / Hiệp hội Những nhà văn phản đối cuộc chiến ở Gaza).

Thứ Ba, 29 tháng 7, 2025

Sự “phi nhân hóa” của nghệ thuật đương đại

 Dương Thắng

1. Trước hết phải tuyên bố rõ ràng rằng khái niệm “phi nhân hóa” ở đây không mang nghĩa tiêu cực, nó chỉ là một khuynh hướng phát triển của nghệ thuật đương đại, làm cho nó trở nên khác biệt với các trào lưu nghệ thuật đã ra đời trước nó. Nếu các trào lưu nghệ thuật mới không hề dễ hiểu với tất cả mọi người, điều đó có nghĩa là các cơ chế của nó không phải là cơ chế “tự nhiên” vốn có của loài người. Nói đúng hơn là chúng không trùng khít với những cơ chế quen thuộc của con người. Đây không phải là nền nghệ thuật cho con người đại chúng nói chung, nó chỉ dành cho một lớp người rất đặc biệt mà, dù rằng họ không hẳn là “đáng giá” hơn những người khác, nhưng rõ ràng là họ “khác biệt” với những người khác.

Thông cáo báo chí về triển lãm "Ngày thứ 49" lần 4 của Nguyễn Ngọc Phương

 Tobi Trn - Giám tuyển Độc lập

Chúng ta đang sống trong một thời đại mà hình ảnh trở nên dư thừa, nơi nghệ thuật bị kéo vào guồng xoay của minh họa, tường thuật và những định danh dễ dãi. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Ngọc Phương chọn một con đường ngược chiều: làm chậm lại mọi hình ảnh, kéo giãn mọi chuyển động và thả rơi người xem vào một vùng vật chất đang giãy dụa trong im lặng.

Triển lãm “Thiên Vũ – Dance of Nature” của Đoàn Quỳnh Như

 THÔNG CÁO BÁO CHÍ

Giám tuyển Ngô Kim Khôi

Đoàn Quỳnh Như, một giọng điệu độc đáo trong nghệ thuật đương đại, trở lại quê nhà với triển lãm cá nhân Thiên Vũ – Dance of Nature, diễn ra tại Sài Gòn và sau đó tại Huế. Sau ba năm kể từ triển lãm Khiêu vũ tới trập trùng (2022) tại Sài Gòn, Mộng cảnh (2024) tại Hamburg, lần này Đoàn Quỳnh Như mang về khoảng 30 tác phẩm mới, sử dụng chất liệu acrylic và tổng hợp trên bố, mở ra một hành trình thị giác thấm đẫm cảm xúc, suy tư về thiên nhiên, con người và sự giao cảm sâu sắc giữa hai thế giới ấy.

Thứ Hai, 28 tháng 7, 2025

"Nỗi đau khổ không phải của riêng ai"

 Nguyễn Xuân Thọ

Mấy tuần rồi mạng xã hội dậy sóng về việc đòi thả ông Đinh La Thăng, rồi việc ông Đặng Hoàng Giang bị đe dọa chế tài vì tội vu khống ông Nguyễn Nhật Anh (NXB Nhã Nam). Trong khi có người bênh vực Đinh La Thăng, thì cũng có nhiều người coi ông ta đáng phải mọt gông. Trong vụ Nhã Nam cũng có người bênh ông Giang, có người bênh ông Nhật Anh.

Kiến nghị nhân ngày thương binh - liệt sĩ

 (Viết sau khi dự cuộc gặp mặt thân nhân liệt sĩ, người có công, kỷ niệm 78 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7/2025)

Nguyễn Đình Bin

Kính gửi các cơ quan hữu quan của Đảng và Nhà nước,

Mấy thập niên chiến tranh liên tiếp đã để lại bao hậu quả vô cùng nặng nề, những nỗi đau xé lòng khôn xiết cho đất nước và nhân dân ta.

Miền Tự Do của nghệ sĩ Nguyễn Ngọc Phương

 Hoan Doan

Tôi cùng mấy người bạn nhiều lần thảo luận với nhau. Ở Việt Nam, danh xưng nghệ sỹ được dùng quá dễ dãi, nếu không muốn nói là rẻ rúng. Vậy như thế nào, mới được coi là nghệ sỹ?

Thứ nhất, nghệ sỹ phải có phẩm chất của một trí thức. Anh ta phải có nền tảng văn hóa, chính trị, xã hội tốt.

Nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng và Cầu Rồng, biểu tượng của TP Đà Nẵng

 Huỳnh Duy Lộc

Phạm Văn Hạng sinh năm 1942 (năm Nhâm Ngọ) tại làng Nam Ô, phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng. Anh là tác giả của ba tượng đài ở Đà Nẵng: tượng “Mẹ Dũng Sĩ”, tượng “Đất lành chim đậu" và hình tượng con rồng trên Cầu Rồng. Đang học Mỹ thuật Huế thì Phạm Văn Hạng bỏ dở, cầm máy ảnh làm phóng viên chiến trường ở Quảng Trị, rồi trở lại Sài Gòn với tác phẩm “Chứng tích” bằng chính chất liệu chiến trường từng “gây bão” với chính quyền Sài Gòn những năm 70 của thế kỷ trước, để rồi sau đó vừa kiếm sống vừa sáng tác với những tượng đài Alexandre de Rhodes, tranh sơn dầu, những triển lãm để thỏa mãn đam mê. Sau năm 1975, có lúc anh phải mưu sinh bằng bán hàng rong, đi xe thồ, trang trí sân khấu. Rồi chính vỏ đạn pháo bằng đồng trong chiến tranh đã làm nên tác phẩm “Mẹ Dũng Sĩ” như một tiếp nối từ cảm hứng sáng tạo của “Chứng tích”, đã thuyết phục mọi người và đưa anh trở lại với đam mê nghệ thuật.

“Trung Quốc có một Mao Trạch Đông” và án oan Hồ Phong

Nguyễn Nguyệt Cầm


Tuần trước, mình xem một bộ phim tài liệu nhan đề Storm under the Sun (Bão tố dưới ánh Thái dương). Bộ phim gốc dài 139 phút, tiếng Hoa, ra đời năm 2009. Bản mình xem là bản rút gọn và đã được biên tập lại vào năm 2014, có phụ đề tiếng Anh, dài 59 phút.

“Thuyền”, như một bi kịch nhân sinh

 Trần Hữu Thục

 

Trong trang đầu tiên của “Thuyền”, tiểu thuyết, tác giả Nguyễn Đức Tùng viết:

Cả Sài Gòn, cả nước, xem bói. Thời trước, người ta xem để hỏi ngày lành tháng tốt, tiền tài, hạnh phúc lứa đôi, nhưng năm ấy, mọi người hỏi: có đi được không?” (tr. 6)[1]

Thứ Sáu, 25 tháng 7, 2025

Phát biểu trước dân: Vì sao lãnh đạo Chính phủ phải nắm chắc nghị quyết và luật?

 Tô Văn Trường

Cuối tháng 7/2025, tại buổi tiếp xúc cử tri ở Gia Lai, Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc đã gây chú ý khi bày tỏ quan điểm tại sao chúng ta lại không xây dựng một bộ sách mà phải làm nhiều bộ sách? “Thời chúng tôi học cả nước có một bộ sách thôi, anh học xong thì chuyển cho em học.” (https://tuoitre.vn/pho-thu-tuong-ho-duc-phot-noi-dong-quan-diem-cu-tri-ve-1-bo-sach-giao-khoa-20250723113619384.htm) Phát biểu này, xuất phát từ việc lắng nghe ý kiến của cử tri về sự rối rắm trong việc chọn sách, nhưng cũng dấy lên một câu hỏi lớn: Lãnh đạo Chính phủ, khi phát biểu trước Nhân dân, có cần bảo đảm rằng ý kiến của mình bám sát các nghị quyết và luật pháp hiện hành hay không?

Franz Kafka trong cuộc sống hiện đại

 Trịnh Y Thư

1.

Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka*, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này.  Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh Quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo. Anh tức tốc đến tòa soạn tờ báo để hỏi cho ra lẽ. Tại tòa báo gặp người biên tập, anh hỏi ông này tại sao lại có thể loan một cái tin thất thiệt gây tai hại cho kẻ khác đến thế, người biên tập nhún vai bảo anh bản tin là từ trên bộ Nội vụ đưa xuống, ông ta chỉ có nhiệm vụ đăng báo thôi. Anh kỹ sư bèn tìm cách sang hỏi bên bộ Nội vụ, và sau nhiều ngày xin xỏ, chầu chực, cầu cạnh, anh được một quan chức tiếp chuyện, nhưng ông này, cũng như người biên tập bên tòa báo, nhún vai bảo anh chúng tôi chẳng hay biết gì về chuyện đó, bản tin là do ban tình báo của tòa đại sứ Tiệp bên London gửi về. Anh kỹ sư yêu cầu bộ lên tiếng cải chính và được trấn an bằng câu nói vô thưởng vô phạt, đại khái, anh cứ an tâm về nhà, chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp anh.

Cựu kỹ sư hàng hải U90 viết sách về cuộc vượt ngục của người ông cách đây hơn 100 năm

 Châm Khanh

Được biết đến như một chuyên gia lâu năm trong ngành hàng hải, nhưng suốt hơn hai mươi năm qua, tác giả Đỗ Thái Bình vẫn âm thầm theo đuổi một hành trình khác, riêng tư hơn, âm thầm hơn: hành trình truy nguyên ký ức. Cuốn sách “Ba người vượt ngục Guyane” là kết tinh của hàng nghìn trang tư liệu, được ông miệt mài lần giở qua năm tháng.

Tác giả Đỗ Thái Bình sinh năm 1941 vốn là cựu kỹ sư hàng hải

“Tư tưởng Phật giáo – Một giới thiệu toàn diện về truyền thống Ấn Độ” – cuốn sách lý tưởng để khám phá triết học Phật giáo

 Dương Thắng

1. Một trong những ý kiến phổ biến về Phật giáo mà chúng ta thường nghe thấy đó là khẳng định rằng việc giác ngộ về Phật giáo không liên quan gì đến lý thuyết, khái niệm, lập luận hay thảo luận… Nhưng chỉ cần tiến hành những khám phá đơn giản về lịch sử và quá trình tiến hóa của Phật giáo là có thể thấy ngay rằng những ý kiến kiểu như vậy là rất không xác đáng và gây mất phương hướng.

Thơ Marie Howe

Linh Văn chuyển ngữ

Marie Howe (sinh ngày 18 tháng 10 năm 1950 tại Rochester, New York) là một nhà thơ người Mỹ, được biết đến với những tác phẩm sâu sắc xoay quanh các chủ đề đời sống thường nhật, tâm linh, cái chết và sự hồi sinh. Bà là tác giả nhiều tập thơ như The Good Thief (1988), What the Living Do (1997), The Kingdom of Ordinary Time (2008), và Magdalene (2017). Năm 2025, bà được trao Giải Pulitzer cho tuyển tập thơ của mình. Dưới đây là một số bài thơ từ các tập thơ của Marie Howe.

Thứ Năm, 24 tháng 7, 2025

Sách giáo khoa không thể là thánh thư

 Minh Tuấn

(Phản biện ngắn về quan điểm muốn quay lại với ‘một bộ sách chuẩn’)

  1. Tiếc nuối một quá khứ buồn

Sau nhiều chục năm bị trói chặt trong một bộ sách giáo khoa được coi như thánh thư, sự ra đời của Chương trình 2018 là một bước tiến lớn của giáo dục Việt Nam, có thể coi là một sự cởi trói ngoạn mục mà ở đó một trong những biểu hiện rõ ràng nhất của nó là chính sách “Một chương trình, nhiều sách giáo khoa”.

Tử tế quá mức và ai sẽ dám nói thật?

 Tobi Trần - Giám tuyển Độc lập

Trong bối cảnh nghệ thuật Đông Nam Á đang chứng kiến những chuyển động mạnh mẽ từ Indonesia, Philippines và Thái Lan, nơi các nghệ sĩ không chỉ khẳng định cá tính sáng tạo đầy bản sắc mà còn góp mặt vững vàng trong các sự kiện quốc tế mang tính chiến lược và tầm vóc thì nghệ sĩ Việt Nam tiếc thay lại vẫn loay hoay trong một vòng lặp dễ chịu của sự tán dương nội địa.

Điểm sách: Luận về tinh thần nô lệ tự nguyện của Étienne de la Boétie

Đỗ Kim Thêm

Tác giả

Xuất thân từ một gia đình quý tộc làm công chức tại Sarlat, thuộc Perigord, Tây Nam Pháp. Étienne de la Boétie (1530–1562) theo học tại Collège de Guyenne, một trường nổi tiếng tại Bordeaux và Đại học Luật khoa Orléans. Đam mê văn chương cổ điển, ông khởi đầu dịch thuật một vài thi phẩm La ngữ sang Pháp ngữ.

Thứ Tư, 23 tháng 7, 2025

Người đàn bà của cha tôi

 Kiều Thị An Giang

Provence,

Tôi gặp người đàn bà ấy lần đầu tiên vào một buổi chiều Provence nhạt nắng.

Gallery của cha hôm ấy đông hơn mọi khi, có vài khách Pháp và khách du lịch Đức tản bộ qua. Tôi đang ngồi trên cầu thang gỗ, nghịch vài phác thảo, thì bà bước vào – mỏng nhẹ như một cơn gió.

Nghệ thuật đương đại Việt Nam: Đương đại rồi nhưng tới đâu...

 Tobi Trần, Giám tuyển Độc lập

 

 

Trong vòng xoáy của toàn cầu hóa và các trào lưu nghệ thuật hậu hiện đại, thuật ngữ “nghệ thuật đương đại” đã trở thành một khẩu hiệu quen thuộc trong các diễn ngôn nghệ thuật Việt Nam. Các triển lãm mang tên “đương đại” mọc lên đều đặn. Nghệ sĩ trẻ năng động hơn, chịu khó giao lưu quốc tế hơn, giới giám tuyển cũng bắt đầu học cách đặt vấn đề.

Thông báo vinh danh Viet Thanh Nguyen năm 2025

 Nguyễn Hồng Anh

(Ảnh: Instagram kenyonreview)

Chúng tôi rất vinh dự thông báo rằng Giải thưởng Thành tựu Văn học Kenyon Review năm 2025 sẽ được trao cho Viet Thanh Nguyen. Giải thưởng nhằm tôn vinh sự nghiệp văn chương xuất sắc, ghi nhận các cá nhân có ảnh hưởng và vai trò quan trọng trong việc định hình diện mạo văn học Hoa Kỳ.

Một nén tâm nhang tiễn đưa họa sĩ Lê Thiết Cương

 Trần Thanh Cảnh

Trước khi cầm cuốn Nhà & Người trên tay, thậm chí tôi chưa từng đọc một bài nào Lê Thiết Cương viết. Tôi vốn đinh ninh trong đầu rằng, ông ấy là một hoạ sĩ nổi tiếng, giai phố cổ lừng lẫy chất chơi. Tranh của Lê Thiết Cương tôi đã xem nhiều, rất tối giản những hàm nghĩa sâu sắc. Nên mỗi lần xem tranh Lê Thiết Cương, tôi thường đứng rất lâu, nhìn ngắm rất sâu để cảm nhận những vẻ đẹp của sự tối giản mang đến cho thẩm mỹ…

Thân thể, ký ức và căn tính trong văn học di dân Việt Nam

 Nguyễn Hồng Anh

Tháng 6 năm 2025, TS. Nguyễn Thị Từ Huy đề nghị tôi thực hiện một buổi nói chuyện ở Cà Phê Thứ Bảy về đề tài liên quan đến cuốn sách nghiên cứu tôi vừa xuất bản (Tác phẩm của Viet Thanh Nguyen về chiến tranh Việt Nam dưới góc nhìn căn tính, Nxb Đại học Sư phạm TP.HCM, 2025). Tôi đồng ý ngay, vì nghĩ đến những dấu hiệu của cuộc chuyển mình nào đó ở Việt Nam trong giai đoạn hiện tại, khi cách đây không lâu, tiểu thuyết Thuyền của Nguyễn Đức Tùng, một nhà văn di dân, đã được công chúng đón nhận từ Bắc chí Nam, khi mới hồi tháng 4 trên báo Tuổi Trẻ Online có bài viết “Văn học nghệ thuật hải ngoại cũng là máu thịt của dân tộc” (29/4/2025)… Toạ đàm này cũng có thể xếp vào dòng chảy chung đó, với mong muốn của chúng tôi là khiến dòng văn học di dân gốc Việt sẽ ngày càng được biết đến nhiều hơn, có thể được tiếp nhận đúng đắn, cởi mở hơn với bạn đọc trong nước.

Khi tự do trở thành chất liệu: Một bước ngoặt từ P-Lacquer của Nguyễn Ngọc Phương

 Tobi Trần

 

Triển lãm "Ngày Thứ 49" lần thứ 4 với bộ tác phẩm “Đi Tìm Tự Do” của Nguyễn Ngọc Phương sắp tới đây đã không còn đơn thuần là một sự kiện thị giác, nó là một biểu hiện của một giai đoạn chuyển hóa không chỉ trong thực hành nghệ thuật của nghệ sĩ mà còn trong cách một chất liệu có thể định nghĩa lại chính nó.

Thứ Hai, 21 tháng 7, 2025

Ký ức

 Kiều Thị An Giang

Gửi em – cô gái Brno trong mưa của anh,

Anh không biết bắt đầu từ đâu, chỉ biết rằng mười năm trôi qua, mọi điều trong anh đều dẫn về em – về cái đêm mưa ở Brno, khi anh đứng bên mái hiên với chiếc ô đen và đôi mắt em buồn đến mức có thể làm nứt cả những viên đá lát đường.

Tràng hạt u minh

 Trần Kiêm Đoàn

 

 

Xem tập truyện Hạt U Minh, người đọc hình dung nhân gian đâu đó mang tràng hạt u minh – u u, minh minh; mù mù mịt mịt, sáng lòa sáng tỏa – như một chuỗi duyên duyên nghiệp nghiệp tương tác trùng trùng trong dòng đời nghiệt ngã và cô đơn nhưng cũng lắm nẻo đi về thanh thỏa và giải thoát tùy bước đi và hướng tới mà người thiện tâm, quý chữ thường gọi là… tu.