Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 22 tháng 8, 2025

Bút kí của Leonardo da Vinci (15)

 Hà Vũ Trọng dịch

Nguyên văn: The Notebooks of Leonardo da Vinci do Irma A. Richter biên tuyển, Ấn quán Đại học Oxford, 1991.

 

III. THỜI KÌ THỨ HAI Ở FLORENCE (1500-1506)

Ngày 13 tháng 3 năm 1500, Lorenzo da Pavia, il Gusnasco, nhạc sĩ đàn lute, từ Venice viết cho Isabella d’Este rằng ông đã nhìn thấy bức vẽ chân dung chân dung của bà và thấy rất tuyệt, và nó đã không thể được hoàn thiện. 

Ở quảng trường Santi Giovanni e Paolo, Leonardo có thể thấy bức tượng đồng người cưỡi ngựa Bartolommeo Colleoni do thầy của ông là Verrochio tạo mẫu sau khi ông rời Florence, và do Alessandro Leopardi đúc năm 1493.

Nhờ sự có mặt của Leonardo, Tham chính viện của Venice có được sự giúp đỡ với của ông lời khuyên  về những việc phòng vệ ở Friuli và trên sông Isonzo. Quân Thổ-nhĩ-kì đã từng đánh bại hạm đội của Venice ở Lepanto vào tháng 8 năm 1499, giờ đây lại đang đe doạ ở biên giới.

Trong dự thảo dưới đây, Leonardo đề xướng một phương án làm ngập vùng nông thôn. Trên cùng một trang giấy là phác thảo đạo lộ và những mạch giao thông của sông với đoạn viết:

Cầu Gorizia Wippach [Vippacco]

Các hạ tôn kính – Theo như tôi đã khảo sát kĩ lưỡng những điều kiện của sông Isonzo, và được biết qua người nông dân rằng, bất kể lộ tuyến nào mà quân Thổ dùng để tiếp cận khu vực này của nước Ý, thì cuối cùng họ tất phải tới dòng sông này, vì thế, ý kiến của tôi là, không thể nào tạo phòng ngự trên dòng sông này mà rút cuộc không bị huỷ diệt bởi những trận lụt của nó...

Sau đó, ông hồi tưởng lại công trình van cống [đập nước] ở Friuli được chế tạo vào thời điểm này.

Hãy cho cái van cống chế tạo có thể chuyển động như cái mà tôi đã thiết kế ở Friuli, ở đó khi cống mở thì nước chảy qua làm trũng đáy.

Tại Rome

Tại Tivoli, Biệt thự của Hadrian.  

Laus deo. 1500, ngày... tháng 3.

Nếu những bút kí ở bên trên viết trên cùng một trang giấy đều được viết và cùng thời điểm, có thể giả định rằng Leonardo đã tới Rome trong một cuộc viếng thăm ngắn.

Ngày 10 tháng 4 năm 1500, cuối cùng, Ludovico đã bị bại trận và bị người Pháp bắt làm tù nhân tại Novara.

Leonardo bình luận về những sự kiện ở Milan:

Người cai trị của thành trì trở thành tù nhân,

Visconti bị bắt đi, còn con trai của ông bị sát hại,

Giovanni della Rosa bị tước hết tài sản...

Công tước bị mất quốc thổ, sản nghiệp, và tự do và không có sự nghiệp nào của ông hoàn tất.

Ngày 24 tháng 4 năm 1500, Leonardo rút 50 đồng florin vàng ra từ tiền kí quỹ ở Santa Maria Maria Nuova ở Florence, hàm ý rằng giờ đây ông đã tái định cư tại tại thành phố này sau 18 năm. Trong thời gian ông vắng mặt, Medici bị lưu đày và Florence trở thành một nước cộng hoà. Thân phụ ông giờ đây là một biện  lí của tu viện các huynh đệ Phục tòng. Vasari thuật lại rằng Filippino Lippi  đã tự nguyện nhường công việc uỷ thác bức án thờ (altar-piece) của giáo đường Santissima cho hội huynh đệ này khi Leonardo bày tỏ mong muốn đảm nhiệm công trình ấy. Các tu sĩ đem Leonardo vào ở nơi tu viện của họ và chịu trả phí tổn cho căn hộ của ông. Vào thời điểm này, ông vẽ một bức biếm hoạ thể hiện Thánh nữ Đồng trinh, thánh Anna, và Chúa Con (ngày nay đã thất lạc) khiến cho mọi hoạ sĩ kinh ngạc, và suốt hai ngày những đám đông dân chúng tới xem như thể tham dự một lễ hội trang nghiêm.

Ngày 11 tháng 8 năm 1500 Hầu tước phu nhân ở Mantua đã nhận từ người đại diện của ông bản thiết kế cung điện nhỏ do Leonardo vẽ cho thương gia Angelo del Tovaglia.

Một tường thuật đương thời về những hoạt động của Leonardo trong một bức thư viết từ Florence đề ngày 3 tháng 4 năm 1501 bởi Viện trưởng của dòng Carmelites, Fra Pietro da Novellara, gửi cho Isabella d’Este để đáp lại những câu hỏi mà bà đã đưa ra khả dĩ thuyết phục ông vẽ một bức tranh cho “hoạ thất” của bà, hoặc nếu không, thì là một bức Đức mẹ đồng trinh và Chúa Con “devoto e dolce come è il suo naturale”. Fra Pietro viết, “Theo những gì tôi biết, sinh hoạt của Leonardo rất không theo quy tắc và biến hoá thất thường, tới nỗi có thể nói là ông gần như sống ngày nào theo ngày đó. Từ khi đến Florence, ông đã thực hiện bức phác thảo, một bản hình mẫu (cartoon) miêu tả chúa Ki-tô lên khoảng một tuổi và gần như nhảy ra khỏi vòng tay mẹ để bắt con chiên mà gần như ngài đã ôm lấy nó. Mẹ ngài, gần như bật dậy khỏi lòng thánh Anne, nắm lấy Chúa Con để tách ngài ra khỏi với con Chiên (con vật dùng hiến tế) biểu thị cho sự Thương khó. Thánh Anne, hơi nhổm dậy khỏi chỗ ngồi, bà ra vẻ muốn ngăn con gái đừng tách Chúa Con ra khỏi con chiên, có lẽ là đại diện cho Giáo hội, sẽ không ngăn sự Thương khó của Chúa Ki-tô. Những nhân vật này tất cả theo kích thước người thật, nhưng lại vừa vặn vào trong một bức biếm hoạ nhỏ, bởi mọi nhân vật đều ngồi hoặc khom người và một người ở vị trí hơi ở phía trước người kia một chút về phía tay trái. Bức vẽ vẫn còn dang dở. Ông không thực hiện tác phẩm nào khác”. Bản hình mẫu này tương tự với bức tranh ở bảo tàng Louvre, đã bị mất. Trong thời của Vasari, truyền thống cổ vũ và hứng thú với việc triển lãm bản hình mẫu vẫn còn được bảo lưu, và từ đó, ông đã đưa ra một sự miêu tả sinh động. 

Ngày 14 tháng 4, Fra Pietro lại viết tiếp sau khi đến thăm Leonardo vào ngày thứ Tư trong Tuần Thương khó: “Trong Tuần Thánh này, tôi được biết ý định của Leonardo hoạ sĩ, thông qua Salai, học trò của ông và một số người bạn khác của ông, cho tôi có thêm thông tin, họ đã dẫn ông đến với tôi vào Thứ Tư Tuần Thánh. Nói vắn tắt, những thực nghiệm toán học của ông đã làm ông cực kì xao nhãng với hội hoạ tới nỗi ông không cầm tới cây cọ. Tuy nhiên, tôi tin chắc chắn ông hiểu những mong ước của Phu nhân do sự tử tế mà phu nhân đã dành cho ông ở Mantua, tôi đã nói chuyện thoải mái với ông về mọi thứ. Kết quả là nếu ông có thể hoàn thành bổn phận mà không phải hổ thẹn đối với Hoàng đế Pháp quốc như ông đã hi vọng thực hiện tối đa là một tháng, sau đó ông sẽ phục vụ Phu nhân hơn là bất kì ai trên thế giới. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, một khi ông đã hoàn tất một bức tranh nhỏ mà ông đang thực hiện cho Florimond de Roberte, một bức tranh ưa thích của Hoàng đế nước Pháp, ông sẽ lập tức thực hiện bức chân dung và gửi nó cho Phu nhân. Bức tranh nhỏ mà ông đang thực hiện, vẽ Đức Mẹ Đồng trinh đang ngồi y như thể bà sửa soạn se tơ. Chúa Con thì đặt một chân của người vào giỏ tơ, nắm lấy guồng quay tơ, và nhìn chăm chú vào bốn thanh quay có hình dạng thập tự. Như thể khát khao thập tự khiến ngài mỉm cười và nắm chặt lấy nó, và miễn cưỡng buông nó ra cho người mẹ, và bà muốn lấy nó ra khỏi người. Đấy là chừng mức mà tôi có thể biết về ông...” Bức tranh mà ông miêu tả là bức Đức Mẹ Đồng Trinh và Guồng tơ, có hai phiên bản gốc tồn tại, một bức trong bộ sưu tập của công tước ở Buccleuch, còn bức kia trong một bộ sưu tập cá nhân khác.

Ngày 19 và 24 tháng 9 năm 1501, các bức thư của Giovanni Valla, đại sứ của Ercole I d’Este, công tước ở Ferrara, hỏi người Pháp ở Milan rằng họ có chịu nhượng bức tượng ngựa khổng lồ mà Leonardo đã tạo mô hình cho tượng đài Sforza không, vì nó đã bị bỏ quên và dãi dầu mưa gió trong quảng trường của thành trì. Vị toàn quyền người Pháp hồi âm rằng ông không thể đem trao mà không có sự tán thành của hoàng đế của ông.

Ngày 12 tháng 5 năm 1502, Leonardo giờ đây đã 50 tuổi. Ông giúp một việc nhỏ cho Isabella d’Este, kiểm nghiệm và tường thuật về một số bình ngọc cổ, trước đây thuộc tài sản của Lorenzo de’ Medici.   

Mùa hè 1502, Leonardo phục vụ cho Cesare Borgia ‘Il Valentino’, là tướng chỉ huy của quân đội giáo hoàng, với sự phê chuẩn của Giáo hoàng và hoàng đế nước Pháp để khuất phục những nhà chuyên chế địa phương ở Marches và Romagna. Vai trò của Leonardo là “kiến trúc sư gia đình và kĩ sư tổng quát”.  

Bên bờ biển ở Piombino.

Nhiều năm sau khi miêu tả về một trận hồng thuỷ, Leonardo hồi tưởng lại những quan sát ở bờ biển này.

Sóng biển ở Piombino đều thành bọt nước.

Nước vọt lên ở điểm nào thì ở đó những khối lớn đánh vào bề mặt;   

Gió ở Piombino;  

Trút cạn những còn thuyền bị nước mưa.

Trong thời gian ở Piombino, ông có kế hoạch rút cạn những đầm lầy.

Phương pháp làm cạn đầm lầy ở Piombino, [Với một phác thảo sơ sài].

Ông nghiên cứu phép phối cảnh không trung trên một chiếc thuyền buồm chạy vun vút giữa đất liền và sơn đảo Alba.  

Khi tôi ở địa điểm có cự li đều với bờ biển và núi, cự li từ bờ biển trông xa hơn nhiều so với cự li từ núi.

Băng qua Sienna, ông khảo sát một cái chuông nổi tiếng trên tháp Palazzo Publico, bên cạnh là một pho tượng gỗ dát bằng đồng thau, nó điểm giờ với cái búa.

Cái chuông ở Siena, phương thức vận động và vị trí gắn của quả lắc.

Tháng Sáu, Leonardo ở Arezzo, ở đó condottier (binh đội đánh thuê) của Cesare Borgia đang chiến đấu. Ông ước ao có được cuốn sách của Archimedes với sự trợ giúp của Borgia.

Borges sẽ kiếm được cho mình cuốn sách Archimedes từ vị giám mục ở Padua, và Vitellozzo từ Borgo San Sepolcro.

Đã có người nào phát hiện ra tầm uy lực của khẩu đại pháo, trong mọi tính đa dạng của nó, và đã đem bí mật đó cho người La-mã, thật nhanh chóng biết bao họ đã chinh phục mọi quốc gia, và khuất phục mọi quân đội, và phần thưởng nào cho thật đủ đối với một cống hiến như thế! Archimedes, mặc dù ông đã làm thiệt hại lớn tới người La-mã trong cuộc vây thành Syracuse, nhưng cũng chính những người La-mã này đã dành cho ông những tưởng thưởng rất lớn. Khi Syracuse bị chiếm, họ đã chuyên cần tìm kiếm Archimedes, và khi phát hiện thấy ông bị chết, đối với giới Nghị sĩ và với dân La-mã thì sự thương tiếc còn lớn hơn nếu họ mất tất cả quân đội; thủ lĩnh của họ là Marcus Marcellus đã vinh danh ông bằng sự an táng và đúc tượng. Và sau cuộc phá huỷ Syracuse lần thứ hai, ngôi mộ này của Archimedes do Cato phát hiện trong một ngôi đền đổ nát; và Cato đã cho trùng tu lại ngôi đền và ngôi mộ mà ông cực kì tôn kính... và có ghi chép về Cato cho biết ông đã nói rằng ông không vinh danh bất cứ điều gì tới mức như đã dành sự tôn kính cho Archimedes.     

Trong khi đó, ông đã nghiên cứu địa hình học và vẽ bản đồ các địa hạt quân sự.

Từ Bonconvento tới Casanova 10 dặm; từ Casanova tới Chiusi 9 dặm; từ Chiusu tời Perugia 12 dặm; từ Perugia tới Santa Maria degli Angeli và từ đó tới Foligno.

Phương pháp của Leonardo trong việc vẽ địa đồ, trước tiên là vẽ biểu đồ hệ thống sông ngòi rồi xác định vị trí các thành phố và tiếp theo, quanh những lưu vực sông này mới đưa vào những sơn mạch. Kết quả mang tính rất là gợi ý về tính chất của địa hình. Bút kí dưới đây về việc vẽ địa đồ.

Trên chóp những sườn núi thì vẽ rút gọn lại hình dạng của mặt đất và những phân bộ của nó, nhưng giữ nguyên hình dạng của nó hễ ở đâu nó hướng tới bạn.  

Trong khi nghiên cứu những lưu vực ở Chiana và thượng du Arno, ông tìm kiếm vỏ sò để minh xác những phần đất này đã từng bị biển chìm ngập trong những thời kì trước kia hay không.

Ở đâu thung lũng chưa từng bị nước mặn của biển bao phủ, ở đó không tìm ra vỏ vò; cũng như có thể thấy rõ trong thung lũng của Arno ở bên trên Gonfolina, một tảng đá lớn từng gắn liền với Monte Albano trong hình dạng một bờ sông rất cao. Điều này giữ cho dòng sông ẩm ướt tới độ trước khi nó có thể chảy vào biển thì ở ngay chân của tảng đá này, nó hình thành hai cái hồ lớn, hồ thứ nhất ở nơi chúng ta ngày nay nhìn thấy thành phố phồn vinh Florence cùng với [hai thành phố] Prato và Pistoia... Ở thượng du Thung lũng Arno, cho tới Arezzo, hồ thứ hai được hình thành từ việc nó xả nước vào cái hồ nói trên. Nó bao bọc ở khoảng nơi ngày nay chúng ta thấy là Girone, và nó đổ đầy tất cả thung lũng ở bên trên suốt một cự li bốn mươi dặm. Thung lũng này tích tụ vào đáy của nó tất cả bùn đất do những dòng nước đục mang tới và vẫn có thể nhìn thấy nó ở cao độ tối đa ở chân núi Prato Mogno vì ở đó những dòng sông bị suy yếu.    

Băng qua vùng đất này có thể thấy những ngấn tích do những dòng sông chảy qua theo độ dốc xuống từ núi cao Prato Magno; trong những ngấn tích không có những dấu vết của bất cứ vỏ sò nào hoặc thổ nhưỡng của biển. Cái hồ này nối vào với hồ ở Perugia.

Tại Cung điện Bồ câu ở Urbino. Ngày 30 tháng 7 năm 1502.

Băng qua Urbino, Leonardo nhìn thấy lâu đài tráng lệ thời Phục hưng được xây cất cho Federico da Montefeltro, công tước của Urbino. Đây là một trung tâm danh tiếng về văn học nghệ thuật. Hiện tại, Guidobaldo trẻ, con trai và người kế thừa, đã chạy trốn khỏi gia đình.

Thành luỹ của Urbino.

Bút kí dưới đây nằm trong cùng tập bút kí, có lẽ ngụ ý rằng do việc cướp phá cung điện cho nên kho tàng của Cesare Borgia đã phải chuyển tới Cesena.   

Bầy la trĩu nặng trên lưng chúng đầy vàng, bạc. Vô số kho báu và của cải chất lên những con thú bốn chân và sẽ chở tới những nơi khác nhau.

Khi đang đi xuống cầu thang của cung điện bị cướp phá, Leonardo đã phác hoạ vội những mái vòm có cột chống trên một trong những đầu cầu thang.

Một phác thảo khác minh hoạ một chân tường thiếu hiệu quả vì hẹp hơn bức tường.

Những bậc thang ở Urbino.

Chân tường phải rộng bằng với độ dầy của bức tường.  

Ngày 1 tháng 8 năm 1502. Tại Pesaro, thư viện.

Có sự hài hoà trong các dạng nước đổ xuống như thấy ở vòi nước phun ở Rimini ngày 8 tháng 8 năm 1502.

Những mục đồng ở Romagna dưới chân rặng Apennines đã khoét những cái hốc lớn trên những quả núi theo hình dạng cái tù và, còn bên hông họ đeo cái tù và. Cái tù và nhỏ này trở thành một và đồng dạng với cái hốc nói trên và như vậy họ tạo ra một âm thanh rất vang khi thổi vào trong nó.   

Ở Romagna, lãnh địa của tất cả những kẻ ngu đần, họ sử dụng xe đẩy với bốn bánh bằng nhau, hoặc họ có hai bánh thấp đằng trước và hai bánh cao đằng sau và đây là sự hạn chế rất lớn khi vận động bởi sức nặng đặt trên bánh trước nhiều hơn là những bánh sau, như tôi đã cho thấy.

...Và những bánh trước này di chuyển ít dễ dàng hơn những bánh lớn, vì thế khi tăng trọng lượng đằng trước là giảm năng lực vận động và như vậy làm khó khăn tăng gấp đôi. 

[Với bản vẽ].

Ở đây bánh xe lớn hơn có gấp ba lần tác dụng đòn bẩy so với bánh xe nhỏ; vì thế, bánh xe nhỏ bị gấp ba lần trở lực và phải thêm một trăm cân/pound [cần phải thêm] hơn hai trăm cân cho cho [bánh xe] nhỏ.    

[Với bản vẽ một lâu đài].

Ngày Thánh Mary, giữa tháng 8 ở Cesena 1502.

[Với phác thảo hai chùm nho treo trên cái móc].

Ở Cesena, nho đã được mang đi như thế.

Một cuộc thăm viếng Cesare Borgia bởi đoàn đại biểu của quốc vương Hồi giáo Baiazeth, có lẽ đã khơi lại hứng thú của Leonardo về phương Đông. Vị quốc vương đang có kế hoạch kiến tạo một cây cầu giữa Pera và Constantinople để thay thế một kiến trúc bằng gỗ trụ trên những sà lan nặng nề bắc qua Kim Hải Giác (Golden Horn ở Istalbul).  

Leonardo đã vẽ một thiết kế cho chiếc cầu này trong bút kí của ông.

Cây cầu từ Pera tới Constantinople.

Rộng 40 ell [1 ell=113cm], cao trên mặt nước 70 ell, và dài 600 ell, 400 ell ở bên trên mặt nước và 200 ell tựa trên mặt đất. Theo cách này, nó cung cấp sự chống đỡ.

Ngày 18 tháng 8 năm 1502, Cesare Borgia, trong khi hội ý với hoàng đế nước Pháp ở Pavia đã chỉ định Leonardo làm kĩ sư trưởng. Ông giám sát những pháo đài trong những tỉnh đã được chinh phục và được trao quyền trưng dụng bất cứ nhu yếu nào.  

[Với bản vẽ].

Tại Porto Cesenatico, ngày 6 tháng 9 năm 1502 lúc 15 giờ. Làm sao cho thành luỹ nhô ra ngoài những bức tường của thành phố để bảo vệ các sườn dốc phía bên ngoài, vì thế chúng có thể không bị pháo binh tập kích.

Khi trở lại Romagna, Cesare bị cô lập ở Imola, các tướng lĩnh của ông âm mưu làm phản, còn Urbino thì nổi loạn. Đồ án Imola của Leonardo, với những biểu thị cự li của những địa khu lân cận, ghi ngày tháng vào thời điểm này. Florence đã ủng hộ chủ trương của Cesare và đã phái Niccolò Machiavelli tới trợ giúp. Cả Machiavelli và Leonardo hiện có thể mục kích toàn quá trình sự kiện lên đến tột độ khi Cesare sát hại các tướng lĩnh bất mãn trong khi họ đến gặp ông để hoà giải, vào ngày 12 tháng 12 năm 1502. Trong số các nạn nhân có Vitellozzo Vitegli. Cuộc vận động chấm dứt, Cesare lên đường đi Rome vào tháng Hai 1503.

Trong Quân vương (Il Principe), Machiavelli nêu ra hình tượng chính trị gia lí tưởng của ông dưới tên Valentino thay cho Cesare Borgia, công tước của Valentino. Trong bút kí dưới đây, Leonardo cũng nhắc đến ông bằng cái tên đó.    

Valentino đang ở đâu?

Giày ống, những thùng ở sở hải quan, vị tu sĩ ở Carmine, những quảng trường hình vuông.

Piero Martelli.

Salvi Borghesini.

Trả lại tiền.

Cái giá đỡ cho đôi kính.

Bức khoả thân ở Sangallo.

Cái áo khoác...

Vào tháng 2 năm 1503, Leonardo có lẽ đã kết thúc việc phục vụ cho Cesare Borgia và trở về Florence.

Bản ghi nhớ. Vào ngày 8 tháng 4 năm 1503 tôi, Leonardo da Vinci, cho hoạ sĩ vẽ tế vi hoạ  (miniature) là Vante vay bốn đồng vàng ducat. Salai đã đem tiền đến và giao tận tay ông, và ông nói sẽ hoàn trả trong thời gian 40 ngày.

Bản ghi nhớ. Cùng ngày đó, tôi trả cho Salai ba đồng vàng ducat, cậu nói muốn sắm một đôi tất dài có trang sức. Như vậy còn lại 9 ducat phải trả cho cậu – không kể cậu còn nợ tôi 20 ducat; tôi cho cậu mượn 17 ở Milan và 3 ở Venice.    

Ông lão này, một vài giờ trước khi chết đã cho tôi biết ông sống được một trăm tuổi, không có bất cứ bệnh tật nào về thân xác ngoài trừ sự suy nhược, và như thế đang khi ngồi trên giường ở bệnh viện Santa Maria Nuova ở Florence, không có di chuyển hoặc có bất cứ triệu chứng đau đớn nào, ông đã qua đời. Và tôi đã tiến hành giải phẫu xét nghiệm để xác định nguyên nhân cái chết rất êm đềm đó, và phát hiện nó gây ra do sự suy nhược thông qua việc mất máu và huyết mạch tiếp dưỡng cho tim cùng những bộ phận bên dưới, tôi thấy chúng rất khô, co rút lại và héo; kết quả cuộc khám nghiệm này tôi ghi chép rất kĩ... Một việc mổ xác khác đối với một em bé hai tuổi, và ở đây tôi phát hiện mọi thứ ngược lại với trường hợp của ông lão...

[Với bản vẽ]     

Đây là mặt trái của cái lưỡi, bề mặt của nó nhám ở nhiều động vật và đặc biệt ở những loài thuộc giống sư tử, như sư tử, báo, linh miêu, mèo và những loài tương tự, chúng đều có bề mặt lưỡi rất nhám như thể được bao phủ bằng lớp đinh nhỏ hơi mềm dẻo; và khi chúng liếm bộ da thì lớp đinh này xâm nhập tới chân lông, và tác dụng như những cái lược để tẩy trừ những sinh vật nhỏ xíu kí sinh trên thân thể chúng.  

Có lần, tôi thấy một con cừu bị một con sư tử liếm, trong thành phố Florence của chúng ta, ở đây luôn có 25 tới 30 con, và chúng đẻ con. Con sư tử đực với một vài cú liếm, nó tước khỏi toàn bộ mớ lông của con chiên, sau khi đã làm cho trần trụi, bèn ăn thịt nó.

Tháng 6 và tháng 7 năm 1503. Trong cuộc vây hãm thành Pisa, Leonardo ở lại trong [Nghĩa trang] Camposanto của Pisa và thực hiện một số phác thảo địa hình cùng những bản thiết kế cho máy móc quân sự và những công trình công sự.

Ngày 24 tháng 7, ông thăm trại quân của Florence đang bao vây Pisa và đã phê chuẩn một đồ án chỉnh lí sông để rút cạn nước Pisa và làm cho Florence trực tiếp có thể tiếp cận từ biển. Đồ án này có sự trợ giúp của bạn ông là Machiavelli, và nếu thực hiện được nó sẽ kết thúc cuộc chiến lê thê nhiều năm giữa Florence và Pisa. Bản tường trình từ doanh trại nói rằng: “Hôm qua, một vị quan chấp chính đã được tháp tùng bởi Alessandro degli Albizzi và Leonardo da Vinci cùng những người khác đã tới đây, sau khi tham chiếu đồ án, và sau nhiều thảo luận và hồ nghi, đã đi tới quyết định rằng việc đảm nhiệm này rất có thể đạt được mục đích. Chi phí cho cuộc tham kiến này do Quốc gia đài thọ, gồm việc sử dụng mã xa và sáu con ngựa.     

Leonardo đã vẽ bản đồ hạ du sông Arno và công trình khởi sự vào tháng 8 năm 1504. Trước đó ông đã có được kiến thức thấo đáo về thượng du sông ở Arezzo. Ông đã kết hợp những khảo sát ngành công trình với địa chất học. 

Dưới lòng đất, và dưới nền móng các toà kiến trúc, có thể tìm thấy những xà gỗ đen nhẵn. Những thứ này được phát hiện vào thời của tôi trong những cuộc đào xới ở Castel Fiorentino. Những xà gỗ đã ở địa điểm này trước khi dòng Arno chở cát vào biển đã nâng lên tới độ cao như thế; và trước khi những đồng bằng ở Casentino bị hạ thấp rất nhiều do tác động của sông Arno không ngừng chuyên chở đất xuống từ nơi đó.    

Người ta không biết tại sao dòng Arno chẳng bao giờ giữ theo kênh của nó. Nguyên nhân là vì những dòng sông chảy vào nó đã bồi thêm đất ở nơi chúng lưu nhập và làm lở đất phía khúc quanh bên kia của dòng sông...     

Xoáy nước do sông Mensola tạo ra khi dòng Arno hạ thấp còn Mensola thì đầy.

Công trình này, khởi sự vào tháng 8 năm 1504, đã bị bỏ rơi vào tháng Mười. Nhưng tâm trí của Leonardo vẫn tiếp tục chú tâm vào vấn đề. Một năm sau trong cuộc gặp gỡ nhà điêu khắc và nhà chế tác huy chương Niccolò di Forzore Spinelli người Florence. Ông đã ghi xuống cách giải thích của Forzore về phương pháp đào kênh hấp thu được ở Flanders.

Một dòng sông đổi hướng từ nơi này sang nới khác tất phải đồng trục (coax) và không được xử lí thô bạo hoặc cưỡng bức; để làm được điều này, nên xây một loại đập ngăn trong lòng sông, tiếp theo một máng nước hạ thấp hơn đặt ở xa hơn và cứ theo cách như thế, cái thứ ba, thứ tư, và thứ năm sao cho dòng sông có thể tự động hạ phóng vào trong kênh đã phân bố cho nó, hoặc nhờ đó khả dĩ làm trệch hướng từ nơi nó đã bị tổn hại như đã thực hiện ở xứ Flanders theo Nicolò di Forzore đã nói cho tôi biết.     

Làm sao bảo hộ và chỉnh tu bờ sông bị nước đánh vào bên dưới đảo Cocomeri...

Ngày 18 tháng 10 năm 1503, Leonardo gia nhập lại phường hội các hoạ sĩ ở Florence. Ngày 18 tháng 10, vị quan chấp chính uỷ thác ông vẽ một bức bích hoạ lớn trên bức tường của dinh thự mới Sala di Gran Consiglio trong Palazzo Vecchio. Bức tranh này để kỉ niệm cuộc chiến thắng Pisa trước đây, các tướng quân của nước cộng hoà đã chiến thắng Niccolò Piccinino vào năm 1440. Leonardo đã chọn một giai đoạn trong trận đánh xảy ra gần một cây cầu ở Anghiari trong thượng du thung lũng Tiber, cuộc ác chiến  đầy sắc thái giữa hai phe đối lập. Miêu tả chi tiết trận đánh đã được ông rút ra sử dụng còn sót lại trong những thủ cảo của ông. Đây cũng có thể là thời điểm ông bắt đầu vẽ Neptune, Leda và thiên nga, và Chúa cứu thế/Salvator Mundi[1]. Ông cũng bắt đầu vẽ Mona Lisa.

Bản ghi nhớ về những sự kiện trong Trận chiến Anghiari   

      Những người Florence       Nicolò da Pisa

      Neri di Gino Capponi         Bá tước Francesco

      Bernardetto de’ Medici       Micheletto

                                                  Pietro Gian Paolo

                                                  Guelfo Orsino

                                                  Tiên sinh Rinaldo degli Albizi

 

Bắt đầu với diễn thuyết của Nicolò Piccinino với binh sĩ và những người Florence bị lưu đày, trong số đó có Tiên sinh Rinaldo degli Albizzi. Tiếp theo hãy cho thấy người đầu tiên khoác áo giáp vào con ngựa của ông ra sao, và toàn quân đội theo sau ông: 40 trung đội kị binh và 2000 bộ binh.

Và vị Giáo trưởng [ở Aquileja] lúc sớm tinh mơ lên núi để thị sát địa hạt, đó là đồi núi, ruộng đồng, và một thung lũng được dòng sông tuôn tưới; và ông nhìn thấy Nicolò Piccinino đang tiến tới từ Borgo San Sepolcro với quân đội làm tung đám mây bụi lớn, sau khi phát hiện, ông vội trở về doanh trại và thông báo cho dân chúng.

Sau khi đã thông báo, ông chắp tay cầu nguyện với Thượng đế; ngay sau đó ông nhìn thấy một áng mây, từ áng mây thánh Phê-rô hiện xuất và nói với vị Giáo trưởng...

500 kị binh được Giáo trưởng phái đi ngăn cản quân địch tiến công. Đứng đầu quân địch là Francesco, con trai của Nicolò Piccinino, và y đang tới trước tiên để xung kích chiếc cầu mà vị Giáo trưởng và quân Florence đang trấn giữ. Bên kia cầu phía bên trái, ông phái bộ binh tới giao chiến và bị quân chúng ta đánh bại. Thủ lĩnh của họ là Micheletto lúc đó đang chỉ huy toàn quân đội. Ở đây, tại chiếc cầu này, một trận giao tranh ác liệt; quân ta đã chế ngự và kẻ địch bị đẩy lui. Thế rồi, Guido và Astorre em trai của y, lãnh chúa của Faenza, cùng với nhiều binh sĩ tổ chức lại và hồi phục sức chiến đấu rồi công kích mãnh liệt quân Florence để cưỡng chiếm chiếc cầu và xông lên tới tận khu lều. Để chống lại, Simonetto tiến lên cùng với 600 kị binh tấn công quân địch, đẩy lùi họ ra khỏi khu vực và chiếm lại chiếc cầu; đằng sau ông còn thêm binh sĩ và 2000 kị binh; trận chiến cứ như thế kéo dài dùng dằng. Tiếp theo, vị Giáo trưởng đã phái Nicolò da Pisa và Napoleone Orsino, một thanh niên trẻ chưa có râu, đem theo một đại quân xâm nhập trận địch làm cho quân địch hỗn loạn, và đã lập một chiến công lớn khác. Cùng lúc đó, Nicolò Piccinino cùng với đám tàn quân xông lên, một lần nữa làm cho quân ta phải nhượng bộ. Nếu không có vị Giáo trưởng đích thân lâm vào giữa trận địa dùng ngôn ngữ và hành vi để cổ vũ tướng sĩ thì các binh sĩ ắt đã tháo chạy. Và vị Giáo trưởng đã bố trí pháo binh trên đồi và đại pháo đã làm bộ binh địch tan tác; sự hỗn loạn hoàn toàn đến nỗi Nicolò bắt đầu kêu gọi con trai cùng đám tuỳ tùng của ông, và họ chạy trốn về hướng Borgo; tiếp đến là một cuộc đại tàn sát của con người. Không kẻ nào trốn thoát được trừ những kẻ đã trốn đầu tiên, hoặc những kẻ ẩn núp. Cuộc chiến đấu tiếp tục tới lúc mặt trời lặn khi vị Giáo trưởng quyết định thu binh và chôn cất những kẻ tử nạn; rồi sau đó ông lập một tấm bia kỉ niệm chiến công.

Leonardo đã làm bản hình mẫu (cartoon) cho trận đánh này trong Sala del Papa gần Santa Maria Novella mà ông được tự do chi phối vào ngày 24 tháng 10 năm 1503, và ông đã tiếp tục làm việc ở đó cho đến khi hoàn thành vào tháng 2 năm 1505. Ông cũng đang vẽ bức chân dung Mona Lisa, vợ của Francesco Giocondo, hiện nay ở bảo tàng Louvre. Trong khi nàng ngồi làm mẫu cho ông, ông “đã thuê các nhạc sĩ chơi đàn, hát, và pha trò để xua nỗi u sầu mà các hoạ sĩ có khuynh hướng đem vào những chức chân dung của họ”. Theo Vasari, ông làm việc với bức chân dung này suốt bốn năm và để dang dở; trong khi một bức chân dung khác vẽ người Florence, chân dung của Ginevra Benci, người ta nói là đã được hoàn tất cực độ đến nỗi “nó trông giống chính Ginerva chứ không giống như một bức tranh”. Ngày 25 tháng 1 năm 1504, Leonardo tham dự trong một cuộc hội ý về việc đặt bức tượng lớn David của Michelangelo ở đâu, và đã bỏ phiếu tán thành Loggia dei Lanzi chống lại đa số. Danh xưng một số nghệ sĩ tham dự có nêu ra trong bút kí của ông vào thời gian đó.

Piero di Cosimo, Lorenzo [di Credi], Filippo [Filippino Lippi], [Andrea] Sansovino, Michelangelo [da Viviano, thợ kim hoàn], Cronaca [kiến trúc sư].

Ngày 24 tháng 5 năm 1504, Isabella d’Este viết thư từ Mantua thiết tha xin ông vẽ một bức Chúa Ki-tô trẻ, lúc ngài khoảng 12 tuổi, khi đang tranh luận với các Trưởng lão trong đền. Bà ưa thích bức tranh này hơn là bức chân dung của bà, và sẽ trả bất cứ giá nào ông muốn. Mối ưu tư của bà hẳm làm cho ông cao hứng. Leonardo đã hồi âm hứa sẽ dành thời gian rảnh cho công việc này.

Ngày 9 tháng 7 năm 1509 vào thứ Tư lúc 7 giờ ở Cung  Podestà [nay là Palazzo del Bergello] Ser Piero da Vinci đã qua đời, công chứng viên, thân phụ tôi. Ông hưởng thọ 80 tuổi, để lại 10 con trai và 2 con gái.  

Việc chia tài sản của thân phụ Leonardo dẫn đến những tranh chấp gay gắt giữa Leonardo và bảy người em trai hợp pháp. Vào tháng 8, người chú của Leonardo là Francesco đã để lại tài sản cho ông.

Phần mảnh của một bức thư dưới đây, đã được viết trước đó, chứng thực cho lòng hiếu kính của Leonardo.

“Cha thân ái, con đã nhận bức thư của cha vào ngày cuối tháng trước và nó làm cho con đồng thời vừa vui sướng vừa đau đớn: vui sướng vì cho đến nay con được biết cha còn mạnh khoẻ, xin cảm tạ Chúa. Nhưng con đau đớn khi nghe về những phiền muộn của cha...”  

Vào sáng ngày Thánh Phê-rô 29 tháng 6, 1504, tôi rút ra 10 ducat, và đưa 1 cho người hầu Tommaso chi phí.

Sáng thứ Hai 1 florin cho Salai xài cho căn nhà.

Thứ Ba tôi xài 1 soldo cho bản thân.

Chiều thứ Tư, 1 florin cho Tommaso trước bữa ăn tối.

Sáng thứ Bảy, 1 soldo cho Tommaso.

Sáng thứ Hai 1 florin kém 10 soldi.

Thứ Năm cho Salao 1 florin kém 10 soldo.

Cho một áo chẽn 1 florin.

Cho một áo chẽn và một mũ lưỡi trai 2 florin.

Cho người buôn hàng dệt kim 1 florin.

Cho Salai 1 florin.

Sáng thứ Sáu ngày 19 tháng 7, 1 florin kém 6 soldi.

Tôi có 7 florin còn lại và 22 trong tráp.

Thứ Ba ngày 13 tháng 7, 1 florin cho Tommaso.

Chủ nhật ngày 4 tháng 8, 1 florin

Thứ Sáu ngày 9 tháng 8 1504, tôi rút 10 ducat từ tráp.

Sáng thứ Bảy ngày 3 tháng 8 năm 1504, Jacopo, người Đức, đến chỗ tôi ở và đồng ý tôi tính ông 1 carlino một ngày.

Tường thuật dưới đây, do Giovanni di Garvina một hoạ sĩ Florence và bạn của Leonardo, in trong Codice Magliabecchiano: “Đang khi Leonardo, đi cùng với G. Di Garvina, băng qua bờ sông Spini, gần Giáo đường Santa Trinità, nhiều thân sĩ tụ tập, họ đang bàn luận một đoạn thơ trong tác phẩm Dante, khi thấy Leonardo, họ mời ông giải thích dùm họ. Vào ngay lúc đó, Michelangelo ngang qua, và một người trong đám gọi ông, Leonardo nói: “Michelangelo có thể nói cho các bạn ý nghĩa của nó”. Nhưng người đến sau lại nghĩ câu nói này cốt gài bẫy mình, bèn đáp: “Không, sao ông không tự giải thích đi, ông là người tạo mẫu ngựa – mà không đúc được một pho tượng đồng, thật phí công và xấu hổ khi bỏ rơi việc”, nói xong rồi quay lưng đi khỏi. Leonardo im lặng và đỏ mặt vì những lời này.

Tháng 8 năm 1504, Michelangelo trẻ được uỷ thác vẽ bức Trận đánh Casina, trên bức tường đối diện với Trận đánh Anghiari của Leonardo trong sảnh hội đồng thành phố Sala del Gran Consiglio.

Ngày 31 tháng 10 năm 1504, Isabella d’Este viết thư nhắc ông về lới hứa vẽ cho bà bức Chúa Ki-tô trẻ. “Khi nào ngài phiền não với lịch sử Florence thì ngài hãy thực hiện bức hoạ của tôi coi như là cách nghỉ ngơi”.

Vào thời điểm này, ông vẽ các bức nghiên cứu cho bức Leda và thiên nga, và chúng đã được Raphael trẻ khâm phục và sao chép lại, người tới Florence vào cuối năm 1504.

Ngày 14 tháng 3 năm 1505, đại sảnh của hội đồng thành phố đã sẵn sàng cho Leonardo vẽ bức Trận đánh trên một trong những bức tường. Ông đã hoàn tất bản hình mẫu và đã triển lãm cùng với bức của Michelangelo. Hai tác phẩm đối địch này gần như là một phơi mở cho những năng lực nghệ thuật và dùng như khuôn mẫu cho những học viên, trong số đó có Raphael.

Cùng ngày đó, Leonardo tới Fiesole, nơi ông sở hữu một vườn nho. Trên đường đi, ông dừng lại quan sát sự phi hành của một con chim săn mồi. Ông nghiên cứu các nguyên lí phi hành và dự án chế tạo một bộ máy khởi động từ trên núi ở bên trên Fiesole. Quả núi “Ceceri” được đặt tên theo loài chim bay lượn, loài thiên nga ceceri sống ở khu vực này. Leonardo đã tiên đoán sự thành công của cuộc thí nghiệm phi hành của ông sẽ làm cả “thế giới kinh ngạc” và mang lại “vinh quang bất diệt”cho kẻ đã sáng tạo nên chiếc phi cơ đó. Tuy nhiên, không có bằng chứng rõ ràng cuộc thí nghiệm này đã thực sự được tiến hành.

Cuốn bút kí nhỏ về sự phi hành của chim bảo tồn ở Bibliotica Reale ở Turin có niên đại vào thời gian này.

Khi loài chim có đôi cánh thật rộng và cái đuôi nhỏ, khi muốn tự lên cao, nó sẽ nâng đôi cánh mạnh mẽ và khi chuyển hướng, nó sẽ đón nhận luồng gió ở dưới cánh. Luồng gió này vây quanh nó sẽ lái nó đi bằng tốc độ nhanh chóng như trường hợp với “cortone”, loài chim săn mồi, mà tôi đã thấy trên đường tới Fiesole, ở trên vùng Barbugia, năm 1505, ngày 14 tháng 3.

Từ quả núi được đặt tên theo loài chim lớn này, và loài danh điểu này sẽ lừng danh khắp thế giới sẽ khởi sự sự cất cánh của nó.

Cuộc phi hành đầu tiên của loài chim lớn từ đỉnh Monte Ceceri sẽ làm cả thế giới kinh ngạc; mọi ghi chép sẽ tràn đầy danh tiếng của nó, mang lại vinh quang bất diệt cho nơi phát nguyên của nó.       

Nhật kí dưới đây viết trong cùng một cuốn bút kí.        

Chiều thứ Ba ngày 14 tháng 4, Lorenzo đến ở chỗ tôi. Cậu ta nói cậu đã lên 17 tuổi; ngày 15 tháng 4, tôi đã nhận được 25 florin từ người chủ quản của giáo đường Santa Maria Nuova.  

Vespuccio sẽ cho tôi một cuốn sách về hình học.

Amerigo Vespucci, tên của ông đã được đặt cho châu Mĩ (America), xuất thân từ một gia đình ở Florence. Những du kí của ông được viết từ Bồ-đào-nha năm 1503 và 1504 gửi các người bạn ở Florence rất có khả năng được Leonardo biết đến. Những chuyến du hành rộng rãi của người Tây-ban-nha và Bồ-đào-nha đã thức tỉnh sự quan tâm trong những vấn đề địa lí.

Leonardo chia sẻ niềm say mê của ông đối với những nghiên cứu vũ trụ với Giovanni Benci, người bà con của Ginerva Benci, người mà ông đã vẽ chân dung.

Bản đồ thế giới từ Giovanni Benci. Giovanni Benci đã có sách và ngọc thạch anh của tôi.

Sách của Pandolfino, Lactantius, Aristotle luận về hiện tượng thiên thể; thư viện của giáo đường Thánh Mark và Santo Spirito; có đóng sách.  

Học phép nhân căn thức từ Danh sư Luca [Pacioli]; gương của Rosso – hãy xem cách ông chế tạo nó.

Để chế tác phi điểu; rất nhiều vật liệu cho đôi cánh;

Một thợ học nghề để chế tác những mô hình;

Găng tay cho Lorenzo de’ Medici [Lorenzo Pietro di Francesco].

Nhuộm áo lót; sửa áo khoác; đồng thau cho đôi kính; tấm da Cordova màu đỏ; y phục từ viên chức sở thuế.

Ngày 30 tháng 4 năm 1505, Leonardo nhận công phí từ vị Chưởng quan cho công tác đã hoàn tất ở sảnh Sala del Gran Cosiglio. Thuế hải quan với một kiện hàng y phục cũng đã được trả phí cho ông từ Rome? Ông đã đi Rome?

Cuốn sách nhan đề “Luận về sự chuyển hoá”, luận về một vật thể biến thành một vật thể khác mà vật chất không tăng không giảm, do tôi Leonardo da Vinci bắt đầu vào ngày 12 tháng 7 năm 1505. 

Phần đầu của bản thảo này bàn về hình học ba chiều.

Trong khi đó, Leonardo đang vẽ nhóm trung tâm cảnh trận đánh trên bức tường được phân định trong sảnh Sala del Gran Consiglio. Ông hấp thu một phương pháp kĩ thuật làm cho màu sắc bám chắc trên tường bằng việc áp dụng nhiệt, nhưng kết quả không thành. Antonio Billi quy thất bại cho việc hoạ sĩ gian lận dầu lanh. 

Ngày 6 tháng 6 Leonardo ghi lại những dòng sau:

Ngày 6 tháng 6 năm 1505, thứ Sáu, lúc điểm giờ thứ 13, tôi bắt đầu vẽ trong cung. Vào khoảnh khắc tôi phết cọ thì thời tiết trở nên xấu, và chuông báo gọi mọi người tập họp. Bản hình mẫu bị rách toạc, bình nước bị vỡ, nước đổ ra. Đột nhiên thời tiết trở nên tồi tệ hơn, và mưa xối xả đến nỗi nước lênh láng. Bầu trời thì tối sầm như ban đêm.   

Ngày 27 tháng 4 năm 1506, công hội của giáo đường Thụ thai Vô nhiễm ở Milan đồng ý trả thêm 20 lire, bổ sung vào khoản đã trả cho bức hoạ Thánh mẫu giữa nham thạch cho Leonardo và Ambrogio de Precis. Bức tranh này được trả về cho hoạ sĩ để hoàn chỉnh thêm một chút, và rồi được treo lại trong giáo đường; trong khi một phiên bản sớm hơn gọi là “Vierge aux Rochers” được đem sang Pháp.

[1] Bức tranh Chúa cứu thế này bị thất lạc và gần đây được tái phát hiện, được phục chế và trưng bày năm 2011. Bức tranh miêu tả Chúa Ki-tô trong y phục thời Phục hưng, bàn tay phải đưa lên chúc phúc với hai ngón hơi chéo nhau (biểu thị ngôi Hai và thập giá), còn bàn tay trái cầm khối cầu pha lê. (ND)