Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 23 tháng 8, 2025

Những điều tôi thấy

 Tạp bút Lê An Thế

Tháng tư 1976, sau một mùa đông ở North Dakota, vừa có bằng lái xe, tôi bỏ việc, bỏ lại một vùng quá bình an, quá tử tế, nhưng cũng quá cô quạnh này, đi thẳng về hướng tây.

Tôi muốn nhìn thấy Thái Bình Dương. Tôi muốn được nhúng chân xuống biển.

Sau nhiều ngày đêm, nhiều ngàn cây số, tôi tới San Francisco, nơi tôi không quen biết bất cứ ai.

San Francisco đẹp như những tấm bưu thiếp du lịch. Có những tòa nhà rất cao, có rừng thông, có biển rất xanh, có cây cầu treo Golden Gate màu vàng rực.

San Francisco thơ mộng như lời những bài hát. Bạn sẽ thấy thành phố này có những người cài hoa trên tóc, những hippies, có những người đọc thơ hoặc giảng đạo ngoài đường, hoặc những con đường dốc như nửa đường leo tới mặt trăng.

1976, tôi vẫn yêu Liên ở Việt Nam.

1976, tôi yêu Leslie ở California. Cô đã dạy tôi yêu Vivaldi yêu Louis Armstrong yêu Nina Simone. Tôi yêu giọng xướng âm tiếng Mỹ hoàn hảo của cô. Tôi yêu cả cần sa, yêu Whiskey, yêu cuồng nhiệt trong chiếc xe cà tàng con cóc nhỏ bé của cô.

Lúc ấy, tôi không biết Leslie là một thiên thần, đã dạy tôi cách quên, cách sống, cách bay bổng, cách lao vào thế giới khác.

Lúc ấy, tôi chỉ là một tên vô gia cư ngủ bụi, ngủ xe, ngủ sofa, ngủ sàn nơi những người quen dọc đường. Tôi chỉ có mấy bộ đồ cũ và một ít tiền mặt.

Tôi vẫn nửa ngọng nửa điếc. Gần Leslie, da tôi vẫn vàng bên cạnh một màu da trắng. Rất trắng.

Trắng như mưa. Như sữa.

Tôi yêu những nhún nhảy tự tin của cô, những bữa ăn trưa thức ăn nhanh ngoài công viên, những kiên nhẫn của cô đưa tôi vào thư viện Berkeley với một khu đầy sách Việt, những tò mò vì cô nghe những người lính Mỹ tham chiến khi về nước kể lại Việt Nam chỉ là một nước không có cầu tiêu lẫn Ice cream.

Tôi yêu chuyến xe nhiều ngày dọc những rừng thông khổng lồ lên phía Oregon. Đi trên một đất nước quá rộng quá giàu, tài sản lớn nhất của tôi lúc đó chỉ là sự ngây ngô của một di dân mới tới: tôi chưa biết sợ.

Nhưng chỉ chưa đầy hai tháng, chúng tôi chia tay. Hình như giữa tôi và cô vẫn có những khoảng cách. Khoảng cách ngôn ngữ là một thứ có thể rất gần mà cũng rất xa. Lúc ấy và bây giờ, không giải thích nổi. Chúng tôi chưa một lần cãi cọ.

Nhiều thập niên sau, tôi mới biết lúc ấy tôi đã có những ngày trăng mật.

1976, tôi vẫn nhớ Việt Nam điên cuồng. Một quê hương mờ mịt tin tức. Tôi sống trong những tin đồn. Tôi bám vào sự tưởng tượng. Rõ ràng mở mắt, còn ngờ chiêm bao. Một bức màn sắt đã phủ xuống, đầy rẫy hận thù từ hai phía.

Tôi không nghĩ mình có ngày quay lại quê hương.

Tôi nhớ người Việt, thèm món ăn Việt, thèm nói tiếng Việt. Một người bạn cũ, từ tiểu bang khác, về sống ở nam Cali vài tháng trước, viết thư: “về đây ấm áp, nhiều việc làm, nhiều người Việt, có quán ăn Việt, gần Saigon nhất, lại có thể tán gái bằng tiếng mẹ đẻ, thích vô cùng”.

Tôi hay cả tin, lại thích chiều bạn. Thế là vài ngày sau tôi đã có mặt ở Orange County.

Nơi sau này mọi người gọi thân mật một cách Việt hóa là quận Cam, lúc đó, chắc đã tập họp khoảng hơn chục ngàn người gốc Việt, nhà cửa còn rẻ, đất đai còn rộng, còn đầy những vườn bắp, vườn cam, vườn dâu. Bắt đầu đã có quán cà phê Việt, quán ăn Việt. Việt 100%, không cần đặt tên Mỹ.

Cho tới khoảng cuối tháng 11-1975, chương trình định cư hơn 130 ngàn người Việt hoàn tất. Nhưng, kinh nghiệm với người tị nạn Cuba tập trung hầu hết ở Florida, chính quyền Mỹ đã phân tán người Việt sống trên đủ 50 tiểu bang nước Mỹ. Những người trẻ, độc thân, không nghề nghiệp, không quen biết ai ở nước mới này, bị đưa đi những nơi xa nhất. Tôi được đi đến Fargo, một thành phố chưa từng nghe nói tới. Vừa xuống mấy ngày, chung quanh đã toàn tuyết. Thế là, sáng mai thức dậy, như đang sống ở Tây Bá Lợi Á. Đi làm hoặc ở nhà, vẫn như một thằng câm. Chỉ xem lịch, xem giờ và xem nhiệt độ hàn thử biểu. Tôi chỉ trụ được ở đó lúc hết mùa tuyết.

Tôi đi thẳng về phía Tây. Không hề có ý định quay lại chỗ này. Như “phía tây mặt trời”, một câu truyện mà nhà văn Murakami kể lại về một người nông dân Nga, sống giữa những cánh đồng tuyết Seberia, một hôm nào đó bỗng dưng bỏ hết đi bộ thẳng về phía tây rồi biến mất mà tôi đã đọc sau này. Tôi chỉ khác, tôi biết chỗ đến là Thái Bình Dương. Tôi cũng hơn anh nông dân Nga kia là tôi đi bằng xe bốn bánh.

Ở nam Calilfornia, tôi gặp lại một số bạn cũ, và quen thêm nhiều bạn mới.

Nhờ giới thiệu của Hoàng Quốc Bảo, tôi tới share một phòng (bây giờ trong nước gọi là ghép phòng), trong căn hộ của nhà thơ Du Tử Lê. Lúc đó Du Tử Lê vừa đi làm kiếm sống, vừa có cô vợ trẻ và một cậu con trai nhỏ mới sinh, vừa làm chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Quê Hương, khổ cỡ báo Time, vài chục trang, trong đó có đủ thơ văn tin tức bình luận. Rất bận rộn.

Tòa soạn cũng ở căn hộ nhỏ, hai phòng. Bàn đánh máy cũng là bàn ăn. Tạp chí nghe xôm tụ như vậy, nhưng thực ra chỉ có một mình Du Tử Lê bao thầu từ A đến Z. Lê rủ tôi vào làm báo chung cho tiện, trước mua vui, sau là việc… nghĩa. Tôi không hề học trường báo chí, chưa từng viết được một câu văn. Nhưng ngoài giờ đi làm, rất rảnh, nên tôi giúp một tay. Lúc ấy cả tòa soạn chỉ có một cái máy chữ cũ của hãng IBM, đánh bài xong, chữ không có dấu, phải tự dùng bút bỏ từng dấu chấm phẩy hỏi ngã. Sau đó cắt dán, cho vừa vặn khổ báo, rồi đem tới nhà in. Tôi đặt đại một cái tên hiệu mình là Lê Tôn (dựa vào họ tên cha mẹ), chức Thư ký tòa soạn. Tôi còn làm thêm việc bỏ báo bán ngoài chợ, quán cà phê, gởi bưu điện cho các độc giả ở xa. Tôi không có kinh nghiệm sống dưới khẩu hiệu “mỗi người làm việc bằng hai”, nhưng ở giai đoạn này, mỗi ngày của tôi phải có hơn 24 tiếng.

Bài vở gởi đến nhiều, dĩ nhiên đăng không xuể. Tôi không có quyền động đến bài vở, nhưng cũng có đọc bên lề. Tôi không nhớ lý do đột biến nào, thời điểm này, tôi làm thơ. Du Tử Lê đã đồng ý đăng ngay. Nóng hổi. Tôi tiếp tục làm thêm một số thơ nữa. Chắc khoảng sáu bài.

Vài tháng sau, nhà xuất bản Quê Hương đã in một tuyển tập thơ Việt Nam, trong đó có bốn người là Trần Mộng Tú, Thục Ngạn (vợ Du Tử Lê lúc đó), Du Tử Lê và tôi. Tất cả bài trong tập đều được dịch ra tiếng Mỹ, và bán (hoặc tặng) hết ngay, nhan đề Quê Hương và Lưu Đày. Tôi không còn giữ được một ấn bản nào. Và, cũng không nhớ mình đã viết thứ gì trong đó.

So với những cộng đồng Á Châu khác ở Mỹ, cộng đồng Việt Nam có một đặc điểm nổi bật là một cộng đồng chính trị. Họ đến đây bằng cách vượt biên. Họ được tiếp nhận như những người tị nạn chính trị. Vừa nhục nhã, vừa uất hận, nhưng khi tới Mỹ, họ có ngay một kho tàng vô báu: tự do. Họ đã xử dụng tối đa quyền tự do ở xứ sở mới này.

Thế là hiện tượng báo bằng Việt ngữ ra đời ồ ạt. Nếu bạn có tiền, có sức lao động cứ ra báo, không cần xin phép, không lo kiểm duyệt, không sợ tuyên giáo. Bạn có thể tốn tiền, tốn công, đôi khi rất tốn, vì viết lách và làm báo, chứ không bao giờ bị bỏ tù vì những chuyện này.

Sau vài tháng ở đây, tôi đã thu thập được khoảng 100 tờ báo khác nhau bằng tiếng Việt, từ Pháp, Đức, từ Texas, Washington DC, tới Washsington State, nhưng đa số vẫn tập trung ở California. Có tờ chỉ vỏn vẹn hai trang. Có tờ chỉ in bằng máy photocopy. Có tờ vừa chữ đánh máy, vừa chữ viết tay. Ít tờ nào dày hơn vài chục trang. Đa số nhếch nhác, cẩu thả, cả hình thức lẫn nội dung. Và hầu như chỉ là báo biếu. Chỉ có vài người có nghề sẵn từ miền Nam qua như ký giả Việt Định Phương (báo Trắng Đen), hoặc Nguyễn Hoàng Đoan (tạp chí Hồn Việt) qua đây làm báo. Còn lại đều là tay ngang. Hoặc như tôi, thợ vịn.

Mỗi người Việt Nam tị nạn khi mới tới đều là một tờ báo. Nếu không làm báo giấy, họ có thể là báo nói.

Tôi quen Hoàng Khởi Phong vào thời điểm đó, một người tôi từng nghe tiếng từ trước 1975 là một tay giang hồ. Khi có quyền lực, anh bao che và thông cảm với những người bụi đời, nghệ sĩ, thất thế. Phong cũng trải qua một mùa đông trên tiểu bang Maine.

Anh từng sinh hoạt văn nghệ trước 1975, và đã có hai tập thơ xuất bản ở Việt Nam trước đây. Anh quen biết rộng trong giới văn nghệ. Tôi chơi thân với Phong từ ấy.

1976, nước Mỹ rầm rộ tổ chức kỷ niệm 200 năm ngày giành độc lập, Hoàng Khởi Phong có làm một bài thơ tự do, nhan đề Chào Mừng 200 Năm Độc Lập Nước Mỹ. Anh đã đọc bài thơ này trong một đêm thơ nhạc cho người Việt trong vùng. Miễn phí. Rạp chật kín người. Tôi nghĩ cả ngàn khán thính giả, nếu tính cả người già, em bé. Giọng anh vang, ấm, uy lực:

“cái bóng của Abraham Lincoln vẫn còn nghiêng xuống thế kỷ này…”

Tôi nhớ và chỉ nhớ câu thơ này. Hình như, chúng tôi đã cảm giác được màu da, văn hóa, ngôn ngữ lạc lõng của mình. Tổng thống thứ 16 của nước Mỹ, Abraham Lincoln, chiến thắng trong trận nội chiến bắc nam, bãi bỏ chế độ nô lệ, mở đường cho những đấu tranh đòi tự do bình đẳng của người da đen tiếp đó, đã tạo sự dễ dàng hơn cho những người da màu khác đến sau như chúng tôi. Tôi vẫn nhớ và nghiêng mình trước những người da đen như Martin Luther King Jr., Rosa Park… Và riêng với người vừa chứng kiến chiến tranh Việt Nam kết thúc bằng mắt thường, tôi càng ngưỡng mộ Abraham Lincoln, với bài diễn văn của ông đọc tại Gettysburg, một trận đánh đẫm máu, chết và bị thương khoảng 50 ngàn người, và cũng là nơi trở thành nghĩa trang chôn chung cả lính hai miền nam bắc. Bài diễn văn ngắn, tôi nghĩ là một bài diễn văn hay nhất mà tôi biết được, dài 272 chữ, đọc khoảng ba phút. Không hiểu sao mấy năm sau, tôi đã học thuộc.

Cho đến hôm nay, tôi chưa hề có một đồng lương hoặc nhuận bút nào qua việc làm báo hoặc làm thơ. Tôi không thấy đó là điều dại dột. Và cũng không thấy đó là điều hy sinh, mất mát.

Tôi không nghĩ thơ cứu vãn thế giới, cứu vãn tôi hoặc bất cứ ai. Nhưng, hình như, gần 50 năm qua, nếu bảo quay lại từ đầu, một điều tôi biết, tôi biết hầu như chắc chắn, là tôi vẫn làm thơ.

Saigon, 8-2025