Danh ngôn
Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.
We need, in every community, a group of angelic troublemakers.
(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)
Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.
It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.
(James Baldwin - No Name in the Street 1972)
Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.
While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.
(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)
Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.
There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.
(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)
Ban Biên tập
Địa chỉ liên lạc:
1. Thơ
tho.vanviet.vd@gmail.com
2. Văn
vanviet.van14@gmail.com
3. Nghiên cứu Phê Bình
vanviet.ncpb@gmail.com
4. Vấn đề hôm nay
vanviet.vdhn1@gmail.com
5. Thư bạn đọc
vanviet.tbd14@gmail.com
6. Tư liệu
vanviet.tulieu@gmail.com
7. Văn học Miền Nam 54-75
vanhocmiennam5475@gmail.com
Tra cứu theo tên tác giả
- A. A. Fadeev
- A. Puskin
- A. T.
- Abdulrazak Gurnah
- Abraham F. Lowenthal
- Ace Le
- Ace Lê
- Adam Gopnik
- Adonis
- Adrian Horton
- Agi Mishol
- Ajar
- Akiko Miki
- Alain Guillemin
- Alan Phan
- Alăng Văn Gáo
- Alăng Văn Giáo
- Albert Camus
- Aldous Huxley
- Aleksandr Griboedov
- Alesandr Blok
- Alex Marshall
- Alex Smith
- Alex Thai
- Alex-Thái Đình Võ
- Alexander Fadeev
- Alexander Solzhenitsyn
- Alexandra Alter
- Alexandre FERON
- Alice Munro
- Alina Lesik
- Alison Flood
- Allen Ginsberg
- Amanda Gorman
- Amartya Sen
- Amelia Glaser
- Amos Oz
- An Nam
- Anatole France
- Anatoly Gavrilov
- Anders Olsson
- André Breton
- André Menras
- André Menras – Hồ Cương Quyết
- André Menras Hồ Cương Quyết
- Andrea Hoa Pham
- Andrea Kendall-Taylor
- Andreas Fulda
- Andreas Wimmer
- Andrew Postman
- Andy Cao
- Anh Anh
- Anh Hồng
- Anh Hồng (nhà thơ)
- Ánh Liên
- Anh Nhi
- Anh Văn
- Anika Zeller
- Anna Akhmatova
- Anna Maria Bracale Ceruti
- Anna Mitchell
- Anna Schmid
- Anne Carson
- Anne Cazaubon
- Anne Hébert
- Anne Henochowicz
- Anne Nguyễn
- Annie Ernaux
- António Jacinto
- Antôn Nguyễn Trường Thăng
- Archimedes L.A. Patti
- Arlette Quỳnh Anh Trần
- Arnold Schwarzenegger
- Artem Sakharov
- Arthur Koestler
- Arty Abel
- Arvind Subramanian
- Augustina
- Aurélie Coulon
- Aurelien Breeden
- Ba Sàm
- Bá Thụ Đàm
- Bạch Cúc
- Bạch Hoàn
- Bách Mỵ
- Bách Thân
- Bạch X. Phẻ
- Bạch Xuân Phẻ
- Bakhtin
- Ban Mai
- Bàn Văn Thòn
- Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
- Bảo Chân
- Bảo Huân
- Bảo La
- Bảo Nhi Lê
- Bảo Ninh
- Bảo Phác
- Bảo Tích
- Bão Vũ
- Barbara Demick
- Bashô
- Batrioldman
- Bauxite Việt Nam
- Bắc Đảo
- Bắc Phong
- Bằng Việt
- BB Ngô
- Bei Dao
- Benjamin Péret
- Benjamin Ramm
- Bertolt Brecht
- Bertrand Russell
- Bettina Rheims
- Bích Ngân
- Biếm họa
- Biên Cương
- Biệt Hiệu
- Bilahari Kausikan
- Bill Hayton
- Billy Collins
- Bình Nguyên Lộc
- Brahma Chellaney
- Branko Milanovic
- Brett Reilly
- Brian Pascus
- Brian Wu
- Brice Pedroletti
- Brodsky
- Bryan
- Bùi An
- Bùi Bảo Trúc
- Bùi Bích Hà
- Bùi Chát
- Bùi Chí Trung
- Bùi Chí Vinh
- Bùi Công Thuấn
- Bùi Công Trực
- Bùi Đức Lại
- Bùi Giáng
- Bùi Hải Quảng
- Bùi Hoàng Tám
- Bùi Hoằng Vị
- Bùi Huệ Chi
- Bùi Huy
- Bui Huy Hoi Bui
- Bùi Mai Hạnh
- Bùi Mạnh Hùng
- Bùi Mẫn Hân
- Bùi Minh Quốc
- Bùi Ngọc Tấn
- Bùi Quang Thắng
- Bùi Suối Hoa
- Bùi Thanh Hiếu
- Bùi Thanh Phương
- Bùi Thanh Tuấn
- Bùi Thụy Băng
- Bùi Tiến An
- Bùi Trân Phượng
- Bùi Trọng Hiền
- Bùi Văn Kha
- Bùi Văn Nam Sơn
- Bùi Việt Sỹ
- Bùi Vĩnh Phúc
- Bùi Xuân Bách
- Bùi Xuân Đính
- Bùi-Viết Văn Đức
- Bulgakov
- Bửu Chỉ
- C.D.
- Cái Lư Hương
- Cái Trọng Ty
- Cam Ly
- Cameron Shingleton
- Cảnh Chánh
- Cao Bảo Vân
- Cao Bình Minh
- Cao Chi
- Cao Gia An
- Cao Hành Kiện
- Cao Huy Thuần
- Cao Kim Ánh
- Cao La
- Cao Quang Nghiệp
- Cao Tần
- Cao Thị Hồng
- Cao Thu Cúc
- Cao Việt Dũng
- Cao Xuân Hạo
- Cao Xuân Huy
- Carl Bildt
- Carl O. Schuster
- Carlos Assunção
- Carolyn Mary Kleefeld
- Cát Linh
- Cẩm Tú
- Cấn Thị Thêu
- Chan Phuong
- Chanh Tam
- Charles Bo
- Charles Bukowski
- Charles S. Kraszewski
- Charles Simic
- Chau Doan
- Châm Khanh
- Chân Minh
- Chân Pháp Xa
- Chân Phương
- Chân Xuân Tản Viên
- Châu Diên
- Châu Hải Đường
- Châu Hồng Thủy
- Châu Hữu Quang
- Chenn
- Chế Diễm Trâm
- Chế Lan Viên
- Chi Mai
- Chi Phương
- Chiêu Dương
- Chiêu Khiêm
- Chiharu Shiota
- Chim Hải
- Chim Trắng
- Chinh Ba
- Chính Tâm
- Chính Vĩ
- Chinua Achebe
- Chơn Không Cao Ngọc Phượng
- Christian Gampert
- Christian Welzel
- Christina Mary Hjortlund
- Christoph Giesen
- Christoph Sator
- Christopher Balding
- Christopher Goscha
- Christy Wampole
- Chu Dương
- Chu Hảo
- Chu Hoạch
- Chu Kim
- Chu Mộng Long
- Chu Quang Tiềm
- Chu Tử
- Chu Văn Lễ
- Chu Văn Sơn
- Chu Vĩnh Hải
- Chu Vương Miện
- Chu Xuân Diên
- Chung Le
- Claire Simon
- Clay Phạm
- Concepcion de Leon
- Connie Hoàng
- Cora Engelbrecht
- Costica Bradatan
- Cổ Ngư
- Cù An Hưng
- Cù Huy Hà Vũ
- Cù Mai Công
- Cù Tuấn
- Cung Minh Huân
- Cung Tích Biền
- Cung Trầm Tưởng
- Cư sĩ Minh Đạt
- D. S. Likhachev
- Da Màu
- Dạ Ngân
- Dạ Thảo Phương
- Dã Tượng
- DAD
- Dadolin Murak
- Damien Keown
- Dan Bilefsky
- Dan Slater
- Dana Gioia
- Danh ngôn
- Dani Rodrik
- Daniel Halpern
- Daniel Hautzinger
- Daron Accemoglu
- David Brown
- David Gascoyne
- David Marchese
- David Weinberger
- Ðặng Thơ Thơ
- Demetrio Paparoni
- DEUTSCHE WELLE
- Di
- Di Li
- Diêm Liên Khoa
- Diễm Thi
- Diễm Tường
- Diễn đàn Thế kỷ
- Diệp Duy Liêm
- Diệp Huy
- Ðinh Cường
- Dino Buzatti
- Dipanjan Roy Chaudhury
- Dmitri Prokofyev
- Dmitry Burago
- Dmitry Muratov
- Doãn Cẩm Liên
- Doãn Mạnh Dũng
- Doãn Mẫn
- Doãn Quốc Sỹ
- Dominique Lemieux
- Donald Inglehart
- Donna Ashworth
- Ðỗ Quang Nghĩa
- Ðỗ Quyên
- Du Tử Lê
- Dung Nguyễn
- Dũng Phan
- Dũng Trung Kqd
- Dũng Vũ
- Duy Lam
- Duy Tân
- Duy Thanh
- Duy Thông
- duyên
- Duyên Anh
- Duyên Khánh
- Dư Hoa
- Dư Kiệt
- Dư Thị Hoàn
- Dư Thu Vũ
- Dương Đại Triều Lâm
- Dương Đình Giao
- Dương Khánh Phương
- Dương Kiền
- Dương Ngạn
- Dương Nghiễm Mậu
- Dương Ngọc Thái
- Dương Như Nguyện
- Dương Phương Vinh
- Dương Thắng
- Dương Thiệu Tước
- Dương Thu Hương
- Dương Thuấn
- Dương Tú
- Dương Tường
- Dương Văn Ba
- Dylan Suher
- Đà Văn
- Đàm Hà Phú
- Đàm Hách Thành
- Đào An Khánh
- Đào Anh Kha
- Đào Công Tiến
- Đào Duy Anh
- Đào Hiếu
- Đào Lê Na
- Đào Ngọc Chương
- Đào Nguyên
- Đào Nguyễn
- Đào Nguyên Phương Thảo
- Đào Như
- Đào Phương Liên
- Đào Quang Toản
- Đào Tấn Phần
- Đào Thái Tôn
- Đào Thị Hương
- Đào Tiến Thi
- Đào Trung Đạo
- Đào Trường Phúc
- Đào Tuấn
- Đào Tuấn Ảnh
- Đào Văn Thuỵ
- Đào Văn Tiến
- Đào Vũ Anh Hùng
- Đặng Anh Đào
- Đặng Bích Phượng
- Đặng Chương Ngạn
- Đặng Đình Cung
- Đặng Đình Mạnh
- Đặng Hà
- Đặng Hải Sơn
- Đặng Hoàng Giang
- Đặng Hồng Nam
- Đặng Hùng Võ
- Đặng Hương Giang
- Đặng Hữu
- Đặng Mai Lan
- Đặng Mậu Tựu
- Đăng Nguyên
- Đặng Phùng Quân
- Đặng Quốc Thông
- Đặng Sơn Duân
- Đặng Thái
- Đăng Thành
- Đặng Thân
- Đặng Thị Hảo
- Đặng Thơ Thơ
- Đặng Tiến
- Đặng Tiến (Thái Nguyên)
- Đặng Trung Nghĩa
- Đặng Túy
- Đặng Văn Dũng
- Đặng Văn Hùng
- Đặng Văn Ngữ
- Đặng Văn Sinh
- Đặng Vũ Vương
- Đặng Xuân Thảo
- Đặng Xuân Xuyến
- Đằng-Giao
- Điểm Thọ
- Đinh Bá Anh
- Đinh Cường
- Đinh Hoàng Thắng
- Đinh Hùng
- Đình Kính
- Đinh Lê Vũ
- Đinh Linh
- Đinh Ngọc Thu
- Đinh Phương
- Đinh Phương Thảo
- Đinh Quang Anh Thái
- Đinh Thanh Huyền
- Đinh Thị Như Thúy
- Đinh Trường Chinh
- Đinh Từ Bích Thuý
- Đinh Từ Bích Thúy
- Đinh Văn Đức
- Đinh Vũ Hoàng Nguyên
- Đinh Ý Nhi
- Đinh Yên Thảo
- Đoàn Ánh Thuận
- Đoàn Bảo Châu
- Đoàn Cầm Thi
- Đoàn Công Lê Huy
- Đoàn Hồng Lê
- Đoàn Huy Giao
- Đoàn Huyền
- Đoàn Khắc Xuyên
- Đoàn Lê Giang
- Đoàn Nhã Văn
- Đoàn Thanh Liêm
- Đoan Trang
- Đoàn Tùng Nguyễn
- Đoàn Tử Huyến
- Đoàn Việt Hùng
- Đoàn Xuân Kiên
- Đỗ Anh Hoa
- Đỗ Anh Tuấn
- Đỗ Bích Thuý
- Đỗ Cao Bảo
- Đỗ Duy Ngọc
- Đỗ Đức
- Đỗ Đức Đông Ngàn
- Đỗ Đức Hiểu
- Đỗ Hòa
- Đỗ Hoàng Diệu
- Đỗ Hồng Ngọc
- Đỗ Hồng Nhung
- Đỗ Hữu Chí
- Đỗ Kh
- Đỗ Kh.
- Đỗ Khiêm
- Đỗ Kim Thêm
- Đỗ Lai Thuý
- Đỗ Lai Thúy
- Đỗ Lê Anh Đào
- Đỗ Mạnh Hoàng
- Đỗ Minh Tuấn
- Đỗ Nghê
- Đỗ Ngọc
- Đỗ Ngọc Thống
- Đỗ Quang Nghĩa
- Đỗ Quang Vinh
- Đỗ Quý Toàn
- Đỗ Quyên
- Đỗ Quỳnh Dao
- Đỗ Thái Bình
- Đỗ Thắng Cảnh
- Đỗ Thị Thu Trà
- Đỗ Thiên Anh Tuấn
- Đỗ Trí Vương
- Đỗ Trọng Khơi
- Đỗ Trung Quân
- Đỗ Trường
- Đỗ Tuyết Khanh
- Đồng Chuông Tử
- Đông Hoài
- Đông Hồ
- Đông Kha
- Đông Ngàn Đỗ Đức
- Đông Nghi
- Đức Ban
- Đức Đàm
- Đức Flying Bay
- Đức Hoàng
- Đức Lê
- Đức Phổ
- Đức Tâm
- Đức Tiến
- E. M. Forster
- E.E. Cummings
- E.M. Chernoivanenko
- Eamonn Butler
- Eckart Kleßmann
- Eduardo Galeano
- Edward Hirsch
- Elena Pucillo Truong
- Elias Canetti
- Ellen Bass
- Eloisa Amezcua
- Emiel Roothooft
- Emmanuelle Jardonnet
- Eric Henry
- Eric Weiner
- Erica Frantz
- Erik Harms
- Erik Korling
- Euan Ward
- Evgheni Dobrenko
- F.N.
- Federico García Lorca
- Feliks Kuznesov
- Filip Lech
- Flanny O’Connor
- Florence Noiville
- Florian Altenhöner
- Francis Fukuyama
- Francis Fukuyma
- Frank Dikötter
- Frank O'Hara
- Frankfurt
- Fred Hiatt
- Friedrich Dürrenmatt
- Friedrich Nietzsche
- Fritz J. Raddatz
- Gabriel García Márquez
- Gaither Stewart
- Gaiutra Bahadur
- Gary Leupp
- Gặp gỡ và trò chuyện
- Georg Bönisch
- Georg Trakl
- George Burchett
- George Orwell
- George Perreault
- George Siemens
- Georges Condominas
- Gerhard Will
- Germain Droogenbroodt
- Giang Dang
- Giang Lại Đức
- Giang Nam
- Giáng Vân
- Giáp Văn Dương
- Gideon Rachman
- Giuse Lê Công Đức
- Goethe
- Gonçalo Fernandes
- Gottfried Benn
- Graham Allison
- Grigory Yudin
- Günter Kunert
- Gyảng Anh Iên
- Hà Duy Phương
- Hà Dương Tuấn
- Hà Dương Tường
- Hà Đình Nguyên
- Hạ Đình Nguyên
- Hà Huy Sơn
- Hà Hương
- Hà Lệ Minh
- Hà Ngọc Hòa
- Hạ Nguyên
- Hà Nguyên Du
- Hà Nhân
- Hà Nhật
- Hà Phạm Phú
- Hà Quang Vinh
- Hà Sĩ Phu
- Hà Thanh Vân
- Hà Thế
- Hà Thị Minh Đạo
- Hà Thúc Sinh
- Hà Thủy Nguyên
- Hà Tùng Long
- Hà Tùng Sơn
- Hà Văn Thịnh
- Hà Văn Thùy
- Hà Vũ Trọng
- Hagi Kenaan
- Hai An Vu
- Hải Hạc
- Hải Ngọc
- Hai Thanh
- Han Dang
- Hàn Giang
- Han Kang
- Hàn Vĩnh Diệp
- Hạnh Diễm
- Hạnh Nguyên
- Hạnh Phước
- Hạnh Viên
- Hannah Beech
- Hào Thiện Nhân
- Haruki Murakami
- Hân Hương
- Heiko Buschke
- Heinrich Heine
- Henri Michaux
- Henry David Thoreau
- Henry Wadsworth Longfellow
- Heriberto Araújo
- Hermann Hesse
- Hiền Trang
- Hiệp Ikaria
- Hiệu Minh
- Hiếu Tân
- Ho Lai-Ming
- Hòa Bình Lê
- Hoa Níp
- Hoài Hương
- Hoài Nam
- Hoài Phương
- Hoài Thanh
- Hoài Việt
- Hoài Ziang Duy
- Hoan Doan
- Hoàn Nguyễn
- Hoàng Ánh
- Hoàng Anh Tuấn
- Hoàng Cát
- Hoàng Cầm
- Hoàng Chí Hiếu
- Hoàng Chính
- Hoàng Cường Long
- Hoàng Dũng
- Hoàng Dương Tuấn
- Hoàng Đăng Khoa
- Hoàng Đỗ
- Hoàng Đông
- Hoàng Đức Truật
- Hoàng Hà
- Hoàng Hải Thủy
- Hoàng Hải Vân
- Hoảng Hãn
- Hoàng Hưng
- Hoàng Khởi Phong
- Hoàng Kim Oanh
- Hoàng Lại Giang
- Hoàng Lan
- Hoàng Lan Anh
- Hoàng Lan Chi
- Hoàng Lê
- Hoàng Lệ
- Hoàng Linh
- Hoàng Long
- Hoàng Mai Ðạt
- Hoàng Mạnh Hải
- Hoàng Minh Trí
- Hoàng Minh Tường
- Hoàng Nam
- Hoàng Nga
- Hoàng Ngọc Biên
- Hoàng Ngọc Hiến
- Hoàng Ngọc Nguyên
- Hoàng Ngọc Tuấn
- Hoàng Nguyễn
- Hoàng Nguyên Vũ
- Hoàng Nhơn
- Hoàng Nhuận Cầm
- Hoàng Phong Tuấn
- Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Hoàng Quân
- Hoàng Quốc Hải
- Hoàng Thị Hường
- Hoàng Thị Thu Thủy
- Hoàng Thu Phố
- Hoàng Thúy
- Hoàng Thuỵ Anh
- Hoàng Tiến
- Hoàng Trung Thông
- Hoàng Tuấn Công
- Hoàng Tuấn Phổ
- Hoàng Tùng
- Hoàng Tuỵ
- Hoàng Văn Sơn
- Hoàng Việt
- Hoàng Vũ Sơn
- Hoàng Vũ Thuật
- Hoàng Xuân Phú
- Hoàng Xuân Sơn
- Hoàng Xuân Tuyền
- Hoàng Yến
- Horst Bienek
- Howard Gardner
- Hồ Anh Thái
- Hồ Bạch Thảo
- Hồ Bất Khuất
- Hồ Diệu Vân
- Hồ Dzếnh
- Hồ Đắc Vũ
- Hồ Đình Nghiêm
- Hồ Hải Thụy
- Hồ Hữu Tường
- Hồ Minh Tâm
- Hồ Ngọc Đại
- Hồ Như
- Hồ Phú Bông
- Hồ Tịnh Tình
- Hồ Trường An
- Hồ Tú Bảo
- Hội những người ủng hộ GS. Chu Hảo
- Hồng Anh
- Hồng Hoang
- Hồng Lê Thọ
- Hồng Phú
- Huệ Hương Hoàng
- Huguette Bertrand
- Huong Nguyen
- Huy Bảo
- Huy Cận
- Huy Đức
- Huy Tưởng
- Huyền Thương
- Huỳnh Duy Lộc
- Huỳnh Hoa
- Huỳnh Hữu Uỷ
- Huỳnh Hữu Ủy
- Huỳnh Kim Báu
- Huỳnh Kim Quang
- Huỳnh Lê Nhật Tấn
- Huỳnh Liễu Ngạn
- Huỳnh Ngọc Chênh
- Huỳnh Như Phương
- Huỳnh Sơn Phước
- Huỳnh Tấn Mẫm
- Huỳnh Thế Du
- Huỳnh Thục Vy
- Huỳnh Trọng Khang
- Huỳnh Tuấn Anh
- Hứa Chương Nhuận
- Hứa Lập Chí
- Hương Lan
- Hường Thanh
- Hương Thủy
- Hữu Danh
- Hữu Đông
- Hữu Loan
- Hữu Mai
- Hữu Phương
- Ian Bui
- Ian Johnson
- Igor Poglazov
- Ilza Burchett
- Inrasara
- Iris Radisch
- Isabella Kwai
- Issa
- Issac Bashevis Singer
- Italo Calvino
- Iya Kiva
- J. M. Lotman
- J.B Nguyễn Hữu Vinh
- Jacques Attali
- Jacques Prévert
- Jake Johnson
- James Borton
- James Daniel Spears
- James G. Zumwalt
- James Grossman
- James Joyce
- James Poniewozik
- James Stavridis
- James WrightJuan Felipe Herrera
- Janos Kornai
- Jared Carters
- Jason Lopata
- Jason Morris-Jung
- Jay Nordlinger
- Jaya K.
- Jean Chesnaux
- Jean d'Ormesson
- Jean Piaget
- Jean Przyluski
- Jean Toomer
- Jean-Jacques Brochier
- Jean-Jacques Roth
- Jean-Louis Rocca
- Jean-Luc Chalumeau
- Jean-Marc Roberts
- Jean-Patrick Géraud
- Jean-Paul Sartre
- Jefferson Cowie
- Jeffrey Hanfover
- Jeffrey Nall
- Jessica Swoboda
- Jessie Yeung
- Jiayang Fan
- Jimmy Carter
- Joan Hua
- João Guimarães Rosa
- Joaquin Nguyễn Hòa
- John Barrow
- John Cheever
- John Freeman
- John Keane
- John McCain
- Jon Fosse
- Jonathan Dee
- Jonathan London
- Jörg Wischermann
- Jorge Amado
- Jorge Luis Borges
- Joschka Fischer
- Josée Lapointe
- Joseph Wong
- Joseph Wright
- Josh Rogin
- Joshua Rothman
- Juan Pablo Cardenal
- Juan Pablo Cardenal & Heriberto Araújo
- Julia Cagé
- Julio Cortázar
- Jun’ichiro Tanizaki
- Kahil Gibral
- Kai Hoàng
- Kale
- Kalynh Ngô
- Kamel Daoud
- Kao Phú
- Kap Seol
- Karel Appel
- Karen Tongson
- Kate Chopin
- Kazuo Shiraga
- Kenneth Nguyen
- Kenzaburo Oe
- Keorapetse Kgositsile
- Kerstin Holm
- Kều Jang
- Kha Lương Ngãi
- Kha Tiệm Ly
- Khải Đơn
- Khái Hưng
- Khaled Juma
- Khaly Chàm
- Khang Quốc Ngọc
- Khánh
- Khánh Bình
- Khánh Duy
- Khánh Ly
- Khánh Mai
- Khanh Nguyen
- Khanh Pham
- Khánh Phương
- Khánh Trâm
- Khánh Trường
- Khét
- Khế Iêm
- Khiêm Nhu
- Khổng Đức Thiêm
- Khuất Đẩu
- Khuất Thu Hồng
- Khuê Phạm
- Khuyết Thư
- Kiệm Hoàng
- Kiến Văn
- Kiệt Anh Hùng
- Kiệt Tấn
- Kiều Duy Vĩnh
- Kiều Loan
- Kiều Mai Sơn
- Kiều Maily
- Kiều Phong
- Kiều Thị An Giang
- Kim Ân
- Kim Chi
- Kim Dung
- Kim Hạnh
- Kim Thúy
- Kim Trần
- Kinh Bắc
- Kính Hòa
- Klaus Wiegerefe
- Kúm
- Kurt-Martin Mayer
- Kỳ Duyên
- Kyoko Numano
- L. N. Tolstoy
- L. V. H.
- La Khắc Hoà
- La Khắc Hòa
- Lã Nguyên
- Lại Nguyên Ân
- Lam Điền
- Lam Hạnh
- Lam Ngọc
- Lam Thái Hòa
- Lan Nguyên
- Lang Anh
- Langston Hughes
- LAP
- Larry Diamond
- Lars Vargö
- Laura Cappelle
- Laurent Sagalovitsch
- Lawrence Ferlinghetti
- Lâm Chương
- Lâm Duyên
- Lâm Hạnh
- Lâm Lê
- Lâm Ngân Mai
- Lâm Quang Mỹ
- Lâm Thị Mỹ Dạ
- Lenin
- Leon Trotsky
- Leonard Cohen
- Leonardo da Vinci
- Lê An Thế
- Lê Anh Hoài
- Lê Anh Hùng
- Lê Ân
- Lê Bá Đảng
- Lê Bích Vượng
- Lê Chiều Giang
- Lê Công Định
- Lê Công Giàu
- Lê Công Tư
- Lê Ðình Nhất Lang
- Lê Dũng
- Lê Duy Nam
- Lê Đạt
- Lê Đăng Doanh
- Lê Đình Cai
- Lê Đình Khẩn
- Lê Đình Thắng
- Lê Đỗ Huy
- Lê Đức Dục
- Lê Đức Thôn
- Lê Giang Trần
- Lê Hải
- Lệ Hằng
- Lê Hiệp
- Lê Hoài Nguyên
- Lê Hoàng Diễm Trang
- Lê Hoàng Lân
- Lê Học Lãnh Vân
- Lê Hồ Quang
- Lê Hồng Hà
- Lê Hồng Hiệp
- Lê Hồng Lâm
- Lê Hùng
- Lê Hùng Vọng
- Lê Huyền Ái Mỹ
- Lê Huỳnh Lâm
- Lê Hữu
- Lê Hữu Khoá
- Lê Hữu Khóa
- Lê Hữu Nam
- Lê Kế Lâm
- Lê Khải
- Lê Kim Duy
- Lê Ký Thương
- Lê Lạc Giao
- Lê Luân
- Lê Mã Lương
- Lê Mai
- Lê Mai Lĩnh
- Lê Mạnh Chiến
- Lê Mạnh Đức
- Lê Minh Chánh
- Lê Minh Hà
- Lê Minh Hiền
- Lê Minh Khuê
- Lê Minh Phong
- Lê Ngân Hằng
- Lê Ngọc Luân
- Lê Ngọc Sơn
- Lê Nguyễn
- Lê Nguyễn Duy Hậu
- Lê Nguyễn Hương Trà
- Lê Nguyên Long
- Lê Nguyên Vỹ
- Lê Như Bình
- Lê Oa Đằng
- Lê Phan
- Lê Phú Khải
- Lê Quang
- Lê Quang Đức
- Lê Quảng Hà
- Lê Quang Hợp
- Lê Quang Thành
- Lê Quân
- Lê Quốc Anh
- Lê Quỳnh
- Lê Quỳnh Mai
- Lê Sa Long
- Lê Si Na
- Lê Sơn
- Lê Tất Đạt
- Lê Tất Điều
- Lê Thanh Dũng
- Lê Thanh Hải
- Lê Thanh Phong
- Lê Thanh Trường
- Lê Thân
- lê thi diem thuý
- Lê Thị Hồng Minh
- Lê Thị Huệ
- Lê Thị Hường
- Lê Thị Oanh
- Lê Thị Thấm Vân
- Lê Thiết Cương
- Lê Thiếu Nhơn
- Lê Thọ Bình
- Lê Thời Tân
- Lê Thời Thôi
- Lê Thu Hiền
- Lê Thúy Bảo Liên
- Lê Tiên Long
- Lê Trí Tuệ
- Lê Trinh
- Lê Trọng Nghĩa
- Lê Trọng Nguyễn
- Lê Trung Tĩnh
- Lê Trường Thanh
- Lê Tuấn Huy
- Lê Tuyết Hạnh
- Lê Văn Bỉnh
- Lê Văn Hảo
- Lê Văn Hiếu
- Lê Văn Hòa
- Lê Văn Luân
- Lê Văn Sơn
- Lê Văn Trung
- Lê Văn Tùng
- Lê Vĩnh Tài
- Lê Vĩnh Triển
- Lê Vũ Trường Giang
- Lê Xuân Khoa
- Lê Xuyên
- Li Edelkoort
- Li Zhongqin
- Liêu Diệc Vũ
- Liêu Thái
- Liễu Trương
- Linh Nguyên
- Linh Văn
- Linh Vân
- Linh-Chân Brown
- LKH
- Lorca
- Louis Aragon
- Louise Glück
- Lộc Vàng
- Lợi Phan Mai
- Luân Hoán
- Ludwig von Mises
- Luke Hunt
- Luke Turner
- Lữ Kiều
- Lữ Quỳnh
- Lương Đào
- Lương Thiệu Quân
- Lương Thư Trung
- Lưu Á Châu
- Lưu Bình Nhưỡng
- Lưu Diệu Vân
- Lưu Đức Trung
- Lưu Hà
- Lưu Hiểu Ba
- Lưu Khánh Thơ
- Lưu Mê Lan
- Lưu Minh Hải
- Lưu Na
- Lưu Nhi Dũ
- Lưu Quang Vũ
- Lưu Thuỷ Hương
- Lưu Thủy Hương
- Lưu Trọng Văn
- Lưu Uyên Khôi
- Lý Đợi
- Lý Gia Trung
- Ly Hoàng Ly
- Lý Ngang
- Ly Phạm
- Lý Quang Hoàn
- Lý Thanh
- Lý Tiến Dũng
- Lý Toàn Thắng
- Lý Trực Dũng
- Lý Xuân Hải
- Lydia Davis
- Lynh Bacardi
- LysP
- M. Gorky
- M.L. Gasparov
- Mạc Phong Tuyền
- Mạc Văn Trang
- Mạc Việt Hồng
- Mạch Nha
- Mạch Quang Thắng
- Madeleine Riffaud
- Madlovics Bálint
- Magyar Bálint
- Mahmoud Darwish
- Mai An Nguyễn Anh Tuấn
- Mai Anh Tuấn
- Mai Bá Ấn
- Mai Bá Kiếm
- Mai Chanh
- Mai Hiền
- Mai Khôi
- Mai Kim Ngọc
- Mai Nhật
- Mai Ninh
- Mai Quốc Ấn
- Mai Quỳnh
- Mai Quỳnh Nam
- Mai Sơn
- Mai Thái Lĩnh
- Mai Thanh Sơn
- Mai Thảo
- Mai Tú Ân
- Mai Văn Hoan
- Mai Văn Phấn
- Mai Văn Tính
- Maki Starfield
- Mamleev
- Mạnh Kim
- Manuel Casimiro
- Mão Xuyên
- Marc Andrus
- Marcel Reich-Ranicki
- Marci Shore
- Marco Ferrarese
- Margarita Lyutova
- Marguerite Duras
- Maria Donovan
- Maria Ressa
- Mario Vargas Llosa
- Marion Hennebert
- Mark B. Hamilton
- Mark Binelli
- Mark Frankland
- Mark Osaki
- Mark Strand
- Marta Hillers
- Martin Jankowski
- Martin Kulldorff
- Marty Robbins
- Mary Morose
- Mary Walsh
- Mathias Mayer
- Matthew Clayfield
- Matthew Crawford
- Maurice Blanchot
- Maximilian Steinbeis
- May
- Maya Angelou
- Mặc Đỗ
- Mặc Lâm
- Mân Côi
- McAmmond Nguyễn Thị Tư
- Media Văn Việt
- Michael Burawoy
- Michael Scammell
- Miêng
- Mike Ives
- Mikhail Shishkin
- Mikhail Viktorovich Zygar
- Milan Kundera
- Mimmi Diệu Hường Bergström
- MInh Anh
- Minh Huệ
- Minh Hùng
- Minh Luật
- Minh Quang – Lê Chiên
- Minh Quang Ho
- Minh Tâm
- Minh Thùy
- Minh Thư
- Minh Toàn
- Minh Tuấn
- Monica Berlin
- Mỹ Hằng
- Mỹ Lan
- N. S. Khrushchev
- Nadine Murtaja
- Nam Dao
- Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng
- Nam Đan
- Nam Đông
- Nam Nguyên
- Nam Sơn
- Naowarat Pongpaiboon
- Natalia lacovelli
- Nataliya Zhynkina
- Natsume Sōseki
- Nay Aung
- ng. anhanh
- Ng.Uyển Nicole Dương
- Ngải Vị VỊ
- Ngân Xuyên
- Nghệ thuật
- Nghĩa Đặng
- Nghiêm Lương Thành
- Nghiêm Phương Mai
- Nghiêm Xuân Hồng
- Nghiên Cứu Phê Bình
- Ngo Thu
- Ngọc Anh
- Ngọc Duy Phan
- Ngoc Hien Bui
- Ngọc Linh
- Ngô Anh Tuấn
- Ngô Bảo Châu
- Ngô Đình Thẩm
- Ngô Đồng
- Ngô Hương Giang
- Ngô Khắc Tài
- Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
- Ngô Kim Khôi
- Ngô Kim-Khôi
- Ngô Liêm Khoan
- Ngô Lực
- Ngô Mai Phong
- Ngô Minh
- Ngô Minh Khôi
- Ngô Ngọc Loan
- Ngô Ngọc Trai
- Ngô Nguyên Dũng
- Ngô Nhật Đăng
- Ngô Quốc Phương
- Ngô Quốc Thịnh
- Ngô Thế Vinh
- Ngô Thị Kim Cúc
- Ngô Thị Thanh Lịch
- Ngô Thị Thu Ngần
- Ngô Tùng Phong
- Ngô Tự Lập
- Ngô Văn
- Ngô Văn Giá
- Ngô Viết Nam Sơn
- Ngô Viết Trọng
- Ngô Việt Trung
- Ngô Vĩnh Long
- Ngô Xuân Hội
- Ngô Xuân Phúc
- Ngô Xuân Thảo
- Ngu Yên
- Nguyen Duc Thanh
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Anh Dũng
- Nguyễn Anh Tuấn
- Nguyễn Anh Tuấn - đạo diễn
- Nguyễn Bá Chung
- Nguyễn Bách Việt
- Nguyễn Bảo Chân
- Nguyễn Bắc Sơn
- Nguyên Bình
- Nguyễn Bính
- Nguyên Cầm
- Nguyên Cẩn
- Nguyên Chánh
- Nguyễn Chí Hoan
- Nguyễn Chí Thuật
- Nguyễn Chí Trung
- Nguyễn Chí Tuyến
- Nguyễn Chinh Trung
- Nguyễn Cung Thông
- Nguyễn Cường
- Nguyễn Danh Bằng
- Nguyễn Danh Huế
- Nguyễn Danh Lam
- Nguyễn Ðăng Thường
- Nguyễn Duy
- Nguyễn Dương Quang
- Nguyễn Đạt
- Nguyễn Đắc Kiên
- Nguyễn Đắc Xuân
- Nguyễn Đăng Điệp
- Nguyễn Đăng Hưng
- Nguyễn Đăng Khoa
- Nguyễn Đăng Mạnh
- Nguyễn Đăng Na
- Nguyễn Đăng Quang
- Nguyễn Đăng Thường
- Nguyễn Đình Ấm
- Nguyễn Đình Bin
- Nguyễn Đình Bổn
- Nguyễn Đình Chú
- Nguyễn Đình Cống
- Nguyễn Đình Đăng
- Nguyễn Đình Huỳnh
- Nguyễn Đình Thắng
- Nguyễn Đình Thi
- Nguyễn Đình Toàn
- Nguyễn Đổng Chi
- Nguyễn Đông Thức
- Nguyễn Đức
- Nguyễn Đức Dương
- Nguyễn Đức Hiệp
- Nguyễn Đức Mậu
- Nguyễn Đức Sơn
- Nguyễn Đức Thắng
- Nguyễn Đức Tiến
- Nguyễn Đức Tùng
- Nguyễn Đức Tường
- Nguyễn Gia Trí
- Nguyên Giác
- Nguyên Giác Phan Tấn Hải
- Nguyễn Hà Luân
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Hải Yến
- Nguyễn Hàn Chung
- Nguyễn Hiến Lê
- Nguyễn Hoa Lư
- Nguyễn Hoài Nam
- Nguyễn Hoài Văn
- Nguyễn Hoài Vân
- Nguyễn Hoàn
- Nguyễn Hoàn Nguyên
- Nguyễn Hoàng Ánh
- Nguyễn Hoàng Anh Thư
- Nguyễn Hoàng Diệu Thủy
- Nguyễn Hoàng Diệu Thúy
- Nguyễn Hoàng Giao
- Nguyễn Hoàng Linh
- Nguyễn Hoàng Trung
- Nguyễn Hoàng Văn
- Nguyễn Hồng Anh
- Nguyễn Hồng Giao
- Nguyễn Hồng Hưng
- Nguyễn Hồng Lam
- Nguyễn Hồng Nhung
- Nguyễn Hồng Thục
- Nguyễn Huệ Chi
- Nguyễn Hùng
- Nguyễn Huy Hoàng
- Nguyễn Huy Thiệp
- Nguyễn Huy Vũ
- Nguyên Hưng
- Nguyễn Hưng Quốc
- Nguyễn Hương
- Nguyễn Hữu Đễ
- Nguyễn Hữu Hồng Minh
- Nguyễn Hữu Liêm
- Nguyễn Hữu Nhật
- Nguyễn Hữu Sơn
- Nguyễn Hữu Thiết
- Nguyễn Hữu Việt Hưng
- Nguyễn Hữu Vinh
- Nguyễn kc Hậu
- Nguyễn Khải
- Nguyễn Khánh Duy
- Nguyễn Khánh Trường
- Nguyễn Khắc An
- Nguyễn Khắc Bình
- Nguyễn Khắc Mai
- Nguyễn Khắc Ngân Vi
- Nguyễn Khắc Phê
- Nguyễn Khắc Phi
- Nguyễn Khắc Phục
- Nguyễn Khiêm
- Nguyễn Khôi
- Nguyễn Kiến Phước
- Nguyễn Kiều Dung
- Nguyễn Kiều Hưng
- Nguyễn Kim Hưng
- Nguyên Lạc
- Nguyễn Lãm Thắng
- Nguyễn Lan Phương
- Nguyễn Lân Bình
- Nguyễn Lân Thắng
- Nguyễn Lê Hồng Hưng
- Nguyễn Lệ Uyên
- Nguyễn Linh Giang
- Nguyễn Linh Quang
- Nguyễn Lộ Trạch
- Nguyễn Luận
- Nguyễn Lương Hải Khôi
- Nguyễn Lương Ngọc
- Nguyễn Lương Thịnh
- Nguyễn Lương Vỵ
- Nguyễn Mai
- Nguyễn Man Nhiên
- Nguyễn Mạnh An Dân
- Nguyễn Mạnh Côn
- Nguyễn Mạnh Đẩu
- Nguyễn Mạnh Tiến
- Nguyễn Manh Trinh
- Nguyễn Mạnh Trinh
- Nguyễn Mạnh Tuấn
- Nguyễn Mạnh Tường
- Nguyễn Minh Anh
- Nguyễn Minh Hòa
- Nguyễn Minh Kính
- Nguyễn Minh Nhị
- Nguyễn Minh Nhựt
- Nguyễn Minh Thuyết
- Nguyễn Mộng Giác
- Nguyên Ngọc
- Nguyễn Ngọc Chu
- Nguyễn Ngọc Đức
- Nguyễn Ngọc Giao
- Nguyễn Ngọc Hoa
- Nguyễn Ngọc Lanh
- Nguyễn Ngọc Liễm
- Nguyễn Ngọc Lung
- Nguyễn Ngọc Phương
- Nguyễn Ngọc Tâm
- Nguyễn Ngọc Thiện
- Nguyễn Ngọc Tú Anh
- Nguyễn Ngọc Tư
- Nguyên Nguyên
- Nguyễn Nguyên
- Nguyễn Nguyên Bình
- Nguyễn Nguyệt Cầm
- Nguyễn Nhật Lệ
- Nguyễn Nhật Tín
- Nguyên Nhi
- Nguyễn Như Huy
- Nguyễn Như Mây
- Nguyễn Phạm Hùng
- Nguyễn Phan Quế Mai
- Nguyễn Phú Yên
- Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
- Nguyễn Phượng
- Nguyễn Phương Đình
- Nguyễn Phương Mai
- Nguyễn Phương Mạnh
- Nguyễn Quang
- Nguyễn Quang A
- Nguyễn Quang Bình
- Nguyễn Quang Duy
- Nguyễn Quang Dy
- Nguyễn Quang Đồng
- Nguyễn Quang Hồng
- Nguyễn Quang Hưng
- Nguyễn Quang Lập
- Nguyễn Quang Thạch
- Nguyễn Quang Thân
- Nguyễn Quang Thiều
- Nguyễn Quang VInh
- Nguyễn Quân
- Nguyễn Quốc Chính
- Nguyễn Quốc Lâm
- Nguyễn Quốc Thái
- Nguyễn Quốc Toàn
- Nguyễn Quốc Trụ
- Nguyễn Quốc Tuấn
- Nguyễn Quốc Vương
- Nguyễn Quỳnh Hương
- Nguyên Sa
- Nguyễn Sĩ Dũng
- Nguyễn Sơn Lâm
- Nguyễn Sỹ Phương
- Nguyễn Sỹ Tế
- Nguyễn Tà Cúc
- Nguyễn Tài Cẩn
- Nguyễn Tấn Cứ
- Nguyễn Tất Nhiên
- Nguyễn Thạch Giang
- Nguyễn Thái Hòa
- Nguyễn Thái Hợp
- Nguyễn Thái Sơn
- Nguyễn Thái Tuấn
- Nguyễn Thanh Bình
- Nguyễn Thanh Châu
- Nguyễn Thanh Giang
- Nguyễn Thanh Hiện
- Nguyễn Thanh Hùng
- Nguyễn Thanh Huy
- Nguyễn Thanh Huyền
- Nguyễn Thanh Mỹ
- Nguyễn Thành Nam
- Nguyễn Thanh Nghị
- Nguyễn Thanh Nguyệt
- Nguyễn Thành Phong
- Nguyễn Thanh Sơn
- Nguyễn Thành Sơn
- Nguyễn Thanh Tâm
- Nguyễn Thành Thi
- Nguyễn Thanh Tuyền
- Nguyễn Thanh Văn
- Nguyễn Thanh Việt
- Nguyễn Thế Hùng
- Nguyễn Thế Thanh
- Nguyễn Thị Ái Tiên
- Nguyễn Thị Bích Hậu
- Nguyễn Thị Bích Ngà
- Nguyễn Thị Bình
- Nguyễn thị Cỏ May
- Nguyễn Thị Dư Khánh
- Nguyễn Thị Hải
- Nguyễn Thị Hậu
- Nguyễn Thị Hiền
- Nguyễn Thị Hoàng
- Nguyễn Thị Hoàng Bắc
- Nguyễn Thị Hồng
- Nguyễn Thị Khánh Minh
- Nguyễn Thị Khánh Trâm
- Nguyễn Thị Kim Chi
- Nguyễn Thị Kim Phụng
- Nguyễn Thị Kim Thoa
- Nguyễn Thị Minh Ngọc
- Nguyễn Thị Minh Thái
- Nguyễn Thị Minh Thương
- Nguyễn Thị Ngọc Hải
- Nguyễn Thị Ngọc Nhung
- Nguyễn Thị Oanh
- Nguyễn Thị Phước
- Nguyễn Thị Thanh Bình
- Nguyễn Thị Thanh Hải
- Nguyễn Thị Thanh Lưu
- Nguyễn Thị Thanh Xuân
- Nguyễn Thị Thanh Yến
- Nguyễn Thị Thảo An
- Nguyễn Thị Thúy Hạnh
- Nguyễn Thị Thùy Linh
- Nguyễn Thị Thụy Vũ
- Nguyễn Thị Thuyền
- Nguyễn Thị Tịnh Thy
- Nguyễn Thị Từ Huy
- Nguyễn Thị Vinh
- Nguyễn Thiện Tống
- Nguyễn Thiện Tơ
- Nguyễn Thói Đời
- Nguyễn Thông
- Nguyễn Thu Quỳnh
- Nguyễn Thu Trang
- Nguyễn Thụy Anh
- Nguyễn Thùy Dương
- Nguyễn Thúy Hạnh
- Nguyễn Thụy Long
- Nguyễn Thuỵ Phương
- Nguyễn Thùy Song Thanh
- Nguyễn Thỵ
- Nguyễn Thy Anh
- Nguyễn Tiến Dũng
- Nguyễn Tiến Lập
- Nguyễn Tiến Trung
- Nguyễn Tiến Văn
- Nguyễn Trần Bạt
- Nguyễn Tri Phương Đông
- Nguyễn Triệu Nam
- Nguyễn Trọng Bình
- Nguyễn Trọng Chức
- Nguyễn Trọng Huân
- Nguyễn Trọng Khôi
- Nguyễn Trọng Tạo
- Nguyễn Trung
- Nguyễn Trung Bảo
- Nguyễn Trung Dân
- Nguyễn Trung Hiếu
- Nguyễn Trung Kiên
- Nguyễn Trung Thuần
- Nguyễn Trường Giang
- Nguyễn Trường Huy
- Nguyễn Trường Uy
- Nguyễn Tuấn
- Nguyễn Tuấn Anh
- Nguyễn Tuấn Khoa
- Nguyễn Tùng
- Nguyễn Tùng Linh
- Nguyễn Tuyết Lan
- Nguyễn Tuyết Lộc
- Nguyễn Tư Nghiêm
- Nguyễn Tử Siêm
- Nguyễn Tường Bách
- Nguyễn Tường Thiết
- Nguyễn Tường Thụy
- Nguyễn Ước
- Nguyễn Vạn An
- Nguyễn Vạn Phú
- Nguyễn Văn
- Nguyễn Văn Ba
- Nguyễn Văn Chính
- Nguyễn Văn Ðậu
- Nguyễn Văn Dũng
- Nguyễn Văn Đài
- Nguyễn Văn Gia
- Nguyễn Văn Hạnh
- Nguyễn Văn Hiệp
- Nguyễn Văn Hòa
- Nguyễn Văn Hùng
- Nguyễn Văn Huyên
- Nguyễn Văn Lợi
- Nguyễn Văn Lục
- Nguyễn Văn Miếng
- Nguyễn Văn Nghệ
- Nguyễn Văn Nho
- Nguyễn Văn Phong
- Nguyễn Văn Phú
- Nguyễn Văn Phước
- Nguyễn Văn Sâm
- Nguyễn Văn Sơn
- Nguyễn Văn Tao
- Nguyễn Văn Thiệu
- Nguyễn Văn Thọ
- Nguyễn Văn Trọng
- Nguyễn Văn Trung
- Nguyễn Văn Tuấn
- Nguyễn Văn Vĩnh
- Nguyễn Văn Xuân
- Nguyễn Vi Khải
- Nguyễn Vi Yên
- Nguyễn Viện
- Nguyên Việt
- Nguyễn Việt Anh
- Nguyễn Việt Chiến
- Nguyễn Viết Dũng
- Nguyễn Viết Lãm
- Nguyễn Vĩnh Nguyên
- Nguyễn Vũ Hiệp
- Nguyễn Vũ Tiềm
- Nguyễn Vỹ
- Nguyễn Vy Khanh
- Nguyễn Xuân Diện
- Nguyễn Xuân Hằng
- Nguyễn Xuân Hoàng
- Nguyễn Xuân Hưng
- Nguyễn Xuân Khánh
- Nguyễn Xuân Khoát
- Nguyễn Xuân Nghĩa
- Nguyễn Xuân Nha
- Nguyễn Xuân Quang
- Nguyễn Xuân Thiệp
- Nguyễn Xuân Thọ
- Nguyễn Xuân Tiệp
- Nguyễn Xuân Tường Vy
- Nguyễn Xuân Vượng
- Nguyễn Xuân Xanh
- Nguyễn Ý Thuần
- Nguyên Yên
- Nguyễn-Chương Mt
- Nguyễn-hòa-Trước
- Nguyệt Chu
- Nguyệt Quỳnh
- Nguyệt Vi
- Ngự Thuyết
- Người Buôn Gió
- Ngyễn Trung Bảo
- Nh. Tay Ngàn
- Nhã
- Nhã Ca
- Nhã Duy
- Nhã Thuyên
- Nhan Do Thanh
- Nhân Hồng
- Nhật Chiêu
- Nhật Lệ
- Nhất Linh
- Nhật Tiến
- Nhật Tuấn
- Nhất Uyên
- Nhị Linh
- Nhị Ngã
- Nhóm Vì một Hà Nội xanh
- Như Huy
- Như Không
- Như Quỳnh
- Như Quỳnh de Prelle
- Như Ý
- Nhược Thủy
- Niall Ferguson
- Nick Hilden
- Nicolas Casey
- Nikulin
- Nina McPherson
- Ninh Dương
- Ninh Kiều
- Nobert Hummelt
- Nông Hồng Diệu
- NP Phan
- Obama
- Ocean Vương
- Octavio Paz
- Ogden Nash
- Oksana Zabuzhko
- Oleg Kashin
- Ondrej Slowik
- onggiaolang
- Orlando Figes
- Orwell
- Oscar Salemink
- Oscar Wilde
- Pablo Neruda
- Pablo Picasso
- Palmer
- Patrick Frater
- Patrick Lodge
- Paul Auster
- Paul Celan
- Paul Éluard
- Paul Hoover
- Paul Mendez
- Paul Mozur
- Paul Theroux
- Paul-François Paoli
- Paulus Lê Sơn
- Pavel Basinsky
- Pavel Basynski
- Pavlo Vyshebaba
- Paweł Kubiak
- Pawel Kuczynski
- Paweł Łepkowski
- Percy Mabandu
- Pervez Hoodbhoy
- Peter B. Zinoman
- Peter Hansen
- Peter Harvey
- Peter Kleiner
- Peter Singer
- Phạm Anh Tuấn
- Phạm Biểu Tâm
- Phạm Cao Hoàng
- Phạm Châu
- Phạm Chí Dũng
- Phạm Chi Lan
- Phạm Chu Sa
- Phạm Công Luận
- Phạm Công Thiện
- Phạm Công Trứ
- Phạm Công Út
- Phạm Duy
- Phạm Duy Nghĩa
- Phạm Đình Chương
- Phạm Đình Trọng
- Phạm Đình Vy
- Phạm Đoan Trang
- Phạm Hải Anh
- Phạm Hải Âu
- Phạm Hiền Mây
- Phạm Hoàng Quân
- Phạm Hồng Sơn
- Phạm Hùng Việt
- Phạm Huy Thông
- Phạm Khiêm Ích
- Phạm Kiều Tùng
- Phạm Kỳ Đăng
- Phạm Lệ Quyên
- Phạm Lê Vương Các
- Phạm Linh
- Phạm Lưu Vũ
- Phạm Minh Hoàng
- Phạm Minh Ngọc
- Phạm Minh Quân
- Phạm Minh Trung
- Phạm Ngọc Lư
- Phạm Ngọc Thái
- Phạm Ngọc Tiến
- Phạm Nguyên Trường
- Phạm Ngữ
- Phạm Phan Long
- Phạm Phú Cường
- Phạm Phú Hải
- Phạm Phú Minh
- Phạm Phú Phong
- Phạm Phú Thứ
- Phạm Phú Viết
- Phạm Phúc Thịnh
- Phạm Phương
- Phạm Quang Ái
- Phạm Quang Long
- Phạm Quang Trung
- Phạm Quang Tuấn
- Phạm Sỹ Sáu
- Phạm Tăng
- Phạm Thành
- Phạm Thành Hưng
- Phạm Thanh Nghiên
- Phạm Thảo Nguyên
- Phạm Thế Cường
- Phạm Thị
- Phạm Thị Anh Nga
- Phạm Thị Điệp Giang
- Phạm Thị Hoài
- Phạm Thị Kiều Ly
- Phạm Thị Ngọc
- Phạm Thị Phương
- Phạm Thiên Ân
- Phạm Thiên Thư
- Phạm Tín An Ninh
- Phạm Toàn
- Phạm Trần
- Phạm Trọng Chánh
- Phạm Trung Nghĩa
- Phạm Tuấn
- Phạm Tư Thanh Thiện
- Phạm Tường Vân
- Phạm Văn
- Phạm Văn Khoái
- Phạm Văn Quang
- Phạm Văn Tình
- Phạm Văn Vũ
- Pham Viem Phuong
- Phạm Viêm Phương
- Phạm Viết Đào
- Phạm Việt Hưng
- Phạm Vũ Lửa Hạ
- Phạm Xuân Đài
- Phạm Xuân Hùng
- Phạm Xuân Nguyên
- Phạm Xuân Trường
- Phan An Sa
- Phan Ba
- Phan Bội Châu
- Phan Cẩm Thượng
- Phan Châu Thành
- Phan Cự Đệ
- Phan Dương Hiệu
- Phan Đạo
- Phan Đắc Lữ
- Phan Đình Diệu
- Phan Độc Lập
- Phan Hải-Đăng
- Phan Hồng Giang
- Phan Huy Chú
- Phan Huy Dũng
- Phan Huy Đường
- Phan Huy Lê
- Phan Huyền Thư
- Phan Kế Toại
- Phan Khôi
- Phan Lặng Yên
- Phan Mạnh Quỳnh
- Phan Nam Sinh
- Phan Ngọc
- Phan Nguyên
- Phan Nhật Nam
- Phan Nhiên Hạo
- Phan Ni Tấn
- Phan Phương Đạt
- Phan Quang
- Phan Quỳnh Trâm
- Phan Tấn Hải
- Phan Tấn Uẩn
- Phan Thanh Bình
- Phan Thanh Sơn Nam
- Phan Thắng
- Phan Thế Hải
- Phan Thị Hà Dương
- Phan Thị Kim Phúc
- Phan Thị Trọng Tuyển
- Phan Thị Vàng Anh
- Phan Thu Vân
- Phan Thúy Hà
- Phan Trang Hy
- Phan Trí Đỉnh
- Phan Trọng Hoàng Linh
- Phan Trọng Văn
- Phan Văn Giưỡng
- Phan Văn Song
- Phan Văn Thắng
- Phan Vũ
- Phan Xine
- Phan Xuân Sinh
- Phannguyên Psg
- Phanxipăng
- Phaolô VI
- phap
- Pháp Hoan
- Pháp Vân
- Phapxa Chan
- Phát biểu nhận giải Văn Việt
- Phi Hà
- Phil Caputo
- Philip Larkin
- Philip Roth
- Phong Âm
- Phong Linh
- Phong Nguyen
- Phong Quang
- Phố Văn
- Phú Quang
- Phù Sa
- Phúc Lai GB
- Phúc Tiến
- Phunchok Stobdan
- Phùng Anh Kiệt
- Phùng Hi
- Phùng Hoài Ngọc
- Phùng Học Vinh
- Phùng Ngọc Kiên
- Phùng Nguyễn
- Phùng Quán
- Phùng Thành Chủng
- Phùng Thị Hạ Nguyên
- Phùng Thị Như Hà
- Phuong Ta
- Phương Hương
- Phương Phương
- Phương Thảo
- Phương Thuý
- Phương Uy
- Phương Xích Lô
- Pierre Darriulat
- Pierre Lemieux
- Prashanth Parameswaran
- Qladimir Pyljow
- Quách Hạo Nhiên
- Quách Tấn
- Quách Thoại
- Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
- Quang Dũng
- Quang Đức
- Quang Minh
- Quang Phan
- Quảng Tánh Trần Cầm
- Quậy Nguyễn
- Quế Hương
- Quốc Dũng
- Quốc Phương
- Quốc Toản
- Quyên Di
- Quyên Hoàng
- Quỳnh Dao
- Quỳnh Hợp
- Quỳnh Iris de Prelle
- Quỳnh Vi
- Rabindranath Tagore
- Rachel Adams
- Rainer Maria Rilke
- Ralph Chaplin
- Rebecca Mead
- Rebecca Solnit
- Reiner Traub
- Remo Verdickt
- Riccardo Gazzaniga
- Richard C. Paddock
- Richard Millet
- Richard Serra
- Robert Desnos
- Robert McCrump
- Roger Vu
- Roland Barthes
- Romain Rolland
- Ronald F. Inglehart
- Ruben David Gonzalez Gallego
- Russell Edson
- Ruth Ingram
- Ryszard Legutko
- Salman Rushdie
- Salvatore Babones
- Sam Dresser
- Sạn chữ
- San Phi
- Sandra Kerschbaumer
- Sara Teasdale
- Sarah Pulliam Bailey
- Sarah Thornton
- Sáu Nghệ
- Sergio Bitar
- Shakespeare
- Shannon Van Sant
- Sheikha A
- Sheila Fischman
- Sheila Ngoc Pham
- Sheri Berman
- Shigeeda Yutaka
- Shirin Ebadi
- Shukshin
- Simon Johnson
- Sire Apm Lukwesa
- Slavoj Žižek
- Sohaniim
- Son Kieu Mai
- Song Chi
- Song Hà
- Song Nguyễn
- Song Phạm
- Song Phan
- Song Thao
- Số đặc biệt
- Sơn Ca
- Sơn Hoàng Liên
- Sơn Kiều Mai
- Sơn Nam
- Stalin
- Stefan Dege
- Stefano Harney
- Stephan Koester
- Stephen B. Young
- Steve Earle
- Susan Sontag
- Suzuki Katsuhiko
- Sương Nguyệt Minh
- Sương Quỳnh
- Svetlana Alexievich
- Svetlana Alexievitch
- Svetlana Alexiévitch
- Sylvia Plath
- T. Đ.
- T.Vấn
- Tạ Anh Thư
- Tạ Chí Đại Trường
- Tạ Duy Anh
- Tạ Tỵ
- Tạ Văn Tài
- Tạ Văn Thông
- Tạ Xuân Hải
- Tadeusz Rósewicz
- Tam Ích
- Tamarchenko
- Tàn Tuyết
- Tanaami Keiichi
- Taras Shevchenko
- Tarik Khaldi
- Tawada Yoko
- Tawfiq Zayyad
- Tăng Quang
- Tâm An
- Tâm Bình
- Tâm Chánh
- Tâm Don
- Tâm Thường Định
- Tâm Việt
- Tấn An
- Teolinda Gersão
- Teresa Mỹ Chúc
- Thạch Đạt Lang
- Thạch Quỳ
- Thạch Thảo
- Thái Bá Tân
- Thái Bá Vân
- Thái Bảo
- Thái Hà
- Thái Hạo
- Thái Kế Toại
- Thái Kim Lan
- Thái Ngọc San
- Thái Phan Vàng Anh
- Thái Sinh
- Thái Thanh
- Thái Thăng Long
- Thái Tuấn
- Thái Văn
- Thái Văn Đào
- Thái Vũ
- Thạnh Đà
- Thanh Hằng - Anh Khoa
- Thành Lộc
- Thanh Nam
- Thanh Ngọc
- Thanh Phương
- Thanh Tâm Tuyền
- Thanh Thảo
- Thanh Thuỷ
- Thanh Trúc
- Thanh Tùng
- Thanh Xuân
- Thanhhà Lại
- Thảo Dân
- Thao Dinh
- Thảo luận
- Thảo Nguyên
- Thảo Trường
- Thảo Vy
- Thẩm Đống
- Thẩm Hoàng Long
- Thận Nhiên
- Thân Trọng Mẫn
- Thân Trọng Sơn
- Thế Dũng
- Thế Giang
- Thế Quân
- THẾ THANH
- Thế Uyên
- Thi Hoàng
- Thi Nguyên
- Thi sỹ ỦA
- Thi Vũ
- Thích Nhất Hạnh
- Thích Nữ Chân Không
- Thích Phước An
- Thích Quảng Độ
- Thierry Leclère
- Thierry Lentz
- Thiên Di
- Thiên Điểu
- Thiền Lâm
- Thiền Nguyễn
- Thiên Thai
- Thiện Tùng
- Thiện Ý
- Thiền Zen Paul Vân Thuyết
- Thiết Thạch
- Thiếu Khanh
- Thiều Mai Lâm
- Tho Nguyen
- Thọ Nguyễn
- Thomas A. Bass
- Thomas Bo Pedersen
- Thomas Mahler
- Thomas S. Mullaney
- Thông Đặng
- Thơ
- Thơ Marie Howe
- Thu Phong
- Thu Vàng
- Thuận
- Thuần Ngô
- Thuận Paris
- Thuận Thiên
- Thục Quyên
- Thụy An
- Thùy Dung
- Thụy Khuê
- Thùy Linh
- Thụy My
- Thủy Tiên
- Thư Bạn Đọc
- Thường Quán
- Thy An
- Tịch Ru
- Tiet Hung Thai
- Tiêu Dao Bảo Cự
- Tiêu Kiện Sinh
- Tiểu Tử
- Tillman Miller
- Timothy Brennan
- Timothy Garton Ash
- Timothy Snyder
- Tina Hà Giang
- Tobi Trần
- Tom Fawthrop
- Tomas Tranströmer
- Tô Đăng Khoa
- Tô Hải
- Tô Hoàng
- Tố Hữu
- Tô Lan Hương
- Tô Ngọc Vân
- Tô Thẩm Huy
- Tô Thùy Yên
- Tô Văn Trường
- Tôi Đây
- Tôn Thất Thông
- Tống Văn Công
- Trà Bình
- Trà Đóa
- Trà Nhiên
- Tracy K. Smith
- Tran Dinh Dung
- Tran Nam Dung
- Trang Châu
- Trang Hạ
- Trang Thanh
- Trang Thế Hy
- Trangđài Glassey Trầnguyễn
- Trangđài Glasssey-Trầnguyễn
- Trao đổi
- Trầm Tử Thiêng
- Trần Anh Hùng
- Trần Bá Đại Dương
- Trần Bang
- Trần Bình Nam
- Trần C. Trí
- Trần Cao Lĩnh
- Trần Cao Tường
- Trần Công Tâm
- Trần Công Tín
- Trần Dạ Từ
- Trần Dần
- Trần Doãn Nho
- Trần Dũng Thanh Huy
- Trần Duy
- Trần Duy Phiên
- Trần Duy Trung
- Trần Đăng Khoa
- Trần Đăng Tuấn
- Trần Đĩnh
- Trần Đình Bút
- Trần Đình Hoành
- Trần Đình Lương
- Trần Đình Sơn Cước
- Trần Đình Sử
- Trần Đình Thắng
- Trần Đình Triển
- Trần Đình Trợ
- Trần Độ
- Trần Đồng Minh
- Trần Đức Anh Sơn
- Trần Đức Nguyên
- Trần Đức Thảo
- Trần Đức Tiến
- Trần Đức Tín
- Trần Đức Toản
- Trần Gia Huấn
- Trần Gia Ninh
- Trần Hà Linh
- Trần Hạ Tháp
- Trần Hạ Vi
- Trần Hải
- Trần Hạnh
- Trần Hậu
- Trần Hoài Anh
- Trần Hoài Thư
- Trần Hoàng Phố
- Trần Hoàng Trúc
- Trần Hoàng Vy
- Trần Hùng
- Trần Huy Bích
- Trần Huy Mẫn
- Trần Huy Minh Phương
- Trần Huy Quang
- Trần Huỳnh Duy Thức
- Trần Hữu Dũng
- Trần Hữu Khánh
- Trần Hữu Quang
- Trần Hữu Tá
- Trần Hữu Thục
- Trần Khánh Triệu
- Trần Kiêm Đoàn
- Trần Kiêm Trinh Tiên
- Trần Kim Trắc
- Trần Kỳ Trung
- Trần Lam
- Trần Lê Hoa Tranh
- Trần Lê Sơn Ý
- Trần Lương
- Trần Lý Trí Tân
- Trần Mạnh Hảo
- Trần Mạnh Tuấn
- Trần Minh Phi
- Trần Minh Quốc
- Trần Mộng Tú
- Trần Nam Bình
- Trần Ngân Hà
- Trần Nghi Hoàng
- Trần Ngọc Cư
- Trần Ngọc Hiếu
- Trần Ngọc Tuấn
- Trần Ngọc Vương
- Trần Nguyên Đán
- Trần Nhã Thụy
- Trần Nhương
- Trần Phong Giao
- Trần Phong Vũ
- Trần Quang Đức
- Trần Quang Lộc
- Trần Quốc Nam
- Trần Quốc Thuận
- Trần Quốc Toàn
- Trần Quốc Trọng
- Trần Quốc Vượng
- Trần Quyết Thắng
- Trân Sa
- Trần Song Hào
- Trần Thành
- Trần Thanh Ái
- Trần Thanh Cảnh
- Trần Thanh Huy
- Trần Thanh Vân
- Trần Thắng
- Trần Thế Vĩnh
- Trần Thị Băng Thanh
- Trần Thị Diệu Tâm
- Trần Thị Lai Hồng
- Trần Thị Lam
- Trần Thị NgH.
- Trần Thị Nguyệt Mai
- Trần Thị Phương Phương
- Trần Thị Thanh Thoả
- Trần Thị Thu Hoài
- Trần Thị Trường
- Trần Thiện Đạo
- Trần Thùy Mai
- Trần Tiến
- Trần Tiễn Cao Đăng
- Trần Tiến Dũng
- Trần Tiễn Khanh
- Trần Tố Nga
- Trần Trọng Dương
- Trần Trọng Thức
- Trần Trọng Vũ
- Trần Trung Chính
- Trần Trung Đạo
- Trần Tuấn
- Trần Từ Mai
- Trần Vàng Sao
- Trần Văn Chánh
- Trần Văn Chung
- Trần Văn Đỉnh
- Trần Văn Khê
- Trần Văn Minh
- Trần Văn Nam
- Trần Văn Thọ
- Trần Văn Thủy
- Trần Văn Tý
- Trần Vấn Lệ
- Trần Việt Hà
- Trần Viết Ngạc
- Trần Vinh Dự
- Trần Vũ
- Trần Vũ Hải
- Trần Vương Thuấn
- Trần Vương Thuận
- Trần Wũ Khang
- Trần Xuân Hoài
- Trần Xuân Kiêm
- Trần Xuân Linh
- Trần Xuân Lĩnh
- Trần Xuân Thảo
- Trần Yên Hòa
- Trần Yên Nguyên
- Trên
- Trên Facebook
- Trên Facebook/Minds
- Trên kệ sách
- Trên trang diaCRITICS
- Trí Hiệu Dân
- Triều Anh
- Triều Hoa Đại
- Triêu Nhan
- Triều Sơn
- Triệu Tử Dương
- Trịnh Anh Tuấn
- Trịnh Bá Phương
- Trịnh Bách
- Trịnh Cao Hòa Thanh
- Trịnh Chu
- Trịnh Công Sơn
- Trịnh Cung
- Trịnh Duy Kỳ
- Trịnh Hữu Long
- Trịnh Kim Tiến
- Trịnh Lữ
- Trịnh Minh Tuấn
- Trịnh Sơn
- Trịnh Thanh Thủy
- Trịnh Thu Tuyết
- Trịnh Vĩnh Phúc
- Trịnh Xuân Thuận
- Trịnh Xuân Thủy
- Trịnh Y Thư
- Trọng Anh
- Trọng Phú
- Trọng Thành
- Tru Sa
- Trúc Giang
- Trúc Thông
- Trúc Ty
- Trump
- Trung Bảo
- Trung Dũng Kqd
- Trung Dũng Kqđ
- Trùng Dương
- Trung Trung Đỉnh
- Trư Sa
- Trường An
- Trương Anh Ngọc
- Trương Anh Thụy
- Trương Chính
- Trương Duy Nhất
- Trương Đăng Dung
- Trương Điện Thắng
- Trương Đình Phượng
- Trương Hồng Quang
- Trương Huy San
- Trường Minh
- Trương Ngọc Chương
- Trương Nguyên
- Trương Nguyện Thành
- Trương Nhân Tuấn
- Trương Phượng
- Trương Quang
- Trương Quang Đệ
- Trương Quang Nhuệ
- Trương Quang Vĩnh
- Trương Thanh Thuận
- Trương Thị Ngọc Hân
- Trương Thiên Phàm
- Trương Thu Hiền
- Trương Tố Hoa
- Trương Trọng Nghĩa
- Trương Tửu
- Trương Văn Dân
- Trương Văn Vĩnh
- Trương Vũ
- Trương Xuân Thiên
- Tú Mỡ
- Tù Quốc Hoài
- Tù Sâm
- Tú Trung Hồ
- Tuấn Duy
- Tuấn Khanh
- Tuân Nguyễn
- Tuấn Thảo
- Tuệ Anh
- Tuệ Đăng
- Tuệ Nguyên
- Tuệ Nhân
- Tuệ Nhật
- Tuệ Sĩ
- Tuệ Sỹ
- Tùng Dương Cola
- Tung Nguyen
- Turner
- Túy Hồng
- Tuyết Nghi
- Tư
- Từ Dung
- Tư liệu
- Tử Linh
- Từ Mai Trần Huy Bích
- Từ Quốc Hoài
- Từ Sâm
- Từ Thức
- Tưởng
- Tương Lai
- Umberto Eco
- Uông Tăng Kỳ
- Uông Triều
- Uyển Ca
- Uyên Nguyên
- Uyên Nguyễn
- Uyên Thao
- Uyên Vũ
- V. Erofiev
- Vàng A Giang
- Varlam Shalamov
- Vasco Gargalo
- Vasily Makarovich
- Văn
- Văn Biển
- Văn Cao
- Văn Chinh
- Văn Công Hùng
- Văn Giá
- Văn học
- Văn học Miền Nam 54-75
- Văn Như Cương
- Văn Quang
- Văn Tâm
- Văn Việt
- Văn.
- Vấn đề hôm nay
- Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016
- Vân Hạ
- Vân Phi
- Velcrow Ripper
- Veronica Melkozerova
- Vi Lãng
- Vi Trần
- Vi Yên
- Viet Thanh Nguyen
- Viên Linh
- Việt Bách
- Việt Bình
- Việt Dzũng
- Việt Khang
- Việt Lang
- Việt Phương
- Viktor Astafyev
- Viktor Maslov
- Vinh Anh
- Vĩnh Hảo
- Vĩnh Quyền
- Virginia Heffernan
- Virginia Woolf
- Vladimir Nabokov
- Vladimir Voronov
- Võ An Đôn
- Võ Anh Minh
- Võ Anh Thơ
- Võ Bá Cường
- Võ Đắc Danh
- Võ Định Hình
- Võ Đức Phúc
- Võ Hồng
- Võ Huy Tâm
- Võ Hương Quỳnh
- Võ Kỳ Điền
- Võ Ngàn Sông
- Võ Phiến
- Võ Thị Hảo
- Võ Thị Thu Hằng
- Võ Tiến Cường
- Võ Tòng Xuân
- Võ Trí Hảo
- Võ Văn Quản
- Võ Văn Tạo
- Võ Văn Thôn
- Võ Xuân Quế
- Võ Xuân Sơn
- Volker Weidermann
- Volodymyr Vynnychenko
- Volodymyr Zelenskyy
- Vũ
- Vũ Bằng
- Vũ Biện Điền
- Vũ Cao Đàm
- Vũ Cát Tường
- Vũ Đình Hòe
- Vũ Đình Huỳnh
- Vũ Đình Liên
- Vũ Đình Phòng
- Vũ Đức Khanh
- Vũ Đức Phúc
- Vũ Đức Sao Biển
- Vu Gia
- Vũ Hà Văn
- Vũ Hạnh
- Vũ Hoàng Chương
- Vũ Hoàng Thư
- Vũ Hồng Ánh
- Vũ Huy Ngọc
- Vũ Huy Quang
- Vũ Khắc Hoè
- Vũ Khắc Khoan
- Vũ Kim Hạnh
- Vũ Kim Thu
- Vũ Lâm
- Vũ Lập Nhật
- Vũ My Lan
- Vũ Ngọc Giao
- Vũ Ngọc Hoàng
- Vũ Ngọc Tâm
- Vũ Ngọc Tiến
- Vũ Nho
- Vũ Oanh
- Vũ Quang Việt
- Vũ Quí Hạo Nhiên
- Vũ Quốc Ngữ
- Vũ Quỳnh Hương
- Vũ Quỳnh Nh.
- Vũ Thành Sơn
- Vũ Thanh Tâm
- Vũ Thanh Tùng
- Vũ Thành Tự Anh
- Vũ Thế Khôi
- Vũ Thị Hải
- Vũ Thị Nhuận
- Vũ Thị Phương Anh
- Vũ Thị Phương Lan
- Vũ Thị Thanh
- Vũ Thị Thanh Mai
- Vũ Thư Hiên
- Vũ Tiến Lập
- Vũ Trọng Khải
- Vũ Trọng Phụng
- Vũ Tuấn Hoàng
- Vũ Từ Trang
- Vũ Tường
- Vũ Viết Tuân
- Vũ Xuân Tửu
- Vương Bích Ngọc
- Vương Đan
- Vương Hỗ Ninh
- Vương Huy
- Vương Ngọc Minh
- Vương Tiểu Nhị
- Vương Trí Nhàn
- Vương Trọng
- Vương Trùng Dương
- Vương Trung Hiếu
- Vy Thảo
- W. H. Auden
- Wa Praong
- Walt Whitman
- Walter Isaacson
- Wayne Karlin
- Wells
- Wendy Barker
- Wiesiek Powaga
- Wilhelm Schmid
- Will Nguyen
- William Carlos Williams
- William Nee
- William Stafford
- William Stanley Merwin
- Winston Phan Đào Nguyên
- Wislawa Szymborska
- Władysław Reymont
- Wolf Biermann
- Wolfgang Borchert
- Wynn Gadkar Wilcox
- Xie Tao
- Xuân Ba
- Xuân Diệu
- Xuân Dương
- Xuân Đài
- Xuân Minh
- Xuân Phượng
- Xuân Sách
- Xuân Thọ
- Xuân Vũ
- Xương Văn
- Y Chan
- Ỷ Lan
- Ý Nhi
- Y Uyên
- Yanis Varoufakis
- Yevgeny Yevtushenko
- Yên Ba
- Yên Khắc Chính
- Yến Năng
- Yên San
- Yên San Thụy Miên
- Yên Thao
- Yiyun Li
- Yoko Ogawa
- Yōko Ogawa
- Yoko Tawada
- Yosano Akiko
- Young Sang Lee
- Yuliya Ilchuk
- Yuno Bigboi
- Yves Sintomer
- Yvette Tan
- Zac Herman
Điểm kết
Huy Bảo
Thứ Sáu đã kết thúc. Rồi sẽ đến thứ Bảy. Hôm qua tranh đã đốt hết.
Chẳng mấy chốc những cuộc vui bất tận tìm tới. Làm sao mà anh trốn khỏi chúng em ơi? Bật lửa của anh hết ga. Bên ngoài những cửa sổ sáng choang. K đi lang thang. Em đi lang thang. Trong ký ức của anh. Trên trang giấy của anh.
Phùng Khắc Khoan - Miche
Vũ Thành Sơn
Người Sài Gòn đều biết con đường này mang tên Phùng Khắc Khoan, một trong những con đường đẹp nhất của thành phố. Nó mang tên đó từ năm 1955 tới nay không thay đổi, trong khi hầu như các con đường khác phải chịu mang một cái tên khác, như mang những cái vẩy nến trên da thịt đã bệnh hoạn. Lịch sử có vẻ như đã bỏ quên nó và sự may mắn bất ngờ đó còn mang đến tiếp những bất ngờ khác cho nó: con đường gần như vẫn còn giữ nguyên vẹn bộ mặt của nó sau bảy mươi năm. Vẫn những căn nhà với kiến trúc đẹp, hàng me, vỉa hè và nhất là sự yên tĩnh hiếm có ở một thành phố huyên náo suốt 24 tiếng đồng hồ.
Bút kí của Leonardo da Vinci (6)
Hà Vũ Trọng dịch
Nguyên văn: The Notebooks of Leonardo da Vinci do Irma A. Richter biên tuyển, Ấn quán Đại học Oxford, 1991.
Từ cái ô đến bảo vật quốc gia
Trần Huy Mẫn
Câu chuyện về họa sĩ Nguyễn Phan Chánh – người học trò quê mùa với chiếc ô “bất ly thân” – đã lặng lẽ vẽ nên một chương đặc sắc cho tranh lụa Việt Nam.
Thơ Huy Bảo
Từ tháng tư về tháng năm
Còn gì để lại cho tháng tư không
cái chết ở quá xa nhưng con đường để đến còn xa hơn
con đường để đến đầy khoảng trống
Ghi chú về Hội hoạ Tình huống[*]
Bùi Chát
Nghệ thuật là một chuỗi các tình huống đã được xử lý, trong quá trình thực hành
- Hội hoạ Tình huống trước tiên là một lối thực hành nghệ thuật hướng vào bên trong. Người thực hành giải quyết vấn đề của mình, cho mình – trước khi nghĩ đến nhà phê bình, sưu tập hay bất cứ công chúng nào
- Hội hoạ Tình huống không bắt đầu và kết thúc bằng các ý tưởng, mà chỉ bắt đầu và kết thúc bằng các tình huống và cách ứng biến/ứng xử tình huống
Đề xuất của Han Kang
Nguyễn Phượng
Tên thật và cũng là bút danh Han Kang 韩江, đọc theo Hán Việt là Hàn Giang.
Sinh 1970 ở Qwangju.
10 tuổi, cùng gia đình chuyển về Seoul.
Những bước chân thiện lành
Phan Nguyên
Xã hội càng nhố nhăng ô trọc, nhiễu nhương khó sống thì càng có nhiều người muốn đi tu, mong được an yên thoát tục. Không theo đạo này thì theo đạo khác: Phật giáo Nam tông, Bắc tông, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành, Công giáo… Mỗi người đều có quyền chọn cho mình một con đường tâm linh. Tự do tín ngưỡng là quyền tự nhiên, bình thường trong bất kỳ quốc gia nào tôn trọng con người. Ai muốn tu thì tu, tu chùa hay tu tại gia, tu áo nâu hay áo trắng, cũng đều là sự lựa chọn đáng được tôn trọng. (Trừ những xứ thần quyền như Hồi giáo chính thống, nơi không được phép khác đạo.)
Bàn tiệc ở Gaza
Trần Mộng Tú
Ảnh của Liên Hiệp Quốc, Gaza, tháng 7, 2025
Bút kí của Leonardo da Vinci (5)
Hà Vũ Trọng dịch
Nguyên văn: The Notebooks of Leonardo da Vinci do Irma A. Richter biên tuyển, Ấn quán Đại học Oxford, 1991.
CHƯƠNG III
PHI HÀNH
Vasari kể lại rằng Leonardo thường mua chim bị nhốt trong lồng để phóng sinh vì ông xót thương cho hoàn cảnh cầm tù của chúng. Một động cơ khác có thể là viện ông thán phục cách bay của chúng,và thường xuyên là nguồn cảm hứng cho ông. Ông thích nhìn chúng di chuyển trong không trung, bay vút, lượn, lướt, và vỗ cánh, ông so sánh hành vi của chúng với hành vi của những côn trùng và dơi khi đang bay và trong khi ông vẽ những hành động tức thời của chúng trong bút kí. Ở đây chúng ta cũng thấy những miêu tả cấu trúc đôi cánh và đuôi, cùng với những diễn tả việc hợp lực của chúng khi lái cơ thể.
Mối quan tâm này sát cánh cùng với việc nghiên cứu về môi trường trong đó xảy ra việc bay xảy ra. Không khí phản ứng như thế nào? Ở đây là cơ hội để nghiên cứu về những năng lực của tự nhiên, như trọng lượng, vận động, và động lực tác động vào một trong bốn nguyên tố, và để so sánh và tương phản tính chất của chúng với tính chất của một nguyên tố khác mà ông đã nghiên cứu – nước. Bằng cách nào mà những cơ thể nặng hơn không khí có khả năng giữ vững và tự chúng đẩy tới trong không trung? Con người có khả năng làm được như vậy nếu được trang bị phù hợp. Những bản thiết kế của ông cho thấy những cỗ máy khác nhau với phi hành gia trong những tư thế nằm ngang và thẳng đứng, trong khi đó sử dụng tứ chi để vận hành đôi cánh được chế tác; cũng vậy, một cánh quạt không khí báo trước loại trực thăng thời hiện đại, một cái dù, một tỉ trọng kế để xác định độ ẩm, và một công cụ để chỉ phương hướng và để đo sức gió và tốc độ gió.
Trong lúc mải mê với những nghiên cứu này, ông có lần viết nhanh trong bút kí rằng ông hẳn là đã được tiền định để viết về việc này bởi vì một trong những hồi tưởng xa xưa của ông là giấc mơ về một con diều tới thăm chiếc nôi của ông và dùng cái đuôi của nó mở miệng ông ra.
Cuốn sách nhỏ của ông về việc bay của loài chim, được viết và minh hoạ năm 1505, hiện nay là một trong những báu vật của Thư viện Hoàng gia ở Turin, gần đây bị gia đình hoàng gia lưu vong đòi như tài sản riêng tư.
I. VẬN ĐỘNG TRONG GIÓ VÀ NƯỚC
Khoa học về khí cụ và cơ giới là cao quý nhất và hữu ích hơn mọi khoa học khác, bởi vì bằng những phương tiện của nó, tất cả những sinh vật thể được vận động để thực hiện mọi động tác của chúng; và những vận động này có xuất phát điểm từ trung tâm trọng lượng của chúng được đặt ở trung ương bên cạnh những trọng vật không đều nhau, và nó có những loại cơ bắp vừa khan hiếm vừa dồi dào, và cũng có lực bẩy và phản lực bẩy.
Trước khi bạn viết về những sinh vật có thể bay, hãy viết một quyển sách về những vật vô cảm giác hạ xuống trong không trung thiếu gió và lại một quyển khác về những vật vô cảm giác hạ xuống với gió.
Để đưa ra khoa học chân chính về việc bay của loài chim trong không trung, đầu tiên bạn phải nêu ra khoa học về gió, và chúng ta sẽ chứng minh bằng vận động của nước; việc hiểu biết về khoa học này, có thể nghiên cứu qua các giác quan, sẽ dùng như cái thang để đi tới nhận thức về những vật thể bay trong không khí và gió.
Hãy chia luận văn về loài chim thành bốn quyển, trong đó quyển đầu bàn về phi hành vỗ cánh của chúng; quyển nhì về phi hành không vỗ cánh và với trợ giúp của gió; quyển thứ ba về phi hành nói chung, chẳng hạn như của chim, dơi, cá, động vật, côn trùng; cuối cùng là cơ chế của sự vận động.
Đầu tiên, định nghĩa vận động của gió và tiếp theo mô tả bằng cách nào mà chim lái trong gió chỉ bằng việc quân bình đơn giản của đôi cánh và đuôi; và bạn sẽ mô tả việc này sau đó về cơ thể học của chúng.
Vận động của loài chim
Để nói về chủ đề này, trong quyển thứ nhất bạn phải giải thích tính chất trở lực của không khí, quyển hai, cơ thể học về loài chim và đôi cánh của chúng, quyển thứ ba về phương pháp hoạt động của đôi cánh trong những vận động khác nhau, trong quyển bốn về năng lực của đôi cánh và của đuôi khi đôi cánh không chuyển động và khi gió giúp thuận lợi như là hướng dẫn trong những vận động khác nhau.
Động lực là gì?
Động lực là một năng lực truyền từ nguyên động cơ tới vật di động, và được sóng không khí duy trì trong không trung do nguyên động cơ sản sinh; điều này nảy sinh từ chân không và được sản sinh trái với quy luật tự nhiên, nếu không khí phía trước nó không làm đầy chân không, như vậy khiến cho không khí bị xua khỏi chỗ của nó bởi nguồn phát sinh đã nói trên để thoát li. Và không khí đi trước nó sẽ không làm đầy chỗ mà từ đó nó li khai, nếu như một bộ phận không khí không làm đầy chỗ mà không khí này đã li khai... Và sự vận động này sẽ tiếp tục đến vô hạn nếu không khí có khả năng bị nén đến vô hạn.
Động lực là ấn tượng về sự vận động cục bộ truyền từ nguyên động cơ tới vật di động trong không khí và được duy trì bằng không khí hay nước khi chúng di chuyển để ngăn chặn khoảng chân không.
Động lực của vật di động trong nước thì khác với vật di động trong không khí, và những khác biệt này là do những khác nhau của những nguyên tố này, bởi không khí thì có thể ngưng tụ tới vô hạn mà nước thì không thể.
Động lực của nước được chia thành hai bộ phận thông qua hai tính chất của nó, một là giản đơn và hai là phức hợp. Động lực giản đơn thì nằm hoàn toàn bên dưới mặt nước, còn động lực phức hợp thì nằm giữa không khí và nước, như khi thuyền vận hành.
Động lực giản đơn không nén nước lại ở phía trước sự vận động của loài cá, nhưng di chuyển nước ra phía sau với cùng tốc độ của nguyên động cơ; và sóng nước sẽ không bao giờ nhanh hơn nguyên động cơ của nó.
Thế nhưng, sự vận động của con thuyền, được gọi là phức hợp vì được chia sẻ bởi nước và không khí, được chia thành ba bộ phận chính bởi vì nó tiến hành theo ba hướng, đó là hướng ngược dòng sông, hướng thuận dòng, và hướng băng ngang, đó là khi băng qua sông.
Mỗi vận động sẽ duy trì dòng của nó hay nói đúng hơn là mỗi vật thể khi vận động sẽ tiếp tục dòng của nó chừng nào năng lực của xung lực còn duy trì bên trong.
Động lực phát sinh trong dòng nước tĩnh có hiệu quả khác với động lực phát sinh trong không khí tĩnh. Động lực này cho thấy qua sự kiện rằng nước không bao giờ tự nén lại bởi bất kì vận động nào ở dưới bề mặt của nó, như không khí nén trong bản thân nó khi bị đả kích bởi một vật thể di động. Điều này được thấy từ những bọt bong bóng khi nước bị đè nặng từ bề mặt tới đáy của nó, và tụ tập xung quanh chỗ nước đổ đầy khoảng chân không mà con cá để lại đằng sau khi nó xâm nhập; và những vận động của dòng nước này va đập và thúc đẩy con cá đi, bởi vì nước chỉ có trọng lượng bên trong nước khi nó có sự vận động, và điều này là nguyên nhân chủ yếu để gia tăng vận động cho nguyên động cơ của nó.
Gió
Không khí di chuyển giống như một dòng sông và mang những áng mây theo cùng; hệt như dòng nước chảy mang theo mọi thứ nổi trên nó.
Vận động của không khí ngược lại với một vật cố định thì cũng lớn như vận động của vật di động ngược lại với luồng không khí không vận động.
Cũng như thế với nước mà một tình huống tương tự đã cho tôi thấy nó tác động cùng phương cách như không khí, như những cánh buồm của tàu được kèm theo trở lực bên cạnh của bánh lái.
Khi một vật nặng hạ xuống trong không khí, và không khí di động ngược hướng để liên tục làm đầy khoảng không gian để trống bởi vật nặng này, sự vận động của không khí này là một đường cong, bởi khi nó muốn trỗi lên bằng tuyến ngắn nhất thì nó bị ngăn trở do vật thể nặng hạ xuống nó, và vì thế nó buộc phải uốn cong và rồi trở về bên trên vật nặng này để đổ đầy khoảng chân không đã bị nó bỏ lại. Và nếu không khí không bị nén dưới tốc độ của vật thể nặng, thì loài chim hẳn sẽ không thể tự chống đỡ nơi không khí bị chúng đả kích; nhưng ở đây cần khẳng định rằng không khí bị nén bên dưới vật bị va đập và nó trở nên bị loãng ở bên trên để đổ đầy khoảng trống để lại do vật đã va đập nó.
Khoa học về trọng lượng tỉ lệ với năng lực của nguyên động cơ
Lực của nguyên động cơ phải luôn luôn tỉ lệ với trọng lượng của vật thể di động và với trở lực của môi trường trong đó vật liệu mà trọng vật di động. Nhưng người ta không thể diễn dịch quy luật của hành động này trừ phi người ta đầu tiên phải đưa ra lượng ngưng tụ của không khí khi bị đả kích bởi bất kì vật di động nào; và sự ngưng tụ này sẽ có độ đậm đặc nhiều hơn hoặc kém hơn tuỳ tốc độ lớn hơn hoặc kém hơn của vật di động đè ép trên nó; như cho thấy trong phi hành của loài chim, vì âm thanh mà chúng tạo ra với đôi cánh khi đập vào không khí thì trầm hơn hoặc lanh lảnh hơn tuỳ theo sự vận động đôi cánh có chậm hơn hoặc nhanh hơn không.
II. CẤU TẠO CỦA ĐÔI CÁNH CHIM
Trước tiên, thực hiện cơ thể học về chim; rồi cơ thể học về lông vũ của nó, tước bỏ bộ lông vũ, rồi nghiên cứu tác dụng của bộ lông vũ.
Bạn sẽ nghiên cứu cơ thể học về đôi cánh chim cùng với những cơ bắp ở lồng ngực vốn là nguyên động cơ của đôi cánh này. Và bạn cũng thực hiện cùng nghiên cứu này đối với con người để cho thấy khả năng rằng xem con người có tự mình chịu đựng được giữa không trung bằng việc vỗ cánh.
Một biện hộ cho công cuộc giải quyết cách phản bác
Bạn có thể sẽ nói rằng những thớ gân và cơ bắp của một con chim thì mạnh mẽ một cách vô song và mạnh mẽ hơn của con người, bởi tất cả sức mạnh của bấy nhiêu cơ bắp và thịt nơi lồng ngực trợ giúp và gia tăng sự vận động cho đôi cánh, trong khi xương lồng ngực tất cả liền một khối cho nên cung cấp cho chim năng lực rất lớn, và đôi cánh được bao phủ bằng một mạng lưới gân dày, cùng những dây chằng bằng sụn khác rất khoẻ và với bộ da rất dày có những cơ bắp đa dạng.
Đáp lại điều này là, sức mạnh lớn như thế được coi như năng lực dự trữ vượt ngoài những gì thông thường dùng để hỗ trợ bản thân trên đôi cánh, vì điều này cần thiết hễ khi nào nó muốn tăng gấp đôi hoặc gấp ba lần sự vận động để thoát khỏi kẻ săn đuổi hoặc đuổi theo con mồi của nó. Vì vậy, trong trường hợp này, cần cho nó nảy sinh gấp đôi hoặc gấp ba lần số lượng vận sức, và thêm nữa là để mang theo qua không trung trong móng vuốt của nó một trọng lượng tương ứng với trọng lượng của bản thân nó, vì thế người ta nhìn thấy con chim ưng đang mang theo một con vịt và con đại bàng mang theo một con thỏ, và tình huống đủ cho thấy rõ việc xài vượt quá sức lực; vì chúng cần ít sức lực để chống đỡ và để giữ thăng bằng bản thân trên đôi cánh và để vỗ cánh theo hướng của gió, còn nếu để điều hướng đường bay, chúng chỉ cần một vận động nhẹ từ đôi cánh là đủ, và vận động này sẽ càng chậm hơn tỉ lệ so với chim thì lớn hơn về kích thước.
Lớp lông vũ có trở lực nhỏ thì được đặt dưới lớp lông vũ có trở lực lớn, và những mút điểm của chúng đều quay hướng tới phần đuôi chim; bởi vì không khí ở phần dưới những vật thể bay thì dày hơn không khí bên trên chúng, và không khí dày hơn ở phía trước hơn ở đằng sau; và việc phi hành thiết yếu đòi hỏi những mút điểm ở phần bên này của đôi cánh không thấy có sự đột kích của gió vì chúng hẳn sẽ lập tức bị tản mác ra và tách li, và tức thời bị gió thâm nhập. Do đó, những trở lực được đặt sao cho những bộ phận với một đường cong lồi được quay hướng tới bầu trời sao cho khi chúng càng bị gió đả kích thì chúng càng thấp hơn kéo lại gần hơn tới những trở lực thấp hơn bên dưới chúng để ngăn cản sự thâm nhập của gió bên dưới từ phía trước...
Cánh chim luôn lõm vào ở bộ phận thấp hơn trải từ khuỷu tới vai, và phần còn lại thì lồi. Nơi bộ phận lõm của cánh thì không khí quay tròn, còn trong phần lồi thì nó nén và ngưng tụ.
Những lông vũ dài nhất của cánh sẽ uyển chuyển vì chúng không bị bao phủ bởi những lông vũ khác từ trung tâm tới đầu cánh.
Những tay lái thì đặt trên đôi vai của cánh thì cực kì cần thiết để chim giữ thăng bằng và bất động trong không khí khi đương đầu với luồng gió.
[Với bản vẽ.]
Cái tay lái này được đặt gần nơi lông vũ của cánh cong lại, và bởi vì sức mạnh, nó cong lại ít hoặc không cong lại, được đặt ở vị trí rất khoẻ và có những dây gân và xương cứng, được bao phủ bằng những lông vũ rất khoẻ, bảo vệ và hỗ trợ cho nhau.
Loài chim đuôi ngắn lại có đôi cánh rất rộng; và nhờ bề rộng này thay cho cái đuôi; và chúng lợi dụng đáng kể những tay lái đặt trên đôi vai khi chúng muốn chuyển sang bất kì hướng nào.
Tại sao những thớ gân dưới cánh lại khoẻ hơn những thớ gân ở mặt trên, chính là để thích ứng với việc vận động. Vai, là tay lái của cánh, trũng bên dưới như cái muỗng; và lõm bên dưới, nó lồi bên trên. Nó tạo kiểu như vậy là để cho tiến trình bay lên dễ dàng, bay xuống khó khăn và gặp trở lực; và đặc biệt nó thích hợp với việc đi tới và lùi theo hình thức cái dũa.
Những tay lái hình thành trên vai của đôi cánh được cung cấp tính chất tiềm tàng như phương tiện thuận tiện cho việc bẻ lệch hướng động lực trực tiếp, vốn thường xảy ra trong khi bay tới vun vút. Vì một con chim thấy thuận lợi hơn khi uốn cong bằng lực trực tiếp một trong những bộ phận nhỏ nhất của đôi cánh hơn là toàn thể chúng; và lí do tại sao những lông vũ của chúng được cấu tạo rất nhỏ và rất khoẻ để chúng có thể dùng như tấm phủ lên nhau và như vậy trang bị và củng cố nhau bằng năng lực tuyệt diệu. Và những lông vũ này đặt cơ sở trên những xương nhỏ và rất khoẻ vận động và uốn cong trên những khớp xương lớn của đôi cánh này bằng những sợi gân.
Sự vận động và vị trí của xương vai cánh chim tương tự như ngón cái của bàn tay con người, được bao quanh bằng bốn sợi gân có cự li đều nhau ở nền tảng, điều này tạo ra một con số vô hạn những vận động vừa vòng tròn vừa thẳng.
Chúng ta cũng có thể nói giống như vậy về cái bánh lái đặt đằng sau chuyển động của con tàu, nó mô phỏng cái đuôi chim; theo kinh nghiệm dạy chúng ta cái bánh lái nhỏ này đã sẵn sàng quay biết bao nhiêu trong những chuyển động nhanh chóng của những con tàu lớn hơn là bản thân toàn bộ con tàu...
Những con dơi khi chúng bay thì cánh của chúng cần thiết bao phủ hoàn toàn bằng lớp màng, bởi vì những sinh vật ban đêm dựa vào đó chúng trốn thoát nhờ những động tác quay tròn mơ hồ và sự mơ hồ này được nâng cao bằng những cú uốn lượn. Vì thế đàn dơi đôi khi phải lộn ngược để đi theo con mồi, đôi khi trong tư thế nghiêng hoặc bằng những cách đa dạng khác và chúng không thể thực hiện mà không khiến cho bản thân bị huỷ hoại nếu đôi cánh của chúng bằng lông vũ và để cho không khí lọt qua.
III. BƠI VÀ BAY
Khi hai thế lực va đập nhau thì luôn luôn lực nhanh nhất sẽ nhảy vọt về phía sau. Cũng thế, với bàn tay của người bơi khi va đập và nén trên mặt nước khiến cho thân thể kẻ ấy trượt về phía trước theo vận động ngược lại; cũng vậy với cánh chim trong không khí.
Việc bơi trên mặt nước dạy con người cái cách mà loài chim bay trên không khí.
Việc bơi minh hoạ cho phương pháp bay và cho thấy trọng lượng lớn nhất gặp trở lực nhiều nhất trong không khí.
Hãy quan sát bàn chân vịt: nếu nó luôn mở ra hoặc luôn đóng lại, thì con vật này hẳn không thể tạo được bất cứ loại vận động nào. Trong khi bằng đường cong của bàn chân hướng ra ngoài, nó có thêm cảm thụ với nước khi đi tới hơn là bàn chân khi nó rút lui; điều này cho thấy cùng trọng lượng khi càng rộng thì nó vận động càng chậm. Hãy quan sát con ngỗng di chuyển trên mặt nước, khi di chuyển bàn chân của nó hướng tới trước và khép lại, và choán ít nước và vì thế đạt được tốc độ; còn khi nó đạp lùi, chân dãn ra khiến chậm hơn, và bộ phận cơ thể tiếp xúc với không khí trở nên nhanh hơn.
Tại sao cá trong nước lại nhanh hơn chim trong không khí khi lẽ ra đụng phải tình huống tương phản, là vì nước nặng hơn và dày hơn không khí, còn cá thì nặng hơn và có đôi cánh nhỏ hơn chim? Bởi lí do này, cá không dời khỏi chỗ vì những dòng nước chảy siết giống như chim bị những cơn gió mạnh trong không khí; cũng vậy, chúng ta có thể thấy cá vượt nhanh hướng lên vào ngay dòng nước trút xuống hiểm trở với sự chuyển động rất nhanh như tia chớp giữa những đám mây không ngừng, gần như một điều kì diệu. Việc này tạo ra bằng tốc độ rất lớn, và chuyển động vượt quá sự vận động của nước trong khi làm cho nó gần như bất động khi so sánh với sự vận động của cá...
Điều xảy ra này bởi vì nước bản thân nó dày hơn không khí cho nên nặng hơn, và do đó nhanh hơn trong việc làm đầy khoảng chân không mà cá bỏ lại đằng sau, trong chỗ từ đó rời đi; và cũng vậy, nước mà nó đụng ở phía trước mặt không bị nén như không khí ở đằng trước chim, mà đúng hơn là tạo ra đợt sóng bằng sự vận động của nó để chuẩn bị đường đi và gia tăng sự vận động của cá; và do đó, nó nhanh hơn chim gặp phải không khí bị nén ở phía trước.
Cách một người nên học bơi. Cách một người nên nằm nghỉ trên mặt nước. Cách một người phải tự vệ chống lại khi bị dòng nước xoáy cuốn hắn xuống đáy. Cách một người khi bị cuốn xuống đáy phải tìm dòng nước phản xạ để quăng hắn ra khỏi chỗ nước sâu. Cách người ấy phải đẩy mình tới bằng đôi cánh tay. Cách người ấy phải bơi ngửa. Cách người ấy có thể duy trì dưới nước chừng nào còn nín thở.
Tàu ngầm
Bằng cách nào mà một thiết bị có khả năng duy trì suốt một thời gian dưới nước. Bằng cách nào và tại sao tôi không mô tả phương pháp duy trì dưới nước được lâu dài như thời gian có thể duy trì khi thiếu thực phẩm; và tôi không công bố hoặc tiết lộ điều này vì tính ác độc của những kẻ gây ra việc sát hại dưới đáy biển bằng việc phá vỡ tàu bè ở những bộ phận thấp nhất và làm đắm chúng cùng với thuỷ thủ đoàn; Tuy nhiên, tôi sẽ đưa ra một số phương pháp khác đặc biệt vốn không nguy hiểm, vì ở trên bề mặt, miệng của một ống ngầm trồi lên nhờ đó họ có thể hít thở, được chống đỡ bằng lớp da đựng rượu hoặc những miếng bần (cork).
Những tuyến chuyển động của chim khi lên cao có hai loại, một loại thì luôn theo hình xoắn theo kiểu đinh ốc. Còn loại kia theo đường thẳng và cong.
Chim lên cao bằng cách chuyển động vòng tròn theo hình dạng xoắn ốc khiến cho việc chuyển động phản xạ của nó ngược lại cơn gió ập tới và ngược đường bay của gió, và luôn rẽ sang trái hoặc phải.
Loài chim cần đập một bên cánh nhiều lần hơn là bên cánh kia để tiến hành chuyển động vòng tròn.
Nếu chim không đập cánh và không muốn đáp xuống nhanh tới một độ sâu, vậy thì sau một độ nghiêng nhất định, nó sẽ tự trỗi lên bằng một vận động phản xạ và muốn xoay thành một vòng tròn lên cao theo lối của những con sếu khi chúng phá vỡ những tuyến trật tự trong chuyến bay và họp lại thành một đàn rồi tiếp tục lên cao bằng nhiều vòng theo kiểu đinh ốc, và sau đó, chúng trở về lại tuyến đầu, theo lại chuyển động đầu tiên và thả nhẹ nhàng xuống, và rồi trở về họp đàn lại và di chuyển thành một vòng tròn lên cao.
Khi chim bay tới hướng đông với gió từ hướng bắc và thấy cánh trái của nó ở trên cơn gió ấy thì nó sẽ lật lại, trừ phi cơn gió mãnh liệt, nó đặt cánh trái dưới cơn gió và bằng một số chuyển động, nó lao tới hướng đông bắc và ở dưới cơn gió.
Làm sao loài chim chịu đựng được trong không khí
Không khí bị va đập bởi vật di động nhanh hơn thì bị nén ở mức độ nhiều hơn bên trong bản thân nó...
Khí quyển là một nguyên tố có khả năng bị nén trong bản thân khi nó bị va đập bởi vật gì đó đang di chuyển ở một tỉ lệ tốc độ lớn hơn với tốc độ của nó và rồi nó hình thành một áng mây trong phần còn lại của không khí...
Khi chim gặp gió, nó có thể tự giữ vững mà không cần phải đập cánh, là do chức năng chúng phải vận dụng đối với không khí mà không cần phải vận động. Sự chuyển động của không khí đối với đôi cánh bất động giữ vững chúng, trong khi sự chuyển động của đôi cánh thì giữ vững chúng khi không khí bất động.
Khi gió băng qua những đỉnh núi thì trở nên nhanh và đậm đặc và khi nó thổi qua khỏi núi, nó trở nên loãng và chậm, như nước tuôn ra từ con kênh hẹp chảy vào biển rộng.
Khi chim băng qua luồng gió đang thổi từ chậm sang nhanh, nó để bản thân cho gió mang đi cho tới khi nó tìm ra sự trợ giúp mới cho bản thân...
Khi chim chuyển động với xung lực cản lại gió, nó đập những nhịp cánh mau và lâu với chuyển động nghiêng, và sau khi đập như thế, đôi cánh của nó duy trì trong một chốc bằng các chi co rút lại và hạ thấp. Chim sẽ đảo lộn nếu ở vị trí ít nghiêng, nó ở vào chỗ như thế là để nhận từ bên dưới sự chấn động của bất kì cơn gió bên cạnh nào. Nhưng nếu chim bị gió va đập từ phía bên cạnh tới độ nó đảo ngược để gập cánh bên trên lại, nó lập tức trở về vị trí để cơ thể chuyển hướng xuống mặt đất, trong khi nếu nó gập cánh dưới nó sẽ lập tức lộn ngược xuống bởi gió.
Gió sử dụng cùng cường lực đối với chim giống như cái nêm nhấc vật thể nặng.
Thiên nhiên đã ban cho mọi loài chim lớn có thể giữ yên ở một độ cao rất lớn, tới mức gió càng gia tăng thì việc phi hành của chúng có thể được thẳng dòng và mạnh mẽ. Vì nếu phi hành của chúng ở độ thấp trong vùng núi là nơi gió đi vòng quanh và không ngớt đầy những lốc xoáy và cuốn tròn và là nơi chúng không thể tìm ra chỗ trú thân giữa cuồng phong bị nén trong những hốc núi, vì thế chúng cũng không tự lái được bằng đôi cánh lớn để tránh bị lao vào vách đá, tảng đá và cây cao, điều này đôi khi chẳng phải là nguyên nhân tiêu diệt chúng hay sao? Trong khi ở độ thật cao, hễ gặp một số sự biến thì gió quay vào bất kì đâu, loài chim luôn cấp thời có thể điều hướng lại luồng bay và an toàn điều chỉnh lại việc phi hành để cho việc tiến hành luôn hoàn toàn tự do... Bởi vì mọi khởi đầu của sự vật thường là nguyên nhân cho những kết quả lớn, vì thế ta có thể thấy một vận động nhỏ hầu như không thể nhận thấy của chiếc bánh lái lại có sức chuyển hướng một con tàu với kích thước cực lớn chất nặng trĩu hàng hoá, và cũng vậy, giữa một trọng lượng nước áp lực lên từng sống neo (beam) của nó, và khi chống chỏi với cuồng phong bao trùm những cánh buồm đồ sộ của nó. Do đó, ta có thể chắc chắn trong trường hợp các loài chim có thể tự chống đỡ ở bên trên những luồng gió mà không phải vỗ cánh, vì chỉ cần một vận động nhẹ của cánh hoặc đuôi cũng đủ giúp chúng hạ xuống hoặc lên trên cơn gió, và cũng đủ ngăn chim không bị rớt xuống.
Khi đàn chim bay nhanh chúng giữ cự li đều nhau ở bên trên mặt đất và vỗ cánh hướng hạ và về phía sau; hướng xuống trong mức độ cần thiết để ngăn chim khỏi hạ xuống, còn hướng ra phía sau để tuỳ cơ nếu nó muốn vượt lên với tốc độ lớn hơn.
Tốc độ bay của loài chim được kiểm soát bằng độ mở và xoè đuôi.
Để thay đổi phương hướng, chim xoè đuôi ra.
Việc xoè đuôi và hạ thấp đuôi cùng việc xoãi cánh đồng thời đạt tới mức đầy đủ để hãm lại sự vận động nhanh của chim. Khi chim hạ xuống gần mặt đất và đầu ở thấp hơn đuôi, chúng hạ đuôi xuống và xoè rộng ra, rồi đôi cánh đập những nhịp ngắn; vì vậy đầu chim ngước lên cao hơn đuôi, và tốc độ được kiểm tra sao cho chim có thể đậu xuống đất mà không va chạm mạnh.
Nhiều loài chim vận động đôi cánh nhanh nhẹn khi cất cánh cũng như khi đáp xuống; như chích choè và những loại chim tương tự.
Một số loài chim có thói quen vận động đôi cánh nhanh hơn khi chúng hạ xuống hơn là khi chúng cất cánh, và điều này thấy qua trường hợp của chim câu và những loại chim tương tự. Có những loài chim khác hạ cánh xuống chậm hơn khi chúng cất cánh, và điều này thấy qua loài quạ và những loại chim tương tự.
Diều hâu và những loài chim khác vỗ cánh chỉ nhè nhẹ để đi tìm luồng gió; và khi gió nổi lên ở một độ cao, ta có thể thấy chúng bay rất cao, còn nếu gió thổi thấp thì chúng giữ ở độ thấp. Khi không trung lặng gió, diều hâu năng vỗ cánh hơn trong lúc bay, tới mức độ khi nó lên cao và đạt được một xung lực; với xung lực này, rồi dần dần đáp xuống, nó có thể di động một cự li xa mà không phải vỗ cánh. Và khi đã hạ xuống, nó lại lập đi lập lại liên tục như thế, và trong việc hạ xuống mà không vỗ cánh, đôi cánh được dùng như phương tiện nghỉ ngơi trong không trung sau đợt vỗ cánh mệt mỏi trước đó
Tất cả những loài chim bay vọt lên cao bằng việc đập cánh; còn trong lúc hạ cánh thì chúng tiếp tục nghỉ ngơi, vì khi hạ xuống chúng không đập cánh.
Khi diều hâu hạ xuống thì tự nó quay sang bên phải với đầu hướng xuống xuyên nhập không khí, nó buộc bẻ cong đuôi nghịch hướng với địa điểm nó muốn tới; và rồi vội bẻ đuôi cong theo hướng nó muốn để chuyển đổi theo tiến trình phù hợp với hướng quay của đuôi – như cái bánh lái con tàu khi chuyển hướng thì rẽ con tàu nhưng nghịch hướng.
Một con chim đang tự giữ mình trên không ngược với chiều gió, có năng lực trong nó mang xu hướng hạ xuống, vừa năng lực tương tự khác trong gió va đập nó có xu hướng lên cao. Và nếu những năng lực này ngang nhau tới nỗi cái này không thể chế ngự cái kia, thì chim sẽ không có khả năng tự lên cao hoặc hạ thấp, vì vậy nó sẽ duy trì vị thế của nó vững vàng trong không trung.
Tại sao cuộc phi hành của đàn chim khi thiên di lại ngược chiều gió
Phi hành của đàn chim khi thiên di đi ngược với chiều gió, không phải để sự vận động của chúng được nhanh chóng hơn mà vì ít bị mệt mỏi hơn. Việc này được thực hiện với việc vỗ cánh nhẹ, nhờ đó chúng vào trong cơn gió bằng sự vận động chao nghiêng từ bên dưới và sau đó để bản thân chúng chao nghiêng ở trên luồng gió. Gió đi vào bên dưới độ chao nghiêng của con chim như một cái nêm và nâng nó lên trên trong thời gian xung lực hấp thu được và tự nó tiêu hao, sau đó, chim lại hạ xuống bên dưới gió... Rồi nó lặp lại vận động phản xạ nói trên ở bên trên cơn gió cho tới khi lấy lại được độ lên cao bị mất, và cứ như thế, nó tiếp tục không ngừng.
Tại sao hiếm khi chim bay thuận chiều gió
Phi hành của chim thuận chiều gió rất hiếm khi xảy ra, điều này là do luồng gió này bao bọc chúng và làm phân tán lông vũ ra khỏi lưng và cũng làm buốt khoảng thịt bị hở. Nhưng trở ngại lớn nhất chính là sau việc hạ xuống nghiêng thì sự vận động của nó không thể đi vào luồng gió, trừ phi nó quay nghịch hướng để không đình trệ hành trình và mượn lực của gió để lao lên phía trên tới độ cao cũ.
Loài chim xoè càng rộng lông vũ của cánh đang lúc phi hành trở nên chậm dần, điều này phù hợp với quy luật phát biểu rằng: ‘Vật thể có bề càng rộng sẽ càng nhẹ hơn’.
Loài chim giảm sức nặng khi tự xoãi mình ra, và ngược lại, nó nặng hơn khi thu mình lại; còn những con bướm thực nghiệm điều này khi chúng đáp xuống.
Khi chim muốn lên cao bằng việc đập cánh, nó nâng vai lên rồi vỗ đầu cánh hướng vào thân mình, làm cho không khí ngưng tụ chen vào giữa đầu cánh và ức chim, và áp lực từ không khí này nâng chim lên cao.
Khi chim muốn rẽ sang bên phải hay bên trái bằng việc đập cánh, nó sẽ đập cái cánh thấp hơn xuống về bên nó muốn rẽ, và như vậy, sự vận động xoay vòng của chim phía sau xung lực của cái cánh được tăng tốc và nó sẽ tạo ra vận động phản xạ bên dưới cái cánh phát sinh từ phía đối trọng.
Khi chim bay ngược gió thì tiến trình của nó tạo ra theo tuyến nghiêng hướng xuống mặt đất, rồi đi vào bên dưới luồng gió... còn nếu chim muốn lên tới một độ cao thì nó sẽ đi vào bên trên luồng gió, và nó sẽ giữ được đủ xung lực đã hấp thu khi đáp xuống mà ta đã nói tới, như thế, nhờ những phương tiện của tốc độ có được, nó sẽ hạ thấp đuôi và khuỷu của đôi cánh xuống và nâng bánh lái lên. Và rồi nó sẽ ở bên trên luồng gió...
Bươm bướm, loại côn trùng tương tự, đều bay bằng bốn cánh, đôi cánh sau nhỏ hơn đôi cánh trước. Đôi cánh trước phủ một phần lên đôi cánh phía sau.
Mọi loại côn trùng thuộc họ này đều có năng lực vận động lên cao trực tuyến, vì khi chúng lên cao thì những đôi cánh sau giữ một độ hở với đôi cánh trước cao hơn đôi cánh sau. Và điều này tiếp tục chừng nào xung lực còn thúc đẩy chúng lên trên; và sau đó, khi chúng hạ thấp đôi cánh thì cánh lớn kết hợp vào với cánh nhỏ, và như vậy khi chúng đáp xuống, chúng lại có được xung lực mới.
[Với bản vẽ một con chuồn chuồn].
Loài pannicola bay bằng bốn cánh, và khi đôi cánh phía trước cất lên thì đôi cánh phía sau hạ thấp.
Nhưng cần thiết cho mỗi cặp cánh phải tự đủ khả năng chịu đựng toàn bộ trọng lượng.
Khi cặp cánh này cất lên thì cặp cánh kia hạ thấp.
Để thấy việc phi hành của loài bốn cánh, hãy đi vào những cái hào, bạn sẽ thấy loài “pannicole” đen.
Động vật khi nó lao vào một Nguyên tố này thành một nguyên tố khác.
Bút kí này kèm theo bức vẽ một con cá chào mào đang bay với đuôi dương lên, cánh của nó dang ra trên điểm lao từ mặt nước vào không trung. Trên cùng trang giấy là những bức vẽ một con bướm, một con kiến sư tử, và một con dơi, tất cả đều dang cánh.
IV. MÁY BAY
Thiên tài của con người có thể tạo ra những phát minh đa dạng, bao gồm những khí cụ đa dạng có cùng mục đích; nhưng nó sẽ không bao giờ khám phá ra một phát minh nào tinh mĩ hơn, tiết kiệm hơn, hoặc trực tiếp hơn phát minh của thiên nhiên, bởi vì trong những phát minh của thiên nhiên, không có gì thiếu và không có gì thừa.
Một con chim là một khí cụ vận hành theo quy luật toán học, và khí cụ này nằm trong khả năng con người chế tạo với mọi cơ năng của nó nhưng lại không có được sức mạnh như vậy, tuy nhiên, chỉ thiếu về năng lực duy trì sự quân bình. Vì vậy, ta có thể nói rằng một khí cụ như thế do con người dựng lên không bị thiếu gì ngoại trừ sinh lực của loài chim, và sinh lực này phải cần mô phỏng bằng sinh lực con người. Sinh lực vốn trú ngụ trong các chi thể của chim rõ ràng phục tùng nhu cầu của chúng tốt hơn là sinh lực của con người vốn tách biệt với các chi thể và đặc biệt là trong những vận động duy trì sự quân bình hầu như không thể nhận thấy. Vì chúng ta thấy rằng loài chim được trang bị cho rất nhiều loại vận động nhậy cảm đa dạng, nên chúng ta có thể từ kinh nghiệm này suy diễn rằng điều hiển nhiên nhất trong những vận động này sẽ có thể là nhận thức của con người có thể hiểu được, và điều mà con người muốn là một mức độ lớn có thể cung ứng chống lại huỷ diệt của loại khí cụ mà y đã tự tạo ra sinh lực và hướng đạo.
Một vật thể đưa ra sự đề kháng với không khí như vậy giống như không khí đề kháng với vật thể. Hãy nhìn vào cách đập đôi cánh vào không khí đã nâng đỡ một con đại bàng nặng trong làn không khí cực kì loãng gần với hoả cầu. Hãy quan sát cách mà không khí vận động trên biển khi làm đầy những cánh buồm căng phồng và đẩy mạnh những con tàu chất đầy hàng hoá.
Từ những ví dụ này, và những lí do đã nêu, một người có đôi cánh đủ lớn và được gắn đúng cách có thể học cách khắc phục trở ngại của không khí, và khi chinh phục nó thành công trong việc chế ngự nó và nâng mình lên trên nó.
Nếu một người có cái tán rộng 12 và cao 12 thước Ý và phủ bằng vải,[1] thì y có thể gieo mình xuống từ bất cứ độ cao nào mà không bị tổn thương.
Người ở trong cỗ máy phi hành phải tự do từ thắt lưng trở lên để có thể giữ cân bằng như khi ở trên thuyền, sao cho trọng lượng trung tâm của kẻ ấy và của cỗ máy có thể đối trọng nhau và dịch chuyển tới nơi yêu cầu qua sự thay đổi của trung tâm trở lực.
Bạn hãy nhớ, loại chim mà bạn mô phỏng thiết kế không loại nào khác ngoài dơi, bởi vì những tấm màng của nó dùng như cái sườn hay đúng hơn là phương tiện nối kết với cái khung, là cái khung của đôi cánh.
Nếu bạn mô phỏng đôi cánh lông vũ của chim, thì đây là những phần mạnh hơn cả về cấu trúc bởi vì chúng có thể bị xâm nhập, khi mà những lông vũ tách ra và không khí lọt qua. Nhưng loài dơi được trợ giúp bằng những cái màng vốn gắn chặt toàn thể lại và không thể bị không khí xâm nhập.
Hãy giải phẫu loài dơi, tập trung vào điều này, và thiết kế máy bay trên mô hình này.
Giả sử có một vật thể lơ lửng, tương tự như chim, và cái đuôi của nó xoắn sang một góc có nhiều độ khác nhau; bạn có thể bằng phương tiện này để suy ra một quy luật chung dựa theo những độ xoắn và xoay khác nhau theo chuyển động của chim gây ra bằng cách uốn đuôi. Trong các vận động khác nhau thì bộ phận nặng nhất của vật thể di động trở nên cái hướng đạo của vận động.
Khi nguyên động cơ (mover) của vật thể bay có năng lực có thể chia thành bốn phần qua bốn cơ năng chủ yếu, nó có khả năng vận dụng chúng một cách đều và không đều, và cũng có khả năng vận dụng toàn bộ đều và toàn bộ không đều, dựa theo những quy tắc từ những vận động khác nhau của vật thể bay.
Nếu bốn cơ năng toàn bộ di chuyển đều nhau, thì vật thể bay sẽ ở trong vận động có quy tắc.
Nếu bốn loại cơ năng vận dụng theo tỉ lệ liên tục không bằng nhau, thì vật thể phi hành sẽ chuyển động theo vòng tròn.
Loại chim tôi đã mô tả phải bằng sự trợ giúp của gió để lên rất cao và điều này sẽ đem lại an toàn cho nó; bởi vì nếu tất cả những xoay vòng nêu trên mà hỏng, nó vẫn có đủ thời gian để lấy lại vị thế cân bằng miễn là những bộ phận của nó có một sức đề kháng lớn; vì vậy, chúng có thể chống đỡ một cách an toàn đối với xung lực mãnh liệt khi hạ xuống bằng trợ giúp của những lối tự vệ mà tôi đã nêu, và bằng những khớp nối được làm bằng da thuộc và chão kết bằng loại tơ thô rất khoẻ; và đừng ai để mình bị vướng vào những phiến sắt vì những phiến này rất mau bị gẫy ở các khớp và chúng bị tiêu mòn; vì lí do này, tốt hơn là không nên bị vướng víu với chúng.
[1] Leonardo đang mô tả một cái dù.
Bác Dụng
Ý Nhi
1.
Ngày từ ngày nhỏ tôi đã nghe ba tôi kể về bác Khương Hữu Dụng.
Chuyện bác Dụng được nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu đặt cho bút hiệu Thế Nhu, chuyện bác gái mất sớm, bác Dụng một mình nuôi 6 con thơ, chuyện bác Dụng bị chính quyền Pháp cách chức, không cho dạy học vì làm thơ yêu nước, chuyện bác Dụng dựng Quán Lưng đèo ở Đèo Le (Quế Sơn, Quảng Nam) kiếm kế sinh nhai (sau bác Dụng, chú Nguyễn Đình đổi tên thành Quán Nghèo). Quán nằm trên đỉnh đèo, nơi có dòng suối trong mát chảy len qua những tảng đá lớn. Ngày nay quán vẫn còn, có tên là quán Nước Mát, nổi tiếng với món cháo gà. Người ta bảo gà được luộc bằng nước suối ở đó có vị ngọt rất đặc biệt. Du khách sau khi ăn còn mua gà đem về Đà Nẵng làm quà.
Tâm cảnh của nội giới
Lê Minh Phong
Tác phẩm: Khâu vết thương đêm
Nghệ thuật của Đoàn Quỳnh Như, cả hội hoạ lẫn thi ca, đều là những nỗ lực phóng chiếu thế giới nội tâm. Ở đó, ta thấy một vùng trời rộng lớn và huyền bí khó xâm nhập, đó chính là tâm thức của thi sĩ. Nhờ vào những thi/ hoạ phẩm ấy, ta có thể lần tìm và cảm nhận được phần nào thế giới tâm thức mêng mông của Như, nơi không dễ để thấu cảm.
Ông Chiến sỹ Erwin Borchers
Nguyễn Xuân Thọ
1. Tái ngộ
Đầu năm 1968, chúng tôi vừa học xong sáu tháng tiếng Đức, bắt đầu vào học nghề điện tử ở trường Bưu điện Königs Wusterhausen, CHDC Đức thì bỗng một hôm có hai chị em người Đức đến thăm bọn tôi ở ký túc xá. Lúc này chúng tôi mới sang được hơn nửa năm, tiếng còn ú ớ nên vớ được hai chị em đều giỏi cả tiếng Đức và tiếng Việt thì rất mừng.
Đám cưới chuột
Huy Bảo
Bạn của tôi tên là K. Hắn mất hai năm sau khi tốt nghiệp đại học. Những câu chuyện luẩn quẩn về K không còn gì mới mẻ. Đến một lúc, sẽ không ai còn muốn nhắc về hắn nữa.
Mẹ tôi từng đưa cho tôi một cái lá bà ngắt ra từ cái cây mình trồng và hỏi có thơm không.
Đọc thơ nhân kỷ niệm 20 năm báo Tuổi Trẻ tại nhà Văn hóa Thanh niên
Bùi Chí Vinh
Đọc thơ Đen cho cố Thủ Tướng Võ Văn Kiệt mới lộ ra chất hào kiệt trong cách cư xử của ông. Khác xa cái đám đàn em của ông sau này lên cầm quyền thành phố. Tôi còn nhớ kỷ niệm 20 năm sinh nhật báo Tuổi Trẻ tổ chức tại sân khấu ngoài trời Nhà Văn hóa Thanh niên.
Bút kí của Leonardo da Vinci (4)
Hà Vũ Trọng dịch
Nguyên văn: The Notebooks of Leonardo da Vinci do Irma A. Richter biên tuyển, Ấn quán Đại học Oxford, 1991.
II. BỐN NĂNG LỰC CỦA TỰ NHIÊN
Trọng lực, cường lực, cùng với những chấn động, thường được cho là những cái sản sinh ra sự vận động cũng như được sự vận động sản sinh ra. Trong ba năng lực ngẫu nhiên này, thì hai loại năng lực có cùng một tính chất khi chúng phát sinh, xu hướng, và kết cục.
Sóng đồng bằng – những phận người dạt trôi trên dòng lịch sử
Đinh Thanh Huyền
Cuối tháng 7/2025, trên các trang thương mại điện tử, người ta đồng loạt giới thiệu về tiểu thuyết Sóng đồng bằng của Vũ Thành Sơn như thế này: “Một tiểu thuyết lịch sử giàu chất phong tục, một áng văn với ngôn ngữ đặc sắc về đồng bằng sông Cửu Long và số phận Phật giáo Hoà Hảo, ở vào thời điểm lịch sử đặc biệt – bình minh của nước Việt Nam hiện đại”. Không hiểu ai đã viết dòng giới thiệu ấy, nhà xuất bản, nhà sách, độc giả hay người bán sách? Nhưng chắc chắn, đó là một nhận định dễ dãi về một cuốn sách không dễ đọc. Tôi nghi ngờ mức độ hấp dẫn và tiềm năng bán hàng của dòng quảng bá đó bao nhiêu thì ái ngại cho đường đi của cuốn sách bấy nhiêu. Nếu đọc Sóng đồng bằng với tâm thế được tạo ra từ thông tin quảng bá, độc giả sẽ phiền lòng bởi nó không phải là một tiểu thuyết lịch sử với nghĩa nghiêm ngặt của thể loại.
Họa sĩ Đinh Ý Nhi: “Nhân vật của tôi không đi ra từ đâu cả”
Ngô Thị Kim Cúc (thực hiện)
Sinh năm 1967 tại Hà Nội, tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Hà Nội, Đinh Ý Nhi sớm xác định được phong cách riêng của mình. Tranh chị lan tỏa mạnh mẽ trong tâm trí người xem bởi một điều gì đó bí ẩn và dữ dội. Chị đã triển lãm cá nhân và triển lãm nhóm tại Việt Nam và một số nước như Hà Lan, Pháp, Nhật Bản, Bỉ, Đức, Thụy Sĩ, Mỹ, Canada, Thái Lan...
Đọc “Hoàng đế Hoan lạc” – cuốn tiểu thuyết mới của Ocean Vương
Cameron Shingleton
Đỗ Hồng Nhung dịch
Dù được giới thiệu là tiểu thuyết, cuốn sách mới nhất của Ocean Vương lại mang đến cảm giác giống như tự truyện hơn – một kiểu nhật ký được viết lại bằng trí tưởng tượng. Nối bước thành công vang dội của "Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian", “Hoàng đế Hoan lạc” (The Emperor of Gladness – EG) tiếp tục kể câu chuyện của những nhân vật Việt Nam trong cuốn sách trước.
Gia đình bé mọn (2005) – một thiên tiểu thuyết
Lê Hồng Lâm
Tôi đọc văn chương Việt Nam nhiều nhất là giai đoạn 1995-2005, thời gian tôi bước vào năm nhất đại học cho đến khi kết thúc giai đoạn làm báo (5 năm) ở tờ Sinh viên Việt Nam. Đọc trước hết vì say mê, sau nữa vì công việc vì thời đó tôi làm ở mảng văn chương khá nhiều, có những “bàn tròn” văn chương cũng gây xôn xao văn đàn một thời với những nhà văn nhà thơ, nhà phê bình tên tuổi của thời đó như Nguyên Ngọc, Dương Tường, Vương Trí Nhàn, Lê Đạt...
Bút kí của Leonardo da Vinci (3)
Hà Vũ Trọng dịch
Nguyên văn: The Notebooks of Leonardo da Vinci do Irma A. Richter biên tuyển, Ấn quán Đại học Oxford, 1991.
CHƯƠNG II
VŨ TRỤ
Trong thời đại của Leonardo, vũ trụ được nhận thức như là tác phẩm của đấng sáng tạo toàn năng và có mục đích. Bên trong một khối cầu bao la vạn tượng, bốn nguyên tố có những vùng đồng tâm được ấn định. Mặt đất chiếm tại trung ương. Bao quanh nó là nước; tiếp đến một tầng không khí; và rồi, bao vây toàn bộ, là lửa. Bốn nguyên tố này không yên nghỉ trong cõi riêng của chúng và không ngừng dao động và lấn vào những khu vực lân cận; và chính đặc tính của chúng cuốn hút chúng trở về nơi gốc – có thể gọi đó là định luật hấp dẫn. Leonardo đã lớn lên với quan niệm này dựa trên những truyền thống cổ đại và đã chấp nhận nó hoàn toàn; và vì ông đã tự học nên đôi lúc khó phân biệt ra đâu là những ghi chú biểu hiện tư tưởng độc sáng của ông hay đâu là những sao chép từ những sách tìm được trong suốt những cố gắng liên túc của ông đến với giác ngộ.
Tuy nhiên, khi lí giải hiện tượng, ông không tham khảo những tác nhân mang tính giả thuyết xa lạ, mà bằng chính những hoạt động của tự nhiên. Mặc dù đồng ý với một số lí thuyết ổn cố, ông bác bỏ những lí thuyết khác bằng phương pháp kinh nghiệm và thực nghiệm nghiêm nhặt của ông.
Ông khởi sự kiểm tra những tương tác của bốn năng lực tự nhiên: tức là, trọng lực và cường lực, vận động và chấn động. Ông quan sát những năng lực này khi dòng tác động bên trong bốn nguyên tố, trong nhiệt mặt trời, và trong lửa, trong gió, trong sóng và dòng nước, trong hình thành vỏ quả đất, trong sinh trưởng của thực vật, trong năng lượng cơ bắp của người và động vật.
Ông xúc tiến việc thiết lập những quy luật điều hành sự giải phóng năng lực và truyền lực. Tại sao không kiểm soát năng lực này và lợi dụng nó vào công việc cơ giới.
Ông đã thí nghiệm với lực bẩy, lực kéo, lực đẩy, và va chạm. Những phát minh đa dạng là kết quả từ những nghiên cứu của ông. Tuy nhiên, điều ông nghĩ tới là con người có thể lạm dụng đặc quyền của mình để gây nên sự huỷ diệt. Hơn nữa, Thiên nhiên lẽ nào không nổi dậy phản kháng và gây ra tai hoạ hay sao? Phần đầu chương này gồm việc mô tả về thế giới vật lí theo hình dung của Leonardo. Trong phần 2, một số ghi chú của ông về năng lực và về cơ học lí thuyết được phối hợp. Phần 3 đưa ra một vài trong nhiều ghi chú của ông bàn về cơ học ứng dụng: về ma sát, về những dụng cụ cân, ròng rọc, bánh xe, đinh ốc, v.v. Những nỗ lực của ông muốn kiến tạo một máy bay được mô tả trong Chương III.
I. BỐN LOẠI NGUYÊN TỐ
Anaxagora
Mọi vật đều từ mọi vật, mọi vật được tạo từ mọi vật, mọi vật có thể chuyển thành mọi vật khác; bởi vì cái tồn tại trong những nguyên tố được hợp thành bởi những nguyên tố ấy.
Cấu hình những nguyên tố
Về cấu hình những nguyên tố; đầu tiên, tôi phản đối những ai phủ định lối kiến giải của Plato, họ cho rằng nếu những nguyên tố này thâm nhập nhau trong hình thức mà Plato [trong Timaeus] đã quy cho, thì một khoảng chân không hẳn được tạo nên giữa nguyên tố này và nguyên tố kia. Tôi cho rằng điều này không đúng, vậy tôi chứng minh dưới đây, nhưng trước tiên tôi muốn đề xuất một số kết luận. Không cần thiết cho rằng những nguyên tố thâm nhập phải có kích thước tương xứng với mọi thành phần thâm nhập và bị thâm nhập. Chúng ta thấy rằng thuỷ cầu rõ ràng có độ sâu khác nhau từ bề mặt tới đáy; và nó không chỉ thâm nhập đất trong hình khối lập phương, mà còn trong hình bát giác, như Plato đưa ra; thế nhưng, khi nó thâm nhập và đất có vô số góc cạnh của đá và những lồi lõm khác nhau, thế nhưng lại không có khoảng chân không nào phát sinh giữa đất và nước; cũng vậy, không khí bao vây thuỷ cầu cùng sơn cốc vốn nhô trên phạm vi đó, và không có khoảng chân không nào còn lại giữa mặt đất và không khí, vì vậy hễ ai nói rằng một khoảng chân không phát sinh ở đó, thì nói một cách ngớ ngẩn..
Với Plato, tôi đáp rằng bề mặt những cấu hình nguyên tố theo ông, không thể nào tồn tại. Mọi nguyên tố uyển chuyển và lỏng thì cần thiết có bề mặt hình cầu. Điều này được chứng minh bằng thuỷ cầu. Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc đưa những quan niệm và những kết luận nhất định. Rằng vật thể càng cao thì càng xa khỏi trung tâm thế giới, và vật thấp hơn thì gần hơn với trung tâm. Nước không di chuyển tự thân trừ phi nó hạ xuống và nó hạ xuống khi lưu hành. Bốn khái niệm này, kết hợp theo từng cặp, dùng để chứng minh rằng nước không tự thân lưu hành và có bề mặt cách đều nhau so với trung tâm của thế giới. Chúng ta nói về đại khối và không nói về giọt hay tiểu khối hấp dẫn nhau như mạt thép.
Các thể nguyên tố đều thống nhất và bên trong chúng không có trọng lực hoặc khinh lực. Trọng lực và khinh lực được sản sinh từ hỗn hợp các nguyên tố.
[Với bản vẽ về bốn vòng tròn hướng tâm bao quanh bốn nguyên tố và một quả cân đặt bên trên.]
Tại sao quả cân không giữ nguyên vị trí của nó?
Nó không giữ nguyên vị trí bởi nó không có vật đỡ.
Nó sẽ di chuyển tới đâu? Nó sẽ di chuyển tới trung tâm. Tại sao không bằng những đường khác? Bởi trọng lượng không được nâng đỡ sẽ rơi xuống bằng đường ngắn nhất tới điểm thấp nhất là trung tâm thế giới. Và tại sao trọng lượng biết cách tìm ra đường ngắn như thế? Bởi nó không đi giống như một vật vô cảm giác và không đi quanh những hướng khác nhau.
Nguyên tố nước sẽ bị ngăn giữ trong những bờ sông đắp ụ và bờ biển. Vì thế, không khí bao quanh sẽ phải vây kín và tạo chu vi một kết cấu thổ nhưỡng gia tăng và càng phức tạp; và đại khối lượng đất này treo giữa nguyên tố nước và lửa sẽ bị cản trở và bị tước đi nguồn cung cấp độ ẩm cần thiết. Vì thế, những dòng sông sẽ cạn nước; đất tốt sẽ không còn nảy nở xum xuê; ruộng đồng không còn tô điểm bằng đám lúa nhấp nhô; tất cả động vật, không tìm thấy cỏ tươi đề ăn, sẽ bị diệt vong; thực phẩm sẽ thiếu đối với lũ sư tử và chó sói háu ăn cùng những thú săn mồi khác; và con người sau nhiều di dời tuyệt vọng sẽ buộc phải bỏ rơi sinh mạng mình, và nhân loại ngừng tồn tại. Theo cung cách này, mặt đất phì nhiêu và hoa lợi sẽ bị khô cằn và vô sinh; nhưng nhờ nước chứa trong lòng đất, và nhờ hoạt tính của thiên nhiên, nó sẽ duy trì trong một thời gian ngắn nữa theo quy luật sinh trưởng, cho tới khi không khí lạnh và loãng biến mất. Và rồi trái đất sẽ buộc phải chấm dứt với nguyên tố lửa và bề mặt của nó bị cháy thành than, và việc này sẽ kết liễu mọi thiên nhiên trên mặt đất.
- NƯỚC
Nước đối với Leonardo là mối hấp dẫn lớn. Ông xem nước như là động lực của vũ trụ và cho rằng có lẽ ông đã giải được những mầu nhiệm sáng tạo bằng việc nghiên cứu những quy luật vận động của nó qua đất và không khí.
Những bản vẽ và bản ghi nhớ rải rác trong khắp những thủ bản đề ngày tháng khác nhau cho thấy rằng chủ đề này thu hút sự chú tâm của ông ít nhiều có tính liên tục. Chúng ta có thể thấy ông đang đi dạo, bút kí trong tay, dọc bờ biển và đang trầm tư trước những đợt thuỷ triều lên và xuống, gió gợn mặt nước, sóng trào, cát xô dạt; hoặc có thể ông đang đứng bên bờ sông nhìn những dòng nước và xoáy nước, đang xem xét những lớp phù sa hai bên bờ sông; hoặc đang nấn ná bên ao tù nhìn vào những phản chiếu, ánh lấp lánh trên thảo mộc, và xem cá đùa ở dưới. Ông sẽ ném một viên đá vào nước lặng và so sánh những vòng tròn mãi lan rộng trên bề mặt với những sóng âm vang dội trong không trung. Lúc khác, có lẽ ông đang leo lên một sơn cốc để truy tìm nguồn một con suối trong khi quan sát thác nước và sự tán nghiền không ngừng của đá và sỏi. Những vỏ sò và những hoá thạch của biển tồn tại trong nội địa ở độ cao với tầng đất, đá khác nhau đem ông tới nhận thức về những dòng nước là những tác nhân chính trong việc hình thành bề mặt quả đất, và ông đã báo trước khái niệm về sự tiến hoá từng bước. Là một kĩ sư, ông khởi sự những đồ án về kênh đào, thuỷ lợi, hệ thống thoát nước và đưa sức nước vào những việc bơm, cưa, và xay nghiền. Là một kiến trúc sư, ông thiết kế các vòi nước phun và vườn cảnh. Là nhà nghệ thuật, ông thích đem vào trong bối cảnh những dòng suối quanh co qua những hình thành nham thạch, vì ông cho rằng người hoạ sĩ có thể miêu tả vừa hình tượng người vừa cảnh tự nhiên vô sinh, và con người phải được hình dung như là bộ phận hình thành của cuộc sáng tạo. Sự mô tả đầy tưởng tượng về trận Hồng thuỷ vẽ nên bức tranh về sức huỷ diệt của nguyên tố này. Ông cũng viết một cuốn sách luận về Tính chất của nước, và nó nằm trong phòng của ông khi Hồng y xứ Aragon tới thăm ông tại Amboise năm 1517. Một thủ cảo nhan đề “Luận về tự nhiên, trọng lượng và vận động của nước” hiện nay được bảo tồn dưới danh mục Leicester Codex (trong Sưu tập Bill and Melinda Gates).
Nước là kẻ thúc đẩy của tự nhiên.
Nước, vốn là khí chất sinh động của bộ máy địa cầu, tự thân lưu động bằng nhiệt lượng tự nhiên.
Trước tiên hãy viết về tất cả nước, trong từng chuyển động, rồi mô tả tất cả tầng đáy của nó và những chất liệu khác nhau của chúng, luôn tham chiếu tới những mệnh đề liên quan tới những dòng nước được nhắc tới; và hãy sắp xếp tốt trật tự, nếu không, công việc này sẽ bị hỗn loạn. Hãy miêu tả mọi hình dạng mà nước khoác lấy từ hình sóng cực lớn tới hình sóng cực nhỏ, và những nguyên nhân của chúng.
Những phân chia của cuốn sách
Cuốn 1 về tính chất của nước
Cuốn 2 về biển
Cuốn 3 về sông ngầm
Cuốn 4 về sông
Cuốn 5 về tính chất của nước sâu
Cuốn 6 về những chướng ngại vật
Cuốn 7 về sỏi
Cuốn 8 về mặt nước
Cuốn 9 về những vật thể vận động trên mặt nước
Cuốn 10 về việc chỉnh đốn sông
Cuốn 11 về đường dẫn nước
Cuốn 12 về kênh đào
Cuốn 13 về máy thuỷ lực
Cuốn 14 về việc đưa nước lên
Cuốn 15 về những thứ bị nước tiêu huỷ
Từ trình tự cuốn sách về nước
Thuỷ triều lên và xuống có được gây ra do mặt trăng hay mặt trời hay không, hoặc do sự phá tan của bộ máy trái đất. Thuỷ triều lên xuống giữa các quốc gia khác với nhau ra sao.
Cuối cùng núi bị san bằng bởi nước ra sao, nhìn chúng gội rửa địa cầu che phủ và để lộ nham thạch, rồi bắt đầu vỡ vụn và nguôi dịu vừa bằng nhiệt lượng vừa bằng băng giá liên tục biến đổi thành đất trồng trọt. Nước xói mòn nền tảng và núi non sụt lở dần dần sụp đổ xuống sông... chính vì nguyên nhân sụp đổ này, những dòng nước dâng lên thành trận lụt và hình thành những biển lớn.
Trong bão tố mãnh liệt, những đợt sóng quăng xuống mọi vật thể nhẹ ra sao và cuốn hút thật nhiều đất vào lòng biển, làm cho nước biển đục khắp một phạm vi lớn.
Bằng cách nào mà những khối đá rời ở dưới chân thung lũng rộng và dốc, khi chúng bị những đợt sóng nhồi đã trở nên những viên tròn nhẵn, và nhiều vật thể cũng vậy khi bị sóng xô hay hút vào lòng biển.
Bằng cách nào mà sóng yên và trải rộng khắp những vùng nước lặng sóng trên đại dương khi mà những luồng gió phản hướng gặp nhau.
Trình tự của cuốn sách đầu tiên về nước
Trước tiên định nghĩa trọng lượng và độ sâu nghĩa là gì; và một nguyên tố này được định vị bên trong một nguyên tố khác ra sao. Tiếp đến, trọng lượng đặc và trọng lượng lỏng nghĩa là gì; nhưng trước tiên, trọng lực và khinh lực tự thân chúng là gì. Sau đó miêu tả tại sao nước chuyển động, và tại sao chuyển động của nó ngừng lại; rồi mô tả tại sao dòng nước trở nên nhanh hoặc chậm hơn.
Trong bốn nguyên tố thì nước đứng hàng thứ hai về trọng lượng và về tính lưu động. Nó không bao giờ yên cho đến khi hoà vào biển, nơi đó, khi không bị gió quấy nhiễu, tự nó tạo lập và duy trì bề mặt cách đều với trung tâm thế giới.
Nước sẵn sàng bốc lên bởi khí nóng trong màn hơi nước mỏng qua không trung. Khí lạnh khiến nó đóng băng. Tức là, khí nóng khiến nước vận động, khí lạnh khiến nó đóng băng, tính bất động làm hư thối nó.
Nước là sự khuếch trương và khí chất của mọi cơ thể cần thiết cho sự sống. Thiếu nó, không gì bảo trì được hình thể. Bằng sự lưu nhập, nước kết hợp và tăng cường những cơ thể.
Nước nhận vào mọi mùi, màu, và vị mà bản thân nó không có.
Nước, bằng trọng lượng của nó, là nguyên tố thứ hai bao quanh địa cầu, và một bộ phận của nó nằm ngoài thuỷ cầu sẽ nhanh chóng tìm cách quay về nơi gốc. Và nó càng dâng cao trên vị trí nguyên tố của nó thì sẽ hạ xuống nơi gốc với tốc độ càng nhanh. Những phẩm chất của nó là ẩm và lạnh. Chính vì tính chất của nó là luôn tìm những nơi nằm thấp khi không bị kiềm chế. Nó sẵn sàng bốc lên cao bằng hơi nước và sương, và biến thành mây, lại thành mưa rơi xuống bằng những thành phần li ti của mây tập hợp và tạo thành những giọt. Ở những cao độ khác nhau, nó mang nhiều hình dạng khác nhau, đó là nước hoặc tuyết hoặc mưa đá. Nó không ngừng bị nhồi do không khí chuyển động, và nó tự gắn liền với vật thể nào đã dễ bị khí lạnh tác động nhất, và nó mang mùi và vị dễ chịu.
Không thể mô tả tiến trình vận động của nước trừ phi người ta trước tiên định nghĩa trọng lực là gì và nó được sản sinh và tiêu tan như thế nào...
Nếu toàn bộ biển nằm lên và tự nó chịu sức nặng lên đáy biển, thành phần của biển nằm trên thành phần của đáy biển; và khi nước có trọng lượng từ nguyên tố của nó sẽ đè nén và ép lên những vật thể nằm dưới đáy biển. Chúng ta thấy ngược lại; vì khi rong biển và cỏ mọc dưới những độ sâu đều không bị cong oằn hoặc bị nghiền nát dưới đáy này mà chúng rẽ qua nước một cách mau mắn như thể chúng đang mọc trong không khí.
Vì thế, chúng ta đi tới kết luận này: tất cả những nguyên tố, dù chúng không có trọng lượng trong phạm vi của chúng, nhưng có trọng lượng ở ngoài phạm vi của chúng, nghĩa là, khi chuyển động hướng lên bầu trời, mà không phải hướng xuống trung tâm địa cầu. Bởi vì nếu một nguyên tố di chuyển tới trung tâm này, nó gặp một nguyên tố khác nặng hơn chính nó, mà thành phần mỏng nhất và nhẹ nhất đang tiếp xúc một nguyên tố nhẹ hơn chính nó, và thành phần nặng hơn được đặt gần nguyên tố cũng nặng hơn chính nó.
Năng lực đó tự cho thấy lớn hơn đối tượng bị đè nén ở mức đề kháng nhỏ hơn. Kết luận này là phổ quát và chúng ta có thể ứng dụng đối với việc thuỷ triều lên xuống để chứng minh rằng mặt trời hay mặt trăng có sức đè nén mạnh hơn lên đối tượng của nó, tức là, trên thuỷ lưu, khi những dòng này độ sâu kém hơn. Do đó, những đầm nước cạn phải phản ứng mạnh với nguyên nhân của thuỷ triều hơn là những nơi cực kì sâu của đại dương.
Nước làm suy mòn những đỉnh núi cao. Nước vừa làm trơ trụi vừa di chuyển sơn thạch. Nước còn di đời những hải ngạn cổ khi nó nâng nền đáy biển lên bằng việc vun đất nó mang theo. Nước làm vỡ lở và phá huỷ những bờ cao. Ở đây, không sự ổn định nào có thể thấy được mà tính chất của nó lại không lập tức dẫn tới số không. Nước tìm kiếm qua những dòng sông ở mọi thung lũng dốc từ đó nó cuốn đi hoặc tích tụ thổ nhưỡng mới. Do đó, có thể nói rằng có nhiều sông ngòi qua đó tất cả nguyên tố nước này đã đi qua và đã nhiều lần trả biển về cho biển. Và không có bộ phận nào của mặt đất là quá cao vì biển đã ở ngay nền tảng của nó, và không có đáy biển nào là quá thấp vì những núi cao nhất đều có móng ở đó. Vì thế, nước khi thì đột ngột khi thì nặng nề, khi chua khi đắng, khi ngọt khi dày hoặc mỏng, có khi nó mang lại thiệt hại hoặc bệnh dịch, và rồi đem tới sức khoẻ, và cũng cả chất độc. Vì vậy, ta có thể nói rằng nước biến đổi thành nhiều tính chất tuỳ theo những địa phương khác nhau mà nó kinh qua. Như tấm gương biến hoá theo màu sắc vật thể, cũng thế nước biến hoá theo tính chất của nơi nó đi qua: ban sức khoẻ, gây tai hại, nhuận tràng, cầm máu, lưu huỳnh, muối, huyết tinh, ưu uất, ác liệt, giận dữ, đỏ, vàng, lục, đen, lam, trơn trượt, dày, mỏng. Khi thì mang tới hoả hoạn rồi dập tắt; khi ấm khi lạnh; khi mang đi xa rồi dìm xuống, khi đào trũng khi vun lên, khi giật xuống khi củng cố, khi đổ đầy rồi làm cạn, khi dâng cao và rồi đào sâu thêm, khi tăng tốc lực và rồi nằm im, có khi là nguyên nhân sống khi là nguyên nhân chết, khi sản sinh khi tước đoạt, khi nuôi dưỡng và có khi ngược lại, có khi mặn có khi nhạt, và có khi với những trận hồng thuỷ nhận chìm những thung lũng rộng lớn. Với thời gian, mọi thứ biến đổi. Có khi nó hướng lên phía bắc làm xói lở chân những bờ sông; khi thì lật nhào vào bờ sông đối diện phía nam; có khi nó chuyển hướng tới địa tâm để chiếm ngự ở dưới đáy vốn nâng đỡ nó; khi thì nó vọt lên sủi bọt và sùng sục hướng lên trời. Có khi nó hợp dòng cuộn thành vòng tròn, và có khi nó trải ra phía tây và cướp đoạt công lao trồng trọt của người nông dân, và rồi nó bồi đất lên bờ phía đông. Và như vậy, đôi lúc nó đào sâu và đôi lúc nó đổ đầy, cũng như khi thì lấy đi và khi thì bồi thêm. Như vậy, không ngừng nghỉ, nó mãi di dời và tiêu hao bến bờ của nó. Đôi khi nó cuồn cuộn và gầm lên cuồng nộ, đôi khi nó trong trẻo và thanh thản với dòng chảy hiền lành vui chơi giữa những đồng cỏ xanh tươi. Có khi nó từ trời rơi xuống bằng mưa hoặc tuyết hoặc mưa đá, có khi tạo thành những đám mây lớn đầy sương mù li ti. Có khi nó tự di chuyển, có khi bằng lực của những thứ khác; có khi nó nâng đỡ sự vật sinh ra nhờ độ ẩm có sinh khí, có khi hôi thối hoặc đầy mùi thơm tho. Không có nước, không gì tồn tại được. Có khi nó tắm trong khí nóng, hoà vào hơi nước để hỗn hợp với không khí, và được hút lên bởi nhiệt, nó lên cao tới vùng lạnh rồi nén lại với nhau do tính chất tương phản của nó, và những hạt li ti kết lại với nhau. Giống như bàn tay dưới nước bóp một miếng bọt bể đẫm nước khiến cho nước trong đó vuột qua những kẽ hở và xua phần còn lại ra khỏi vị trí bằng đợt sóng của nó, cũng thế với khí lạnh bị nén do độ nhiệt ẩm. Vì khi giảm thiểu sang hình thức cô đặc thì không khí bị nén trong nó thoát ra bằng lực thì bộ phận yếu nhất rồi xì ra như thể nó phát ra từ những ống bễ bị nén bởi một trọng lực không thể chịu nổi. Và như vậy, những đám mây nhẹ hơn trong những vị trí khác nhau hình thành những chướng ngại trong dòng theo luồng bị cuốn trôi.
Sóng
Sóng là sự thoái hồi của va đập và nó sẽ lớn hơn hoặc kém hơn về tỉ lệ tuỳ vào sức va đập lớn hơn hoặc kém hơn. Một đợt sóng không bao giờ chỉ một mình mà trộn lẫn với nhiều đợt sóng khác không đều lên trên bờ là nơi sóng sản sinh...
Nếu bạn ném một viên đá vào trong cái ao với những bờ lồi lõm khác nhau, tất cả những đợt sóng sẽ đánh vào những bờ này đều thoái hồi hướng về điểm nơi viên đá va vào; và khi gặp những đợt sóng khác chúng không bao giờ ngăn cản dòng của nhau... một đợt sóng sinh ra trong cái ao nhỏ sẽ đi và nhiều lần trở lại vị trí nó phát sinh... chỉ có ở ngoài khơi, sóng tiến tới mà không cuộn lại. Trong những ao nhỏ thì cùng một đả kích sẽ sản sinh ra nhiều chuyển động tiến và thoái. Đợt sóng lớn hơn được bao trùm vô kể những đợt sóng khác vận động theo những hướng khác nhau; và những đợt sóng này sâu hay nông tuỳ theo lực phát sinh ra chúng... nhiều đợt sóng xoay theo những hướng khác nhau có thể được tạo nên giữa bề mặt và đáy tầng của cùng khối lượng nước đồng thời... mọi ấn tượng gây nên bởi những vật thể đập lên mặt nước có thể xâm nhập lẫn nhau mà không bị tiêu tan. Một đợt sóng không bao giờ xâm nhập vào một đợt sóng khác; mà chúng chỉ cuộn lại từ chỗ mà chúng va chạm.
Khi đợt sóng cuốn tới bờ biển bởi lực gió, nó hình thành một cái mô để đặt phần trên của nó vào đáy và xoay lại cho tới khi nó vươn tới vị trí nơi nó bị nhồi trở lại bởi một đợt sóng kế tiếp đến từ bên dưới rồi xoay và lật nó lại, và như thế lật đổ cái mô và đánh lưng lần nữa lên bờ biển như đã nói trên, và cứ thế tiếp tục nhiều lần, và giờ đây lăn lên bờ bằng chuyển động phần trên còn phần dưới thì nó rút ra khỏi bờ... Nếu nước biển trở về với đáy biển sau việc va đập lên bờ, vậy bằng cách nào nó mang theo được các con sò, các loài nhuyễn thể, ốc, và những thứ tương tự được vớt lên từ đáy biển rồi để chúng lại trên bờ? Chuyển động của những thứ này hướng tới bờ biển bắt đầu khi sự va đập của đợt sóng đang trút xuống gặp đợt sóng phản xạ, bởi vì những vật thể dâng lên từ đáy biển thường nhảy vọt vào trong đợt sóng theo hướng tới bờ, và những thể rắn được đưa lên trong cái mô rồi kéo chúng trở xuống biển; và cứ thế chuỗi này tiếp tục cho tới khi bão bắt đầu yếu đi, và chúng được để lại từng bước một mỗi khi những đợt sóng lớn hơn vươn tới và kí gửi những chiến lợi phẩm mà chúng mang theo, và những đợt sóng sau không thể truy tới cùng dấu vết đó. Vì thế lưu lại những vật thể do biển cả ném lên.
Một đợt sóng biển luôn vỡ tan ngay trước chân sóng, và thành phần đó của ngọn sóng sẽ thấp hơn so với trước đó là cao nhất.
Chuyển động trôn ốc hoặc quay tròn của mọi thể lỏng thì nhanh hơn về tỉ lệ khi nó gần hơn tới trung tâm xoáy của nó. Đây là một thực kiện đáng chú ý, bởi vì vận động quay tròn thì chậm hơn nhiều khi nó tới gần với trung tâm của vật thể đang xoay quanh...
Hãy quan sát chuyển động của mặt nước, nó tương tự như thế nào với chuyển động của tóc gồm hai vận động – một đàng phụ thuộc vào trọng lượng của tóc, một đàng phụ thuộc vào hướng theo lôn tóc; như vậy, nước hình thành những xoáy tròn, một phần thuận theo động lực của dòng chủ lưu, và phần khác thuận theo chuyển động ngẫu nhiên và hồi lưu.
Trung tâm của một thuỷ cầu cá biệt hình thành những hạt sương li ti, thường thấy trong dạng cực tròn rơi xuống trên lá cây; hạt sương nhẹ tới mức nó không bị dẹp ra trên địa điểm nó đậu, và nó gần như được không khí bao quanh hỗ trợ, vì thế bản thân nó không dùng bất cứ áp lực nào hoặc hình thành bất cứ cơ sở nào; và bởi điều này, bề mặt của nó hướng tới trung tâm với lực bằng nhau từ mọi phía; và như thế mỗi phần tìm gặp nhau với dẫn lực bằng nhau và chúng trở nên hấp dẫn nhau, với kết quả là mỗi giọt cần thiết trở thành hình cầu hoàn hảo, hình thành trung tâm của nó ở giữa, cự li đều nhau từ mỗi điểm của bề mặt và chúng hút nhau như nam châm, và khi nó bị kéo cùng mức độ bởi mỗi phần trọng lực, nó luôn đặt bản thân nó vào trung điểm giữa những phần đối ngịch với trọng lượng bằng nhau. Nhưng khi trọng lượng của hạt nước này tăng lên, trung tâm của bề mặt hình cầu lập tức rời bỏ thành phần nước đặc thù này, và di chuyển tới trung tâm chung của hình cầu; và trọng lượng giọt nước này càng tăng, thì trung tâm của đường cong tiếp cận hướng tới trung tâm của thế giới.
Nếu một giọt nước rơi vào biển khi biển lặng, nó nhất thiết phải tuân theo toàn bộ mặt biển là dâng cao một cách tinh vi, bởi vì nước không thể bị nén vào như không khí.
- NƯỚC VÀ ĐẤT
Bề mặt của thuỷ cầu không ra khỏi chu vi của nó quanh trung tâm của thế giới vốn bao vây ở cự li đều. Và nó sẽ không di chuyển khỏi sự cách đều này nếu địa cầu, vốn chống đỡ và là bình chứa nước, không dâng lên ở trên nó, và xa khỏi trung tâm thế giới.
Địa cầu được di chuyển khỏi vị trí bằng trọng lượng của một con chim nhỏ đậu xuống nó.
Bề mặt của thuỷ cầu được di chuyển bằng một giọt nước nhỏ rơi vào nó.
Nước thiết yếu phải có nhiều hơn đất, và thành phần của biển nhìn thấy được không cho thấy điều này; vì thế ắt phải có nhiều nước nằm trong lòng đất, ngoài ra, còn có cái bốc lên khí thấp và cái chảy qua sông, qua suối.
Trong mọi nguyên nhân huỷ diệt tài sản của con người, đối với tôi, những dòng sông giữ vị trí quan trọng nhất vì những tràn ngập quá độ và cuồng bạo. Nếu có ai muốn dùng lửa để chống cự cơn giận dữ của những trận hồng thuỷ, tôi cho rằng, y hẳn là thiếu sức phán đoán, vì lửa sẽ suy yếu và tắt khi nhiên liệu cạn, nhưng chống cự lại sự tràn ngập không thể vãn hồi gây ra do những dòng sông dâng lên và cao mạn thì không còn giải pháp tiên liệu nào của con người có thể hữu hiệu; vì một loạt những đợt sóng dữ và cuồn cuộn làm sạt lở những bờ cao, trở nên đục ngầu do đất từ ruộng đồng đã cày xới, phá huỷ nhà cửa và bật rễ những cây cao, nó mang theo những thứ này cùng với nạn nhân của nó ra biển vốn là nơi ẩn trốn của nó, mang theo con người, cây cối, động vật, nhà cửa và đất đai, quét sạch mọi đê điều và mọi loại rào chắn, và mang theo những vật nhẹ, tàn phá và huỷ diệt những vật nặng, gây ra sự lở đất lớn từ những rãnh nứt nhỏ, lũ lụt ngập những thung lũng thấp, và ồ ạt ập đến với khối lượng nước phá huỷ và không thể ngăn chặn. Kẻ nào cận kề thì chỉ cần có cánh là bay lên!
Ôi, bao nhiêu thành phố, bao nhiêu đất đai, lầu đài, dinh thự, và nhà cửa bị tiêu tán!
Bao nhiêu công lao của nông dân bất hạnh trở nên vô ích và vô lợi! Bao nhiêu gia đình tan nát và chìm ngập! Tôi biết nói gì về những đàn gia súc chết đắm và mất tích! Và thường thường từ những đáy biển cổ đại lởm chởm đá phun ra và quét đi ruộng đồng đã trồng trọt...
(a) Hồng thuỷ và vỏ sò
Bởi vì sự vật cổ xưa hơn văn tự, nên không lấy làm lạ nếu trong thời đại chúng ta không có ghi chép nào tồn tại về những vùng biển này đã bao bọc nhiều xứ sở như thế nào; vả lại, nếu loại ghi chép như thế từng tồn tại, thì chiến tranh, hoả hoạn, hồng thuỷ, những thay đổi về ngôn ngữ và pháp luật, đã tiêu huỷ mọi vết tích của quá khứ. Nhưng chúng ta lại có đủ chứng từ về sự vật đã sản sinh trong nước mặn và tìm thấy lại trong những núi cao, xa khỏi những vùng biển ngày nay.
Trong tác phẩm này của bạn, đầu tiên bạn phải chứng minh rằng những vỏ sò ở độ cao một ngàn thước Ý (braccia) đã không được mang lên đó bởi cơn Hồng thuỷ, bởi chúng được thấy ở một mức độ và cùng mức độ, và nhiều quả núi được thấy lên cao trên mức độ đó một cách đáng kể; và muốn điều tra rằng trận Hồng thuỷ là do mưa gây ra hay do biển dâng lên; và sau đó bạn phải cho thấy bằng cách nào, không phải do mưa khiến sông dâng lên, cũng không phải do sự ngập lụt của biến khiến cho vỏ sò, là những vật nặng, được biển cuốn lên núi hoặc do sông mang lên đó ngược với những dòng chảy của chúng.
Giờ đây bạn phải chứng minh rằng vỏ sò không thể phá sinh nếu không ở trong nước mặn, mà hầu như tất cả thuộc loại đó; vỏ sò ở Lombardy đều ở bốn mức độ, và như vậy nó ở mọi nơi, được làm ra vào những thời đại khác nhau. Và chúng tất cả phát sinh trong những thung lũng mở hướng ra biển.
Vỏ sò và nguyên nhân hình dạng của chúng
Sinh vật trú bên trong vỏ sò tạo căn nhà của nó bằng những khớp, đường nối và mái che cùng những bộ phận khác nhau, giống như con người trong ngôi nhà của mình; và sinh vật này mở rộng căn nhà và lợp mái dần dần khi thân thể tăng trưởng vì nó gắn với những cạnh của vỏ. Do đó, độ sáng và độ nhẵn của những con sò này ở bên trong hơi bị mòn ở điểm chúng gắn với sinh vật trú trong đó, và khoảng hốc thì nhám, để tiếp nhận việc những cơ bắp đan chặt chẽ với nhau là phương tiện nhờ đó sinh vật tự thu mình ở trong khi nó muốn đóng căn nhà lại. Còn nếu bạn muốn nói rằng vỏ sò được thiên nhiên sản sinh nơi những quả núi này nhờ chịu ảnh hưởng của tinh tú, vậy bạn sẽ phải cho thấy với cách nào mà ảnh hưởng này sản sinh ra ở cùng một địa điểm những vỏ sò có kích thước và thời đại khác nhau, và có nhiều loại?
Sỏi
Và bạn sẽ giải thích ra sao với tôi sự kiện đá sỏi tất cả đều cùng tập trung và nằm nhiều lớp ở những độ cao khác nhau trên núi cao? Vì đây đó có thể thấy sỏi từ những bộ phận khác nhau cho tới cùng địa điểm bên những dòng sông chảy theo dòng; và loại sỏi này không gì khác ngoài là những mảnh đá vốn đã mất đi góc nhọn khi lăn lóc suốt một thời gian dài, và từ những cơn bão và thác nước khác nhau mà chúng đã kinh qua trong hành trình của những dòng thuỷ lưu đã đem chúng tới địa điểm này.
Nếu Hồng thuỷ đã đem vỏ sò có cự li khoảng ba và bốn trăm dặm từ biển vào, hẳn là đã mang theo hỗn tạp với những vật thể tự nhiên khác và chồng chất tất cả lên nhau; nhưng ngay cả ở cách xa biển như thế, chúng ta thấy những con trai và cả loài giáp xác cùng cá mực và mọi loài sò khác tập hợp lại, tất cả đều đã chết; và những vỏ sò đơn độc tìm thấy đã lìa khỏi nhau như chúng ta thấy chúng hàng ngày trên bãi biển.
Và chúng ta phát hiện những con trai tập trung thuộc nhiều chi họ, trong số đó, có thể thấy những vỏ vẫn còn dính khớp, biểu thị rằng chúng bị biển ở lại đó và chúng vẫn còn sống khi eo Gibraltar đã bị cắt qua. Trong vùng núi Parma và Piacenza, vô số vỏ sò và san hô với các lỗ có thể thấy vẫn còn dính vào nham thạch.
Dưới lòng đất và dưới những tầng khai quật sâu từ những mỏ đá là những xà gỗ được phát hiện đã hoá thành than. Chúng được phát hiện trong thời của tôi trong những cuộc đào xới ở Castel Fiorentino. Và những xà gỗ này bị chôn vùi trong những địa điểm sâu trước khi dòng Arno lắng cát trong biển và rồi bao phủ bình nguyên rồi nâng lên tới độ cao như thế, và trước khi bình nguyên Cassentino hạ thấp xuống rất nhiều do sự di dời của mặt đất và dòng Arno không ngừng cuốn trôi đi từ đó...
Đá đỏ của núi Verona được phát hiện thấy toàn bộ pha trộn với vỏ sò đã hoá thành loại đá này; miệng của một số vỏ sò đã bị xi-măng bịt kín vốn là chất liệu của đá; và ở một số bộ phận chúng vẫn giữ tách biệt với khối lượng đá mà chúng bao bọc; bởi vì lớp bọc ngoài của vỏ sò đã xen vào và ngăn trở chúng kết hợp; còn ở những địa điểm khác, loại xi-măng này đã hoá thạch lớp bọc ngoài.
Và nếu bạn có cho rằng những vỏ sò này đã được tạo ra và vẫn còn không ngừng được tạo ra ở những nơi như thế do tính chất địa phương ảnh hưởng và qua thần lực của các tầng trời tại các địa điểm này, lối kiến giải đó không thể nào tồn tại trong những bộ óc nào có năng lực lí tính, bởi vì qua bao năm tăng trưởng được đếm bằng những lớp bọc bên ngoài vỏ sò; và những lớp bọc lớn và nhỏ có thể thấy và chúng hẳn là không thể tăng trưởng mà thiếu thức ăn và không thể nào được nuôi dưỡng mà thiếu vận động, và ở đây, hẳn là chúng không thể vận động.
Và nếu bạn nói rằng chính Hồng thuỷ đã mang những vỏ sò này xa khỏi biển cả hàng trăm dặm, điều này không thể xảy ra vì Hồng thuỷ gây ra bằng mưa; bởi vì mưa dĩ nhiên buộc những dòng sông chảy ra biển và mang theo những vật thể, và chúng cũng không đưa lên núi những vật chết từ bờ biển.
Và nếu bạn nói rằng Hồng thuỷ dâng nước lên trên núi, vận động của nước biển theo hành trình của nó ngược dòng với sông hẳn là chảy rất chậm tới nỗi không thể mang theo, hoặc trôi nổi trên đó những vật thể nặng hơn bản thân nó; và thậm chí nếu có nâng đỡ chúng, thì sau đó khi Hồng thuỷ rút xuống sẽ để lại chúng rải rác khắp nơi khác nhau. Chúng ta phải giải thích thế nào đây với đám san hô thấy hàng ngày về hướng Monferrato ở Lombardy với những lỗ sâu ăn trên chúng, và dính chặt lên những tảng đá do những dòng sông để lại? Những tảng đá này bao phủ toàn bộ những giống và họ hàng của loài trai, như ta biết chúng không di động, mà luôn bám cố định bằng một trong những van của chúng vào đá, và mặt khác, chúng há ra nuôi những vi sinh vật bơi trong nước mong tìm thấy lương thảo, trở thành lương thực cho những loại sò này.
Ở đây, một nghi vấn phát sinh: trận Hồng thuỷ xảy ra trong thời Noah có mang tầm mức toàn thế giới hay không. Và dường như là không, vì những lí do sẽ nêu ra đây: Kinh Thánh nói rằng trận Hồng thuỷ liên tục 40 đêm ngày và mưa lớn khắp thế giới, và trận mưa này dâng cao mười cubit trên cả quả núi cao nhất thế giới. Tuy nhiên, nếu đúng như vậy thì trận mưa có tính toàn thế giới này hẳn là hình thành một lớp bọc quanh hình thể địa cầu. Và bề mặt hình cầu này trong mọi thành phần cách đều trung tâm của khối cầu; và các dòng nước của khối cầu tự tìm thấy điều kiện như đã nói trên thì không thể nào cho nước trên bề mặt di chuyển được; bởi vì nước không di chuyển tự ý trừ phi chảy dốc xuống. Vậy làm sao mà lượng nước lớn của trận hồng thuỷ rút lui được, nếu có chứng minh rằng nó không có năng lực vận động? Và nếu nó rút lui được, nó đi bằng cách nào trừ phi đi lên trên? Vậy ở đây, những lí do tự nhiên không lí giải được với chúng ta; do đó, để giải quyết nghi vấn này chúng ta phải cần tới hoặc là cầu cứu tới một phép lạ, hoặc cách khác, nói rằng nhiệt mặt trời đã làm bốc hơi trận nước này.
(b) Sông ngòi và địa tầng
Về những tỉ lệ khác nhau của tốc độ dòng chảy từ mặt nước xuống đáy.
Về những độ nghiêng cắt ngang giữa mặt nước và đáy.
Về những dòng chảy khác nhau trên mặt nước.
Về những dòng chảy khác nhau trên mặt lòng sông.
Về những độ sâu khác nhau của sông.
Về những dạng khác nhau của núi bao phủ bởi nước.
Về những dạng khác nhau của núi để lộ ra bởi nước.
Nơi nước chảy xiết dưới đáy mà không ở bên trên.
Nơi nước chảy chậm dưới đáy và chảy xiết ở bên trên.
Nơi nước chảy chậm ở dưới và bên trên và chảy xiết ở giữa.
Nơi nước trong sông tự khoáng trương và nơi nó thu rút. Nơi nó uốn khúc và nơi nó tự duỗi thẳng.
Nơi nó lưu nhập đều trong những nơi trong cả mặt sông và nơi không đều. Nơi nó thấp ở giữa và cao ở hai bên.
Nơi nó cao ở giữa và thấp ở hai bên.
Nơi thuỷ lưu chảy thẳng ở giữa dòng. Nơi thuỷ lưu xoáy, tự phân ra cảc phía khác nhau.
Về những độ nghiêng khác nhau trong những dòng chảy dốc của nước.
Thuỷ lưu là gì?
Thuỷ lưu là sự hợp tụ của những phản xạ dội lại từ bờ sông hướng về trung tâm của nó, trong đó hợp tụ của hai dòng nước dội lại từ hai bờ sông đối diện gặp nhau; và những dòng nước này khi chúng gặp nhau sản sinh ra những đợt sóng lớn nhất của sông, và khi những đợt sóng này rơi trở vào dòng nước thì chúng xâm nhập và đánh xuống lòng sông như thể chúng là chất thể nặng hơn phần còn lại của nước, rồi cọ sát xuống đáy, xới lên, làm tiêu hao, rồi mang theo và chuyển những vật liệu mà chúng đã đánh bật ra. Vì thế, độ nước sâu nhất của một dòng sông thì luôn ở bên dưới dòng thuỷ lưu lớn nhất.
Tôi nhận ra rằng bề mặt địa cầu từ cổ xưa được hoàn toàn đổ đầy và bao phủ lên bằng những tầng bình nguyên nước mặn, núi là xương cốt của địa cầu với nền móng rộng, đã xâm nhập, vượt trội lên không trung, rồi phủ lên và bọc bằng lớp đất rất cao. Tiếp theo, những cơn mưa không ngớt đã khiến cho những dòng sông càng dâng nước lên và bởi việc trôi chảy luôn tái diễn đã lột trần bộ phận những đỉnh cao ngất ngưởng của những quả núi này, vì thế nham thạch tự tìm cách phô bày ra ngoài trời, và đất lìa khỏi những địa điểm này. Và đất từ những sườn và những đỉnh núi cao cũng đã hạ xuống chân núi, và nâng đáy biển vốn bao quanh những chân núi này, và làm cho bình nguyên lộ xuất, và ở một số bộ phận đã đẩy biển ra rất xa.
Trong mỗi hốc lõm trên đỉnh núi chúng ta luôn tìm thấy những phân đoạn địa tầng trong nham thạch.
Trước kia, đại bộ phận thung lũng bị các hồ bao phủ như thế nào, bởi vì thổ nhưỡng của chúng luôn hình thành những bờ sông, và bởi biển, rồi sau đó, qua tác dụng kiên trì của những dòng sông... đã cắt ngang qua núi; và những dòng sông trong dòng chảy lãng đãng đã cuốn trôi những bình nguyên cao bị núi bao vây; và những đường cắt ngang núi hiển thị bằng địa tầng trong nham thạch tương ứng với những vệt cắt tạo ra bởi những dòng chảy của sông đã nói ở trên.
Một dòng sông chảy từ núi đã để lại khối lượng lớn những cự thạch dưới đáy sông, và những cư thạch này vẫn còn bảo lưu một số góc và cạnh; và khi nó tiếp tục dòng chảy thì nó mang theo những khối đá nhỏ hơn với những cạnh và góc bị mòn, và vì thế những khối đá lớn làm thành những khối nhỏ hơn; và cứ thế đầu tiên nó để lại sỏi thô nhám và rồi láng mịn, và như vậy tiếp tục dòng nước đục với cát và sỏi ra tới biển.
Cát lắng đọng lên bờ biển là do sự vỗ lại của sống biển, cho đến khi cát trở nên thanh mịn gần như nước. Và cát sẽ không ở lại trên bờ biển mà về lại với những đợt sóng bởi vì độ nhẹ của nó, bao gồm lá cây mục và những vật thể rất nhẹ khác. Và do đó, như đã nói, gần như mang tính chất của nước, rồi thì, khi thời tiết yên tĩnh, cát rơi xuống và nằm yên dưới đáy biển, và nhờ độ thanh mịn, nó nén lại và đề kháng lại những đợt sóng vượt qua nó vì độ trơn tru của nó; và ở đây ta thấy những vỏ sò; và đây là loại đất trắng thích hợp để làm đồ gốm.
Mọi nguồn nước tuôn ra từ núi rồi chảy ra biển và cuốn theo đá núi trôi ra biển; và do sự dội lại của nước biển vỗ vào núi cho nên những hòn đá này bị trả về núi, và vì những dòng nước hướng ra biển và trả về những hòn đá lật cùng với chúng và trong khi chúng lăn thì những góc của chúng va mạnh vào nhau; còn những bộ phận ít đề kháng thì bị xói mòn bằng những cú va đập nên bị mòn nhẵn, những hòn đá không còn góc cạnh đã trở nên hình tròn, như chúng ta thấy trên bờ biển Elba. Còn những khối đá lớn hơn ở lại vốn ít di chuyển khỏi địa điểm bản địa của nó; còn những khối càng nhỏ thì càng bị mang đi xa hơn khỏi địa điểm đó; vì thế trong quá trình chúng biến thành những viên sỏi nhỏ và rồi thành cát và cuối cùng thành bùn. Sau khi biển đã rút xuống khỏi những quả núi đã nói trên, thì nó để muối đọng lại bằng hơi ẩm khác từ mặt đất kết hợp với sỏi và cát này, do vậy sỏi biến thành đá và cát biến thành đá vôi. Và chúng ta thấy ví dụ này ở Adda, nơi nó xuất hiện từ những quả núi vùng Como và ở Ticino, Adige, Oglio và Adria từ rặng Alps nước Đức, và cũng vậy ở Arno từ Monte Albano gần Monte Lupo và Capraia nơi những tảng đá lớn nhất đều hình thành từ sỏi rắn lại từ những viên đá khác nhau và màu sắc khác nhau.
Điều đầu tiên và thiết yếu nhất là tính ổn định. Giống như với những nền móng gồm những thành phần của đền đài và những công thự, mà những độ sâu của chúng có cùng tương quan với nhau, tuỳ theo trọng lượng đặt trên chúng. Mọi thành phần thuộc độ sâu của đất trong một địa điểm nào đó được kết hợp bằng những tầng, và mỗi tầng được kết hợp bằng những thành phần nặng hơn và nhẹ hơn; tầng thấp nhất là tầng nặng nhất. Và nguyên nhân ở đây là những tầng này được hình thành từ sự trầm tích từ nước thải ra do thuỷ lưu của sông chảy vào nó. Thành phần nặng nhất của lớp trầm tích này là thành phần đã thải ra đầu tiên và cứ thế theo các mức độ: ở đây là tác động của thuỷ lưu khi nó trở nên cố định, mặc dù đầu tiên khi nó di chuyển nó mang theo. Những tầng đất này có thể thấy trên bờ sông mà những dòng chảy liên tục của chúng đã cắt ngang và chia quả đồi này ra khỏi quả đồi khác bằng một kẽm sâu, nơi những dòng nước đã rút lui khỏi đá cuội từ những bờ sông; và điều này đã khiến chất liệu này trở thành khô cạn và thành đá cứng, đặc biệt là đất bùn thuộc kết cấu mịn nhất như thế.
(c) Địa trung hải
Mọi sơn cốc đều do những dòng sông hình thành, và tỉ lệ giữa những sơn cốc cùng tỉ lệ giữa sông và sông. Sông lớn nhất trong thế giới chúng ta là sông Địa trung hải, nó chảy từ những nguồn sông Nile tới Đại Tây Dương.
Lòng Địa trung hải, như một biển lục địa, đón nhận những dòng nước chính từ châu Phi, châu Á, và châu Âu chảy về nó; và những dòng thuỷ lưu của nó chảy tới chân những ngọn núi và bao quanh rồi hình thành nên những bờ sông.
Và những đỉnh Apennines dựng đứng trong vùng biển này như những hải đảo bao quanh bởi nước mặn. Cho đến nay Châu Phi cũng chưa như thế, đằng sau rặng Atlas của nó, phơi mở ra mặt đất gồm những bình nguyên rộng lớn lộ thiên trong phạm vi khoảng ba ngàn dặm. Và Memphis dựng trên bở biển của vùng biển này, và ở trên những bình nguyên của Ý, nơi những đàn chim trời đang bay ngày nay, lũ cá vẫn còn bơi trong những vũng lớn.
Về sự tiêu thoát hay bốc hơi của nước Địa trung hải
Địa trung hải, một dòng sông bao la toạ lạc giữa châu Phi, châu Á, và châu Âu, tập hợp trong bản thân nó khoảng 300 dòng sông chính, và ngoài ra, nó tiếp nhận lượng mưa rơi trên nó suốt một không gian ba ngàn dặm. Nó trả về cho đại dương hùng vĩ lượng nước của nó và lượng nước mà nó nhận; nhưng không hồ nghi, nó trả về cho đại dương ít hơn những gì nó nhận; vì từ nó truyền xuống nhiều mạch suối chảy dưới lòng đất và tạo thêm sức sống cho cỗ máy của đất. Như vậy là do bề mặt của Địa trung hải xa trung tâm của thế giới hơn là bề mặt của đại dương... và ngoài ra, hơi nóng mặt trời liên tục làm bốc hơi một bộ phận nước của Địa trung hải, và do đó, lượng biển này có thể tiếp thu nhưng lại ít tăng thêm từ những cơn mưa nói trên.
Thuỷ triều lên xuống không đều ra sao, vì trên bờ biển Genoa không có gì biến động; ở Venice chỉ biến động 2 thước Ý; giữa Anh và Pháp biến động 18 thước Ý. Bằng cách nào dòng thuỷ lưu chảy qua những eo Sicily rất mạnh, bởi vì mọi dòng nước sông qua những eo này, chúng tự chảy vào biển Adriatic.
Dòng Danube hay Donau chảy vào Hắc Hải, vốn trước kia mở rộng gần như tới Áo và bao phủ tất cả bình nguyên nơi Danube chảy qua ngày nay. Bằng chứng cho thấy những con trai và vỏ sò, điệp và xương của những loại cá lớn vẫn còn thấy ở nhiều nơi trong những sườn cao của những quả núi ấy: và biển này đã được thành hình bằng việc đổ đầy những đỉnh núi nhọn của rặng Adula vốn mở rộng tới phía đông, và liên kết những đỉnh răng cưa lởm chởm của rặng Taurus mở rộng tới phía Tây. Và gần Bithynia, những dòng nước của Hắc Hải này rót vào Propontis đổi vào Biển Aegean, đó là Địa trung hải, nơi cuối một thuỷ lưu dài những đỉnh của rặng Adula tách ra khỏi những đỉnh của rặng Taurus; và Hắc Hải chìm xuống và lộ ra khu thung lũng Danube với những tỉnh mang địa danh nêu trên, và toàn bộ vùng Tiểu Á bên kia rặng Taurus về phía bắc, và bình nguyên trải từ Núi Caucasus tới Hắc Hải ở phía tây, và bình nguyên Don phía bên này của dãy Núi Ural, chính là chân của chúng. Như thế, Hắc Hải hẳn là phải chìm thấp xuống khoảng 1,000 thước Ý để lộ xuất những bình nguyên bao la như thế.
Không thể phủ nhận sông Nile luôn bị đục khi đổ vào Biển Ai-cập và bị đục gây ra do đất mà sông này cuốn theo liên tục từ những nơi mà nó đã đi qua; đất không trở lại, và biển cũng không tiếp nhận ngoại trừ nó ném đất lên những bờ biển. Hãy nhìn vào đại dương cát bên kia Núi Atlas, nơi nó đã từng bao phủ bằng nước mặn.
Bằng cách nào sông Po trong một thời gian ngắn lại có thể làm khô cạn Biển Adriatic cùng với cách như nó đã làm khô một bộ phận lớn vùng Lombardy.
- NƯỚC VÀ KHÔNG KHÍ
Hãy mô tả những đám mây được thành hình ra sao và chúng tan biến ra sao, và nguyên nhân nào khiến hơi nước từ nước của địa cầu đi vào trong không khí, và những nguyên nhân gây nên sương mù và không khí trở nên dày đặc, và tại sao nó xuất hiện có màu lam đậm hoặc nhạt vào lúc này chứ không phải lúc khác; và cũng miêu tả những vùng không khí, và nguyên nhân gây ra tuyết và mưa đá, nước co lại và thành nước đá, và mô tả về những hình dạng mới mà tuyết kết thành trong không trung, và những hình dạng mới của lá cây ở những xứ lạnh, và trên những đỉnh núi cao đóng băng, sương muối tạo ra những hình dạng thảo mộc kì quái với lá cây đa dạng, sương muối tác động y như thể sương dùng để nuôi và bổ dưỡng cho các loại lá cây ấy.
Nước vận động trong nước, cách tiến hành tương tự không khí trong không khí.
Âm học (acoustics)
Mặc dù các loại âm thanh thâm nhập không khí, nguyên được phát sinh bằng chuyển động vòng tròn, tuy nhiên, những vòng tròn hướng ngoại từ những trung tâm khác nhau mà không có cản trở nào, và chúng thâm nhập và băng qua nhau nhưng vẫn duy trì trung tâm mà chúng nảy sinh.
Bởi trong mọi trường hợp vận động của nước có điểm rất tương tự với không khí, cho nên tôi sẽ dẫn chứng nó làm ví dụ cho mệnh đề nói trên. Tôi cho rằng: nếu bạn đồng thời ném hai viên đá nhỏ vào chỗ hai mặt nước tĩnh vào hai thời gian khác nhau, bạn sẽ quan sát thấy quanh hai điểm chúng chạn vào mặt nước, là hai loạt vòng tròn riêng biệt được hình thành, chúng sẽ gặp nhau khi khuếch đại kích thước và rồi thâm nhập và giao nhau, trong khi vẫn luôn duy trì trung tâm của chúng ở những điểm mà các viên đá đã va chạm. Và lí giải cho tình huống này, tuy hiển nhiên là ở đó cho thấy vận động nào đó, nhưng nước không đời chỗ bởi vì những lỗ hổng tạo ra bởi những viên đá không ngừng khép lại, và chuyển động gây ra bởi những lỗ hổng bất ngờ và việc nước đóng lại tạo nên một loại dao động nhất định mà người ta có thể mô tả như là rúng động thay vì chuyển động. Và điều tôi mô tả có thể rõ ràng hơn với bạn, hãy nhìn những cọng rơm, vì độ nhẹ tênh của chúng nổi trên mặt nước và không di chuyển khỏi vị trí gốc bởi đợt sóng cuộn dưới chúng là khi những vòng tròn này tới. Cái dấu ấn trên mặt nước, vì thế, (mang tính chất) là rúng động hơn là chuyển động, những vòng tròn không thể làm vỡ nhau khi chúng gặp gỡ, và bởi nước vẫn cùng phẩm chất khắp nơi mọi thành phần của nó, và truyền độ rung động từ vòng tròn này sang vòng tròn kia cho nhau mà không đổi chỗ của chúng. Vì nước luôn giữ nguyên vị trí, nó có thể dễ dàng đưa độ rung này từ những thành phần kế cận sang những thành phần kế cận khác, và cường độ của nó suy giảm đều đặn cho đến khi kết thúc.
Hệt như viên đá ném vào mặt nước trở thành trung tâm và nguyên nhân của những vòng tròn khác nhau, sóng âm thanh tạo ra trong không trung lan toả bằng những vòng tròn, vì thế mọi vật thể đặt trong không trung được chiếu sáng tự nó lan đi bằng những vòng tròn và làm đầy những thành phần bao quanh bằng vô số hình tượng của chính nó, và xuất hiện ra toàn thể trong toàn thể và toàn thể trong mỗi phần.
Không khí
Không khí khởi động nhanh hơn so với nước, vì thường khi sóng li khai khỏi địa điểm tạo ra nó mà không thay đổi vị trí; tương tự những đợt sóng khi mà luồng gió tạo ra trên cánh đồng lúa vào tháng Năm, ta nhìn thấy những đợt sóng cuồn cuộn trên cánh đồng không làm cho những bông lúa thay đổi vị trí của chúng.
Các nguyên tố có thể hoá thành nhau, khi không khí hoá thành nước qua việc tiếp xúc với vùng lạnh, điều này tự hấp dẫn mãnh liệt tất cả không khí bao quanh và di chuyển mãnh liệt để làm đầy phạm vi bị bỏ trống do không khi đã thoát ra; và như thế cứ khối lượng này di chuyển tiếp theo một khối lượng khác, cho tới khi chúng được cân bằng một phần cái không gian mà không khí đã phân li, và đấy là gió. Nhưng nếu nước hoá thành không khí, thì lúc đó thoạt đầu không khí chiếm không gian mà trong đó sự gia tăng vừa nói chảy vào cần phải nhường chỗ để tăng tốc độ và xung động tới cho không khí được tạo ra, và đấy là gió.
Mây hoặc hơi nước trong gió được sản sinh bởi nhiệt và nó bị tác động mạnh và bị hơi lạnh xua đuổi, và bị xua đi ở phía trước nó, ở đâu hơi ấm bị trục xuất thì hơi lạnh ở lại. Và bởi mây bị xua không thể lên cao vì hơi lạnh nén nó xuống và cũng không thể hạ xuống vì nhiệt nâng nó lên, vì vậy nó phải theo hướng ngang; và tôi cho rằng nó không tự vận động, vì như đã nói, những năng lực thì đồng đều, chúng hạn chế chất thể này ở giữa chúng một cách đồng đều, và nếu nó có ngẫu nhiên tránh thoát thì nó phân tán và rải rác ở mọi hướng hệt như miếng bọt bể đầy nước bị vắt tới nỗi nước vọt ra ngoài trung tâm miếng bọt bể ra mọi hướng. Do đó, gió bắc cũng vậy, có lúc và đồng thời trở nên nguồn gốc của mọi cơn gió.
Loại gió ấy sẽ có sự vận động ngắn hơi tuy mạnh hơn lúc đầu; và lửa dạy chúng ta khi nó phát ra từ khẩu súng cối, cho thấy hình dạng và tốc độ qua làn khói nhả ra không khí bằng chuyển động ngắn và rải rác. Nhưng độ mạnh từng cơn của gió cho thấy làn bụi tốc lên không trung theo những cách xoắn và cuốn khác nhau. Người ta cũng nhận thấy giữa những dãy núi Alps có sự va chạm của các cơn gió gây ra bởi xung động của nhiều lực khác nhau; người ta thấy những lá cờ trên những chiếc tàu phất phới theo những luồng chảy khác nhau ra; trên mặt biển một bộ phận nước bị va đập mà không phải một bộ phận khác; và cũng điều này xảy ra ở những quảng trường và trên những bãi cát của sông, nơi cát bụi bị quét đi dữ dội ở một bộ phận này mà không phải bộ phận khác. Và bởi vì những hiệu ứng đó cho ta thấy tính chất của nguyên nhân, ta có thể nói với chắc chắn rằng cơn gió nào khởi đầu có xung lực mạnh hơn sẽ có vận động ngắn hơn; và điều này đưa ra bằng thí nghiệm nói trên cho thấy vận động ngắn của làn khói từ miệng súng cối. Và điều này phát sinh từ sự đề kháng mà không khí bị nén lại do chấn động của làn khói này vốn bản thân nó cũng bị nén để mà chống lại gió. Nhưng nếu gió vận động chậm nó sẽ trương rộng ra một khoảng cách rất dài theo một đường thẳng, bởi không khí bị nó thâm nhập sẽ không ngưng tụ phía trước nó và sẽ không cản trở vận động của nó, mà sẵn sàng lan toả luồng của nó trên một không gian rất dài.
- ĐẤT, NƯỚC, KHÍ, VÀ LỬA
Ở đây, Leonardo leo lên núi Monte Rosa vào một ngày hè đẹp với bầu trời trên đầu xanh biếc. Khao khát của ông là muốn nhìn kĩ những khu vực thượng tầng ngoài khí quyển – phạm vi của Nguyên tố Lửa. Ông giả định đó là những vùng “bóng tối bao la” còn màu xanh lam của bầu trời là do phản chiếu của ánh sáng từ những hạt nhỏ trong không khí, đã được xác nhận bằng những khảo sát gần đây trong tầng tĩnh khí.
Về màu sắc của khí quyển
Tôi cho rằng màu xanh lam nhìn thấy trong bầu khí quyển không phải là màu tự thân nó mà được tạo nên do độ nhiệt ẩm bốc hơi bằng những nguyên tử rất tinh vi không thể nhận thấy và tia mặt trời khiến chúng phát quang trên nền bóng tối bao la của vùng nguyên tố lửa hình thành một tấm bọc phủ bên trên chúng. Điều này có thể thấy, như chính tôi đã thấy, bởi bất cứ ai leo lên Monte Rosa (Hồng Sơn), một đỉnh thuộc rặng Alps phân đôi Pháp khỏi Ý...
Tại đó, tôi thấy khí quyển âm u ở bên trên đầu và mặt trời khi nó chiếu lên vùng núi này lại chói chang hơn nhiều so với trên bình nguyên phía dưới, do lớp khí quyển mỏng hơn bởi một phạm vi nhỏ hơn giữa đỉnh núi và mặt trời.
Để minh hoạ thêm về màu sắc của khí quyển, ta lấy làn khói từ gỗ khô và cũ, khi nó bốc lên từ ống khói thì một màu xanh lam đậm hơn dễ nhận thấy trên nền trời sẫm. Nhưng khi nó toả lên cao hơn trên nền khí quyển sáng thì lập tức nó biến thành sắc xám tro. Và điều này xả ra bởi vì không còn màn tối bên ngoài nó nữa... nếu làn khói phát sinh từ khúc gỗ tươi thì nó sẽ không có màu xanh lam, bởi vì nó không trong suốt và đã bị tích tụ nhiều hơi ẩm, nó sẽ sinh ra hiệu quả của đám mây dày đặc mang những độ sáng và tối như thể nó là một vật thể rắn. Điều này cũng xảy ra khi một lượng lớn khí quyển nằm giữa mắt nhìn và nguyên tố lửa, sắc độ của màu xanh lam sẽ sâu thẳm hơn; như chúng ta nhìn qua thuỷ tinh xanh lam và qua ngọc phỉ thuý vốn sẫm hơn vì chúng dày hơn về tỉ lệ. Nhưng khí quyển trong những tình huống này như thể tác động chính xác theo cách tương phản, vì ở đâu có một lượng lớn khí quyển nằm giữa mắt và khu nguyên tố lửa, thì nơi đó nó xuất hiện trắng hơn nhiều. Điều này xảy ra về hướng chân trời. Và mức độ khí quyển càng ít giữa mắt và khu nguyên tố lửa thì độ xanh lam xuất hiện càng nhiều, ngay cả khi chúng ta ở những bình nguyên thấp. Vì thế, tôi có thể nói, khí quyển mang màu xanh da trời này là do những hạt hơi nước bắt gặp tia sáng mặt trời.
Hãy chứng minh bề mặt của khí cầu nơi nó tiếp giáp với hoả cầu, và bề mặt của hoả cầu và nơi nó chấm dứt bị ánh thái dương xâm nhập và truyền đi những hình tượng thiên thể, to khi chúng đi lên và nhỏ khi chúng ở kinh tuyến.
Hãy lấy a là địa cầu, và ndm là bề mặt không khí giáp với hoả cầu; hfg là quỹ đạo mặt trời; vậy tôi nói rằng khi mặt trời xuất hiện ở chân trời g thì quang tuyến nhìn thấy xuyên qua bề mặt của không khí ở góc nghiêng – om; đây không phải trường hợp ở dk. Và vì thế quang tuyến xuyên qua một khối lượng lớn không khí.
Về nhiệt trong thế giới
Ở đâu có sự sống ở đó có nhiệt, và ở đâu có sinh nhiệt ở đó có vận động của hơi nước. Điều này đã được chứng minh, do đó chúng ta thấy nguyên tố lửa bằng nhiệt lượng của nó luôn luôn thu hút về nó tới làn hơi ẩm và sương mù dày, chẳng hạn như những đám mây mờ đục mà nhiệt bốc lên từ biển cũng như hồ, sông và thung lũng ẩm thấp; khí nóng này thu hút theo những cấp độ tới tận vùng lạnh, bộ phận đầu ngưng lại, bởi vì nhiệt và ẩm không thể tồn tại cùng với lạnh và khô; và ở đâu bộ phận đầu tiên ngưng, phần còn lại ổn định, và như vậy hết bộ phận này đến bộ phận khác được bổ sung, những đám mây dày và tối được hình thành.
Mây thường lướt nhẹ và được gió mang đi từ vùng này tới vùng khác, ở đâu ngưng tụ, chúng trở nên rất nặng đến nỗi rơi xuống thành cơn mưa lớn; và nếu nhiệt của mặt trời tăng cường lực của nguyên tố lửa, thì những đám mây bị kéo lên cao hơn và tìm một cấp độ lạnh nhiều hơn, từ đó chúng hình thành băng đá và rơi xuống thành những trận bão đá. Có khi cùng loại nhiệt nâng lên một trọng lượng nước rất lớn mưa xuống từ những đám mây, kéo chúng từ dưới lên trên, từ dưới chân những quả núi, và dẫn đưa và tích giữ chúng trên những đỉnh núi, và chúng tìm những kẽ núi, liên tục thoát ra và tạo nên những dòng sông.
Giống như nước chảy ra theo những lối khác nhau từ miếng bọt bể bị vắt, hoặc không khí thoát ra từ cặp ống bễ, cũng vậy với những đám mây mỏng trong suốt bị xua lên cao qua phản chiếu do nhiệt gây ra; một bộ phận tự tìm thấy ở vị trí cao nhất vươn tới vùng lạnh trước tiên và tạm nghỉ ở đó bởi nó gặp độ lạnh và khô, chờ đồng hành của nó. Bộ phận ở dưới bốc lên tới bộ phận đứng yên xử lí với lớp không khí ở giữa như thể nó là chiếc ống hút, và rồi bộ phận này thoát ra theo kiểu giao nhau và hướng xuống; nó không thể hướng lên bởi nó gặp đám mây dày tới nỗi không thể xâm nhập.
Vì lí do đó, mọi cơn gió đánh lên mặt đất đều giáng xuống từ bên trên, và khi chúng đánh lên mặt đất đang cản lại thì chúng phát sinh một loại vận động cuộng lại, khi nó cố gắng trỗi dậy để gặp cơn gió đang giáng xuống, vì thế việc lên cao để phá vỡ trật tự tự nhiên bị kìm hãm, và nó phải đi hướng ngang và tiếp tục theo đuổi dòng mãnh liệt không ngớt sượt qua mặt đất.
Khi những cơn gió nói trên đánh lên những dòng nước biển, thì hướng gió có thể thấy rõ theo góc độ được hình thành do những tuyến tới (incidence) và cuộn lại (recoil); và từ những thứ này dẫn đến những đợt sóng nhô lên, đe doạ và nhận chìm, đợt này là nguyên nhân của đợt khác.
Như hơi ấm tự nhiên lan toả khắp chi thể con người bị đẩy lùi bởi khí lạnh bao quanh, vốn là đối nghịch và là kẻ thù của nó, chảy về lại cái hồ của quả tim, và lá gan tự nó củng cố lại, làm cho những thứ này trở nên thành trì và tự vệ, cũng vậy, những đám mây được tạo nên bằng hơi ấm và độ ẩm, và vào mùa hè có hơi nước khô nhất định, tự chúng tìm tới vùng lạnh và khô, tác động theo cách bông hoa và lá khi bị tấn công bởi sương muối lạnh thì nén hơi lạnh lại và tăng lực đề kháng.
Vì thế, những đám mây ấm này thoạt đầu tiếp xúc với khí lạnh, chúng bắt đầu đề kháng và không muốn vượt xa hơn; những đám mây khác ở dưới tiếp tục lên cao; bộ phận ở trên dừng lại tiếp tục dày đặc; hơi ấm và độ khô thoái lui về trung tâm; bộ phận ở trên bị hơi ấm bỏ rơi bắt đầu đông lại hoặc đúng hơn là tan dần; những đám mây bên dưới tiếp tục lên cao và nén hơi ấm tới gần vùng lạnh; và như vậy hơi ấm bị kiềm hãm trở về với nguyên tố cơ bản của nó bất ngờ chuyển thành lửa và tự chạy ngoằn ngoèo khắp vùng hơi nước khô, và trong trung tâm của mây càng lúc càng tăng cường, và thắp nhóm lên trong đám mây vốn đã trở nên mát lạnh, nó tạo nên tiếng ầm ì tương tự như tiếng nước sùng sục trong chiếc bình đun sôi hoặc dầu, hoặc tiếng của đồng bị nấu chảy khi nhúng vào nước lạnh; dù vậy, bị đẩy ra bởi phía đối ngịch, nhưng nó phá tan đám mây chống đỡ cho nó và và lao đi khắp không trung để phá và huỷ mọi thứ nào chống lại nó; đấy là sét.
Ở đâu lửa không thể cháy thì không động vật hít thở nào có thể sống được
Phần đáy của ngọn lửa là khởi điểm của ngọn lửa và qua nó tiêu đi tất cả những dưỡng chất dầu mỡ; và nó ít độ nóng hơn phần còn lại của ngọn lửa, cũng như ít độ sáng hơn; còn sắc lam của ngọn lửa, chính ở đây dưỡng chất của nó được tống xuất và tiêu hao. Bộ phận kia có ánh lửa sáng hơn, nhưng đây là khởi đầu khi ngọn lửa xuất hiện và nó sinh ra trong hình cầu, rồi sau đó, nó sản sinh bên trên hình cầu một ngọn lửa rất nhỏ có màu sắc sáng rực và hình dạng như quả tim, với điểm nhọn hướng lên trời; và ngọn lửa này tiếp tục nhân lên tới vô tận bằng việc hấp thu chất nuôi dưỡng nó.
Ngọn lửa màu lam được tạo thành dạng hình cầu... và không tự tạo thành một hình kim tự tháp cho tới khi nó làm ấm đủ không khí bao quanh; và nhiệt chủ yếu của ngọn lửa xanh lam này hướng lên theo xu hướng di chuyển tự nhiên của ngọn lửa, cũng là lộ trình ngắn nhất tới hoả cầu.
Màu của ngọn lửa lam không di động. Dưỡng chất để nuôi ngọn lửa này bằng cây nến bản thân không di động. Do đó, sự vận động tất phải phát sinh do những nguyên nhân khác. Cái phát sinh ra sự không di động này là không khí, nó ùa tới làm đầy khoảng chân không tạo ra do không khí bị tiêu hao bởi ngọn lửa trước đây. Ánh sáng sinh ra khoảng chân không, rồi không khí ùa tới cứu trợ cho khoảng chân không này.
- TIỂU VŨ TRỤ VÀ ĐẠI VŨ TRỤ
Những thế giới hữu cơ và vô cơ cả hai đều mang tính chất tương tự và chịu cùng những quy luật tự nhiên. Con người là một bộ phận của một thế giới, là một tiểu vũ trụ nằm trong một đại vũ trụ.
Phần mở đầu luận về nước
Con người đã từng được người xưa gọi là một tiểu vũ trụ, danh xưng này quả rất thích hợp. Xét rằng, nếu con người được kết hợp bằng đất, nước, khí, và lửa, thì cơ thể của địa cầu cũng tương tự. Trong khi nội bộ con người có xương cốt làm giá đỡ và khung sườn của thịt, thế giới có nham thạch để chống đỡ đất. Trong khi nội bộ con người có một kho máu trong đó có phổi khi kẻ ấy hô hấp nở ra hoặc co vào, cũng thế, cơ thể của đất có đại dương cũng dâng lên và rút xuống cứ mỗi sáu giờ cùng hô hấp của thế giới; cũng như từ cái kho máu nảy sinh các huyết mạch và toả các nhánh khắp nhân thể, cũng thế, đại dương đổ đầy cơ thể của đất với vô số mạch nước.
Tuy nhiên, trong cơ thể của đất thiếu những dây thần kinh, và những thứ này vắng bởi dây thần kinh được tạo ra cho mục đích vận động; và vì thế giới thường xuyên bình ổn, ở đây không có sự vận động xảy ra, cho nên không cần thiết có dây thần kinh. Nhưng trong mọi thứ khác thì con người và đất rất tương tự.
Giải thích về sự hiện diện nước trên những đỉnh núi
Tôi cho rằng, giống như nhiệt tự nhiên của máu trong những huyết mạch lưu giữ nhiệt trong đầu người, và khi con người chết thì máu lạnh chìm xuống những bộ phận phía dưới, còn khi mặt trời làm ấm đầu người thì lượng máu trong đó gia tăng và tăng trưởng rất nhanh cùng với những dịch thể (humour) khác, chính do áp lực trong huyết quản nên nó thường xuyên gây nên những chứng đau đầu; cũng tương tự như vậy với những dòng suối rẽ nhánh đi khắp cơ thể địa cầu, và bởi nhiệt tự nhiên lan khắp cơ thể hàm chứa, cho nên nước ở lại trong những dòng suối trên đỉnh núi cao. Và nước chảy qua một thuỷ đạo phong kín bên trong cơ thể của núi như một vật chết không ra khỏi trạng thái dưới nhiệt thấp, bởi nó không được sưởi ấm bởi sinh nhiệt của dòng suối đầu tiên. Hơn nữa, nhiệt của nguyên tố lửa và ban ngày là nhiệt mặt trời có năng lực kích hoạt sự ẩm ướt của những vùng thấp và kéo chúng lên đỉnh núi giống như kéo những đám mây và triệu tập độ ẩm từ lòng biển.
Cùng nguyên nhân làm lưu động những dịch thể trong mọi loại sinh thể đi ngược với luật tự nhiên về hấp lực, nó cũng thúc đẩy nước chảy qua những mạch của đất mà nó phong kín trong đó và phân phối nước qua những thông đạo nhỏ. Và như máu dâng lên từ phía dưới và trút qua những mạch gẫy trên trán, như nước đưa lên từ bộ phận thấp nhất của dây nho lên các nhánh đã bị cắt, cũng thế từ độ sâu nhất của biển, nước dâng lên tới những đỉnh núi, ở đó, nó tìm những đợt sóng bị vỡ, trào ra và quay về đáy biển. Như vậy, sự vận động của nước bên trong và bên ngoài luân phiên thay đổi, khi thì buộc phải dâng lên, khi thì đổ xuống tự do theo tự nhiên. Như vậy khi liên hoàn với nhau, nó đi vòng vòng và liên tục xoay quanh, đi tới đi lui lúc bên trên bên dưới, chẳng bao giờ nằm yên, hoặc trong dòng chảy của nó hoặc trong bản tính của nó. Bản thân nó không có gì nhưng lại nắm giữ mọi thứ, thay đổi thành nhiều tính chất khác nhau tuỳ những địa phương khác nhau trong dòng chảy của nó, tác động y như chiếc gương phản chiếu nhiều hình tượng tuỳ vào có bao nhiêu vật thể qua trước mặt nó. Vì thế nó liên lục biến đổi, khi thì về vị trí, khi thì về màu sắc, khi thì hấp thu những mùi mới hoặc vị mới, khi thì nó bảo lưu những thể chất hoặc phẩm chất mới, khi thì nó mang sự chết chóc, khi sự khoẻ mạnh, đôi khi nó vào không khí hoặc tự đẩy lên cao do nhiệt, và khi vươn tới vùng lạnh, nhiệt đưa nó lên bị ép bởi khí lạnh. Và như bàn tay ép vào miếng bọt bể dưới nước thì nước chảy ra tràn vào dòng nước khác, vì thế, khí lạnh nén không khí trộn lẫn vào với nước, khiến cho nó thoát ra mãnh liệt và xua đẩy lớp không khí khác; vậy đây là nguyên nhân của gió.
Thật là niềm thán phục cao độ đối với những ai quan sát nước tự trỗi lên từ độ sâu nhất của biển lên tới những đỉnh núi cao nhất rồi rót xuống qua những mạch đứt rồi trở về với biển sâu và lại trỗi lên nhanh chóng và lại hạ xuống, và cứ như thế, toàn bộ nguyên tố này tuần hoàn. Cứ từ cao xuống thấp, cứ chảy vào chảy ra, khi thì vận động tự nhiên, còn khi vận động ngẫu nhiên thì nó tương tập và kết hợp. Cho nên, vòng thay đổi theo sự tuần hoàn liên tục theo cách truyền nước của cây nho khi nó rót nước qua những nhánh bị cắt rồi lại rơi xuống trên gốc rễ của nó, và lại dâng qua những thông đạo rồi lại rơi trở lại trong vòng tuần hoàn liên tục.
Nước gặp không khí qua những mạch đứt của những đỉnh núi cao, đột nhiên bị bỏ rơi bởi lực đem nó tới, và rồi thoát li khỏi những lực này và bắt đầu lại quá trình tự nhiên của nó trong tự do.
Cũng vậy, nước trỗi lên từ rễ thấp của cây nho tới phần ngọn cao rồi rớt lên qua những nhánh bị cắt rớt xuống rễ rồi lại dâng lên chỗ mà từ đó nó rớt.
- MỘT TINH THẦN GIỮA NHỮNG NGUYÊN TỐ:
NHỮNG GIỚI HẠN CỦA NÓ
Về tinh thần
Chúng ta đã nói, định nghĩa về tinh thần là một năng lực kết hợp với thân thể, bởi tự thân nó không thể nào lên cao hoặc làm bất cứ loại vận động nào trong không gian, và nếu bạn nói rằng tự nó có thể lên cao, mà điều này không thể tồn tại trong những nguyên tố. Vì nếu tinh thần là một lượng vô hình thể, thì lượng này được gọi là một chân không được phát sinh, và chân không này không tồn tại trong tự nhiên; giả định rằng chân không đó được tạo thành, lập tức nó ắt bị đổ đầy do sự ập vào của nguyên tố trong chân không đã phát sinh đó. Do đó, bằng định nghĩa về trọng lượng, nói rằng trọng lực là một năng lực ngẫu nhiên, được tạo nên do một nguyên tố hấp dẫn hoặc ép đẩy hướng tới một nguyên tố khác, thì nó đi theo bất cứ nguyên tố nào không có trọng lượng trong một nguyên tố hấp thu trọng lượng bởi việc đi vào nguyên tố ở trên nó, và nhẹ hơn bản thân nó. Chúng ta thấy rằng một bộ phận của nước không có trọng lực hoặc khinh lực (levity) khi nhập vào bộ phận của nước khác, nhưng sẽ hấp thu trọng lượng nếu bị kéo lên không khí; và nếu bạn kéo không khí xuống phía dưới nước, nước tự thấy mình nằm trên vùng không khí này hấp thu trọng lượng, mà trọng lượng nó không thể tự chống đỡ, và vì thế sự sụp đổ của nó là không thể tránh khỏi; và nó sẽ rơi xuống nước ở địa điểm có chân không. Cũng giống như vậy tất xảy ra với một tinh thần nếu nó ở giữa những nguyên tố nơi nó liên tục phát sinh một chân không trong bất kể nguyên tố nào, nó thấy mình trong đó và vì lí do này hẳn nó sẽ liên tục bay hướng tới bầu trời cho tới khi nó rời bỏ những nguyên tố đó.
Tinh thần có thân thể giữa những nguyên tố hay không
Chúng ta đã chứng minh một tinh thần không thể tự tồn tại giữa những nguyên tố mà không có thân thể, nó cũng không thể tự vận động tuỳ ý trừ phi trỗi lên cao. Giờ chúng ta cho rằng một tinh thần khoác lấy một thân thể bằng không khí tất yếu phải hỗn hợp vào không khí này; bởi nếu nó vẫn giữ đơn nhất thì với không khí nó sẽ phân li và rơi xuống khi chân không phát sinh, như đã nói trên; do đó, thật cần thiết nếu nó có khả năng duy trì trạng thái lơ lửng trong không trung, và nó sẽ phải hấp thu một lượng không khí nhất định; và nếu nó có hỗn hợp với không khí, hai khó khăn theo sau, nó sẽ làm hiếm phần không khí mà nó hỗn hợp với, và vì lí do này không khí bị hiếm đó sẽ bay lên trên tự ý và sẽ không ở lại giữa không khí vốn nặng hơn bản thân nó; và, hơn nữa, khi tinh yếu này lan rộng, nó trở nên ngăn cách và tính chất của nó biến đổi và vì thế nó đánh mất một số năng lực ban đầu. Thêm vào đó, còn có khó khăn thứ ba, đó là thể khí lấy ra khỏi tinh thần thì bị phơi ra trước những đợt gió xâm nhập và không ngừng tách ra và xé lẻ những bộ phận kết hợp của không khí, xoay và cuốn chúng giữa lớp khí kia; do đó, tinh thần bị thấm nhuần trong không khí này bị chặt hoặc bị xé và bị phá bằng thứ không khí mà nó bị thâu nhập.
Tinh thần mang thể khí có thể tự vận động hay không
Tinh thần thấm nhuần vào một lượng không khí nhất định thì sẽ có một năng lực di động khí này; điều này đã chứng minh ở trên khi nói rằng tinh thần làm thưa thớt một phần không khí mà nó nhập vào; vì thế, khí ấy sẽ trỗi bên trên khí kia, và sự vận động này sẽ được khí tạo ra qua độ nhẹ của nó, mà không phải qua vận động tuỳ ý của tinh thần, và nếu khí này gặp gió, [căn cứ vào lí do] ở phần luận thứ 3 ở trên, thì khí sẽ di động bởi gió mà không bởi tinh thần khuếch tán vào trong đó.
Tinh thần có thể nói hay không
Nếu muốn chứng minh tinh thần có thể nói hay không, điều cần thiết trước tiên là định nghĩa tiếng nói là gì, và nó phát sinh ra sao; vậy ta sẽ mô tả như sau: tiếng nói là sự vận động của không khí ma sát vào một vật thể đậm đặc, hoặc một vật thể đậm đặc ma sát vào khí – đều tương tự; và sự ma sát với thể hiếm ngưng tụ với thể hiếm và gây nên đề kháng; hơn nữa, thể hiếm khi di động mau, và thể hiếm di động chậm thì ngưng tụ nhau khi tiếp xúc, và tạo nên tiếng ồn hoặc tiếng động lớn; và tiếng nói hoặc tiếng thì thầm gây ra do thể hiếm này đi qua một độ loãng khác với tốc độ vừa phải thì giống như một ngọn lửa lớn tạo ra tiếng ồn trong không khí. Còn tiếng gầm lớn nhất do thể hiếm tạo ra với một thể hiếm khác khi một thể hiếm di chuyển mau xâm nhập vào thể hiếm khác bất động; ví dụ như ngọn lửa phát sinh từ khẩu súng lớn đột kích vào không khí; cũng vậy, như ngọn lửa phát sinh từ đám mây đập vào không khí, và vì thế tạo ra sét.
Vì thế, ta có thể nói rằng không có vận động của không khí thì tinh thần không thể sản sinh ra tiếng nói, trong tinh thần không có tiếng nói nào và nó không thể bật ra những gì mà nó không có; và nếu nó muốn di động không khí mà nó khuếch tán, thì tinh thần cần thiết phải tự nhân lên, và nó không thể nhân lên mà không có số lượng. Và như trong phần thứ tư đã nói, thể hiếm không thể di động được trừ phi nó có một điểm cố định để từ đó sinh ra vận động; hơn thế nữa, trong trường hợp của một nguyên tố vận động bên trong nguyên tố của nó, mà tự bản thân không vận động, ngoại trừ bằng sự bốc hơi đều tại trung tâm của vật được bốc hơi: như xảy ra với miếng bọt bể bị vắt trong bàn tay bóp dưới nước; nước thoát ra khỏi nó ra mọi hướng với vận động đều nhau qua những khoảng hở giữa những ngón tay của bàn tay vắt ép.
Tinh thần có phát ra tiếng nói hay không, và có thể nghe được tinh thần hay không, và nghe và thấy gì, và sóng âm thanh qua không khí ra sao và những hình ảnh vật thể đi qua mắt ra sao.
Không có tiếng nói nếu không có vận động hoặc chấn động trong không khí; không có chấn động của không khí nếu không có khí cụ; không có khí cụ nào mà không có thân thể; hiển nhiên, một tinh thần có thể không có tiếng nói, hoặc thân thể, hoặc sức mạnh; và nếu như nó mang lấy một thân thể thì nó không thể nhập được vào cửa đã đóng. Và nếu có ai nói rằng qua không khí tụ lại và nén lại, một tinh thần có thể mang những thân thể của những hình dạng khác nhau, và nhờ đó nó có thể lên tiếng và di chuyển bằng lực – tôi xin đáp lại kẻ ấy rằng ở đâu không có dây thần kinh hoặc xương cốt thì ở đó không thể có những tinh thần đảm đương sức thi triển trong bất cứ vận động nào tạo ra do những tinh thần tưởng tượng.
- VÒM TRỜI
Theo những truyền thống cổ đại được chấp nhận phổ quát trong thời đại Leonardo, địa cầu với những nguyên tố của nó được bao kín và vây quanh bởi cõi trời với những thiên thể vừa không nặng, không nhẹ, vừa không bị huỷ hoại. Nhìn xa ngoài hiện tượng của địa cầu này, Leonardo đã gắng áp dụng những phương pháp quan sát và diễn dịch vòm trời. Ông thiết dựng một loại loại đài quan sát bằng cách lắp đặt một khí cụ quang học dưới cửa sổ trời của mái nhà của mình và khảo sát về tính chất của mặt trăng.
Những hồ nghi nảy sinh trong đầu ông về hệ thống theo Ptolemy. Mặt trời có xoay quanh địa cầu không? Trên một trang bút kí toán học, ông đã viết bằng những con chữ lớn: “Mặt trời không chuyển động”.
Để nhìn thấy tính chất của những hành tinh, hãy mở mái cửa sổ trời, và ghi nhận một hành tinh đơn độc ở mặt đáy: sự vận động phản chiếu lên mặt đáy này sẽ cho thấy tính chất của hành tinh này; nhưng sắp đặt sao cho mặt đáy chỉ phản chiếu chỉ một lần mỗi thời điểm.
Hãy kiến tạo những kính [phóng đại] để nhìn thấy mặt trăng được to hơn.
Có thể tìm những phương tiện nhờ đó mắt thường không nhìn thấy những vật thể ở xa sẽ được thu nhỏ lại nhiều như chúng ở trong phối cảnh tự nhiên, ở đó chúng thu nhỏ bởi vì độ lồi của mắt cần thiết giao nhau tại bề mặt những hình chóp của mỗi hình ảnh truyền tới mắt giữa những góc vuông hình cầu. Nhưng phương pháp mà tôi cho thấy ở đây cắt những hình chóp này ở những góc vuông gần bề mặt của đồng tử. Đồng tử lồi của mắt thu vào vào toàn bộ cảnh tượng bán cầu của chúng ta trong khi điều này cho thấy chỉ một ngôi sao; nhưng ở đâu nhiều ngôi sao nhỏ truyền hình ảnh của chúng tới bề mặt đồng tử thì những ngôi sao sẽ cực nhỏ; ở đây, chỉ một ngôi sao được thấy nhưng nó sẽ lớn. Cũng thế, mặt trăng sẽ lớn hơn và những vết đốm của nó càng nổi bật. Bạn thử đặt một li thuỷ tinh đầy nước gần con mắt... nước làm cho vật thể ngưng kết trong những khối cầu thuỷ tinh kết tinh xuất hiện như thể không có thuỷ tinh.
Về con mắt. Những vật thể nhỏ kém hơn đồng tử nếu ở gần nhất thì con mắt sẽ ít nhận ra nhất. Từ kinh nghiệm này chúng ta biết rằng thị lực không bị giảm thành một điểm... Thế nhưng, những hình ảnh vật thể truyền tới đồng tử được phân phối trên đồng tử này hệt như chúng được phân phối trong không trung: bằng chứng cho thấy là khi chúng ta nhìn vào bầu trời đầy sao mà không nhìn cố định hơn vào một ngôi sao nào; vậy thì bầu trời xuất hiện tất cả với muôn sao tản mác; và lỉ lệ của chúng trong con mắt tương tự như trong bầu trời, và cũng tương tự như vậy với các khoảng cách giữa chúng.
Về mặt trăng
Mặt trăng tự thân không có sáng, nhưng chỉ phần nào mặt trời nhìn thấy thì chiếu sáng. Phần chiếu sáng đó mà ta chỉ thấy khi nó quay về ta. Và đêm của nó nhận được đúng số ánh sáng mà nước trên trái đất gửi cho nó khi nước này phản chiếu trên mặt trăng hình ảnh của mặt trời, và được chiếu gương trên tất cả những nước đối diện với mặt trời và mặt trăng.
Bề mặt của nước, của mặt trăng và của trái đất chúng ta luôn luôn rập rờn ít hoặc nhiều, và độ gồ ghề này là nguyên nhân cho sự khoáng đại ra vô số hình tượng của mặt trời phản chiếu lên đồi núi và thung lũng, biên duyên và ngọn sóng; trong những điểm sáng khác nhau trên mỗi đợt sóng cũng nhiều như có những con mắt nhìn từ những vị trí khác nhau. Điều này không thể nào xảy ra nếu thuỷ cầu với đại bộ phận bao phủ mặt trăng đều có hình cầu một cách đồng bộ, và như vậy ở đó sẽ có một hình ảnh của mặt trời cho mỗi con mắt, và những phản chiếu của nó sẽ rõ rệt và sự toả sáng của nó luôn mang hình cầu như cho thấy rõ ràng trong những quả cầu mạ vàng đặt trên chóp những toà nhà cao. Nhưng nếu những quả kim cầu đều gồ ghề hoặc được tạo bằng những viên nhỏ như quả dâu tằm vốn là loại trái cây màu đen lại gồm nhiều hạt tròn nhỏ, vậy thì mỗi bộ phận của những hạt tròn nhỏ này đều thấy được qua mặt trời và với mắt sẽ phô bày với mắt sự lấp lánh sản sinh do sự phản chiếu của mặt trời. Như thế, trong một vật thể duy nhất sẽ có nhiều mặt trời li ti; và thường thì những mặt trời này sẽ hỗn hợp ở khoảng cách xa và liên tục xuất hiện.
Không vật sáng nào tồn tại gồm những vật thể ít sáng hơn. Mặt trăng có vị trí trong những nguyên tố của nó hay không. Và nếu mặt trăng không có vị trí đặc biệt như địa cầu giữa những nguyên tố, bằng cách nào nó lại không rơi vào chính giữa những nguyên tố của chúng ta? Không vật nhẹ nào tồn tại giữa những vật nhẹ hơn. Và nếu nó nhẹ hơn mọi nguyên tố khác thì tại sao nó đặc và không trong suốt?
Chứng minh địa cầu là một tinh cầu
Trong thuyết trình của bạn, bạn phải chứng minh rằng địa cầu là một tinh cầu rất giống với mặt trăng, và sự huy hoàng của vũ trụ; sau đó, bạn phải trình bày kích thước của các tinh cầu theo các tác giả.
Mặt trời không chuyển động.[1]
Mặt trời có chất thể, hình dạng, vận động, toả sáng, nhiệt, và nguyên động lực (generative power): những phẩm chất này tất cả đều phát xạ từ nó mà không suy giảm.
Mặt trời không hề thấy bất kì bóng tối nào.
Tán dương mặt trời
Nếu bạn nhìn vào những tinh cầu không tia sáng (như khi nhìn vào chúng qua một cái lỗ nhỏ đục bằng mũi kim cực nhỏ và và đặt sao cho hầu như áp sát mắt), bạn sẽ nhìn thấy những tinh tú này rất nhỏ gần như thể không gì nhỏ hơn được nữa; thực sự thì cự li thật xa là nguyên nhân cho sự thu nhỏ của chúng, vì nhiều tinh cầu trong số chúng lớn hơn gấp nhiều lần cái tinh cầu vốn là địa cầu với nước. Vậy thử nghĩ xem, cái tinh cầu này của chúng ta gần như ở một cự li vô cùng xa là gì, và rồi thử xem có bao nhiêu tinh cầu có thể đặt vào kinh độ và vĩ độ giữa những tinh cầu này và rải rác khắp bóng tối mênh mang này. Tôi có thể chẳng làm gì khác hơn là khiển trách nhiều người trong số những người xưa khi họ cho rằng mặt trời không lớn hơn vẻ bên ngoài của nó; trong số họ là Epicurus; và tôi tin rằng ông lí giải như vậy là từ những hiệu quả của một nguồn sáng đặt trong tầng khí quyển của chúng ta có cự li đều từ trung tâm; bất cứ ai thấy nó, không bao giờ thấy nó suy giảm kích thước ở bất cứ cự li nào... nhưng ước gì tôi có ngôn từ dùng để khiển trách những ai hân hoan tán tụng việc sùng bái con người hơn cả việc sùng bái mặt trời; vì trong toàn vũ trụ, tôi không thấy một thực thể nào có kích cỡ lớn hơn và mạnh hơn thực thể này, còn ánh sáng của nó thắp sáng mọi thiên thể phân phối khắp vũ trụ. Mọi hoạt lực bắt nguồn từ nó bởi nhiệt trong những tạo vật phát sinh từ linh hồn (tia sáng đời sống); và cũng không có nhiệt hay ánh sáng nào khác trong vũ trụ... Và chắc chắn những ai đã chọn sùng bái những nhân vật như những thần linh, chẳng hạn Mộc tinh, Thổ tinh, Hoả tinh, và những thứ tương tự, phạm một sai lầm rất lớn, bởi ngay cả nếu một kẻ dù có to lớn như địa cầu, y hẳn là có vẻ giống như một trong những thứ nhỏ nhất của những tinh cầu, có vẻ chỉ là một cái đốm trong vũ trụ; huống chi những kẻ ấy đều phải chết và và phải chịu huỷ hoại và thối rữa trong những nấm mồ.
[Tác phẩm] Spera và Marullo cùng những người khác đều tán dương mặt trời.[2]
[1] Một phát biểu tương tự của Galilei hơn một trăm năm sau đã bị kết án là dị giáo
[2] Tác phẩm Spera của tác giả Goro Dati, Florence, 1482, những dòng 16-22 ca tụng mặt trời. Còn tụng ca mặt trời của Marullus được phát hành trong Hymni et epigrammata của M. Tarcaniota, Florence, 1487.