Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 1 tháng 10, 2025

Bùi Chát, chúng ta đang trôi đi đâu?

 Nguyễn Đức Tùng

Lâu lắm mới đọc thơ Bùi Chát. Tôi vẫn thích thơ anh, từ những ngày Mở Miệng, hơi hai mươi năm trước, cùng với các nhà thơ khác như Lý Đợi, Khúc Duy, Nguyễn Quán. Bẵng một thời gian, anh không viết, rồi vẽ và ngày càng nổi tiếng về tranh, thế rồi:

Chúng ta đang trôi đi đâu?

Cái đẹp mỹ thuật Việt Nam từ Đông Dương tới Lê Quang Đỉnh (4)

 Nguyễn Quốc Chánh

11
Truyền thống Á Đông, cái đẹp không phải cái lạ, có sắc thái cá nhân như Tây phương hiện đại mà là cái đẹp hài hòa với đạo của trời - người - đất hoặc với cái vô ưu vô thường thường hằng tĩnh lặng.
Cái đẹp là để hòa giải giáo hóa con người với trời đất và cộng đồng.

Thứ Hai, 29 tháng 9, 2025

Nguyễn Duy: Nhà thơ du / ru ca

 Đỗ Lai Thúy

Là ta, ta hát những lời của ta

Nguyễn Duy

Cuối những năm 1980, tôi tập viết cho mục “Đến với những bài thơ hay” của báo Người Hà Nội và Văn Nghệ. Trong số đó, có hai bài tôi ưng nhất là Lại về tỉnh nhỏ của Yến Lan, và đặc biệt là Đò Lèn và sự giải cổ tích hóa trong thơ Nguyễn Duy. Hôm tôi đến Văn Nghệ lấy báo biếu, nhà thơ Trần Ninh Hồ, trưởng ban thơ, bảo: Tôi đã cứu cho ông một bàn thua trông thấy! Nhìn khuôn mặt nghệt của tôi, anh giải thích: đó là tôi đã bỏ đi chữ hóa trong cụm từ cổ tích hóa của ông. Tôi kêu lên, ông Hồ ơi, ông Hồ ơi, ông giết tôi rồi. Các thời đại sau-cổ tích thì không còn cổ tích nữa, chỉ có sự cổ tích hóa mà thôi. Bà ngoại Nguyễn Duy trong bài Đò Lèn, bằng thân phận cực nhọc, bi đát của mình đã giải những cái mà người tmuốn cổ tích hóa, thần thoại hóa nó.

Đọc tập truyện Hạt U Minh của Trần Kiêm Trinh Tiên

 Phan Tấn Hải

 

Tập truyện ngắn vừa phát hành của nhà văn Trần Kiêm Trinh Tiên có một nhan đề rất là buồn, Hạt U Minh. Nhiều truyện trong tập này như dường viết về các lằn ranh bị vượt qua. Thí dụ, lằn ranh tình yêu (hay như dường là tình yêu) giữa một ni cô và một chàng trai trong trường Dòng. Hay thí dụ, mối tình giữa một thiếu nữ Huế và chàng trai Mỹ, và chàng chết khi bùng nổ các trận đánh trong Tết Mậu Thân ở Huế. Hay như truyện cuối trong tập, khởi đầu là các hình ảnh liên hệ tới Kinh Thánh Ki Tô Giáo, giữa truyện là ký ức một thiếu nữ về một truyện Thiền... Cuộc đời, vâng cuộc đời, thực sự là không có lằn ranh, dù là màu da hay tôn giáo. Tác giả có vẻ như muốn nêu chủ đề từ những chuyện đời thường.

Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 314): Trần Hồng Châu, nhà thơ

 Nguyễn Vy Khanh


 Trần Hồng Châu

 

Trần Hồng Châu là bút hiệu của giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, sinh ngày 15-5-1921 tại Hưng Yên, Bắc Việt, theo học tại Trường Khải Ðịnh Huế, Ðại học Luật khoa Hà Nội 1943-1945. Du học Pháp, ông đậu Cử nhân Văn Chương năm 1950, Tiến sĩ Văn chương Quốc gia năm 1955 rồi về nước năm 1957, dạy Đại học Văn Khoa Sài Gòn, phụ trách các môn Văn chương Pháp và Văn chương Việt-Nam, đồng thời cũng giảng dạy tại Đại học Sư phạm Sài Gòn, Học viện Quốc gia Hành chánh và Viện Đại học Huế. Ông được bầu làm Khoa trưởng Ðại học Văn khoa Sài Gòn (1965-1969), và là Giáo sư thỉnh giảng về Văn chương Văn hóa Việt Nam tại Ðại học Southern Illinois University (Carbondale, Illinois Hoa Kỳ) từ 1970-1974. Vừa hồi hương không lâu thì xảy ra biến cố 30-4-1975, 15 năm sau ông cùng gia đình rời khỏi nước và định cư ở California.

Schumann - Clara – Brahms, còn mãi một tình yêu

 Trương Thị An Na

Trong những năm 70 của thế kỷ XX tôi đã học tại một trường cấp hai ở Mai Dịch, Từ Liêm, Hà Nội. Lớp học của tôi thời đó có đến hai phần ba là con em của các gia đình có bố hoặc mẹ hoặc cả hai đều làm văn công nên các bạn ấy được ở trong các khu tập thể riêng mà mọi người hay gọi là khu văn công trung ương và khu văn công quân đội. Thỉnh thoảng, chiều chiều khi có thời gian rảnh tôi thường sang chơi với các bạn ở những khu văn công ấy và trong số đó có một bạn mà bố mẹ rất thích nhạc cổ điển. Tôi thấy họ ngồi nghe say sưa bản nhạc được phát ra từ chiếc máy có tên gọi là Rigonda của Nga. Có hôm tôi còn nghe thấy cả nhà cùng bàn luận về một bản nhạc có tên là Mộng mơ (Rêverie). Lần đầu tiên biết đến âm nhạc cổ điển của tôi là như vậy và có lẽ cũng sau cái ngày đó, trong sâu thẳm lòng mình nỗi khát khao muốn hiểu, muốn biết, muốn nghe nhạc bắt đầu được nhen nhóm.

Năm tháng dần trôi, từ một cô bé chỉ được nghe một cách tình cờ những bản nhạc cổ điển, dần dần tôi đã trưởng thành, biết nghe, biết thưởng thức, biết trân trọng, biết hàm ơn, biết vui, buồn cùng những bản nhạc.

Và giờ đây, tôi không chỉ nhớ đến những ngày ấu thơ với cảm giác ngây ngô, thích thú khi lần đầu tiên trong cuộc đời được nghe, được chứng kiến niềm vui, sự hạnh phúc của bố mẹ bạn tôi khi họ được nghe bản Mộng mơ. Mà ngay khoảnh khắc này tôi còn muốn chia sẻ những gì mà tôi biết, tôi nghĩ và tôi yêu mến về Schumann, tác giả của bản Mộng mơ ngày ấy và cả hai con người đã cùng ông viết nên một bản tình ca tuyệt đẹp. Từ tận đáy lòng tôi luôn biết ơn cả ba người, Schumann, Clara và Brahms bởi họ đã mang đến cho tôi nhiều xúc cảm, nhiều đam mê, những khát vọng, những trở trăn thiện lương trước cuộc đời.

Trước hết là về Robert Schumann (1810-1856), ông là một nhạc sỹ thuộc trường phái lãng mạn và đồng thời cũng là nhà phê bình âm nhạc nổi tiếng  của Đức vào thế kỉ XIX. Ông đã sáng tác Kinderszenen (Thời thơ ấu), Opus 15, năm 1838, để hồi tưởng lại thời thơ ấu của mình. Tác phẩm này gồm 13 đoạn viết cho đàn piano, đoạn thứ 7, Träumerei (Reverie) có lẽ là đoạn hay nhất.

Với một chút hiểu biết nhỏ nhoi về âm nhạc, tôi có ấn tượng rất nhiều với Schumann bởi trước hết ông là “nhà âm nhạc có chất thi ca”. Ông sáng tác đến hơn 200 ca khúc, nên còn được gọi là “Shubert thứ 2” và những sáng tác của ông mang màu sắc thơ ca rất độc đáo. Vì yêu mến ông nên tôi đã cố gắng dịch một vài ca khúc của ông:

  1. Im wunderschönen Monat Mai

                (Vào tháng năm kỳ diệu)

Vào tháng năm kỳ diệu

Tất cả các chồi như bung ra

Trong lòng tôi

Tình yêu nảy nở

Vào tháng năm kỳ diệu

Tất cả những con chim như đều hát

Tôi thổ lộ với bạn gái tôi

Về sự thao thức, về những ước muốn

  1. Wenn ich in deine Augen seh

             (Khi anh nhìn vào mắt em)

Khi anh nhìn vào mắt em

Tất cả những nhọc nhằn khổ đau rời xa anh

Nhưng khi anh hôn lên đôi môi em

Thì anh cảm thấy chữa được hết mọi bệnh tật

Khi em ép vào anh trên quả tim của em

Anh cảm thấy như một niềm vui thần diệu

Và khi em nói với anh rằng em yêu anh!

Anh chỉ có thể khóc một cách đắng cay.

  1. Im Rhein, im schönen Strome

                (Sông Ranh, dòng sông đẹp đẽ này)

Sông Ranh, dòng sông đẹp đẽ này

Phản chiếu vào trong nước

Thành phố Cologne, thánh thiện và vĩ đại

Với cái mái vòm lớn gô tích

Trong mái vòm là một hình ảnh

Được vẽ trên tấm da vàng óng

Trong hoang vắng của cuộc đời tôi

Thời đó là một tia sáng

Những bông hoa và những thiên thần nhỏ

Làm vương miện cho Đức Bà

Những con ngươi, những bờ môi, những cái má xinh xinh

Là những thứ của con người mà tôi ngưỡng mộ.

Trong cuộc đời sáng tác của mình, Schumann đã để lại cho thời đại của ông và cho đến tận muôn đời sau một trong những bản Concerto lãng mạn và có thể nói là đẹp nhất cho piano như bản Concerto pour Piano en la mineur op.54 và bản concerto lớn nhất dành cho violoncelle có tên là Concerto pour Violoncelle en la mineur op.129. Tôi đã nghe đi nghe lại hai bản này trong suốt những năm tháng qua mà lần nào cũng háo hức, cũng đắm đuối như là nghe lần đầu tiên vậy. Bởi khi thả hồn mình vào âm nhạc của Schumann tôi như thấy mình đang được tận hưởng những gì mà ông đang gửi gắm vào các bản nhạc của mình, đó là sự trong sáng nhất, giản đơn nhất, bình dị nhất của thiên nhiên, của vạn vật, của cuộc đời.

Schumann không chỉ là nhạc sỹ mà ông còn là một nhà phê bình tận tâm và sắc sảo. Ông đã có những bài viết về Beethoven, về Shubert, Berlioz, Liszt, Chopin và Mandelssohn với những lời nhận xét khách quan, tinh tế và cũng tràn đầy tình yêu mến. Với những nghệ sỹ cùng thời ông luôn quan tâm và giúp đỡ những khi họ cần. Ông còn có những tiên đoán về tài năng, sự nghiệp của Johannes Brahms, của Chopin vô cùng chính xác. Chuyện kể lại rằng, vào ngày 30 tháng 9 năm 1853, có một cậu thanh niên tên là Brahms đến gõ cửa nhà Schumann và được yêu cầu ngồi trước cây đàn piano để chơi cho Schumann nghe bản Sonate mà cậu ta vừa mới sáng tác, sau khi nghe xong, ngay lập tức ông đã nói với vợ mình: chắc chắn người đó sẽ trở thành một thiên tài. Điều tiên đoán và dự cảm này đã đúng khi mà chỉ một thời gian sau Johannes Brahms đã trở thành một nhà soạn nhạc, một nghệ sĩ dương cầm và một chỉ huy dàn nhạc tài năng của Đức.

Vì thích nghe nhạc Schumann mà tôi đã tò mò không biết động lực nào, những điều gì đã giúp ông sáng tác được nhiều bản nhạc tuyệt vời như vậy? Sau này tôi đã tìm hiểu và biết được rằng, quả thật ngoài tài năng, sự nỗ lực không biết mệt mỏi của bản thân mình thì còn có một nguồn cảm hứng vô tận để giúp Schumann viết nên những bản nhạc bất hủ, đó chính là người bạn đời của ông, bà Clara Wieck Schumann (1819-1896).

Được biết lúc còn nhỏ Clara là một cô bé rất thông minh, được người ta gọi là thần đồng. Tên tuổi của bà đã vang khắp cả châu Âu qua những chuyến lưu diễn từ khi mới chỉ chín tuổi. Có lần khi chứng kiến buổi biểu diễn của bà ở Leipzig, Goethe (nhà thơnhà văn, tiểu thuyết gianhà viết kịchnhà khoa họchọa sĩ người Đức) đã có nhận xét rằng: “Cô gái này ẩn chứa sức mạnh phi phàm trong đôi tay hơn cả sáu cậu bé cộng lại”.

Càng tìm hiểu, tôi càng cảm mến, khâm phục vô cùng về tài năng cũng như nhân cách của bà, bà là một người phụ nữ thanh tao, lịch thiệp, nhẹ nhàng và kín đáo. Mendelssohn đã từng nói về bà: “Hoá ra ngoài giờ phút bên cây đàn, nữ nghệ sỹ trẻ lại là người hết sức e thẹn, nhút nhát và lặng lẽ”. Còn Franz Liszt, nhà soạn nhạc nổi tiếng người Hungary thì gọi Clara là “một người rất bình thường được nuôi dạy tốt, không đỏm dáng, hoàn toàn chìm đắm trong nghệ thuật và trong ý nghĩa cao quý nhất của âm nhạc”.

Với tôi, Clara là hình tượng, là tấm gương về sự dám đấu tranh, dám quyết liệt để bảo vệ tình yêu của mình. Thuở thiếu nữ, bà dường như bị cha mình định hướng để chỉ là một nữ nghệ sỹ piano biểu diễn nhạc của Beethoven, Shubert, Chopin với những buổi lưu diễn ở khắp châu Âu. Bố của bà vì sợ con gái sẽ bị mất đi sự nghiệp âm nhạc của mình nếu kết hôn với Schumann nên ông đã kịch liệt phản đối việc cô yêu Schumann. Nhưng một cô gái vừa e thẹn, vừa nhút nhát, vừa lặng lẽ, không đỏm dáng và được nuôi dạy rất tốt đó đã dám đứng lên đấu tranh vì tình yêu để được kết hôn với Schumann, người mà bà đã chọn và dành trọn tình yêu vào lúc chỉ mới 21 tuổi.

Tôi ngưỡng mộ Clara bởi ở trong bà có một sức mạnh vô biên của người phụ nữ cả về mặt thể chất lẫn tinh thần. Nhiều lần tôi cứ tự hỏi, không hiểu một người phụ nữ hiền lành, dịu dàng, nhút nhát như bà lấy đâu ra sức mạnh, nghị lực nhiều như thế để mặc dù đã trải qua mười lần sinh nở với tám đứa con, trải qua những nhọc nhằn vất vả, những đớn đau vô cùng tận vậy mà trong 14 năm sống với Schumann bà đã có được 139 buổi hoà nhạc làm đắm say, làm mê mẩn hàng triệu triệu con tim. Sau này khi Schumann mất đi, vượt qua tất cả mọi biến cố đau thương của cuộc đời, bà vẫn tiếp tục duy trì được sự nghiệp biểu diễn của mình. Trong suốt 60 năm hoạt động nghệ thuật, bà đã không bao giờ ngưng làm việc, ngưng cố gắng, đã phấn đấu không ngơi nghỉ để có được một con số khổng lồ là 1300 buổi biểu diễn phục vụ công chúng. Ngoài ra bà còn sáng tác được nhiều tác phẩm hay trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến là Piano Trio và Piano concerto. Không dừng lại ở đó, bà còn là một giảng viên lịch sử âm nhạc đầy đam mê, đầy tâm huyết và đầy trách nhiệm. Cuộc đời bà là minh chứng cho một tinh thần làm việc không ngơi nghỉ, một tình yêu vô bờ bến với âm nhạc, bởi cho đến khi không còn biểu diễn và không sáng tác nữa thì bà lại dành thời gian để tập hợp và xuất bản những sáng tác của chồng mình. Bà cứ thế âm thầm, lặng lẽ, tận tâm làm việc cho đến những ngày cuối cùng của cuộc đời mình.

Tôi yêu mến, tôi ngưỡng mộ bởi chính bà là nguồn cảm hứng cho những sáng tác của Schumann. Nhiều lúc tôi mạo muội nghĩ rằng nếu như không có Clara thì nhân loại hôm nay chưa hẳn đã được thưởng thức nhiều bản nhạc hay đến vậy của Schumann. Chính Schumann cũng đã từng nói rằng: “Những bức thư của em khiến anh muốn sáng tác, và anh cảm thấy dường như không thể ngưng lại mạch nguồn này”.

Người ta đã chứng minh “Đằng sau thành công của một người đàn ông luôn có bóng dáng của người phụ nữ”, câu nói này tuyệt đối đúng với cặp vợ chồng Schumann và Clara. Bà không những là “cánh tay phải đắc lực” của chồng mà đôi bàn tay của bà còn làm thay cho cả đôi bàn tay của chồng trong những năm tháng Schumann không thể chơi đàn được nữa. Trong khoảng thời gian này chính bà là người chơi những bản nhạc của ông còn ông thì lùi về sau để tập trung vào sáng tác. Kỳ diệu thay đây lại chính là thời kỳ rực rỡ nhất trong sáng tác của ông.

Tôi luôn dành sự cảm phục và ngưỡng mộ cho Clara bởi bà còn là người đàn bà của nghị lực phi thường. Trong những thời khắc đau đớn nhất của cuộc đời mình, khi phải lần lượt chứng kiến cái chết của chồng và lần lượt của bốn đứa con, nhiều người đã nghĩ rằng bà sẽ gục ngã và sẽ không thể nào vượt qua được nỗi đau thương đó. Nhưng trong sự khổ đau, sự hụt hẫng và nỗi tuyệt vọng tột cùng bà đã ngẩng cao đầu và vượt qua một cách đầy kiêu hãnh. Người ta yêu quý và khâm phục còn bởi sự thủy chung, tình yêu sắt son, vẹn tròn mà bà dành cho chồng mình. Chính bởi tình yêu son sắt với chồng mà bà đã cương quyết cự tuyệt Brahams, người đã luôn dành trọn tình yêu thương cho bà, lúc nào cũng mong muốn có một ngày sẽ dành được tình yêu của bà. 41 năm sau kể từ ngày Schumann mất đi bà vẫn luôn chọn cho mình bộ trang phục màu đen. Quả thật phải có một tình yêu sâu nặng đến mức nào, đặc biệt đến mức nào, thủy chung đến mức nào cùng với một nhân cách đẹp đẽ, thanh cao đến mức nào thì mới làm được như thế.

 Từ khi tìm hiểu và tin yêu, rồi dành trọn sự ngưỡng mộ cho Clara thì những câu chuyện đẹp đẽ, thảo thơm về cuộc đời của bà đã luôn tiếp thêm nguồn năng lượng để tôi đứng dậy và bước tiếp mỗi khi mệt mỏi, những lúc khó khăn, những khi bị mất phương hướng trong cuộc đời.

  Về Johannes Brahams, mặc dù không được bà Clara chọn để đồng hành cùng mình sau khi người chồng thân yêu của bà ra đi nhưng ông ngoài việc là một nhạc sỹ tài ba với những bản nhạc mà tiếng Pháp thường gọi là “Elle s’expose, elle s’impose” (Nó phơi bày, nó ngự trị) thì còn là một người đàn ông đàng hoàng, tử tế theo đúng nghĩa của từ đó. Tình yêu mà Brahams dành cho Clara là thứ tình yêu thuần khiết, là sự dâng hiến, không vụ lợi, không đòi hỏi, ông biết lúc nào thì Clara cần ông và sẽ luôn có mặt đúng lúc trong những thời điểm đó. Có lẽ thứ tình yêu thuần khiết đó đã giúp ông sáng tác nên những bản nhạc làm đắm say, thổn thức con tim người nghe nhạc, đó là các bản:

Trois Intermezzi pour piano, op.117

Sonate pour violoncelle et piano N°1, op 38

Concerto pour piano N°1 en ré mineur, op15

Sonate pour piano N°3 en fa mineur, op 5

Tình yêu ông dành cho bà Clara cứ âm thầm, cứ tận tụy như thế trong một khoảng thời gian rất dài. Đó là khi Schumann phải nằm trong bệnh viện hơn 2 năm trước khi qua đời, thì Brahms đã luôn giúp đỡ, động viên, an ủi bà, ông sẵn sàng trông nom bọn trẻ để cho Clara đi lưu diễn và thậm chí, dạy đàn để giúp Clara trang trải cuộc sống. Đến khi Schumann mất, Brahams đã có mặt để động viên Clara, giúp bà vực dậy sau mất mát, có lẽ vì vậy mà Clara mới tiếp tục vui sống và trở lại với những buổi biểu diễn. Rồi khi bốn đứa con của Clara lần lượt qua đời, không ai khác lại cũng chính là Brahams đã xuất hiện kịp thời để làm điểm tựa cho bà, cùng bà vượt qua nỗi đau không gì có thể sánh nổi.

Vào năm 1877, khi bàn tay phải của Clara bị đau và phải tạm nghỉ chơi đàn thì Brahms đã tự mình chuyển soạn khúc Chaconne từ Partita violon số 2 của J.S. Bach sang piano cho tay trái để Clara tiếp tục được chơi piano với bàn tay trái của bà. Rồi khi căn bệnh về khớp càng ngày càng nặng, các ngón tay của Clara mất đi sự khéo léo và lanh lẹ không còn khả năng để đánh được những nốt nhạc phức tạp nữa thì Brahms đã lại một lần nữa sáng tác riêng cho bà những tác phẩm đơn giản hơn và có tiết tấu chậm hơn để khuyến khích, động viên, cổ vũ bà cố gắng tiếp tục chơi đàn.

Ông cứ bình lặng, cứ âm thầm bên cạnh cuộc đời Clara như thế cho đến một ngày khi hay tin Clara mất, ông lao đến nghĩa địa trong niềm tiếc thương, đau đớn đến dại cuồng và thốt lên những lời xa xót : “Hôm nay tôi vừa chôn cất người phụ nữ mà tôi thực sự yêu”. Thật ngậm ngùi thay, chỉ 11 tháng sau ngày Clara từ giã thế giới, ông cũng chia tay với cuộc đời để ra đi mãi mãi.

Âm nhạc của họ đã đẹp mà cuộc tình của họ còn đẹp hơn. Đó là một cuộc tình thật trong sáng, thật lãng mạn và tràn ngập giá trị nhân văn của ba con người đầy tài năng và đức độ!

Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2025

Loạn “người của công chúng”

 Nguyễn Hoàng Văn

 

Trong nhiều cái loạn của xã hội hiện tại, có thứ loạn khá xôm tụ nhưng ít ai để ý: loạn “người của công chúng”.

Mới đây Tiến sĩ Đoàn Hương rồi các tờ báo chính thống nặng ký lên tiếng chỉ trích hoạt náo viên (MC) Trấn Thành rằng, như là “người của công chúng”, anh ta phải hành xử thận trọng để làm gương, không thể buông lời phân ưu cho một nghệ sĩ vừa qua đời ở hải ngoại trong “ngày vui của dân tộc”.

Cổ vũ cho hư cấu vu khống – cái được riêng và cái mất chung

 Lê Học Lãnh Vân

1) TỪ TIN TƯỞNG TỚI HOANG MANG VỀ LÒNG YÊU NƯỚC, TÌNH ĐỒNG BÀO

Năm 1946, sau tám mươi năm Pháp thuộc, Việt Nam bắt đầu tiến hành toàn quốc kháng Pháp giành độc lập với chiến thắng Điện Biên Phủ chín năm sau đó, năm 1954. Hiệp định Genève đem lại hòa bình dù đất nước bị tạm thời chia hai.

Thứ Bảy, 27 tháng 9, 2025

Cái đẹp mỹ thuật Việt Nam từ Đông Dương tới Lê Quang Đỉnh (2)

 Nguyễn Quốc Chánh

5
Cái đẹp là cái mơ hồ gây hồ nghi. Có khi rực rỡ có khi úa tàn. Có khi đồ sộ có khi không biết tìm đâu cho thấy. Có khi nguyên vẹn có khi tả tơi. Có khi thì thầm có khi rùm beng chát chúa.
Cái đẹp của mỹ thuật Đông Dương là tiếng thì thầm phải lẽ của thời học làm sang sau khi được khai hóa bởi mỹ quan ấn tượng. Mỹ quan của ánh sáng loáng thoáng và cảm giác vừa mới bắt được hừng đông, như đàn bướm chớp cánh dưới tán lá lúc mặt trời mọc.

Hội nghị Liễu Châu định hình kết quả đàm phán Hội nghị Geneva 1954 (2)

 Tiền Giang, nguyên Phó Tổng Biên tập Nhật báo Nhân dân của Trung Quốc

Nguồn: “周恩来与日内瓦会议”,第 27 章 “关键的柳州会议” 钱江著
中共党史出版社 2005.1

Nguyễn Hải Hoành, biên dịch và chú thích

Toàn cảnh Hội nghị Geneva về Đông Dương tại Thụy Sĩ (1954). Nguồn: Ảnh tư liệu 

Hạ tuần tháng 6 năm 1954, 4 sư đoàn chủ lực quân đội Việt Nam sau khi hoàn thành chiến dịch Điện Biên Phủ đã tập kết vào một khu vực cách Hà Nội 80 km về phía tây bắc. Tổng Tham mưu trưởng quân đội Việt Nam Văn Tiến Dũng chỉ huy một đơn vị nhỏ của sư đoàn 320 tiến sâu vào khu vực cách Hà Nội 15 km. Để giữ lấy đồng bằng sông Hồng, Mỹ cho máy bay giúp Pháp vận chuyển một trung đoàn 2100 lính từ Bắc Phi đến Hà Nội, nhưng số binh lực này lúc ấy chỉ như muối bỏ biển, chẳng được tích sự gì. Chiến trường tiếp tục phát sinh những thay đổi có lợi cho quân đội Việt Nam.

Ý nghĩa của thơ từ góc nhìn hiện tượng luận

 (Đọc Ngẫu Hứng Suy TưBến Thi Ca của Thiền Zen Paul Vân Thuyết)

Dương Thắng

*

1. Tại sao cần suy tư về “ý nghĩa của thơ”? Trong một thời đại mà việc thương mại hóa các phương thức truyền thông khiến con người gặp muôn vàn khó khăn khi suy nghĩ về ý nghĩa đích thực của các diễn ngôn thì một phản tư về thơ luôn có thể gợi mở ra những chỉ dẫn nền tảng cho việc nhận diện “hiện‑hữu‑trong‑thế‑giới”, một lối hiện hữu chỉ có trong giao tiếp giữa người với người. Con người là hữu thể của ngôn từ; và Thơ, như triết gia Heidegger đã nói, là “ngôi nhà của Hữu thể”. Chúng ta truy tìm về ý nghĩa của thơ bởi lẽ nó dẫn dắt ta tới một chiều kích thiết yếu của hiện‑hữu‑trong‑thế‑giới: ước vọng được hiện hữu.

Buổi giới thiệu sách Einstein “Từ những năm sau của đời tôi”

 Nguyễn Xuân Xanh trình bày

Đây  một công trình cực kỳ ‘ấn tượng’, tôi ganh tị với các độc giả Việt Nam bây giờ nói chung các em sinh viên nói riêngđược  một quyển sách tiếng Việt về một  nhân của loài ngườiviết bởi một học giả thật sự am hiểu vấn đềdày công thu thập tài liệuvới một văn phong trong sángthân tìnhNếu như 40-50 năm về trước  tôi  một quyển như vầy để đọc thì chắc  bây giờ tôi khá hơn hiện tại rất nhiều.

— Trần Hữu Dũng nói về quyển sách EINSTEIN

Bộ phim One Battle After Another của đạo diễn Paul Thomas Anderson

 Lê Hồng Lâm

Bỏ một cái trip nghỉ dưỡng ra Bắc vì sợ bão, tôi được đền bù lại bằng suất chiếu sớm nhất của One Battle After Another (Liên Hồi Kì Trận – nhan đề tôi dịch). 162 phút của bộ phim do Paul Thomas Anderson (PTA) mang lại quả thực xứng đáng với những gì tôi kì vọng: hấp dẫn, điên loạn, hài hước, cảm động và chất chứa tinh thần mục ruỗng, chia rẽ của nước Mỹ thời hiện tại. Một bộ phim xứng đáng với tài năng bậc thầy của một trong những đạo diễn đương đại xuất sắc nhất, một trong hiếm các đạo diễn (cùng với Martin Scorsese, Coen Brothers, Quentin Tarantino, Christopher Nolan) mà tôi xem trọn các bộ phim trong suốt sự nghiệp của họ.

Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2025

MỘT NÉN HƯƠNG CHO NHẠC SĨ NGUYỄN VŨ

 

NHẠC SĨ NGUYỄN VŨ ĐÃ THÔI “NHỮNG ĐÊM THẾ TRẦN ĐÓN NOEL”

Cù Mai Công

17g20 chiều 24-9, nhạc sĩ Nguyễn Vũ, một giáo dân mến đạo xứ Nghĩa Hòa - Ông Tạ đã rời thế trần về với Chúa (1945-2025). Có thể nói ông là nhạc sĩ tên tuổi trước 1975 cuối cùng ở vùng Ông Tạ đã ra đi.

Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 313): Hồ Trường An, nhà văn quê Nam

 Nguyễn Vy Khanh

Hồ Trường An

Ông tên thật Nguyễn Viết Quang, sinh ngày 11-11-1938 tại xóm Thiềng Đức, làng Long Đức Đông, tỉnh Vĩnh Long; nguyên quán làng Hương Thủy, Thừa Thiên. Năm 1967, đang học Dược khoa Đại học Sài Gòn bị động viên, khoá 26 trường Sĩ quan Trừ-Bị Thủ Đức. Biến cố 30-4-1975 xảy ra khi ông đang làm sĩ quan Thông tin Báo chí của Quân Đoàn III tại Biên Hoà. Tham gia sinh hoạt văn nghệ, cộng tác với nhiều tờ báo xuất bản tại Sài Gòn trước 1975. Các bút hiệu khác: Đào Huy Đán, Đinh Xuân Thu, Đông Phương Bảo Ngọc, Hồ Bảo Ngọc, Người Sông Tiền, Nguyễn Thị Cỏ May, Đoàn Hồng Yến, Đặng Thị Thanh Nguyệt.

Bố và tôi và nhạc của Tchaïkovski

 Trương Thị An Na

Mùa hè năm 1979, rời ông bà ở Hà Nội  tôi vào  sống ở Huế với gia đình.  Lúc đó gia đình tôi được phân hai phòng ở trong khu tập thể của trường Đại học Sư phạm Huế. Đây là một ngôi trường có kiến trúc hiện đại, nằm ngay sát bên dòng sông Hương hiền hòa, mềm mại như tà áo dài của cô gái Huế. Nhưng ngôi trường không gây được ấn tượng với tôi mà điều làm tôi choáng ngợp chính là cái giảng đường nằm đối diện với nhà tôi. Tôi cứ mở to mắt ngắm nghía cái giảng đường oai nghiêm, rộng lớn như một rạp hát nằm trong khuôn viên nhà trường. Đó chính là hình ảnh đầu tiên rõ nét nhất trong mắt tôi về khái niệm “miền Nam”, một từ hay được người miền Bắc dùng để chỉ những gì thuộc về miền Nam thời kỳ sau giải phóng 1975, đại loại như “của miền Nam, người miền Nam, trong miền Nam, đi miền Nam…”.

Hội nghị Liễu Châu định hình kết quả đàm phán Hội nghị Geneva 1954 (1)

Tiền Giang, nguyên Phó Tổng Biên tập Nhật báo Nhân dân của Trung Quốc

Nguồn: “周恩来与日内瓦会议”,第 27 章 “关键的柳州会议” 钱江著
中共党史出版社 2005.1

Nguyễn Hải Hoành, biên dịch và chú thích

Cuối năm 1953, tại Việt Bắc, Hồ Chủ tịch và các đồng chí lãnh đạo Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Nguồn: Tư liệu TTXVN 

Về triển lãm Miền Thiêng Xanh của Huỳnh Lê Nhật Tấn

 MIỀN THIÊNG XANH, HÀNH TRÌNH TỪ VẾT CĂN NGUYÊN

Hoạ sĩ Phan Trọng Văn

Ba năm trước, triển lãm cá nhân đầu tiên của Huỳnh Lê Nhật Tấn mang tên Vết Căn Nguyên (cũng trưng bày tại Sài Gòn) đã gây ấn tượng như một cuộc khai mở, nơi người nghệ sĩ đào sâu vào ký ức và tầng trầm tích văn hóa để tìm cho mình một tiếng nói riêng. Trong những bức tranh ấy, khởi nguồn của nỗi ám ảnh về phế tích, về dấu vết thời gian và sự truy nguyên bản thể đã bắt đầu hiện diện.

Nói thêm về Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục

Thái Kế Toại

Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở phía Đông Bắc phường Hoàn Kiếm, Hà Nội. Khu vực này trước đây vốn là một bãi đất hoang trồng dừa ven hồ Hoàn Kiếm nên người dân xung quanh thường gọi là Vườn dừa. Sau khi thực dân Pháp sang Việt Nam, quảng trường này được đổi tên thành Place Négrier, tên một sĩ quan Pháp, dùng làm nơi chém đầu, xử tử những người yêu nước chống Pháp.

Chân mây

 Vũ Hoàng Thư

 

Nắng vạm vỡ leo bám lưng trưa, Ci sei tu… Em ở đó… Mùa hè nào đã đi qua. Đi qua như một tích tắc đời. Connie Francis Al di là cao vút giữa ngày, gọi nắng xuống cho đầy chiều chưa tới. Khi môi mấp máy điệu hờ tháng 9. Khi màu hoàng hổ trườn trên chiếc lá thu còn sót chút lục xanh. Như môi người còn đọng thanh xuân. Như mọi điều đã đi qua rớt lại mối diên trì.

Vài cảm nhận về truyện ngắn “Trăm ngàn”

 Mai An Nguyễn Anh Tuấn

Xin thưa ngay một điều: Tôi không phải là nhà văn, cũng không làm công tác phê bình văn học. Lâu nay tôi ít (và thú thực không có thời gian lẫn hứng thú) đọc truyện ngắn trên báo Văn nghệ hay các báo chí & trang mạng văn chương các loại. Ngay cả cuộc tranh luận về truyện ngắn “Trăm ngàn” đang sôi động trên báo chí & mạng xã hội, tôi cũng chỉ lướt qua để biết tình hình văn học nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng. Nhưng khi có bài của nhà văn Bảo Ninh, nhà văn tôi vốn có cảm tình, khen truyện ngắn “Trăm ngàn”, tôi mới tò mò tìm đọc, và xin “múa rìu qua mắt thợ” có đôi cảm nhận chủ quan về truyện ngắn này.

Lật lại một cuốn sách “có vấn đề” về Trung Quốc

 Trần Văn Chánh

 

Bài viết này không nhằm giới thiệu hay bình luận sách mới, vì cuốn sách đang đề cập Bàn về Trung Quốc trỗi dậy của tác giả Lê Vĩnh Trương đã được NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành cách nay đúng 6 năm. Gọi “có vấn đề” như tên bài viết vì khi sách này vừa xuất bản đã có lệnh từ cơ quan chức năng cấp trên yêu cầu nhà xuất bản phải thu hồi vì lý do trong sách có những điểm cần soi xét liên quan đến mối bang giao Trung-Việt. Sau một thời gian khá dài “hậu kiểm”, sách đã được cho phát hành chính thức, sau khi đã xóa bớt một số điểm nhạy cảm… Đây là lý do giải thích tại sao trên thị trường sách vào những năm đó tồn tại hai dị bản: một ấn bản đủ với số lượng ít đã “lỡ” phát hành khi chưa có lệnh thu hồi, và một ấn bản hơi thiếu thiếu một chút do cơ quan hậu kiểm yêu cầu xóa bớt những chỗ được/ bị cho là “nhạy cảm”. Để không bị tổn thất về mặt kinh doanh, nhà xuất bản đã khéo sắp xếp cho ấn bản sau khi sửa vẫn duy trì được hình thức trình bày cùng số trang y chang như ấn bản đủ lúc ban đầu…

Vĩnh biệt Tiểu Tử

 Nhà văn Tiểu Tử, 95 tuổi, vừa từ trần tại Noisy le Grand, ngoại ô Paris, ngày 18/9/2025, sau nhiều năm chống chọi với bệnh tật.

Với lối hành văn “miệt vườn’’, đặc biệt miền Nam, ông ghi lại một cách sống động những màn kịch vừa bi thảm vừa khôi hài ở miền Nam sau 1975. Ông nói thay hàng triệu người cái u uất, cái đau buồn một buổi sáng thấy mình mất quê hương, mất dĩ vãng.

Đọc Tiểu Tử, người ta có cảm tưởng như tác giả là người thân, bởi vì những chuyện ông kể là chuyện của chính mình. Nghe tin Tiểu Tử qua đời, người ta buồn như một người trong gia đình vừa ra đi.

Tang lễ tiễn biệt sẽ được tổ chức lúc 12g, ngày Thứ Năm 25/09/25 tại nhà hoả táng Père Lachaise, salle BIGOT, 55 rue des Rondeaux, 75020 Paris.

Để tưởng niệm tác giả, xin gởi lại dưới đây bản ghi lại bài nói chuyện nhân dịp ra mắt sách Tiểu Tử trước đây tại Paris, Pháp. [Đã đăng trên Văn Việt: https://vanviet.info/tu-lieu/van-hai-ngoai-sau-1975-ky-24-tieu-tu/ – chú thích của Văn Việt]

Từ Thức

Provenance: Vùng trống nguy hiểm trong nghệ thuật Việt Nam

 Tobi Trần - Giám tuyển Độc lập

Trong nhiều năm qua, provenance tức là lịch sử sở hữu và lưu giữ tác phẩm vẫn gần như là một vùng đất bỏ ngỏ trong hệ thống nghệ thuật Việt Nam. Bản thân mình từ 3 năm trước khi trở về Sài Gòn để làm việc chính thức cũng đã đề cập đến vấn đề này và gần một năm nay mình cũng đã có khá nhiều bài viết về provenance để gào lên với các họa sĩ lẫn nhà sưu tập. Khái niệm này không chỉ là câu chuyện về một chuỗi tài liệu hành chính mà còn là cơ sở để bảo đảm quyền thừa kế, tính hợp pháp và ý nghĩa học thuật của di sản nghệ thuật.

Albert Einstein, Từ những năm sau của đời tôi

 Out of my later years / Aus meinen späten Jahren

Sách mới ra mắt Tháng 9, 2025 tại IRED Books & Nxb Tri Thức

VỚI SỰ TÀI TRỢ CỦA VIỆN VĂN HÓA GOETHE THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Xuân Xanh chủ trương và cùng dịch với Đỗ Thị Thu Trà

Với Tiểu luận Dẫn nhập và Tiểu sử Einstein viết mới đặc biệt dành cho bản tiếng Việt.

Thơ Bùi Chát

 Chúng ta đang trôi đi đâu?!

Tập thơ thứ tám của Bùi Chát, ra mắt giữa năm 2025, Nhà xuất bản Đà Nẵng – là sự trở lại đầy bất ngờ sau hơn mười năm anh “cự tuyệt với thơ”. Quê Thái Bình, sinh ở Hố Nai, sống và làm đủ nghề linh tinh tại Sài Gòn, Bùi Chát chưa từng học trường viết văn hay mỹ thuật, nhưng đã để lại dấu ấn mạnh mẽ với tinh thần phá vỡ và tự do. Chúng ta đang trôi đi đâu?! đồng thời cũng đánh dấu một cột mốc đặc biệt: lần thứ hai sau Bài thơ một vần (song ngữ, Eva Tas, Hà Lan, 2010) thơ anh xuất hiện ngoài khuôn khổ Giấy Vụn. Cuốn sách mỏng 116 trang, nhưng chất chứa một thế giới ngổn ngang của 35 bài thơ ngắn và một bài thơ dài được đánh số như nhật ký suy tưởng, nơi mỗi câu chữ vừa là nhát cắt, vừa là sự tháo lắp ngôn ngữ. Với Chúng ta đang trôi đi đâu?!, Bùi Chát không chỉ đặt lại câu hỏi cho thơ ca, mà cho cả người đọc: chúng ta đang bị cuốn đi đâu, trong ngôn ngữ, trong ký ức, và trong chính thân phận của mình.

Giới thiệu Nghệ sĩ và Tác phẩm – Triển lãm Nghệ thuật Thường niên "Dòng sông nội tại"

 Jang Kều

Hôm nay tôi muốn giới thiệu về nghệ sỹ Phạm Trần Việt Nam, một hoạ sĩ đã gây cho tôi cảm xúc vô cùng mạnh mẽ sau khi dự Triển lãm “Văn tế thập loại chúng sinh” của cậu ấy tại The Factory năm 2018. Ấn tượng về những bức tranh ngoại cỡ dài hàng chục mét và đường nét kỳ lạ trên tranh đã khiến tôi xem đi xem lại triển lãm tới 3 lần (chưa kể lần tới nhà Hải Yến xem các tác phẩm sau khi vợ chồng Yến đã sưu tập). Trong loạt tranh đó, nghệ sỹ đã thử nghiệm cách tiếp cận hội họa hoàn toàn khác, sử dụng các ngón tay hoặc tăm bông để bôi vẽ thay vì cọ hoặc bảng pha màu, đục thủng thay cho bôi xóa, chùi quệt đi thay vì vẽ màu trắng, cắt toàn bộ tranh cũ được vẽ từ năm 2005 trở đi để dán và thêu chúng trên nền một tấm toan mới. Rồi có một lần triển lãm ở APD, tôi cũng đã rất ấn tượng với các tác phẩm của Nam và nghĩ chắc chắn mình sẽ sưu tập tranh của hoạ sĩ này.

Thứ Ba, 23 tháng 9, 2025

Tâm sự tháng Chín

 Nguyễn Xuân Thọ

Lướt qua mạng tháng này tôi có những cảm giác lẫn lộn. Việt Nam ăn nên làm ra đã đủ sức để tổ chức kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 02.09 một cách hoành tráng, đem lại niềm hứng khởi cho hàng chục triệu công dân. Tôi rất ấn tượng khi nghe ca sỹ Mỹ Tâm và bé gái Thủy Tiên kết thúc ca khúc của họ bằng câu “Nước non Việt Nam ta vững bền”. Đó là nguyện vọng chính đáng của tất cả người Việt Nam, dù ở đâu, có quá khứ thế nào.

Cha tôi

 Bùi Bắc

 

Vài ngày nữa là giỗ cha tôi, ông Bùi Châu (1903-1981).

Tết năm 1974, tôi qua nhà hàng xóm chúc tết. Ông Đoan, một vụ trưởng của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ tôi giới thiệu với khách: “Bố anh này kết nạp ông Lê Duẩn vào Đảng”. Ngạc nhiên, về nhà tôi hỏi: “Có phải cha kết nạp ông Duẩn vào Đảng không?”. Cha tôi mỉm cười: “Chuyện là thế này. Năm đó ông Duẩn tròn 20 tuổi, làm bên đường sắt. Là một thanh niên yêu nước, muốn tìm đến Đảng, nhờ người giới thiệu, ông Duẩn tìm đến cha, lúc đó cha đang làm bí thư tỉnh ủy bí mật Quảng Nam, làm việc ăn lương ở Sở Bưu điện Tourane [nay là TP Đà Nẵng]. Thấy ông Duẩn chân thành, nhiệt huyết, cha rất quý và sốt sắng muốn kết nạp ông vào Đảng. Nhưng những người khác không chịu. Họ nói anh này thuê nhà trọ ở cùng với một người có cha là tri huyện. Nếu ông Duẩn tham gia thì tổ chức sẽ bị lộ. Sau đó, ông Duẩn gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, một tổ chức khác của Cộng sản.”

Tháo chạy khỏi thơ mình

 Nguyễn Lam Điền

1/ Hôm trước nhân cái triển lãm thơ văn kháng chiến ở Đường sách Nguyễn Văn Bình, có dịp xem bản thảo tập thơ Việt Bắc. Lòng bâng khuâng nhiều cảm khái. Nhớ lại hồi mới vào đại học, có lần nói chuyện với dượng Bảy ở Gò Vấp, ông nhắc chuyện Tố Hữu làm thơ, đặc biệt ông nhắc hai câu: “Thương cha thương mẹ thương chồng/ thương mình thương một thương ông thương mười; và câu Yêu biết mấy lần đầu con tập nói/ tiếng đầu lòng con gọi Xít-ta-lin”, và cười nheo cả đôi mắt già nua lại. Lúc đó mình băn khoăn lắm, bởi hành trang mang theo không có tập thơ Tố Hữu, mà hồi phổ thông ở quê đọc thơ Tố Hữu cũng hông nhớ cái bài này. Nay tự dưng nghe ông dượng già nhắc lại với nhiều ngụ ý, mà mình cứ ngẩn ra không biết ông dượng đọc thơ vậy là có đúng không có chính xác không.

Nơi chắp cánh cho tình yêu âm nhạc Beethoven của tôi

Trương Thị An Na

 Ở Huế, quán café Sông Xanh là quán café để lại cho tôi rất nhiều những yêu thương và kỷ niệm nhất. Đó là một quán café nằm bên bờ sông Hương, mặc dù quán không ở vị trí có đoạn sông đẹp nhất mà chỉ là chỗ khúc sông nhìn ra Đập Đá nhưng lại là nơi mà thời đó chúng tôi có thể vừa ngồi nhấp từng ngụm nhỏ café vừa đung đưa chân trên mặt nước. Lũ học sinh, sinh viên chúng tôi, lúc tan học thích lui tới đây vì nó rất phù hợp với chúng tôi và có một điều đặc biệt là các bản nhạc ở đây lại rất hay. Cũng chính tại quán café này, lần đầu tiên tôi đã được nghe nhạc của Ludwig van Beethoven, nhà soạn nhạc người Đức (1770-1827), đó là bản Für Elise. Fur Elise là một trong những bản nhạc dành cho piano nổi tiếng nhất của Beethoven. Für Elise có nghĩa là Thư gửi Elise, với những giai điệu ngọt ngào, dịu dàng, tha thiết, bản nhạc là những cảm xúc tinh tế, trong sáng và tràn đầy lãng mạn. Bức thư bằng âm nhạc này là khúc tình ca đã mang lại cho chúng tôi, những cô cậu mới chạm vào ngưỡng cửa tình yêu một sự cuốn hút, một niềm say mê thật lạ lùng, khó tả.

Thứ Hai, 22 tháng 9, 2025

Đưa AI vào giảng dạy từ lớp 1: Tầm nhìn xa hay bước đi quá vội?

 Tô Văn Trường

Trong những ngày qua, dư luận xã hội đặc biệt quan tâm tới chỉ đạo của Thủ tướng về việc đưa trí tuệ nhân tạo (AI) vào giảng dạy cho học sinh ngay từ lớp 1. Đây là một quyết định gây tranh luận sôi nổi, với một bên ủng hộ coi đó là bước đi táo bạo nhằm trang bị công nghệ hiện đại cho thế hệ trẻ, không để Việt Nam tụt hậu. Ngược lại, phía phản đối lo ngại việc áp dụng quá sớm sẽ “lợi bất cập hại”, có nguy cơ triệt tiêu tư duy độc lập và gây hệ lụy lâu dài cho sự phát triển của trẻ em.

Công trình Giáo dục của Đạo Công giáo trong những biến động của xã hội Việt (1930-1990)

 Trần Quốc Anh - Marie Lê Thị Hoa

Hè vừa rồi đi Paris, tôi được gặp tác giả Marie Lê Thị Hoa và vui mừng được biết luận văn tiến sĩ của chị bảo vệ tại Institute Catholique de Paris mấy năm trước đã được xuất bản dưới tựa đề: Công trình Giáo dục của Đạo Công giáo trong những biến động của xã hội Việt (1930-1990) (L’enseignement catholique dans les bouleversements de la société vietnamienne (1930-1990))”, Nhà xuất bản Báo chí Đại học Bordeaux, Pháp năm 2024.

Mendelssohn, nước Ý và tôi

 Trương Thị An Na

Có lẽ trong chúng ta ai cũng ít nhất đã một lần đi dự đám cưới và ai cũng đã từng nghe ít nhất một vài giai điệu của bản nhạc rộn ràng, ấm áp được cất lên khi cô dâu và chú rể cùng cha mẹ hai bên bước vào hôn trường nhưng có lẽ cũng không nhiều người biết hoặc quan tâm đến bản nhạc ấy là của nhạc sỹ nào, xuất xứ từ đâu?… Tiếng nhạc mang đến niềm hạnh phúc, nỗi vui sướng cho hàng triệu triệu người ấy là của nhạc sỹ thiên tài Felix Mendelssohn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1809 tại Hamburg, Đức, ông là một thần đồng âm nhạc, một nghệ sĩ piano xuất sắc, một nhạc sĩ vĩ đại, một nhạc trưởng tài ba, một nhà phê bình bậc thầy.

Emmanuel Mounier và chủ nghĩa nhân vị

 Dương Thắng

I. THUYẾT NHÂN VỊ RA ĐỜI ĐỂ CHỐNG LẠI “PHI NHÂN HÓA”

Trong nửa đầu thế kỷ XX, các nhà sử học đều có chung một nỗi ám ảnh về sự khủng hoảng của nền văn minh phương Tây, họ lo sợ rằng nền văn minh này có thể tự hủy diệt trong một cuộc tự sát thảm khốc hoặc sẽ rơi vào một tình trạng thoái hóa, khi mà những cỗ máy sẽ thay thế cho con người cùng với những khát vọng cao cả của họ, khi mà xã hội sẽ ngày càng trở nên “phi nhân hóa”. Đó cũng là nỗi lo âu lớn nhất của triết gia Công giáo người Pháp – nhà xã hội dân chủ Emmanuel Mounier (1905-1950), ông tin rằng nền văn minh hiện đại phương Tây, một nền văn minh “tư sản và cá nhân chủ nghĩa” đang lao nhanh xuống cái hố thẳm có tên gọi là “phi nhân hóa”.