Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 21 tháng 8, 2025

Bút kí của Leonardo da Vinci (14)

 Hà Vũ Trọng dịch

Nguyên văn: The Notebooks of Leonardo da Vinci do Irma A. Richter biên tuyển, Ấn quán Đại học Oxford, 1991.


CHƯƠNG VII NHỮNG CHẶNG ĐỜI CỦA LEONARDO

Bút kí về những hoạt động của Leonardo trong quá trình sống của ông được sắp xếp theo chuỗi biên niên dưới đây, gồm những cảm nghĩ, bản nháp thư tín, quan hệ bằng hữu, thư tịch, và những chuyến đi. Để hoàn tất bức tranh và điền vào bối cảnh những bút kí không liên tục này, niên đại những sự kiện mang tính lịch sử và những biến cố xảy ra đã ảnh hưởng đến cá nhân ông, tuy không được ông nhắc đến, được bổ sung bằng những tài liệu đương thời và qua tường thuật của Vasari.

I. Thời kì đầu ở Florence (khoảng 1464/9-1482/3)

Ngày 15 tháng 4 năm 1452. Leonardo ra đời tại Vinci, thuộc phía sườn tây núi Albano, gần Empoli. Ngày sinh được ông nội Antonio ghi: “Vào ngày thứ Bảy lúc ba giờ đêm ngày 15 tháng 4, một cháu trai của tôi chào đời, con của con trai tôi Piero. Tên nó là Lionardo. Giáo sĩ Piero Bartolomeo da Vinci đã làm phép rửa cho nó...” Tiếp theo sau là tên của mười người làm chứng cho lễ phép rửa. Leonardo sinh ra từ cuộc kết hôn với con gái của một nông dân tên là Caterina, và cha mẹ đã li dị sau khi Leonardo ra đời. Mẹ ông sau đó đã lấy Accattabriga di Piero del Vacca ở Vinci năm 1453. Còn cha ông, Ser Piero thì lấy Albiera di Giovanni Amadoni cùng năm Leonardo ra đời, gốc từ một gia đình ở Florence, có nhà ở Vinci, và cũng giống như cha ông của mình, Piero trở thành một công chứng viên (notary) thành danh ở Florence. Ser Piero đã kết hôn bốn lần, có chín trai và hai gái, tất cả sinh ra khi Leonardo ở tuổi 24. Ngay từ đầu, ông đã thừa nhận Leonardo là con mình và nuôi dưỡng trong nhà mình.  

Trong bút kí dưới đây, Leonardo hồi tưởng lại một giấc mơ từ tuổi thơ.

 

Viết về cánh diều gần như là vận mệnh của tôi kể từ những hồi tưởng đầu tiên về tuổi ấu thơ, hình như khi tôi còn trong nôi, một cánh diều đã tới bên tôi rồi lấy đuôi mở miệng tôi ra, rồi gõ đuôi vào môi tôi.[1]

Vasari miêu tả một cậu bé lớn lên giữa những vườn nho ở đồng quê Tuscany, khiến cho có những quan sát mật thiết về thiên nhiên. Ông kể lại rằng Leonardo đã vẽ một con rồng trên tấm khiên của một trong những nông dân của phụ thân ông, và để vẽ , Leonardo đã đem vào trong phòng của mình các loại thằn lằn lớn nhỏ, dế, rắn, bươm bướm, châu chấu, dơi, và những con vật khác, từ đó, với sự kết hợp khác nhau, Leonardo đã sáng tác ra một kì thú to lớn và đáng sợ. Leonardo lớn lên thành một thanh niên đầy triển vọng sáng chói, tài hoa về nhiều phương diện. Ngoài việc khai triển phong cách hội hoạ riêng của mình, anh còn nắn tượng những đầu phụ nữ và trẻ em đang mỉm cười bằng đất sét cho thấy bàn tay của một bậc thầy. Anh học nhạc, hát hay, và chơi đàn lute.          

Năm 1469, phụ thân anh trở thành công chứng viên cho Chính quyền ở Florence và đã thuê một ngôi nhà ở Piazza S. Firenze, không xa Palazzo Vecchio. Khi tới ở Florence, Leonardo đã theo học nghề trong xưởng của Andrea Verrocchio.   

Năm 1471, xưởng của Verrocchio tham dự cùng những người khác công việc trang trí cho các lễ hội dàn dựng để chào đón Galeazi Maria Sforza, công tước xứ Milan.  

Năm 1472, tên của Leonardo được khắc với tư cách là hội viên của phường hội thành Florence, ‘Leonardo di Ser Piero da Vinci, depintore (hoạ sĩ)”.

Ghi chú đầu tiên về niên đại từ thủ bút của Leonardo trên một bức tranh phong cảnh vẽ bằng bút mực, hiện nay ở bảo tàng Ufizzi.

Ngày 5 tháng 8 năm 1473, Ban ngày ở Santa Maria della Neve.

Trong số những học trò và những người cùng cộng tác trong xưởng vẽ của Verrochio là Domenico Ghirlandaio, Botticini, Perugino, Lorenzo di Credi, và nhà điêu khắc Agnolo di Polo.

Vào tháng 4 năm 1476, ông đang trú tại nhà của Verrochio, chính vào thời điểm đó có lệnh trát của toà cáo buộc ông và ba thanh niên Florence khác về tội kê gian (sodomy). Những cáo buộc này do sự nặc danh nên bị bác với điều kiện nếu chúng đem ra thêm chứng cứ. Trong đau buồn, Leonardo đã đệ trình một kháng cáo lên Bernardo di Simone Cortigiani, một nhà lãnh đạo ảnh hưởng của những phường hội Florence.    

 Ngài biết, như tôi đã nói trước đây, rằng tôi không có người bằng hữu nào.

Ở mặt bên kia tờ giấy này là câu nghi vấn:

Nếu không có ái tình, vậy thì là gì?

Trong bút kí sau đây được viết nhiều năm sau, ông hồi tưởng lại một sự cố không thoải mái khi liên hệ tới một lối miêu tả về Chúa Ki-tô Hài đồng.

Khi tôi vẽ một chúa Ki-tô hài nhi thì các người tống giam tôi. Giờ nếu tôi vẽ Ngài trưởng thành các người sẽ đối xử với tôi tồi tệ hơn.

Phát biểu dưới đây đăng trong ấn bản đầu tiên cuốn Cuộc đời của Leonardo của tác giả Vasari, và bị bỏ sót trong ấn bản thứ hai: “Leonardo có tư tưởng rất dị giáo đến nỗi ông không phù hợp với tôn giáo nào, dù sao đi nữa, xem ông là tín đồ Ki-tô sao bằng xem ông là một triết gia”.

Trong năm 1475-82 có khả năng ông đang học tập và làm việc trong ngôi vườn của Lorenzo de’ Medici ở Gaddiano. Trong bút kí dưới đây, Leonardo nhắc tới ngôi vườn và một công việc mà ông đang làm. Trên cùng trang giấy, có những tính toán về trọng lượng và một cái cân.   

Công việc nặng của Hercules cho Pier F. Ginori.

Ngôi vườn của Medici.

Vào ngày 10 tháng 1 năm 1478, ông nhận sự uỷ nhiệm vẽ một gian bàn thờ cho giáo đường San Bernardo Palazzo della Signora. Công trình này không hoàn tất; việc uỷ nhiệm sau đó giao lại cho Filippino Lippi.

Vào ngày 16 tháng 4 năm 1478, Giuliano de’ Medici bị ám sát ở Đại giáo đường Florence trong khi đang cử hành lễ trọng misa.

Bút kí dưới đây được viết trên giấy với những hình đầu người, hiện nay ở bảo tàng Ufizzi. Ngày tháng bị tẩy xoá.

....1478 tôi bắt đầu vẽ hai bức Đức Mẹ Đồng trinh...

Fioravante di Domenico ở Florence là người bạn đáng yêu nhất của tôi, như thể anh ta là huynh đệ của tôi.

Ngày 29 tháng 12 năm 1479, hoặc vào những ngày dưới đây, Leonardo đứng dưới cửa sổ một Bargello (trại lính) để vẽ Bernardo di Bandini Baroncelli, kẻ bị treo cổ vì đã ám sát Giuliano de’ Medici. Bên cạnh hình vẽ, ông viết tên của tội phạm và miêu tả y phục của y. (Bức hoạ này hiện bảo tồn ở Musée Bonnat, Bayonne, Pháp). 

Cái mũ vải nhỏ màu nâu rám.

Áo chẽn vải xéc đen.

Áo chẽn da màu đen, có viền và cổ bọc nhung chấm đen và đỏ.

Áo khoác viền lông chồn.    

Vớ dài đen.

Bernardo di Bandino Baroncelli.

Bút kí dưới đây có đề cập tới tiền bạc ở Florence và rất có thể đã được viết vào thời kì này.

Món tiền tôi nhận từ Ser Matteo:

Lần thứ nhất là 20 grossoni, sau đó là ba lần mỗi lần 3 soldi. Và tiếp theo là 6 grossoni, rồi 3, và 3,3.

Để tạo ra màu lục nguyên chất, dùng màu lục hỗn hợp với nhựa đường và bạn sẽ tạo nên những bóng đậm màu hơn. Để tạo bóng nhạt hơn thì hỗn hợp lục với vàng đất, và để cho bóng nhạt hơn nữa thì lục hỗn hợp với vàng, còn để tạo ra quang tuyến thì dùng vàng thuần tuý; rồi hỗn hợp lục và nhựa đường và tráng nó lên mọi thứ.

Để tạo ra màu đỏ nguyên chất, dùng chu sa hoặc phấn đỏ hoặc vàng đất xỉn cho những bóng đậm, còn những bóng nhạt hơn thì phấn đỏ và đỏ son, còn với quang tuyến thì đỏ son thuần tuý, sau đó tráng bằng màu đỏ tía thuần tuý.

Để chế tác loại dầu tốt để vẽ tranh: một phần dầu phổ biến, một phần dầu thông thừ nhất và một phần thứ nhì phối chế mà thành.

Bảng liệt kê dưới đây rọi ánh sáng vào những giao thiệp của Leonardo với những danh sĩ. Trên cùng một trang giấy là những phản ánh về sự trôi nhanh của thời gian, và bản vẽ một dụng cụ tương tự với đồng hồ cát, ở đó nước chiếm vị trí của cát.

Tượng hạn nghi của Carlo Marmocchi[2]

Tiên sinh Francessco Araldo

Về số học, Benedetto.[3]

Danh sư Paolo.[4]

Domenicho di Michelino.[5]

Calvo degli Alberti.

Tiên sinh Giovanni Argiropulo.[6]

Năm 1481, tu viện San Donato ở Scopeto gần Florence uỷ nhiệm Leonardo vẽ bức Sự chiêm bái của Ba vua. Bức tranh không hoàn tất này hiện ở Bảo tàng Ufizzi,. Nhiều phác thảo còn tồn tại.

Ngày 28 tháng 9 năm 1481, ba tu sĩ do tu viện phái đến giao một thùng rượu vang đến nhà ông. Đây là ngày tháng cuối cùng ta biết được về việc ở Florence lần đầu của ông.

Một bảng liệt kê những tác phẩm sở hữu của Leonardo khi rời Florence. Trên cùng trang giấy là nhiều phác thảo vội những đầu người và mũ sắt.

Một đầu người, chính diện, một chàng trai trẻ với tóc mịn xoã xuống.   

Nhiều đoá hoa từ thiên nhiên.

Một đầu người, chính diện, với tóc xoăn.

Những bức Thánh Jeromes khác nhau.

Nhiều thiết kế cho những nút thắt.

Bốn bức nghiên cứu cho tấm pa-nô về Sant’Angelo.

Một bố cục nhỏ về Girolamo da Fegline.

Đầu Chúa Kitô vẽ bằng bút mực.

Tám bức Thánh Sebastian.

Nhiều bố cục về các thiên sứ.

Một viên ngọc tuỷ (chalcedony)

Một đầu người nhìn nghiêng với tóc mềm.

Một số hình thể người theo phối cảnh.

Một số đồ cơ khí cho tàu.

Một số thiết bị cho thuỷ đạo.

Một búc chân dung Atalante ngước đầu lên.

Đầu của Geronimo da Fegline.

Đầu của Gian Francessco Boso.

Nhiều yết hầu của những phụ nữ già.

Nhiều đầu của người già.

Nhiều hình thể khoả thân hoàn chỉnh.

Nhiều cánh tay, cẳng chân, bàn chân, và tư thế.

Một bức Đức Mẹ Đồng trinh, hoàn tất.

Và một bức khác gần như hoàn tất, trong tư thế nhìn nghiêng.

Đầu Đức Mẹ Đồng trinh đang thăng thiên.

Đầu ông già với cái cổ rất dài.

Đầu người gypsy.

Đầu người đội mũ.

Một bức phù điêu mô tả sự Thương khó.

Đầu thiếu nữ với tóc thắt bím.

Đầu người với tóc vấn.

II. THỜI KÌ Ở MILAN LẦN THỨ NHẤT (1481-1499)

Năm 1841, Gian Galeazzo Sforza, công tước thành Milan, mới lên 13 tuổi, cho nên người chú Ludovico Sforza là nhà cai trị thực sự. Theo Anonimo Gaddiano viết khoảng 1540, Leonardo đã 30 tuổi khi Lorenzo de’ Medici phái ông tới yết kiến công tước Milan, có Atalante Migliorotti đi theo, để tặng công tước cây đàn lute, vì không ai trội vượt hơn ông về việc diễn tấu nhạc cụ này. Đồng bạn của ông, lúc đó là một thanh niên 16 tuổi, đã trở thành một diễn viên, nhạc sĩ, và chế tạo nhạc khí thành công. Cũng theo Vasari, chính nhờ tài năng âm nhạc của Leonardo là nguyên do ông được triệu đến Milan. Ông được chào đón với sự tán thưởng lớn trong một hội nhạc sĩ, ông đã diễn tấu cây đàn lute tự chế theo hình dáng giống cái sọ ngựa, phát ra một âm lượng rất vang và trong trẻo.   

Anonimo miêu tả về dung mạo của Leonardo. Ông là một người đẹp trai, cân đối, trông dễ thân và khả ái. Ông mặc một áo chẽn ngắn màu hồng dài tới đầu gối, vào thời đó người ta thường mặc trang phục dài. Chòm râu mịn với những lọn xoăn thả xuống giữa ngực.

Chẳng bao lâu sau khi tới Milan, Leonardo đã vẽ chân dung Cecilia Gallerani (Phu nhân với con điêu, hiện bảo tồn ở Cracow, Princes Czartoryski Museum), người trở thành người tình của Ludovico Sforza vào năm 1481. Bút kí dưới là ngỏ ý của nghệ sĩ với người mẫu:

Cecilia, hỡi nữ thần thân yêu [amatissima diva], tôi đã đọc...  thanh nhã của cô...

Ngày 25 tháng 4 năm 1483, Leonardo cùng với các em trai [cùng cha khác mẹ] là Evangelista và Giovan Ambrogio de Predis thương lượng về một nhiệm vụ cho nhà nguyện (chapel) Hữu ái Thụ thai Vô nhiễm uỷ thác, về một khám thờ điêu khắc tinh xảo trong nhà nguyện phụ cận của giáo đường San Francesco. Khám thờ này phải được mạ vàng, tấm trung tâm phải được vẽ bởi “người Florence” còn những tấm bên cạnh do Ambrogio vẽ. Tác phẩm trên khám này được trả giá 700 lire, tác phẩm của Leonardo trả 100 lire. Sau đó những hoạ sĩ đòi trả thêm. Việc kiện tụng tiếp tục nhiều năm. Kết quả là có hai phiên bản Thánh Mẫu của nham thạch (hiện ở bảo tàng Louvre, Paris; và National Gallery, London).

Bức thư dưới đây viết cho Ludovico Sforza liệt kê những phục vụ mà Leonardo sẵn sàng cống hiến. Đã có một dự án trước khi Ludovico lên nắm quyền muốn dựng một tượng đài người cưỡi ngựa bằng đồng để tưởng niệm thân phụ của ông, Francesco Sforza. Cuối thư, Leonardo đề nghị nhiệm vụ này nên giao phó cho ông.    

Chúa quân rất mực anh minh. Giờ đây đã thấy đủ và xem xét những chứng cứ về tất cả những người tự xem là bậc thầy và là những nhà phát minh của những chiến cụ, và thấy rằng sự phát minh và vận hành của những công cụ nói trên không khác về phương diện nào với những công cụ sử dụng thông thường, tôi sẽ cố gắng không thiên kiến với ai khác, để giải thích với ngài, và sẽ phô bày cho Chúa quân thấy những bí mật của tôi, và hân hạnh làm việc để đem lại kết quả cống hiến ngài vào những thời điểm thuận tiện về tất cả những mục được ghi chép một phần vắn tắt dưới đây.        

  1. Tôi có những thiết kế về các loại cầu, rất nhẹ và kiên cố, thích hợp để mang theo rất dễ dàng, với chúng, ngài có thể dùng để truy nã, và đôi khi tẩu thoát khỏi, kẻ địch; và các loại cầu khác vững chắc không thể phá huỷ được bởi lửa và chiến trận, dễ dàng và tiện lợi nhấc lên và hạ vào vị trí; cùng những thiết kế để đốt cháy và phá huỷ những loại cầu của kẻ địch.
  2. Khi một địa điểm bị bao vây, tôi biết cách tháo nước khỏi hào, và cách kiến tạo vô số những loại cầu, các loại đường đi và thang có mái che và những công cụ liên quan tới những cuộc viễn chinh như thế.
  3. Cũng vậy, nếu một địa điểm không thể chinh phục bằng phương pháp oanh tạc vừa do độ cao của bờ phòng ngự vừa do địa thế kiên cố của nó, tôi có những thiết kế để phá huỷ mọi pháo đài hoặc thành luỹ khác ngay cả nó có xây dựng trên nham thạch.
  4. Tôi cũng có những thiết kế về súng cối hết sức thuận lợi và dễ mang theo và nó có thể phóng những khối đá nhỏ gần giống như một trận bão; và với khói của nó làm cho kẻ địch hết sức kinh hãi, tổn thất lớn và hỗn loạn.

      Và nếu có xảy ra trận đánh trên biển, tôi có những thiết kế nhiều loại máy móc cực hữu hiệu vừa để tiến công vừa phòng thủ, và những chiếc tàu trận chống lại lửa của loại hoả pháo lớn nhất, cùng thuốc súng và khói.

  1. Tôi cũng có những biện pháp để tới được một địa điểm cố định bằng những hầm và những địa đạo ngầm và uốn khúc, không gây ta tiếng ồn dù rằng nó có thể cần phải xuyên ngầm qua hào hoặc sông.
  2. Tôi cũng sẽ tạo ra những loại xe có bọc thép, an toàn và không thể công kích được, sẽ xâm nhập vào đội ngũ địch với pháo binh, và nếu không có đội quân vũ trang thật lớn thì không thể phá vỡ nó. Phía sau những chiến xa này là bộ binh có thể theo sau mà không bị thiệt hại và không bị cản trở.
  3. Cũng vậy, nếu cần đến, tôi có thể chế tạo đại pháo, súng cối, và súng lớn nhẹ rất hữu dụng, hình dáng đẹp, khác với những loại đang dùng thông thường.
  4. Ở đâu chiến dịch oanh tạc vô hiệu, tôi sẽ thiết kế loại pháo nỏ, những máy bắn đá, trabocchi, và những loại máy khác có công hiệu tuyệt vời và sử dụng rộng rãi. Nói tóm lại, trong đủ mọi hoàn cảnh, tôi sẽ tìm ra mọi biện pháp khác nhau và vô số cách để tiến công và phòng thủ.
  5. Trong thời hoà bình, tôi tin mình có thể đưa ra một sự mãn ý hoàn toàn, ngang với bất kì việc nào khác, về kiến trúc và xây dựng những dinh thự vừa công gia vừa tư thất, và trong việc dẫn nước tới nơi khác.

Tôi cũng làm được điêu khắc bằng cẩm thạch, bằng đồng hoặc đất sét, và cũng có khả năng hội hoạ với bất cứ việc gì, cũng như bất kì ai khác.

Ngoài ra, tượng cưỡi ngựa đồng có thể đảm nhận, nó sẽ mang vinh quang bất hủ và danh dự  đời đời với kí ức về Vương tôn, phụ thân của ngài, và gia tộc Sforza lẫy lừng.

Và nếu có điều nào nêu trên gần như bất khả dĩ hoặc bất cứ ai không thể thực hiện được, tôi nguyện hết sức sẵn sàng được thử nghiệm chúng trong hoa viên của ngài, hoặc ở bất cứ nơi nào làm hài lòng ngài, người mà tôi tự tiến cử với tất cả lòng khiêm tốn khả dĩ.

Trong bản liệt kê thứ hai này về những tri thức nghệ thuật. Việc nhấn mạnh vào quân sự và kĩ thuật công trình hải quân. Phải chăng Leonardo đã thủ đắc tri thức này ở Florence hoặc sau khi ông tới Milan? Vào thời điểm khi Milan là đồng minh của Naples, Ferrara và Giáo hoàng đứng trước cuộc chiến với Venice, việc phục vụ của ông với tư cách kĩ sư hẳn là rất đáng ao ước. Năm 1484, một hội đồng về chiến tranh được tổ chức tại Milan; năm 1487 Milan đã thôn tính Liguria và cảng Genoa.    

Trong thời kì này, quan tâm của ông tập trung vào kĩ thuật công trình và cơ học. Ông vẽ thiết kế về khí giới để phối hợp nỏ bắn đá và máy bắn đá được dùng với những ý tưởng hiện đại hơn về pháo binh. Ông sáng chế ra những loại súng máy và những loại súng khoá nòng, các loại xe thiết giáp, và các loại cung máy có khả năng bắn ra đạn lửa. Ông vẽ những bản thiết kế những loại cầu quan sự và những loại pháo đài và những thiết bị phòng thủ khác. Đối với chiến tranh trên biển, ông thiết kế những sáng chế những bộ phận để tấn công và phòng thủ, một búa thuỷ động, và một đáy tàu kép để cho tàu bị hư hại vẫn có thể nổi lên, những bộ quần áo lặn, và những dây thắt lưng bảo hiểm.

Thiết bị này được sử dụng ở Ấn-độ dương để mò bắt ngọc trai, làm bằng da với nhiều vòng để cho biển không thể bít kín nó được, và đồng bạn ở bên trên trong thuyền canh chừng trong khi người mò ngọc trai và san hô; và người ấy có cặp kính thuỷ tinh bảo hộ và bộ áo giáp có đinh nhọn ở đằng trước.       

Những bút kí dưới đây kèm theo những bản vẽ về loại thiết bị được xem là đồ án bí mật mà Leonardo muốn dùng để phá huỷ tàu địch bằng việc đục thủng tàu từ dưới nước, và đưa ra việc thả tù binh được hưởng nửa số tiền chuộc.   

Chớ khoe tri thức riêng để chỉ mình bạn vượt trội.

Hãy tuyển dụng một thanh niên trẻ thuần phác và may cái áo khoác tại nhà.

Hãy chận quân hạm của hạm trưởng, sau đó đánh chìm những chiếc khác, nã đại pháo lên bộ binh.

...Khi tuần canh đã qua phiên, dùng một thuyền nhỏ ở dưới đuôi tàu, rồi bất ngờ phóng hoả toàn bộ. [Với bản vẽ một người trong bộ đồ lặn]

Một áo giáp hộ tâm với mũ trùm đầu, áo chẽn, và vớ dài... và một túi da đựng rượu để chứa không khí, một nửa vành đai thép cách li với lồng ngực. Nếu bạn có toàn bộ túi da với nút van... khi bạn xả hơi nó, bạn sẽ xuống dưới đáy bằng những túi cát kéo xuống; khi bạn thổi phồng nó, bạn sẽ trở lên mặt nước.

Một mặt nạ với tròng mắt lồi bằng thuỷ tinh, nhưng cho trọng lượng của nó sao cho bạn có thể ngẩng lên khi đang bơi.

Mang theo con dao sắc để không bị kẹt lưới.

Mang theo hai hoặc ba cái túi da đựng rượu, được xả hơi và bơm hơi như những quả bong bóng trong trường hợp cần đến.

Hãy bắt những sĩ quan mà bạn muốn, trói chặt và giấu họ trên bờ. Nhưng trước tiên phải hiểu về thoả thuận ra sao với một nửa số tiền chuộc là của bạn mà không có khấu trừ nào,... và việc trả công được thực hiện do đích thân Maneto,[7] về số tiền chuộc nói trên.

Hãy mang một sừng tù và để báo hiệu cuộc toan tính có thành không hay không...

Những thiết kế đầu tiên về cấu trúc phi cơ được thực hiện khoảng thời điểm này.

Hãy thí nghiệm một loại máy bay thực sự ở trên mặt nước để nếu như bạn có ngã xuống sẽ không bị thương.

Ngày 26 tháng 3 năm 1485, Leonardo quan sát nhật thực toàn phần.

Phương thức quan sát nhật thực mà không làm mắt tổn thương.

Lấy một tấm giấy, dùng kim đục lỗ trên đó, và nhìn mặt trời qua những lỗ này.

13 tháng 4 năm 1485, Ludovico Sforza thông báo cho đại sứ của ông đang ở triều đình của Mathias Corvinus, hoàng đế của Hungary, rằng ông đã yêu cầu một hoạ sĩ vĩ đại đang ở Milan sẽ vẽ một bức chân dung cho hoàng đế. Rất có thể ông đang nói tới Leonardo.    

Hồi ức dưới đây được viết trong những cuộc du ngoạn ở vùng hồ Como lãng mạn.

Đối diện lâu đài Bellaggio là dòng sông Latte, trút từ độ cao hơn một trăm thước Ý từ đầu nguồn, thẳng góc đổ vào lòng hồ với tiếng ầm ầm phi thường.  Đầu nguồn này chỉ chảy vào tháng 8 và tháng 9.

Khoảng tám dặm ở bên trên hồ Como là dòng suối Pliniana với mực nước dâng lên và rút xuống cứ mỗi sáu giờ, và khi nó dâng lên, nó cấp nước cho hai cối xay và còn một lượng thặng dư; và vì nó đổ xuống nên nó khiến cho dòng suối bị khô cạn: trên cao hơn hai dặm là Nesso, một địa điểm nơi một con sông đổ xuống hết sức mãnh liệt qua một vết nứt trong núi.

Những hành trình này nên thực hiện vào tháng Năm.

Và những tảng đá trơ trụi cực kì to lớn phân bố ở những vùng này thuộc núi Mandello gần tỉnh Lecco, và núi Gravedona về hướng Bellinzona, ba mươi dặm tính từ Lecco; và núi ở thung lũng Chiavenna. Nhưng núi Mandello lớn hơn cả và dưới chân nó là một cái rãnh hướng tới hồ và dốc xuống hai trăm bậc, và ở đây mọi mùa đều có băng đá và gió.

Ở Val Sasina giữa Vimognio và Introbbio, ở bên tay mặt nơi bạn đi vào con đường tới Lecco, bạn gặp con sông Troggia đổ xuống từ một nham thạch rất cao và khi đổ, nó đi xuống lòng đất vì thế dòng sông kết thúc tại đây. Xa thêm ba dặm bạn tới những khu nhà khai thác mỏ đồng và bạc gần quận Prato San Pietro, cùng với mỏ thiếc và những thứ kì lạ khác. Núi cao nhất vủng này là La Grigma, nó khá trơ trụi.

Bên trên hồ Como hướng về phía nước Đức là thung lũng Chiavenna, nơi sông Mera chảy vào hồ. Nơi đây là những quả núi rất cao và trơ trụi với những vách đá khổng lồ cheo leo. Trong vùng núi này có thể thấy loại chim nước gọi là chim cốc; ở đây sinh trưởng loại tùng linh sam, tùng lạc diệp, và thông; hươu, dê núi, linh dương, và loại gấu hung mãnh. Nếu không dùng đến tay chân thì không thể lên tới đó. Người nông dân đi lên đó vào mùa tuyết mang theo khí cụ lớn để làm cho những con gấu rơi xuống những tảng nham thạch này. Các quả núi gần với nhau và có sông ở  giữa chúng. Chúng trải rộng về bên phải và bên trái cứ như thế suốt một cự li khoảng hai mươi dặm. Bên trên dòng sông, có những thác nước cao bốn trăm thước Ý là một quang cảnh đẹp; và có một lữ quán sang trọng hoá đơn tính cho bạn là 4 soldi. Một khối lượng lớn gỗ do sông chở mang xuống.

Vùng Valtellina như đã nói là một thung lũng bao quanh bởi nhiều ngọn núi cao chót vót và đáng sợ; nó sản xuất một khối lượng lớn rượu vang nặng độ, và một số lượng lớn súc vật mà nông dân tính ra nó sản xuất sữa còn nhiều hơn cả rượu vang. Thung lũng này cắt ngang bởi dòng Adda, thượng du của nó chảy qua nước Đức bốn mươi dặm. Trong sông này có loài cá nước ngọt sống, trên cát có thể thấy bạc lấp loé.

Mọi người trong quận này bán bánh mì và rượu vang. Rượu vang giá 1 soldo một chai, thịt bê 1 soldo một cân, và muối 10 denari, bơ cũng vậy, và một cân (pound) của họ là 30 ounce, một lô trứng 1 soldo.

Đầu nguồn của Valtellina là núi Bornia trông đáng sợ và tuyết luôn bao phủ. Ở đây loài chồn ecmin sinh sản.

Năm 1487, Bộ Công tác của đại Giáo đường Milan cứu xét việc làm đỉnh vòm cho phận trung tâm của toà kiến trúc.   

Leonardo đã kiến tạo một mô hình cho tiburio này với trợ giúp của thợ mộc Bernado Maggi da Abbiate. Phí dụng những lần trả cho mô hình này vào ngày 30 tháng, vào 8, 18, 27 tháng 8, vào 28 và 30 tháng 9, và một lần nữa vào ngày 11 tháng 1 năm 1488. Sau đó mô hình được giao cho Bộ Công tác với một lá thư mà bản nháp dưới đây còn tồn tại. Ông so sánh toà kiến trúc cần tu sửa với một cơ thể đau ốm và nhà kiến trúc là y sĩ.

Thưa các Ngài, những đại diện của Chúa, hệt như y sĩ, hộ sĩ, bảo mẫu, cần thiết nên hiểu biết con người là gì, đời sống là gì, sức khoẻ là gì, và làm sao nó duy trì các khí quan được quân bình và hài hoà, vì khi có mất cân bằng từ những thứ này là sự suy nhược và hư hỏng; và người có một tri thức am hiểu về những tình cảnh này thì sẽ có thể tu sửa tốt hơn là người không có.

Các ngài biết rằng những thuốc men nếu dùng đúng cách sẽ hồi phục sức khoẻ cho người bệnh; và thuốc men dùng đúng cách vì khi người y sĩ hiểu đặc tính của chúng cũng sẽ hiểu được con người là gì, sinh mệnh là gì, thể tạng là gì và sức khoẻ là gì. Việc hiểu biết những thứ này người ta cũng hiểu rõ những đối nghịch của chúng và khi đây là trường hợp thì kẻ ấy sẽ biết rõ cách tu sửa...

Các ngài biết rằng thuốc men dùng đúng cách thì phục hồi sức khoẻ người bệnh, và kẻ biết rành đặc tính thuốc sẽ dùng chúng hữu hiệu nếu y cũng hiểu biết con người là gì, sinh mệnh là gì, thể tạng là gì, và sức khoẻ là gì. Biết được những điều này, y sẽ biết được những đối nghịch của chúng, và như vậy đã được trang bị, y sẽ tới gần với cách điều trị hơn ai khác. Nhu cầu của ngôi đại giáo đường tàn tạ cũng tương tự – nó cần tới một y sĩ về kiến trúc, người ấy am hiểu về công trình lớn, và trên những quy tắc nào mà phương pháp chính xác của toà nhà được đặt cơ sở, và từ đâu mà những quy tắc này bắt nguồn và được chia thành bao nhiêu bộ phận, và những nguyên nhân chúng tạo thành chỉnh thể, và làm cho vững bền, và tính chất trọng lực là gì, xu hướng lực là gì và chúng kết hợp và liên kết ra sao, và lực hợp thành của chúng sinh ra hiệu quả gì. Bất cứ ai có một tri thức chân chính về những điều này sẽ làm vừa ý các ngài bằng trí tuệ và công tác của người ấy... Vì thế tôi sẽ cố gắng mà không chê và không gièm pha một ai, để làm hài lòng các ngài một phần bằng luận cứ và một phần bằng công tác, có lúc nguyên nhân cho thấy hiệu quả và có lúc suy lí bằng thực nghiệm... tham khảo những nguyên lí nhất định của những nhà kiến trúc cổ đại và bằng chứng về những toà kiến trúc họ đã kiến tạo và những nguyên nhân nào khiến chúng đổ nát hoặc còn tồn tại, v.v...

Và đồng thời tôi sẽ chứng minh quy luật đầu tiên về trọng lượng, những nguyên nào và bao nhiêu nguyên nhân gây nên huỷ hoại công trình cùng điều kiện cho sự ổn cố và trường tồn của chúng là gì. Nhưng để không làm các ngài bị phân tán, tôi sẽ bắt đầu bằng thiết kế của nhà kiến trúc đầu tiên của đại giáo đường và cho thấy rõ ý đồ của ông ta hiển thị qua công trình do ông khởi sự, sau khi đã hiểu điều này, các ngài có thể nhận thức sáng tỏ cái mô hình mà tôi đã làm ra biểu hiện cho cấu trúc đối xứng, hài hoà và tính phù hợp đó, là những đặc điểm vốn thuộc về công trình ngay từ đầu: một công trình lớn là gì, và từ đâu những quy tắc kiến tạo chính xác được bắt nguồn, và những bộ phận nào và bao nhiêu bộ phận thuộc về những quy tắc này.

Nếu như không phải tôi, mà người nào khác có thể khai giải điều đó tốt hơn tôi, hãy chọn người ấy, và bỏ qua mọi thiên kiến.

Công việc được tiếp tục với những đại giáo đường ở Pavia, Como, và Milan và ở Santa Maria della Grazie đã khởi hứng cho ông khảo sát những vấn đề liên hệ với những vòm dựng trên những nền móng hình vuông và bát giác, và ông đã thực hiện nhiều bản vẽ kiến trúc.   

Ở đây không thể và không nên có lầu chuông nào cả; nếu không, nó sẽ bị tách ra như lầu chuông của Đại giáo đường và của giáo đường San Giovanni ở Florence, và Đại giáo đường ở Pisa, ở đó tháp chuông và vòm hầu hết bị tách riêng, và mỗi lầu chuông đều có thể biểu lộ tính hoàn chỉnh của nó. Tuy nhiên, nếu bạn muốn nó nối liền với giáo đường, hãy dùng kiểu tháp đèn giống như giáo đường Chiaravalle.[8]

Ông cũng vẽ những thiết kế cho một thành phố mới với nhiều ánh sáng và không khí, có những công lộ hai tầng, tầng dưới chuyên dùng cho các loại xe chuyên chở và vận tải, tầng trên dành cho sự tiện nghi của giới khá giả.

Sự tàn phá khủng khiếp gây ra do trận dịch ở Milan năm 1483 có thể là lí do dẫn đến loại công tác này.

Hồi ức dưới đây nhắc đến những quan hệ, hoạt động, và giao du của ông ở Milan.

Cuốn đại số học của gia đình Marliani,[9] do thân phụ của họ viết...

Trắc hoạ Milan và khu ngoại ô. Hoạ đồ  Milan[10]...  Thiết kế về Milan.

Một cuốn sách nghiên cứu về Milan và những giáo đường của nó, cuốn này có ở tiệm văn phòng phẩm trên đường tới Cordusio[11]

Trắc hoạ Corte Vecchia, trắc hoạ thành trì.

Trắc hoạ San Lorenzo[12]

Thỉnh giáo một bậc thầy số học chứng minh cho bạn cách tìm hình vuông từ một tam giác.

Thỉnh giáo Tiên sinh Fazio,[13] cho xem cuốn sách về tỉ lệ.

Thỉnh giáo tu sĩ Brera cho xem cuốn De Ponderibus.[14]

Luận về tỉ lệ của Alchimo[15] với những chú giải của Marliano từ Tiên sinh Fazio.

Cuốn sách về hiện tượng thiên thể của Aristotle, bằng tiếng Ý [Meteorologica]. Sách về trắc hoạ mặt trời mà Giovanni người Pháp đã hứa với tôi.

Ghi nhớ, thỉnh giáo Giannino Bombardier[16] làm thế nào tháp Ferrara bao bọc tường mà không có lỗ trống.

Thỉnh giáo Maestro Antonio các loại súng cối được đặt vào pháo đài ban ngày hay đêm ra sao. Cái nỏ của Maestro Gianetto.

Thỉnh giáo Benedetto Portinari[17] bằng cách nào người ta đi trên băng ở Flanders. Trắc hoạ kênh đào, chốt cổng, chống đỡ, và những thuyền lớn; và phí tổn.

Tìm một thầy am hiểu về công việc thuỷ đạo và thỉnh giáo để giải thích việc tu sửa và giá cả của việc tu sửa, cái khoá, một cái kênh và một cối xay theo kiểu Lombard.

Một người cháu của Gian Angelo, hoạ sĩ, có cuốn sách luận về nước do thân phụ của anh ta để lại.

Paolino Scarpellino, còn gọi là Assiolo, có tri thức uyên bác về môn thuỷ đạo.

“Những nút thắt” của Ramante.[18]

Trang giấy ghi ngày tháng đầu tiên gồm những nghiên cứu về giải phẫu học, “vào ngày 2 tháng 4 năm 1489”. Ông cũng viết một ghi chú về cuốn sách nhan đề “Luận về nhân thể”.

Trên cùng trang giấy là những bản vẽ sọ người cho thấy những huyết quản của khuôn mặt. Ở trang bên kia là bảng liệt kê những chủ đề khảo sát:

Sợi gân nào khiến mắt di động, mắt này di động mắt kia?

Cau mày, nhíu mày. Rủ mày.

Nhắm mắt. Mở mắt.

Lỗ mũi hếch lên.

Hở môi với răng khít. Bĩu môi.

Cười. Ngạc nhiên.

Hắt xì hơi là gì? Ngáp là gì?

Ngã bệnh, co thắt, tê liệt, run vì lạnh, ra mồ hôi, mệt mỏi, đói, buồn ngủ, khát, thèm muốn.

Miêu tả một con người khi nó bắt đầu hình thành trong tử cung...

Giovanni Paolo Lomazzo, hoạ sĩ người thành Milan thế kỉ 16, đã miêu tả sau đây về phương pháp của Leonardo nghiên cứu những biểu lộ: “Câu chuyện do những người hầu của ông kể, có lần Leonardo muốn vẽ một bức tranh có một số nông dân đang vui cười, tuy ông không hoàn thành mà chỉ vẽ nó. Ông chọn một số người nhất định mà ông cho là thích hợp cho mục đích, và, sau khí làm quen với họ, ông bày một bữa tiệc cho họ cùng với một số bạn bè. Ngồi cạnh họ, ông bắt đầu kể những câu chuyện hết sức hưng phấn và thật vui nhộn mà ta có thể tưởng tượng ra, khiến họ không để ý tới mục đích của ông, họ cười rống lên. Ngay lúc đó, ông quan sát tất cả những động tác của họ rất chăm chú và những trò cười mà họ làm, và in vào trong đầu óc; sau khi họ ra đi, ông rút vào phòng và từ đó vẽ một bức vẽ hoàn chỉnh khiến người nào nhìn vào nó cũng phải cười, y như họ bị kích thích bởi những câu chuyện trong bữa tiệc!”  

Ngày 28 tháng 4 [1489?], tôi nhận được từ Marchesimo [Stanga, thư kí của công tước] 103 lire và 12 soldi.

Ngày 22 tháng 7 năm 1489, Pietro Alamann, đại sứ người Florence ở Milan, đã viết cho Lorenzo de’ Medici: “Quân vương Ludovico đang có kế hoạch dựng một tượng đài khả kính cho phụ thân của ngài, và theo lệnh, Leonardo được yêu cầu làm mô hình một con ngựa to lớn bằng đồng trên đó Công tước Francesco cưỡi và mang toàn bộ giáp phục. Vì Hoàng thân ưu tư về một công trình phi thường và chưa từng thấy tương tự, nên ngài đã nhắn tôi viết cho ngài và yêu cầu nếu ngài thân ái gửi cho Hoàng thân một, hai nghệ sĩ Florence chuyên về loại công việc này. Ngoài ra, tuy Hoàng thân đã uỷ nhiệm cho Leonardo, với tôi dường như ông không tự tin rằng ông sẽ thành công”.   

Nếu Sabba Castiglione, người viết về Leonardo nào thế kỉ 16 (Riccordi,1546) nói đúng rằng Leonardi đã thực hiện mô hình cho con ngựa của tượng đài Sforza suốt mười sáu năm, hẳn là ông đã khởi đầu ít lâu sau khi đến Milan.

Bút kí dưới đây viết nhiều năm sau đề cập đến trận động đất xảy ra vào thời điểm này ở Rhodes.

Năm tám mươi chín [1489], phát sinh một trận động đất ở ngoài khơi Atalia gần đảo Rhodes, làm cho biển nứt ra xuống dưới đáy; và tuôn vào khe nứt này là một dòng cuồng lưu đổ vào suốt hơn ba tiếng đồng hồ khiến đáy biển trơ đáy bởi vì nước bị mất hút vào trong đó; và cuối cùng nó khép lại về với mực nước cũ.

Ngày 13 tháng 1 năm 1400, Leonardo cộng tác với nhà thơ Bernardo Bellincioni để dàn dựng cho Lễ hội Thiên đàng (La Festa del Paradiso) ở Castello Sforzesco ở Milan để vinh danh Gian Galeazzo  Sforza, công tước thành Milan, cùng người vợ trẻ của ông, Isabella ở Aragon. Trên sân khấu đặt một bán cầu khổng lồ mạ vàng và những nhân cách hoá các hành tinh.

Bút kí dưới đây kèm theo những phác thảo một mặt cắt đứng (elevation) và đồ án cho công trình có vòm nhỏ.

Một đình viên (pavilion) trong vườn của Công tước phu nhân ở Milan.

Đồ án mặt bằng của đình viên ở giữa ngôi vườn Mê cung của Công tước Milan.

Ở trang sau là đồ án một toà nhà với ghi chú sau:

Nếu bạn có thành viên gia đình trong nhà, hãy thiết kế cho nơi cư trú của họ sao cho vào ban đêm, người nhà hoặc những khách lạ đang ở trọ không thể khống chế chiếc cửa ngôi nhà; để họ không thể đi vào những căn phòng nơi bạn đang ở hoặc ngủ, hãy đóng cái cửa ra m, và bạn sẽ có toàn bộ căn nhà đóng kín.

Một cuốn bút kí mới gọi là MS C bắt đầu vào thời điểm này dành cho những vấn đề về ánh sáng và bóng.

Ngày 23 tháng 4 năm 1490, tôi bắt đầu cuốn sách này và khởi sự nghiên cứu về ngựa.

Trong khi đang làm việc với tượng đài Sforza, ông tìm kiếm các con ngựa dùng làm mẫu. Ông phát hiện những gì ông thích trong chuồng ngựa của Galeazzo  di San Severino, con rể của Lidovico Sforza.

Những ghi chú dưới đây được viết cạnh phác thảo từ những con ngựa:

Con ngựa to thuộc giống Tây-ban-nha (genet) của Tiên sinh Galeazzo.

Con ngựa giống Sicilia của tiên sinh Galeazzo.

Kích thước của ngựa Sicilia, chân sau, chân trước nhấc lên và duỗi ra.

Trong vùng núi Parma và Piacenza, vô số vỏ sò và san hô đầy lỗ mọt có thể thấy dính vào nham thạch. Khi tôi thực hiện bức tượng ngựa vĩ đại ở Milan, một số nông dân đã đem đến xưởng của tôi một bao lớn những loại vỏ sò tìm thấy trong những vùng này, và trong số đó nhiều vỏ sò vẫn còn tình trạng nguyên vẹn.

Ngày 10 tháng 5 năm 1490, Bộ Công tác của Đại giáo đường Milan trả lại cho Leonardo theo đòi hỏi của ông về mô hình mà ông đã kiến tạo cho tiburio (tháp đèn), và yêu cầu ông giữ nó để chuẩn bị công việc. Leonardo đã bày tỏ mong muốn được tu sửa nó, nhưng một tuần sau ông nhận 12 lire cho việc kiến tạo một mô hình mới.   

Ngày 8 tháng 6 năm 1490, Sforza viết cho thư kí của ông là Bartolomeo Calco, rằng Bộ Công tác Đại giáo đường ở Pavia cần sự cố vấn của của nhà kiến trúc ở Sienna lúc đó đang ở Milan, và bổ sung phần tái bút rằng Leonardo và nhà kiến trúc ở Lombard là Amadeo cũng nên xúc tiến tới Pavia. 

Ngày 10 tháng 6 năm 1490 Bartolomeo Calco hồi âm rằng nhà kiến trúc người Sienna đang làm việc cật lực để hoàn tất mô hình cho tiburio ở Đại giáo đường Milan, và rằng Leonardo sẽ luôn theo tuỳ ý sử dụng của công tước.

Tháng 6 năm 1490, Leonardo và nhà kiến trúc ở Sienna, Francesco di Giorgio Martini, cùng cỡi ngựa khởi hành với sự tháp tùng của những kĩ sư và những người trợ giúp tới Pavia. Họ trọ ở quán “Saracino” và hoá đơn do Bộ Công tác thanh toán ngày 21 tháng 6, nói rõ  cả hai người được mời tới cố vấn về Đại giáo đường.

Đồ án cho giáo đường Santa Maria ở Praticha, Pavia.

Trong thời gian ở Pavia, Leonardo dùng cuốn bút kí gọi là MS B. Ông nghiên cứu trong thư viện Sforza trứ danh, nơi đây tác phẩm về luật phối cảnh của Witelo (Vitolone), nhà lí thuyết quang học người Ba-lan thế kỉ 13, đã lôi cuốn sự chú ý của ông.  

Ráng mượn Vitolone trong thư viện ở Pavia và những nghiên cứu về toán học.

Trong Vitolone có 805 kết luận về luật phối cảnh.

Tại quảng trường tiền diện giáo đường Duomo ở Pavia, có một pho tượng đồng cưỡi ngựa gọi là “Regisole” vốn bị Charlemaghe dời khỏi Ravenna. Leonardo, ghi nhớ tượng đài Sforza, đã nghiên cứu động tác của pho tượng ngựa này.

Trong tượng kị mã ở Pavia, sự chuyển động hơn hẳn mọi thứ khác, đáng khen ngợi.

Sự mô phỏng những tác phẩm cổ thì tốt hơn tác phẩm hiện đại.

Vẻ đẹp và tính hữu dụng không thể đi chung như có thể thấy trong những thành trì và trong con người.

Nước kiệu hầu như mang phẩm chất của con ngựa tự do.

Ở đâu thiếu tính hoạt bát tự nhiên thì cần tạo ra sự sinh động ngẫu nhiên.

Tôi đã quan sát việc tu sửa bộ phận những bức tường cũ của Pavia vốn đặt móng trên bờ sông Ticino. Những cọc móng ở đó đã cũ và làm bằng sồi đen như than, còn những cọc móng bằng gỗ cây xích dương (alder) có màu đỏ như gỗ cây vang; chúng rất nặng và rắn như thép, không bị hư hại.

Ngày 27 tháng 6 năm 1490, một cuộc thảo luận xảy ra tại Castello Sforzesco trong sự hiện diện của Ludovico Sforza và vị tổng giám mụcđề quyết định về tiburio (tháp đèn) của Đại giáo đường. Bốn mô hình được xem xét, không có mô hình nào của Leonardo, và nhiệm vụ kiến tạo được giao cho hai nhà kiến trúc Lombard.

Bút kí sau ghi chép sự tiếp nhận Salai (Gian Giacomo Caprotti di Oreno) thành người nhà của Leonardo, đã trưởng thành cùng với công việc phục dịch, và ở với Leonardo cho đến khi ông qua đời.      

Vào ngày Thánh Mary Magdalene [22 tháng 7] 1490, Giacomo đến sống với tôi, khi lên mười tuổi. Tên trộm, kẻ nói dối, bướng bỉnh, tham ăn. Ngày thứ hai, tôi cắt cho nó hai cái áo, một đôi vớ dài, và cái áo chẽn da, và khi tôi để tiền ra để trả cho những thứ này thì nó đánh cắp từ túi tiền, và chẳng thể nào làm cho nó cung khai, tuy tôi hoàn toàn chắc chắn về điều đó – 4 lire.

Ngày hôm sau, tôi đi ăn cơm tối với Giacomo Andrea,[19] còn Giacomo thì đã ăn bữa tối của hai người rồi giở trò phá phách, nó đã làm vỡ ba cái bình, trào rượu ra, rồi sau đó nó đến nhâm nhi chỗ tôi...

Ngày thứ bảy tháng 9, nó đánh cắp một tấm ván má đáng giá 22 soldi từ Marco, người đang ở chỗ tôi. Tấm ván má bằng bạc và nó lấy từ xưởng của ông, và khi Marco tìm một thời gian lâu, ông phát hiện nó cất giấu trong cái hộp của Giacomo – 1lire và 2 soldi.

Tháng 1 năm 1491, Beatrice d’Este tới Milan làm tân nương của Ludovico Sforza. Nàng lợi dụng địa vị một nữ chủ nhân của một trong những cung đình hiển hách nhất nước Ý để tụ tập những nhân vật uyên bác, những thi sĩ, nghệ sĩ, như Niccolò da Corregio, Bernardo Castiglione, Bramante, và Leonardo da Vinci.

Leonardo đã giúp bố trí lễ hội gắn liền tới hội tỉ thí trên lưng ngựa (tournament) do con rể của Ludovico đưa ra. Ghi chép dưới đây nhắc tới hành vi của cậu bé Salai.

Ngày 26 tháng 1 [1491], khi tôi đang ở nhà của Tiên sinh Galeazzo da San Severino để bố trí lễ hội cho cuộc tỉ thí trên lưng ngựa, và những người hầu đã thay y phục làm người hoang dã để xuất hiện trong lễ hội, Giacomo đã tới chỗ thầu bao của một người trong số họ để trên giường cùng với y phục và lấy đi số tiền thấy được ở đó. – 2 lire 4 soldi.

Vật liệu, khi tôi đang ở cùng ngôi nhà đó, danh sư Agostino xứ Pavia[20] đã cho tôi một tấm da sống Thổ-nhĩ-kì để làm đôi giầy ống; gã Giacomo này, một tháng sau đã đánh cắp rồi bán cho một thợ sửa giày với giá 20 soldi, và với số tiền này, theo lời thú tội, nó mua kẹo hạnh nhân. – 2 lire.

Vật liệu. Một lần nữa vào ngày mùng hai tháng Tư, Gian Antonio đã để lại một tấm ván má bằng bạc trên một trong những bản vẽ của ông, Giacomo đã đánh cắp, và nó đáng giá 24 soldi – 1 lire, 4 soldi.

Năm đầu tiên: một cái áo khoác 2 lire, 6 cái áo sơ-mi 4 lire, 3 cái áo chẽn da 6 lire, 4 đôi vớ dài 7 lire 8 soldi, một cái áo chẽn xếp li 5 lire, 24 đôi giầy 6 lire 5 soldi, một mũ lưỡi trai 1 lire, dây buộc thắt lưng 1 lire.

Ngày 10 tháng 7 năm 1402.

bằng 135 florin                          1.4445

bằng dinari của 6 soldi               1.112.16 soldi

bằng dinari của 5½ soldi            1.201.19 soldi

bằng dinari 9  kim tệ và 3 scudi  1.53

                                                       ________

                                           1.811 tổng cộng.

Không phải tiền của bị mất mát; chính phẩm hạnh mới là sự giàu có thực sự và là phần thưởng của người có nó và không thể mất mát; nó không bỏ rơi chúng ta trừ khi sinh mệnh sinh li chúng ta. Vì tài sản và những giàu có bên ngoài kiến người ta phải run rẩy; chúng thường rời bỏ kẻ chiếm hữu chúng trong sự khinh miệt và nhục nhã vì đã đánh mất chúng.

Bút kí này giúp xác định ngày tháng những bản thảo quan trọng nhất của Leonardo về việc thực hành hội hoạ. Ngoài việc bàn về hội hoạ, nó bao gồm những ghi chú về việc kiến tạo những vòm cuốn và những khởi đầu luận về nước của ông. 

Thứ Năm 27 tháng 9 [1492] Maestro Tommaso trở về và làm việc tự mình cho đến ngày cuối (vào tháng Hai).

Ngày 18 tháng 3, Giulio người Đức đến sống với tôi – Antonio, Bartolome, Lucia, Piero, Leonardo.

Caterina tới ngày 16 tháng 7 năm 1493.

Con Morel thuộc giống Frorentine của Tiên sinh Mariolo là con ngựa lớn có cái cổ thanh tú và đầu đẹp.

Con ngựa giống (stallion) màu trắng của người thuần dưỡng chim ưng, có hông đẹp; nó ở đằng sau Cổng thành Comasina.

Con ngựa lớn của Gemonino, của Ngài Giulio.

Ludovico Sforza ban hành một chiếu chỉ vào năm 1493 để khai thông con kênh Martesana gần Milan cho tàu bè đi lại. Trong những bản phác thảo dưới đây, Leonardo nêu lên việc trả thù lao  để thực hiện vấn đề.   

Chúa công anh minh, Công tước thành Bari. Leonardo da Vinci ở Florence... Xin ngài thẩm tra một mô hình sẽ chứng minh hữu ích với ngài và với tôi, và nó sẽ được áp dụng đối với những ai trợ giúp cho sự nghiệp hữu ích của chúng ta... Tại đây, thưa Chúa công, nhiều thân sĩ sẽ cam kết về phí tổn giữa họ, nếu họ được phép được hưởng phí thu nạp đối với những thuỷ đạo, cối xay, và việc thông hành thuyền bè, và khi những phí tổn của họ được hoàn trả, họ sẽ hoàn lại cho con kênh Martesana...

Những người thừa kế của Danh sư Ghiringhello có những tác phẩm của Pelacano.[21]

Danh sư Stefano Caponi, một y sĩ, sống tại bể tắm, có Euclid, De Ponderibus.

Năm 1493, ngày đầu tháng 11, chúng tôi kết toán.

Giulio đã trả bốn tháng và Danh sư Tommasso trả 9 tháng; Danh sư Tommasso sau đó đã làm 6 cây đèn, 10 ngày công; Giulio làm một số cây cời lửa, 15 ngày công. Sau đó ông làm việc riêng của mình cho đến ngày 27 tháng 5, và làm công việc đòn bẩy cho tôi tới ngày 18 tháng 7; sau đó ông làm việc riêng cho tới ngày 7 tháng 8, và vào ngày 15, làm việc nửa ngày cho một phu nhân. Sau đó lại làm việc cho tôi về hai ổ khoá cho tới ngày 20 tháng Tám.

Năm 1493, Leonardo đã hoàn tất mô hình đất sét cho tượng đài Sforza. Đo từ chân lên đỉnh đầu ngựa là 23 bộ Anh, nhưng vẫn còn thiếu kị sĩ. Có thể mô hình này được trưng bày dưới một khải hoàn môn trong Đại giáo đường Milan vào dịp lễ cưới của Bianca Merid Sforza, cháu gái của Ludovico Sforza, lấy hoàng đế Habsburg, Maximilian I. Lễ cưới xảy ra tại Innsbruck vào ngày 16 tháng 3, và cô dâu được hộ tống bởi một đoàn thượng khách, từ Milan tiến hành lên hướng bắc, qua hồ Como và Valtellina hướng tới Tyrol.

Trong khi ấy, vấn đề nảy sinh, làm sao đúc mô hình con ngựa bằng đất sét vĩ đại này bằng đồng.

Khuôn đúc tượng ngựa

Cho ngựa đứng trên bốn chân [cốt] bằng thép, kiên cố và đặt vững trên nền tảng; tiếp theo, bôi mỡ và phủ nó bằng lớp bọc, để cho mỗi lớp bọc khô hoàn toàn rồi lại hết lớp này đến lớp khác; Công việc này sẽ đạt tới độ dày khoảng ba ngón tay. Bây giờ, tuỳ theo sự cần thiết, cho cố định và ràng lại bằng thép.

Sau đó, dỡ khuôn ra rồi tạo thêm độ dày. Tiếp theo, đổ đầy vào khuôn theo những mức độ và làm cho thật hoàn chỉnh; bao quanh và ràng lại bằng thép và nung bên trong nó tiếp cận với đồng.

Ngày 29 tháng 1 năm 1494

      Vải cho vớ dài                        4 lire, 3 soldi

      Vải cho áo trong                     16 soldi

      Chế tác                                    8 soldi

      Salai                                        8 soldi

      một cái nhẫn ngọc thạch anh  13 soldi

      một viên đá lửa                       13 soldi

      cho Caterina                            10 soldi

      cho Caterina                            10 soldi

Đầu năm 1494, Leonardo ở Vigevano, dinh cơ mùa hè của gia đình Sforza trên bờ sông Ticino, nơi Bramante đang tái cấu trúc lâu đài và mở rộng thêm Palazzo della Dame (Cung của Phu nhân) rộng lớn. Leonardo đã làm ước lượng phí dụng dưới đây cho việc trang trí một thị sảnh với những quang cảnh từ lịch sử La-mã và chân dung các triết gia.   

Từ đại sảnh hướng tới đình viện, dài 128 bước và rộng 27 thước Ý.

Khuôn đúc hẹp ở trên đại sảnh, 30 lire.

Những khuôn bên dưới đại sảnh, ước lượng mỗi bức tách riêng, 7 lire; và giá màu lam, vàng kim, trắng, thạch cao, màu chàm, và hồ, 3 lire; thời hạn ba ngày.

Những bức tranh bên dưới những khuôn này với bích trụ (pilaster) 12 lire mỗi.

Tôi tính giá cho màu xanh thuỷ tinh, màu lam và vàng kim và những màu khác vào khoảng 11/½ lire.

Tôi tính ba ngày dành cho việc sáng tác bố cục, bích trụ và những thứ khác.

Vật liệu cho mỗi vòm nhỏ, 7 lire.

Chi tiêu cho màu lam và vàng kim 3½.

Thời gian 4 ngày.

Cửa sổ 1½.

Gờ mái dưới song cửa 6 soldi mỗi braccio.

Vật liệu cho 24 bức tranh lịch sử La-mã        14 lire mỗi tấm.

Các triết gia                                                 10 lire.

Những bích trụ, một lọ màu lam                   10 soldi.

Vàng kim                                                     15 soldi.

Mức tường cao bao nhiêu thước Ý?

123 thước Ý.

Đại sảnh lớn bao nhiêu?

Vòng hoa trang trí lớn bao nhiêu?

30 ducat.

Trong cùng cuốn bút kí này là những bản vẽ và tính toán về kết cấu của một đình viên bằng gỗ được dựng trên lãnh địa của công tước. Ông cũng quan tâm trong việc xây dựng cầu thang và thuỷ đạo.

Ngày mùng hai tháng 2 năm 1494 tại lâu đài Sforzesca [ở Vigevano] tôi vẽ 25 bậc, mỗi bậc hai phần ba thước Ý và rộng tám thước Ý.

Cầu thang ở Vigevano bên dưới lâu đài Sforzesca, 130 bậc, mỗi bậc cao ½ braccio và rộng ½ braccio, chảy xuống là thác nước, để cho nước không bào mòn ở cuối dòng nước đổ; qua những bậc này, rất nhiều đất đã tuôn xuống khiến cho bể nước cạn khô; cũng có thể nói, nó đã bị đổ đầy còn bể nước rất sâu đã biến thành những những đồng cỏ.

Những vườn nho ở Vigevano. Ngày 20 tháng 3 năm 1494. Và vào mùa đông, chúng bị đất bao phủ.

Bên dưới bút kí này là một phác thảo cho thấy cây thẳng tắp trong những vườn nho này, khá giống với những vườn nho ngày nay ở Vigeno và Lombard, nhưng khác với vườn nho ở Tuscany, ở đó mùa đông không khắc nghiệt. Leonardo nhớ tới những thời trẻ ở đồng quê Tuscany và quan sát sự dị biệt.

Ngày 23 tháng 8, 12 lire từ Pulisona.

Ngày 14 tháng 3 năm 1494, Galeazzo tới sống chỗ tôi, đồng ý trả 5 lire một tháng, và trả vào ngày 14 mỗi tháng.

Thân phụ của ông đưa cho tôi 2 florin.

Ngày 14 tháng 7, tôi nhận từ Galeazzo 2 florin.

Ngày 15 tháng 9, Giulio bắt đầu làm ổ khoá cho xưởng vẽ của tôi, 1494.

Tháng 9 năm 1494, Charles VII của nước Pháp tiến vào Lombardy với một đạo quân trên đường tới vương quốc Naples. Ông được Ludovico tiếp đón như là đồng minh và được chiêu đãi tại Pavia. Trong khi đó công tước của Orléans, sau khi Louis XII tới, đã ra lệnh cho đội quân tiên phong của quân đội hoàng gia, chiếm lĩnh Genoa và de doạ Milan. Ông cũng mơ tưởng tới việc khẳng định quyền lợi của mình ở thành phố này dựa vào cuộc kết hôn của thân phụ ông với một Visconti.     

Ngày 21 tháng 10 năm 1494, vị công tước trẻ của Milan, Gian Galeazzo, qua đời tại Pavia. Cung cách chết của công tước này nảy sinh hoài nghi đã bị người chú Ludovico hạ lệnh đầu độc. Vào ngày hôm sau, tại Castello Sforzesco ở Milan, Ludovico đã tuyên bố là công tước, tiếp thế người con trai vị thành niên của Gian Galeazzo, để bổ nhiệm một người nam trưởng thành trong thời kì rối loạn.   

Ngày 17 tháng 11 năm 1494, dưới áp lực từ những sự kiện chính trị, Công tước Ludovico đã cho chở số đồng dự định để đúc mô hình ngựa của Leonardo xuống từ sông Po đến Ferrara để chế tạo thành đại pháo.

Trong bút kí của Leonardo vào thời điểm này, chúng ta thấy những dòng sau có phần mơ hồ khi đề cập tới những miêu tả đầy ẩn dụ khi liên hệ tới hai công tước.

Il Moro [Ludovico Sforza] với kính đeo mắt,

và lòng Ganh tị được miêu tả bằng Giả danh.

và Công chính đen cho il Moro.

Con điêu (ermine) với bùn lầy.

Galeazzo giữa thời tiết êm đềm và cuộc đuổi bắt vận mệnh.

Con điêu thà chết chứ không tự làm nhơ nhuốc.

Trong cùng bút kí là một loạt chép lại từ một cuốn ngụ ngôn về thú vật phổ biến thời trung cổ. Những ngụ ngôn này rất có thể liên quan đến việc diễn xướng tại cung đình.

Vào ngày thứ Ba, tôi mua rượu cho buổi sáng, thứ Sáu ngày 4 tháng 9 (1495) cũng vậy.     

Cuốn bút kí nhỏ ghi lại ngày tháng mua rượu, luận chủ yếu về cơ học.

Sàn kép.

Mái trụ cờ của thành quách.

Có một lượng lớn lương thực gửi đến từ Florence.

Chi phí tang lễ của Caterina

3 cân nến loại nhỏ                       27 soldi

Quan tài                                        8 soldi

Vải phủ quan tài                          12 soldi

Mang và đặt thập giá                    4 soldi

Khiêng xác                                    8 soldi

4 tu sĩ và người giúp lễ                 20 soldi

Chuông, sách và gạc                    2 soldi

Những người đào mộ                   16 soldi

Những người chủ trì                     8 soldi

Một chứng từ nhà chức trách        1 soldi

                                                   106 soldi

Y sĩ                                                 5 soldi

Đường và nến                               12 soldi

                                                    123 soldi

Caterina đã vào ở nhà của ông năm 1493, và như vậy đã ở với ông một vài năm.

Bà có thể đã qua đời trong bệnh viện, vì Leonardo đã ghi chú dưới đây ở trang tiếp theo trong cùng cuốn bút kí. Nó gợi ý rằng người quản gia này là mẹ ông, mang cùng tên, nhưng điều này không chắc.

Piscine da Mozania ở bệnh viện Brolio, trên tay và chân có nhiều tĩnh mạch.

Ông quan tâm đến việc miêu tả có hệ thống tĩnh mạch của thân thể người, như cho thấy qua những ghi chú trên một trang giấy có ngày tháng khoảng thời điểm này.

[với bản vẽ hình người cho thấy giải phẫu về những tĩnh mạch.]

Ở đây sẽ miêu tả cây huyết mạch tổng quát, như Ptolemy đã làm với vũ trụ trong Vũ trụ học của ông; ở đây sẽ miêu tả những huyết mạch của mỗi bộ phận tách riêng với những góc độ khác.

Vẽ tầm nhìn chi hệ huyết mạch từ hậu diện, từ trực diện và từ trắc diện; nếu không, bạn không thể nào đưa ra chứng minh chân thực về chi hệ, hình dạng, và vị trí của chúng.

Đồng tử trong mắt người nở ra và co lại tuỳ theo độ sáng hoặc tối của vật thể nhìn thấy; và bởi vì nó cần một khoảng thời gian để giãn và co cho nên nó không thể nhìn thấy ngay tức khắc khi từ ánh sáng vào bóng tối, và tương tự, từ bóng tối vào ánh sáng; và chính điều này đã từng lừa tôi khi vẽ một con mắt, và từ đó tôi đã học được.

Năm 1495, Leonardo bắt đầu làm việc với bức tranh Bữa tiệc li trên bức tường của phòng ăn của tu viện dòng Dominican, Santa Maria della Grazie. Trong bút kí là những bản vẽ các chân cột trong gian cầu nguyện của giáo đường đó (xem bên dưới). Những ghi chú dưới đây trong cùng bút kí cho thấy ông tìm những người mẫu như thế nào đối với nhân vật Chúa Ki-tô.   

Chúa Ki-tô – một bá tước trẻ, người này cùng với Hồng y ở Martaro. Giovannina có một khuôn mặt khác thường, sống ở Santa Caterina, tại bệnh viện.Alessandro Carissimo ở Parma, cho bàn tay Chúa Ki-tô.

Trong số những tông đồ miêu tả trong bức hoạ là chân dung của những triều thần và những nhân vật ở Milan. Miêu tả dưới đây về những phương pháp nghiên cứu của Leonardo về mối quan tâm này.

Giovanbatista Giraldi, thân phụ của người này biết Leonardo, đã viết “Khi Leonardo muốn vẽ một nhân vật, trước tiên ông xem xét địa vị xã hội và đặc tính thể hiện là gì; dù là người quý phái hay người bình dân, người vui tính hay người nghiêm nghị, âu lo hay bình thản, già hay trẻ, giận dữ hay yên lặng, tốt hay xấu; và khi đã quyết định, ông đi tới những nơi mà ông biết loại người đó tụ tập rồi quan sát gương mặt họ, thái độ, y phục, và động tác của họ; và khi ông tìm thấy tình cảnh hợp với nhu cầu của mình, ông ghi chú nó vào một cuốn sổ nhỏ mà ông luôn giắt bên mình. Sau khi lập lại phương thức này nhiều lần, và hài lòng với chất liệu thu thập cho nhân vật mà ông muốn vẽ tranh, tiếp đến là ban cho nó hình dạng, và ông hẳn sẽ thành công một cách tuyệt diệu.” 

Bản nháp một lá thư có lẽ vào khoảng thời gian này, gửi tới Piacenza vào thời khi ấy đã thành lãnh thổ của công quốc Milan.    

Các Uỷ viên ưu tú của bộ Kiến thiết! Nghe tin các quý ngài quyết định hoàn thành những tác phẩm trọng đại bằng đồng xanh nên tôi sẽ đưa ra một số điều nhất định vào hồ sơ cho các ngài. Trước tiên, các ngài không nên quá nhanh chóng và vội vàng trong việc quyết định giao nhiệm vụ, vì sự vội vàng của các ngài làm trượt quyền năng của các ngài trong việc chọn lựa một mô hình tốt và một danh sư ưu tú, bởi nước Ý có nhiều người tài năng. Một số người thiếu khả năng có thể được chọn và tạo cơ hội cho những người kế tục sẽ trách cứ các ngài và thời đại của các ngài, với phán đoán rằng thời kì này đã trang bị nghèo nàn thiếu những người có óc phán đoán tốt hoặc những danh sư ưu tú; bởi vì, những thành phố khác và đặc biệt thành phố Florence gần như vào cùng thời điểm này được phú cho những tác phẩm mĩ lệ và hùng vĩ bằng đồng xanh; trong số những công trình này là những sảnh môn thanh tẩy (baptisery)... Và Florence này, như Piacenza, là một thành phố giao lưu, có nhiều khách ngoại quốc đi qua, và khi họ nhìn thấy những tác phẩm  tuyệt vời và ưu tú, tạo nên ấn tượng thành phố này hẳn phải có những cư dân đáng kính trọng, bởi vì những tác phẩm được coi là bằng chứng cho quan điểm của họ. Và trái lại, tôi cho rằng, nếu họ nhìn thấy một sự phí phạm lớn lao đối với kim loại được đúc ra tồi tệ như thế, thì hẳn thành phố sẽ sẽ ít phải hổ thẹn nếu những cánh cổng được làm bằng gỗ thô, bởi vì vật liệu này không đắt đỏ, và gần như không phí nhiều công sức về kĩ năng.

Hiện nay, chúng ta nhắm tìm tới những bộ phận chính trong thành phố là ở những đại giáo đường, và khi người ta tới gần những giáo đường này, điều đầu tiên đập vào mắt là những cánh cửa đi vào những giáo đường này. Hãy coi chừng, các uỷ viên tôn quý, tôi e rằng tốc độ quá mau khi muốn vội vã xúc tiến nhiệm vụ chế tác một tác phẩm lớn lao đến thế theo như tôi nghe nói các ngài đã ra lệnh, có lẽ trở nên lí do tại sao những gì chủ đích nhằm vinh danh Thượng đế và con người  lại có thể tỏ ra là sự mất thể diện cực kì đối với những phán đoán của các ngài và đối với thành phố của các ngài, vốn là điểm trọng yếu, đông người vãng lai và nơi đó hội tụ vô số khách ngoại quốc. Và điều hổ thẹn này sẽ trút xuống các ngài nếu với sự cẩu thả của các ngài khi phó thác cho một số kẻ khoe khoang khoác lác và dùng những quỷ kế hoặc bằng sự ưu đãi và được các ngài quyết định ban cho một nhiệm vụ như thế sẽ mang lại cho y và cho quý ngài một sự nhục nhã trường cửu.

Tôi không thể nào không tức giận khi khiển trách những người đã bàn bạc với tôi và muốn dấn mình vào một đảm trách như thế mà không hề suy xét chút nào về khả năng của họ đối với nó, và tôi không cần nói thêm.

Một người là thợ làm bình, người khác làm áo giáp, còn người khác làm chuông và một người khác làm vòng đai cho chúng, thậm chí có người là một pháo thủ. Trong số họ, một người phục vụ trong Tước phủ, y khoe khoang rằng y quen thân với Tiên sinh Ambrosio Ferere là người có ảnh hưởng và đã có một số hứa hẹn với y; nếu như điều này vẫn chưa đủ thì y sẽ cưỡi ngựa tới Tước phủ xin những lá thư từ ngài để các ngài sẽ không thể nào từ chối cấp công việc cho y. Thử nghĩ đến các học sinh nghèo sẽ phải gian nan cạnh tranh để thực hiện loại công trình đó đều và đều bị làm sa sút tới mức nào khi phải cạnh tranh với những loại người như thế.

Xin các ngài hãy mở mắt nhìn cẩn thận sao cho đồng tiền của các ngài không tiêu phí để mua lấy sự hổ thẹn. Tôi có thể đảm bảo với các ngài rằng từ địa phận này các ngài sẽ không có được gì ngoài những tác phẩm hạng trung của những người thầy thấp kém và thô thiển. Không có một người nào có khả năng – các ngài có thể tin tôi – ngoại trừ Leonardo người Florence, người đang làm pho tượng đồng xanh Công tước Francesco và là người không cần tự quảng bá mình, bởi vì y có công việc để làm cho cả cuộc đời của y, và tôi hồ nghi không biết y sẽ hoàn tất được không, công việc quá lớn lao.

Những học sinh khốn khổ... với hiềm hi vọng nào họ kì vọng một sự thưởng công. Ở đây là người mà Tước phủ đã chiêu mời từ Florence để làm công việc này, và y là một danh sư có khả năng, nhưng y có rất nhiều, ôi rất nhiều thứ để làm đến nỗi y sẽ chẳng bao giờ hoàn tất. Bạn cảm tưởng thế nào là khác biệt giữa việc nhìn ra vật thể đẹp và vật thể xấu?

Trích dẫn Pliny.

Những ghi chú dưới đây kèm theo bản vẽ một cái máy để mài sắc những cây kim, với một hệ thống những bánh răng cưa khéo léo, những dây curoa chuyển động, và một bánh mài, có khả năng là cái máy sản xuất hàng loạt (mass-production) đầu tiên trong lịch sử.

Sáng mai, ngày 2 tháng 1 năm 1496 tôi sẽ làm xong cái đai da và thử kiểm tra.

100 lần một giờ và 400 cái kim mỗi lần. Tức là 40,000 cái kim mỗi giờ, và 480,000 cái trong 12 giờ. Nếu như 4000,000 mang lại 20,000 soldi, cứ 5 soldi là 1000. Tổng cộng 1000 lire cho mỗi ngày công và với 20 ngày công mỗi tháng sẽ là 60,000 ducat một năm.

Ngày 31 tháng 1 năm 1496, tại nhà của Conte di Cajazzo dưới sự có mặt của công tước và dân chúng Milan, đã diễn ra một vở kịch về Danae do Baldassare sáng tác còn Leonardo thiết kế cảnh sân khấu. Một trang giấy với những phác thảo và liệt kê các nhân vật trong vở kịch (hiện bảo tồn ở Metropolitan Museum, New York).

Acrisius     Gian Cristophano     Mercury Gian Battista ở Osmati (?)

Sirus          Taccone                  Jove Gian Francessco Tantio

Danae        Francesco Romano  Một người hầu.

Người phát biểu cho buổi trình diễn.

Những người kinh ngạc trước một ngôi sao mới và quỳ gối sùng bài nó và quỳ xuống khi âm nhạc bế mạc.

Phục trang cho hội hoá trang

Để làm một bộ trang phục đẹp, dùng vải mềm và cho nó một lớp sơn bóng có mùi thơm làm bằng dầu thông; nhuộm và dán với một khuôn tô (stencil) và phải làm ướt để nó không dính vào vải; và khuôn tô này có thể làm bằng bằng mẫu hoa văn nút thắt và sau đó có thể điền màu đen còn nền thì với hạt li ti trắng.

Con chim cho một hài kịch.

Vào thời điểm này, Leonardo bận rộn với việc cung cấp nước cho Castello Sforzesco.

Chìa khoá nhà tắm của Công tước phu nhân.

Biểu thị tất cả những cách mở khoá và tháo rời ra. Xếp chúng chung vào trong đề tài của chúng. [với bản vẽ].

Để làm ấm nước trong lò của Công tước phu nhân, thêm ba phần nước ấm vào trong bốn phần nước lạnh.

Phương pháp làm ngập thành trì [với một đồ án của thành Castello Sforzesco].

Cái hào của Milan. Lạch rộng 2 thước Ý. Thành trì với hào ngập tràn. Việc bơm đầy các hào của Thành trì Milan.

Vào thời điểm này, Ludovico Sforza đã gửi cho Hoàng đế Maximillian, chồng của cháu gái ông, một bức tranh của Leonardo “được các nhân sĩ có thẩm quyền đánh giá là một trong những tác phẩm đẹp và hiếm hoi nhất trong hội hoạ” (Antonimo Gaddiano).

Tháng Bảy 1496, Ludovico với đoàn tuỳ tùng đông đảo, khởi hành đến thăm ngắn ngủi hoàng đế và hoàng hậu tại Mals. Ông đã du hành qua Valtellina, và trên đường trở về đã ngừng cuộc hành trình tại Chiavenna. Leonardo có khả năng đã ở trong đoàn tuỳ tùng của công tước. Rất có thể ông đã du hành xa hơn tới những vùng khác.

Ngày 3 tháng 1 năm 1497. Beatrice d’Este, công tước phu nhân của Milan qua đời. Ngày 26 tháng 6 năm 1497, công tước  thông qua người thư kí, Marchesimo Stanga, yêu cầu Leonardo hoàn thành bức Bữa tiệc cuối và khởi đầu làm việc trên bức tường đối diện của sảnh phòng ăn.     

Tường thuật dưới đây của văn sĩ Matteo Bandello, người đã đến ở Milan năm 1495 vào tuổi 15 và được sự chăm sóc của người chú là Vicenzo, trưởng tu viện Santa Maria della Grazie, cho thấy Leonardo đang làm việc trong sảnh phòng ăn: “Nhiều lần tôi thấy Leonardo tới làm việc sớm vào buổi sáng trên tấm bục trước bức Bữa tiệc li; và ông ở đó từ lúc bình minh cho tới tối, không đặt cọ xuống, liên tục vẽ mà không ăn không uống. Sau đó, ba hoặc bốn ngày liền qua đi, ông không đụng tới tác phẩm, thế nhưng mỗi ngày ông bỏ qua nhiều giờ thẩm tra nó và tự bình phẩm những nhân vât. Tôi cũng nhìn thấy ông, khi cảm hứng mê luyến, ông rời Corte Vecchia, nơi ông đang thực hiện con ngựa vô cùng to lớn bằng đất sét, rời đi thẳng tới Grazie. Ở đó, ông trèo lên bục, lấy cọ và đi một vài nét trên một trong những nhân vật, rồi ông bỏ đi nơi khác”.

Hai bức thư nháp gửi công tước cho thấy Leonardo đang gặp khó nhăn tài chánh,

Tôi lấy làm tiếc hết sức vì đang túng quẫn, nhưng tôi còn tiếc hơn nữa rằng điều này là nguyên nhân gây trở ngại cho nguyện vọng của tôi là luôn luôn được phục tùng Ngài. Tôi lấy làm tiếc hết sức rằng việc sinh kế đã buộc tôi phải gián đoạn tác phẩm mà Các hạ đã uỷ thác cho tôi để làm những công việc nhỏ. Nhưng tôi hi vọng không lâu khi đã hoạch đắc kha khá thì tôi mới có thể chuyên tâm nhấ ý hoàn thành nhiệm vụ để làm hài lòng Các hạ, người mà tôi đã tiến cử bản thân; và nếu Các hạ nghĩ rằng tôi có tiền bạc, thì các hạ đã lầm bởi tôi phải nuôi sáu miệng ăn suốt ba mươi sáu tháng và đã nhận 50 ducat.

Có thể rằng Ngài đã không ra lệnh nào cho Tiên sinh Gualtieri tin rằng tôi có tiền...

[Viết trên tấm giấy đã bị rách viết ngang theo chiều dọc].

Thưa Các hạ, tôi hiểu rằng, tâm trí Ngài đang trong bận rộn... Muốn nhắc Các hạ  về những tiểu sự của tôi và... Đáng lẽ tôi nên giữ im lặng... sự im lặng của tôi sẽ là nguyên nhân khiến Các hạ tức giận... Tôi nguyện cả đời phục vụ Ngài, lúc nào cũng sẵn sàng phục tùng... Về con ngựa, tôi sẽ không nói gì bởi tôi hiểu thời gian...  thưa Các hạ, như thế tôi vẫn còn hai năm lương chưa nhận... với hai người thợ cả, tôi đã trả lương và tiền cơm tháng... cuối cùng tôi thấy rằng tôi đã dự chi tác phẩm khoảng 15 lire... những tác phẩm lưu danh mà tôi có thể phô bày cho những người mai sau những gì tôi đã...

Khắp mọi nơi, nhưng tôi không biết ở đâu có thể tìm chỗ cho tác phẩm của mình...

Tôi đã đang làm việc để mưu sinh...

Tôi đã không được báo cho biết điều gì, tôi tự thấy...

Hãy nhớ nhiệm vụ vẽ các căn phòng...

Tôi chuyển lời tới Các hạ chỉ là lời thỉnh cầu...

Thiết kế dự án một bàn thờ cho  San Francesco ở Brescia. Leonardo biết Francesco Nani của Dòng Franciscan ở Brescia và đã làm một bản vẽ đầu của ông nhìn nghiêng vào năm 1495. Mối liên hệ này có thể đã đem lại cho ông một một uỷ nhiệm với công trình bàn thờ này, tuy nhiên,ông đã không thực hiện.

Phần đầu bút kí này được viết thành hai cột băng qua lề của một hình chữ nhật nằm giữa chúng trong đó viết “Đức Bà”. Những tên nằm bên trên  hai cột là tên các thánh bảo trợ cho thành phố Brescia.    

Jovita                Faustin

Thánh Peter      Paul

Elizabeth           Thánh Clare

Bernardino        Đức Bà        Louis

Bonaventura      Anthony ở Padua

Thánh Francis

Anthony: nhánh huệ và cuốn sách

Bernadino: với [hoa áp tự/monogram] của Jesus.

Louis: với hai đoá fleur de lys [hoa huệ biểu tượng nước Pháp] trên ngực và vương miện dưới chân.

Bonaventura: với thiên thần Seraphim.

Thánh nữ Clare: với nhà tạm.

Elizabeth: với vương miện nữ hoàng.

Ngày 4 tháng 4 1497, áo khoác của Salai.

4 thước Ý vải bạc                  15 lire.   4 soldi

nhung màu lục để trang trí     9 lire

dải ruy-băng                                         9 soldi

khuyết áo                                             12 soldi

chế tác                                    1 lire      5 soldi

khâu

đây là 13 grossoni của nó       ______________

                                                     (26 lire   5 soldi)

Salai đánh cắp soldi.

Năm 1497, nhà toán học Fra Luca Pacioli được Ludovico Sforza mời tới Milan,l đã hoàn thành cuốn sách của ông De Divina Proportione mà Leonardo đã thiết kế những minh hoạ. Trong lời đề tặng cho Ludivico, ghi ngày 9 tháng 2 năm 1498, Người ta cho rằng Leonardo đã hoàn tất bức Bữa tiệc li và đã viết các cuốn sách luận về hội hoạ và về vận động của nhân thể. Pacioli cũng đã mô tả con ngựa Sforza đo được 12 thước Ý (Chiều cao từ gáy [cổ] tới mặt đất, khoảng hơn 23 feet), và với một khối lượng đồng xanh 200,000 libbre (khoảng 67,800 kílô). Việc tham dự của Leonardo trong cuộc tranh luận tại cung đình giữa những đại biểu của Nghệ thuật và Khoa học cũng được nhắc tới. Ở đây chúng ta nhớ tới miêu tả của Vasari về sự tranh biện của Leonardo làm các học giả phải im tiếng, làm bối rối kẻ hiểu biết sắc sảo nhất, và lật ngược mọi quan điểm đã thiết định lâu đời. “...Năng lực biện luận của ông làm hút hồn những người nghe”   

Miêu tả dưới đây so sánh xưởng vẽ của một hoạ sĩ với xưởng của một thợ tạc đá. Ông đang miêu tả chính ông đang làm việc:     

Nhà điêu khắc khi tạo tác phẩm, tất phải dùng tới thể lực của cánh tay và những nhát búa mà y dùng để gọt bớt khối cẩm thạch hoặc loại đá khác mà trong đó đề tài gói ghém – một thao tác cực kì có tính cơ giới, thường đi cùng với sự đổ nhiều mồ hôi trộn lẫn với đá mạt thành bùn. Khuôn mặt của y vấy toàn là bột đá cẩm thạch tới mức trông như thợ làm bánh mì, và toàn thân của y phủ một cơn bão tuyết đầy những mạt giũa, còn căn nhà thì bẩn và đầy những tuyết điểm và bụi đá.      

Thật khác với số phận của người hoạ sĩ – chúng ta đang nói về những hoạ sĩ và điêu khắc gia hạng nhất – vì người hoạ sĩ ngồi trước giá vẽ của y thì hoàn toàn thư thái. Y ăn mặc đẹp đẽ và di động cây cọ rất nhẹ nhàng nhúng vào màu sắc tinh tế. Y tô điểm bản thân bằng y phục theo sở thích; căn nhà của y thì sạch sẽ và đầy những bức tranh thú vị và thường đi theo bằng âm nhạc hoặc đọc đủ mọi loại tác phẩm tuyệt hay mà không bị tiếng búa nện  và những tiếng ồn khác xen vào.

Trong những năm này, Leonardo vẽ chân dung Lucrezia Crivelli (La Belle Ferronière, Paris, Louvre), người vào năm 1495 đã kế tiếp Cecilia Gallerani làm tình nhân của Ludovico Sforza. Một trang giấy với những câu trào phúng bằng tiếng Latinh, ca ngợi bức tranh do một nhà thơ cung đình viết, được phát hiện trong số bút kí của Leonardo.  

Tuyệt biết bao nghệ thuật của danh sư đối đáp với tự nhiên. Da Vinci có thể cũng đã biểu hiện linh hồn như ông đã biểu hiện phần còn lại. Nhưng ông đã không làm, vì thế bức tranh của ông có lẽ giống như thật hơn. Vì linh hồn của người mẫu đã bị Moro chiếm hữu, người tình của nàng. Danh xưng của Phu nhân là Lucrezia, người mà chư thần phung phí ban mọi thứ. Dung nhan tuyệt mĩ trời ban cho nàng, và Leonardo đã vẽ nàng. Il Moro đã yêu nàng; một người là hoạ sĩ đệ nhất người kia là  quân vương đệ nhất. Bằng sự giống nhau này, hoạ sĩ đã khiêu gợi tính ghen tuông của tự nhiên và của những nữ thần trên trời cao. Tự nhiên than rằng bàn tay con người có thể thủ đắc rất nhiều, những nữ thần bất tử nên ban sự bất tử cho một hình thể tuyệt mĩ rồi sẽ tàn phai ấy. Nhưng Leonardo đã làm điều đó vì Il Moro, và Il Moro sẽ bảo vệ cho Leonardo. Loài người và chư thần cũng như nhau đều sợ làm phương hại đến Il Moro.

Trong đại giáo đường, trên cái ròng rọc cho cái đinh của Thập giá      

Bút kí này kèm theo bức vẽ cái ròng rọc. Cái đinh được tin là từ cây Thập giá hiện vẫn còn là thánh tích quý giá nhất và nó được gìn giữ trên vòm của Đại giáo đường Milan. Leonardo cung cấp một thiết bị để hạ thấp cây đinh vào những dịp đặc biệt. Ritter Arnold von Harff trong cuộc thăm viếng Milan của ông năm 1499 trong cuộc hành hương của ông khắp châu Âu tới Ai-cập, đã miêu tả cây đinh được treo lơ lửng bên trên cái bàn thờ cao.   

Ngày 17 tháng 3 năm 1498, Leonardo đang ở Genoa tháp tùng Ludovico Sforza đi tuần tra cái đê chắn sóng bị huỷ hoại do một cơn bão. Ông nhắc đến cuộc thăm viếng này trong bút kí dưới đây, viết cạnh bản vẽ một thiết bị dùng tạo hình kim loại, nguyên lí này biểu hiện trong một số máy móc của loại máy cán (rolling mill) hiện đại.  

Thanh sắt bị kéo thành hình dạng cây côn. Trong bộ phận hư hại của đê chắn sóng ở Genoa, loại sắt bị kéo thành cây côn là do kém lực hơn hình dạng này.

Trong những chuyến du hành này ông tiếp tục những nghiên cứu về tự nhiên. Những bút kí dưới đây viết ở Florence một số năm sau đó ghi lại những hồi tưởng về những chuyến du hành.

Thuỷ triều lên xuống trong biển Địa Trung Hải không gây nên nhiều sự biến hoá bởi vì trong Vịnh Genoa không có thay đổi gì...

Ở Alessandria della Paglia ở Lombardy không có những đá để chế tác vôi nhưng lại hỗn tạp vô vàn những thứ tự nhiên của biển mà hiện tại trải xa hơn 200 dặm.

Tại Candia ở Lombardy, gần Alessandria della Paglia, trong khi đang đào một cái giếng cho Tiên sinh Gualtieri ở Candia, đã phát hiện một khung sườn con thuyền rất lớn ở sâu dưới đất khoảng 10 thước Ý; và vì gỗ màu đen và tốt, nên gần như rất tốt cho Gualtieri tạo miệng giếng rộng ra theo hai đầu mũi thuyền được phát lộ.

Trong vùng núi Verona, có thể tìm thấy loại cẩm thạch đỏ hoà lẫn với vỏ sò trở thành đá. Một số miệng vỏm sò đã bị trám loại xi-măng vốn là chất của đá; còn một số vẫn giữ tách biệt khỏi khối lượng đá xung quanh chúng bởi vì lớp bên ngoài vỏ sò đã xen vào và đã ngăn chúng không bị kết hợp với nó. Ở những nơi khác, loại xi-măng này đã hoá đá những vỏ sò và phá huỷ lớp bọc bên ngoài.

Một ngày đẹp trời vào tháng Bảy, ông leo lên Monte Rosa.

Và điều này có thể thấy, như tôi đã thấy, với bất cứ ai lên núi Momboso [Monte Rosa], một đỉnh núi thuộc dãy Alps chia nước Pháp ra khỏi Ý. Ở chân của núi này phát nguyên bốn con sông chảy ra bốn hướng khác nhau và tưới cả châu Âu; không có núi nào có phần chân ở một độ cao cực kì như thế. Nó tự nâng lên tới một đỉnh cao chót vót gần như vượt trên mọi đám mây; tuyết hiếm khi rơi ở đó, nhưng chỉ có mưa đá vào mùa hè khi những đám mây ở độ cao nhất của chúng; và ở đó cơn mưa đá này tích tụ, nếu không phải những đám mây hiếm hoi trỗi lên và chúng tự hạ phóng như vậy, và vốn không xảy ra hai lần trong một đời người, tại đó sẽ thành một khối băng đá khổng lồ, chồng chất từng lớp mưa đá, và vào giữa tháng Bảy, tôi thấy số lượng nó rất đáng kể.

Ông đi tới tận Savoy và chứng kiến một thung lũng bị lũ lụt.

Có những dòng suối đột nhiên phun ra trong trận động đất hoặc những biến động khác và đột nhiên tắt dần; và điều này xảy ra trong một quả núi ở Savoy, ở đó những cánh rừng chìm xuống và để lại một khoảng hở rất sâu; và từ đó khoảng bốn dặm, mặt đất mở ra như một cái vịnh trong núi, và tuôn ra một trận lụt bất ngờ mênh mông làm xói lở toàn bộ một thung lũng nhỏ là vùng đất canh tác những vườn nho, nhà cửa, và  gây ra sự huỷ hoại cực kì ở bất cứ đâu nó ngập tràn.

Sông Arna, một phần tư dặm đường tính từ Geneva ở Savoy, ở đó hội chợ diễn ra vào giữa hè trong ngôi làng ở Saint-Gervais.

Vào một dịp ở bên trên Milan, hướng về phía hồ Maggiore, tôi thấy một đám mây hình như quả núi khổng lồ đầy những chỗ hé rực lửa, do những tia mặt trời cũng đã hạ chiếu màu đỏ lên đường chân trời nhuốm vào với màu sắc của nó. Và đám mây này thu hút tất cả những đám mây nhỏ xung quanh nó, và đám mây lớn không di chuyển khỏi vị trí của nó, và nó giữ nguyên trên cực đỉnh của nó áng sáng mặt trời  suốt một giờ rưỡi sau khi mặt trời lặn, kích thước của nó quá bao la; và khoảng hai giờ sau  khi màn đêm buông xuống thì một trận cuồng phong trỗi lên, một điều lạ lùng và không được biết đến.

Và việc này, khi sắp kết thúc, nó làm cho không khí bị dồn nén do sự ngưng tụ của mây, rồi vỡ bung và thoát ra khỏi bộ phận yếu nhất rồi chảy dồn qua không khí trong sự hỗn độn, tác động như miếng bọt bể bị bàn tay vắt dưới nước làm cho nước tích tụ bên trong nó thoát ra khỏi giữa những kẽ ngón tay đang vắt rồi đổ xô vào làn nước khác. Cũng thế với mây, bị đẩy lùi và bị nén bởi khí lạnh bao quanh, và xua không khí đi bằng sức đẩy của nó và xuyên qua lớp không khí khác, cho tới khi nhiệt hỗn hợp vào với độ ẩm của mây và kéo nó lên một độ rất cao rồi bay trở lại trung tâm của mây, đuổi khí lạnh vốn là phản hướng của nó, rồi nhiệt tụ lại ở trung tâm và trở nên mạnh mẽ, bật lửa và phun ra khí ẩm vây quanh nó và tạo ra một trận cuồng phong di chuyển cùng với lửa phóng ra bởi sự gia tăng áp lực của hơi nước... đó là tia sét, sau đó là mưa và đánh vỡ nát bất cứ gì cản lại tiến trình đã định của nó.

Ngày 21 tháng 4 năm 1498, Gualtieri báo cáo với Ludovico Sforza về việc trang trí của Leonardo cho hai căn phòng trong Castello Sforzesco ở Milan – là Saletta Negra và Sala delle Asse.

Ngày 26 tháng 4 năm 1498, Isabella d’Este viết thư cho Cecilia Gallerani yêu cầu gửi bức chân dung Leonardo vẽ nàng tới Mantua để thẩm tra.   

Tháng 8 năm 1498.

Kênh Ivrea dẫn vào từ sông Dora; những quả núi ở Ivrea có một bộ phận hoang dã, và một bộ phận phì nhiêu về hướng nam.

Trọng lượng lớn của chiếc sà lan băng qua con sông được vòm cầu chống đỡ thì không tạo thêm trọng lượng cho chiếc cầu này, bởi chiếc sà lan có trọng lượng chính xác bằng với trọng lượng của nước mà chiếc sà lan choán chỗ.

Ngày 2 tháng 10 năm 1498, Ludovico  Sforza trình bày cho Leonardo một vườn nho 16 sào (khoảng 80m) trong phạm vi bên ngoài Porta Vercellina. Leonardo đề cập tới việc đo đạc vườn nho này và đưa ra những quy hoạch cho những địa điểm phụ cận của khu đất, trong MS/Thủ cảo 1.

Ngày mùng một tháng 8 năm 1499, tôi viết về sự vận động và trọng lượng. Sự dao động là gì, và nguyên nhân của nó? Sự đàn hồi là gì?

Aristotle, Vật lí đệ tam, và Albertus [Magnus] và Thomas [Aquinas] và những người khác luận về sự đàn hồi, trong Vật lí đệ thất; De Coelo et Mundo.

[Với hình vẽ].

Tôi hỏi, ở bộ phận nào theo vận động hình cong của nó là nguyên nhân di chuyển cho phép vật thể di chuyển và có thể di chuyển.

Nói chuyện với Pietro Monti về những cách phóng lao.

Bảng liệt kê các cuốn sách của Leonardo trước khi khởi hành từ Milan.

Sách luận về số học [abbaco]

Những đoá hoa đức hạnh [ngụ ngôn thời trung cổ về thú vật]

Pliny [Lịch sử tự nhiên]

Cuộc đời các triết gia [của Diogenes Laertius].

Kinh thánh.

Nghệ thuật chạm trổ đá.

Luận về chiến tranh [của Robertus Valturous].

Thư tín của Filelfo [Francesco Filelfo, nhà nhân văn chủ nghĩa].

Những niên đại đệ nhất, đệ tam, đệ tứ [của Livy].

Về sự gìn giữ sức khoẻ [của Ugo Benzo ở Sienna].

Cecco d’Ascoli [Acerba, từ điển bách khoa viết bằng thể văn vần, thế kỉ 14].

Albertus Magnus [luận về triết học và khoa học theo Aristotle].

Guido. Tân luận về tu từ học [có lẽ là Guidotto da Bologna, Retorica nova].

Piero Crescentio [luận về nông nghiệp].

Cibalbone [Miscellanea, một khảo luận về sức khoẻ dịch từ một tác phẩm của y sĩ A-rập Rhazes].

Quadriregio [bốn vương quốc, tác phẩm thơ tôn giáo khoa học của tu sĩ dòng Dominican, Federigo Frezzi].

Aesop [Ngụ ngôn].

Donatus [một đoản thiên về cú pháp La-tinh].

Thánh vịnh.

Justinus [Lịch sử].

Về sự bất tử của linh hồn [Đối thoại của Francesco Fidelfo].

Guido [Luận thiên văn học của Guido Bonatti?].

Burchiello [Thơ sonnet].

Giáo điều [bản dịch tiếng Ý của Doctrinal de Sapience của Guy de Roy].

Driadeo [của Cuca Pilci].

Morgante [của Luigi Pulci].

Petrarch.

Jehan de Mandeville [Du kí].

Về sự tái sáng tạo chân thực [của Bartolomeo Sacchi, Platina].

Manganello [thơ trào phúng về phụ nữ].

Biên niên sử của Isidore [Lịch sử từ sáng thế cho đến 615 sau CN của Isidore ở Seville].

Thư tín của Ovid.

Thiên thể [của Goro Dati].

Tiếu thoại của Poggio.

Thuật xem tướng tay.

Kiểu chữ [của Miniatore Bartolomeo].

Trong khi ấy, chính sách của Ludovico Sforza tỏ ra tai hại, và ông phải đào tẩu khi hoàng đế Pháp tiến vào Milan vào tháng 10 năm 1499. Louis XII khắc nghiệt và tàn nhẫn đối với địch thủ, nhưng những tác phẩm nghệ thuật của họ lại hấp dẫn ông. Khi nhìn thấy bức hoạ Bữa tiệc li, ông thèm muốn tới nỗi băn khoăn hỏi những người xung quanh xem có thể tháo ra khỏi bức tường và chở  ngay về nước Pháp được không, tuy việc này có nghĩa là phá huỷ căn phòng ăn trứ danh.

Trong số những người Pháp xâm lăng, Bá tước Louis ở Ligni, đang có kế hoạch khai thác hưởng lợi với hi vọng chiếm hữu bất động sản ở Naples vốn thuộc tài sản của người vợ trước, một công chúa ở Naples. Người đại lí của ông hi vọng có được sự ủng hộ tài chính từ Venice. Leonardo đã được yêu cầu trợ giúp và đã lên kế hoạch rời Milan tới Naples, cho thấy qua bút kí sau đây. Ông hi vọng trên đường đi được ghé thăm nơi sinh quán của mình. 

Tìm Ligni và nói sẽ chờ ông ở Rome và sẽ đi với ông tới Naples. Trả những khoản biếu tặng, và mang theo sách của Vitolone và những đo đạc về kiến trúc công cộng. Hai cái thùng bọc để sẵn cho người dắt la, khăn trải giường tốt nhất có ba cái và sẽ để lại một cái ở Vinci. Mang theo những cái lò từ [tu viện] Grazie. Hỏi từ Giovanni Lombardo về hí viện Verona.   

Mua khăn tay và khăn tắm, mũ và giầy, bốn đôi vớ dài, một áo chẽn bằng da sơn dương và da để làm những bộ áo mới. Máy tiện của Alessandro. Bán đi những gì không thể mang theo. Hỏi Jean de Paris phương pháp nhuộm màu al seco, và cách nhuộm giấy ra sao, cách gấp giấy (double fold) để kiểm nghiệm và hộp màu của ông. Học cách áp dụng màu sắc tươi bằng tempera (màu keo), học cách pha chất gôm shellac.

Bút kí dưới đây không do chính tay Leonardo viết, có lẽ nhắc tới một phần công việc khai thác. Ông đã tường thuật về tình trạng những thành quách của Florence sau cái chết của Savonarola năm 1498.

Bản ghi nhớ (memorandum) cho danh sư Leonardo bảo đảm thông tin nhanh chóng về tình trạng của Florence, tức là, trong tình huống nào, người cha tôn kính là tu sĩ Girolamo đều đã bảo vệ các pháo đài.  Khoản mục về nhân sự và trang bị vũ khí của mỗi đơn vị chỉ huy, và họ được trang bị theo cách nào, và hiện tại họ có còn giữ như vậy không.

Việc khai thác của bá tước Ligny không có kết quả. Ngày 14 tháng 10 năm 1499, Leonardo gửi tiền tiết kiệm lên tới 600 florin tại Santa Maria Nuova ở Florence. Sau đó ông rời Milan đi Venice cùng với Fra Luca Pacioli. Trên đường đi họ dừng chân tại Mantua và được hầu tước phu nhân Isabella d’Esté tiếp đón, và bà ngồi làm mẫu cho Leonardo phác hoạ chân dung nhìn nghiêng (hiện ở bảo tàng Louvre). Tuy đồng tình với người anh rể bị bại trận, Ludovico, nhưng bà khát khao tìm cách hoà giải với kẻ chiến thắng và cứu vãn tiểu quốc của chồng, và bà đã mời bá tước Ligny, có quan hệ với gia đình bà, tới Mantua.

Những ngày đầu tháng 2 năm 1500, Ludovico băng qua núi Alps, vào lại Milan. Các thân hữu vui mừng, nhưng cuộc đấu tranh còn chưa chấm dứt. Leonardo đang chờ đợi kết quả ở Venice.

[1] Bút kí này là chủ đề chính cho nghiên cứu phân tâm học tính dục của Freud về Leonardo. Hình tượng chim trong giấc mộng của Leonardo là con diều (nibbio trong tiếng Ý) và cũng là những hình tượng chim trong những nghiên cứu của ông về việc phi hành. Cái đuôi chỉa hai của nó dùng như bánh lái khoẻ khiến nó có thể vừa lượn bằng đôi cánh và điều động phương hướng, không phải là một vận động thấy rõ ràng với người quan sát từ bên dưới. Điều này giải thích cho sự quan tâm của Leonardo về chim. Freud dịch sai nibbio thành “kên kên” và đặt lí thuyết của ông trên lập luận chữ tượng hình Ai-cập, những chữ “kên kên” và “mẹ” cả hai thể hiện bằng hình tượng con kên kên vì lí do ngữ âm, vì cả hai đều phát âm là mut.

[2] Marmocchi, nhà địa lí và nhà thiên văn. Tượng hạn nghi (quadrant): một dụng cụ quan trắc thiên văn.

[3] Benedetto de l’Abbaco, nhà toán học.

[4] Mastro Paolo Toscanelli, nhà khoa học.

[5] Domenicho di Michelino, hoạ sĩ, học trò của Fra Angelico.

[6] Argiropulo, triết gia Hi-lạp nổi tiếng, theo thuyết Aristotle.

[7] Theo Solmi, tên Maneto để chỉ Manetti (Alvise), cùng thời gian Leonardo ở Venice năm 1500, đã nỗ lực không thành công trong việc phóng thích những tù binh thành Venice bị quân Thổ bắt giữ ở Lepanto. Nhưng theo Calvi, bút kí này được viết khoảng 15 năm sau.

[8] Tu viện Chiaravalle, cách Milan vài dặm, có một ngọn tháp trung tâm ở ngay giao lộ.

[9] Girolamo Marliani, tác giả của cuốn Algebra/Đại số học; y sĩ lừng danh. Các con trai của ông cũng là những y sĩ.

[10] Trên một trang khác, có một phác thảo quang cảnh thành Milan và một thiết kế nháp với chỉ dẫn về những cánh cổng.

[11] Tên một quảng trường gần trung tâm thành phố.

[12] Một công trình kiến trúc hình bát giác có niên đại từ thế kỉ 6. Vòm mái cho đến nay là một trong những copula tuyệt vời nhất đã từng kiến tạo.

[13] Fazio Cardano, một nhà luật học uyên bác, đặc sắc về năng khiếu toán học, cha của Girolamo Cardano nổi tiếng, thiên văn học, nhà toán học, và y sĩ.

[14] Viết vào thế kỉ 13, của Liber Jordani Nemoratii.

[15] Triết gia Arập Alchindi.

[16] Nhà chế tạo đại pháo, người xứ Ferrara.

[17] Một trong những gia đình thương gia lớn ở Florence và đại diện cho Ngân hàng Medici ở Milan.

[18] ‘Những nút thắt’, Gruppi, những hoa văn xoắn lại với nhau như trong hình minh hoạ. Bramante, kiến trúc sư lừng danh, sinh ở Urbino, hoạt động ở Milan 1476-99.

[19] Giacomo Andrea xứ Ferrara, kiến trúc sư và công trình sư, người trung thành với Ludovico Sforza, bị tử hình khi quân Pháp chiếm Milan.

[20] Agostino Vaprio xứ Pavia, một hoạ sĩ được triệu tới Milan năm 1490 để giúp trang trí cho lâu đài của công tước.

[21] Biagio Pelacani (mất 1416) giáo sư triết học ở Pavia, tác giả những tác phẩm về Aristotle và về phép phối cảnh. Giovanni Ghiringhelli, giáo sư ở Pavia 1443-9.