Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2025

Emmanuel Mounier và chủ nghĩa nhân vị

 Dương Thắng

I. THUYẾT NHÂN VỊ RA ĐỜI ĐỂ CHỐNG LẠI “PHI NHÂN HÓA”

Trong nửa đầu thế kỷ XX, các nhà sử học đều có chung một nỗi ám ảnh về sự khủng hoảng của nền văn minh phương Tây, họ lo sợ rằng nền văn minh này có thể tự hủy diệt trong một cuộc tự sát thảm khốc hoặc sẽ rơi vào một tình trạng thoái hóa, khi mà những cỗ máy sẽ thay thế cho con người cùng với những khát vọng cao cả của họ, khi mà xã hội sẽ ngày càng trở nên “phi nhân hóa”. Đó cũng là nỗi lo âu lớn nhất của triết gia Công giáo người Pháp – nhà xã hội dân chủ Emmanuel Mounier (1905-1950), ông tin rằng nền văn minh hiện đại phương Tây, một nền văn minh “tư sản và cá nhân chủ nghĩa” đang lao nhanh xuống cái hố thẳm có tên gọi là “phi nhân hóa”.

Để chống lại quá trình tự sát thảm khốc này của nền văn minh Phương Tây, Mounier đã phát triển một học thuyết triết học xã hội của riêng mình: đó là Thuyết nhân vị cộng đồng (Personnalisme communautaire), thường được ông viết tắt là Thuyết Nhân vị (Personnalisme). Học thuyết triết học này ra đời nhằm phản kháng lại những trào lưu xã hội và trí thức bị xem là phi nhân tính, chẳng hạn như thuyết tất định, thuyết tiến hóa, chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm. Những ý tưởng ban đầu của Thuyết Nhân vị nảy sinh từ những cuộc trao đổi/ tranh luận trong một cộng đồng nhỏ những trí thức tinh hoa tại Paris – bao gồm các triết gia gốc Pháp, Nga và Áo – cái cộng đồng đã nuôi dưỡng vun xới cho đời sống trí tuệ của Mounier từ khi ông còn rất trẻ, và chính cộng đồng này cũng đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của Chủ nghĩa hiện sinh, Chủ nghĩa Nhân vị và Hiện tượng học.

Trong thế kỷ XX, các tư tưởng gia nhân vị tập trung chủ yếu tại ba trung tâm của châu Âu: Paris, Munich và Lublin. Ở Paris, phong trào nhân vị Pháp đã tìm được nơi trú ẩn là tạp chí Esprit do Mounier và bạn bè sáng lập. Ở Munich, nhân vị luận gắn liền với nhóm triết gia hiện tượng học của Husserl. Trung tâm thứ ba là Lublin, nơi mà Karol Wojtyła – người về sau trở thành Giáo hoàng Gioan Phaolô II – là một gương mặt nổi bật.

Công cụ chủ yếu để Mounier triển khai và phổ biến thuyết nhân vị cộng đồng chính là tạp chí Esprit, một tạp chí Công giáo Pháp nổi tiếng, được sáng lập bởi thế hệ trí thức mới của thập niên 1930 và nó vẫn còn tồn tại cho đến hôm nay. Tên gọi Esprit (“Tinh thần”) ám chỉ đến tính linh thiêng, cái mà Mounier coi là cái hạt nhân cốt lõi đã bị đánh mất trong thế kỷ XX, ông cho rằng sự hủy diệt của tính linh thiêng đã dẫn đến sự trỗi dậy của các triết học phi nhân vị và phi nhân bản. Ông cũng cảnh báo về các mối đe dọa toàn trị, hữu khuynh lẫn tả khuynh, của cái mà ông gọi là “những cỗ máy”. Mounierđã dùng tạp chí này như một nền tảng sư phạm hữu hiệu để truyền bá triết học dấn thân của thuyết nhân vị cộng đồng, đồng thời cũng để đối thoại với những trào lưu triết học hành động khác. Mounier đã đặc biệt tập trung đối thoại với các triết gia hàng đầu của Pháp thuộc về các trào lưu hiện sinh và chủ nghĩa Marx.

Cốt lõi tư tưởng của Mounier, thể hiện xuyên suốt trong các số báo Esprit cũng như trong nhiều cuốn sách của ông, rất rõ ràng: Chủ nghĩa duy vật với khuynh hướng “phản linh hồn” và “giản lược hóa thế giới” đang khiến xã hội loài người ngày càng phi nhân, ngày càng phản nhân vị, ngày càng mất tính cộng đồng; và như ông kết luận trong những năm cuối đời, đang đẩy cái thế giới hiện đại này rơi vào một chủ nghĩa hư vô triết học.

Học thuyết nhân vị của Mounier luôn nhấn mạnh đến khía cạnh xã hội - chính trị. Theo ông, chỉ có con người mới biết đến vũ trụ quanh mình và cũng chỉ con người mới có khả năng biến đổi nó. Dù là một hành vi cá nhân, hành động đầu tiên của một con người là “cùng với những người khác, nâng đỡ một xã hội những con người mà trong đó cấu trúc, phong tục, cảm xúc và định chế được định hình bởi bản tính của họ như những con người”. Con người luôn sống trong một cộng đồng người. Mounier mô tả cách ta phải tìm kiếm, giữa đống ngổn ngang những động lực phân tán, khát vọng sâu xa đi tìm một sự thống nhất sống động. Rồi phải “kiên nhẫn lắng nghe những gì nó có thể thì thầm với bạn, thử thách nó trong tranh đấu và bóng tối, và ngay cả khi đó, bạn cũng không bao giờ chắc chắn nắm bắt được ý nghĩa của nó”.

Mounier đã sử dụng chữ Vocation (ơn gọi) như là cách mô tả tốt nhất cho tiếng gọi bí mật đó. Dưới góc nhìn nhân vị luận, điều này được hiểu là: ý nghĩa của mỗi con người là không thể thay thế, chính bởi chỗ đứng độc nhất của họ trong thế giới loài người. Con người được xem như những hữu thể độc nhất, mỗi người đều mang một tên riêng. Mounier giải thích rằng cần phải tìm kiếm, giữa lớp lớp những động cơ gây xao nhãng, cái khát vọng sâu xa hướng tới một sự thống nhất sống động. Sau đó, phải “kiên nhẫn lắng nghe những gì nó có thể thì thầm với bạn, thử thách nó trong đấu tranh và trong bóng tối, và ngay cả khi ấy, bạn cũng không bao giờ chắc chắn đã nắm bắt được ý nghĩa của nó”. Hơn nữa, nó giống như “một tiếng nói bí mật, đang gọi chúng ta trong một ngôn ngữ mà ta phải dành cả đời để học”.

Theo Mounier, “Nhân vị là một thứ không thể định nghĩa được”, nó không thể được xem như một vật hay vật thể duy nhất. Mounier nhìn nhận nhân vị như một kiểu hiện hữu đặc thù của con người, khi mà “ý thức cần phải thoát dần khỏi phần khoáng chất, thực vật và động vật vốn đè nặng lên nó”. Ý nghĩa ở đây là: con người cần phải vươn lên vượt khỏi sự tồn tại thuần túy vật chất – và không ngừng nâng cao sự tương hỗ có ý thức, vốn là đặc điểm riêng của con người và không có ở bất kỳ loài động vật nào.

Mounier đề xuất một học thuyết về cộng đồng nhân vị, tức là một viễn tượng lý thuyết vừa nhấn mạnh tính duy nhất của từng cá nhân, vừa khẳng định đời sống chung trong xã hội loài người. Quan điểm này trở thành nền tảng quan trọng cho việc bàn luận về công bằng xã hội, chính trị, và các điều kiện cộng đồng trong một xã hội hiện đại. Mounier cũng đã nhiều lần nhấn mạnh rằng học thuyết của ông không phải là một chương trình hành động chính trị, mà chỉ cung cấp các nguyên tắc định hướng để lựa chọn chính trị.

II. CÁC CHỦ ĐỀ TRỌNG TÂM LIÊN QUAN ĐẾN CÁC HỆ TƯ TƯỞNG HIỆN ĐẠI

Dựa trên những quan điểm này, Mounier đã phát triển năm chủ đề trọng tâm liên quan đến các hệ tư tưởng hiện đại:

1/ Con người tư sản. Mounier truy nguyên gốc rễ của Chủ nghĩa tự do hiện đại (cùng nền kinh tế chính trị tư bản chủ nghĩa) và các phản ứng chống đối của Chủ nghĩa Marx và Chủ nghĩa phát xít, tất cả đều khởi đi từ mô hình chung: “con người tư sản” hiện đại.

Trong tác phẩm Révolution personnaliste et communautaire (Cuộc cách mạng nhân vị và cộng đồng, 1935), Mounier phân tích rằng trung tâm của khủng hoảng hiện đại chính là sự xuất hiện của “con người tư sản”. Theo ông, hình ảnh con người này không chỉ gắn với một giai cấp xã hội cụ thể, mà còn biểu hiện cho một kiểu tâm thức, một mô hình nhân học triết học đã định hình cả nền văn minh hiện đại. “Con người tư sản” theo Mounier là một cá nhân khép kín, hướng nội một cách ích kỷ, đặt lợi ích vật chất và an toàn cá nhân lên trên hết. Đặc điểm của kiểu người này là sự tính toán, thực dụng, tôn thờ sự thoải mái và ổn định, đồng thời sợ hãi những rủi ro sáng tạo hay dấn thân xã hội.

Mounier nhấn mạnh rằng mô hình này, vốn được sản sinh trong quá trình hiện đại hóa tư sản, đã trở thành nền tảng cho cả Chủ nghĩa tự do lẫn các phản ứng cực đoan về sau của các trào lưu triết học chính trị như Chủ nghĩa Marx và Chủ nghĩa phát xít. Dù khác nhau về hệ tư tưởng, cả hai đều khởi nguồn từ một nhân học sai lầm: hình ảnh con người bị giản lược thành cá thể cô lập, tách rời khỏi cộng đồng và khỏi chiều kích linh thiêng. Hậu quả, theo Mounier, là một xã hội ngày càng phi nhân vị, nơi mà các quan hệ cộng đồng bị phá vỡ, và tinh thần linh thiêng bị thay thế bởi sức mạnh của “cỗ máy” – biểu tượng cho cơ chế kinh tế, chính trị và kỹ trị vô hồn.

Chính vì vậy, ông kêu gọi một “cuộc cách mạng nhân vị”: tái khẳng định con người như một nhân vị toàn diện, vừa tự do độc đáo, vừa gắn bó hữu cơ với cộng đồng và với chiều kích siêu việt. Chỉ bằng cách ấy, nhân loại mới có thể vượt qua được những bế tắc của nền văn minh tư sản hiện đại và mở ra một con đường mới.

2/ Chủ nghĩa tự do và Tư bản chủ nghĩa. Theo Mounier, chủ nghĩa tự do tư sản và nền kinh tế chính trị tư bản là bước đầu tiên trong chuỗi sai lầm hiện đại. Trên bình diện triết học, ông cho rằng chủ nghĩa tự do đã giản lược con người thành cá thể tự trị, tách khỏi chiều kích cộng đồng và siêu việt. Trên bình diện kinh tế - xã hội, chủ nghĩa tư bản biến đời sống thành một guồng máy tính toán, nơi các quan hệ người - người bị thay thế bởi quan hệ lợi ích, tiền bạc và quyền lực.Mounier viết rằng hệ thống này khởi đầu từ những ý định giải phóng con người – giải phóng khỏi áp bức phong kiến và giáo quyền – nhưng cuối cùng lại dựng nên một cơ chế vô hồn, phản nhân vị. Nền kinh tế tư bản, thay vì đặt con người vào trung tâm, đã đặt lợi nhuận và sự tăng trưởng vô tận làm cứu cánh tối hậu.

Hệ quả là:

- Cộng đồng truyền thống bị tan rã, các mối quan hệ xã hội trở nên hời hợt, chỉ còn ràng buộc bằng lợi ích vật chất.

- Sự bất công xã hội ngày càng gia tăng, khi một thiểu số tích lũy tài sản khổng lồ còn đa số bị đẩy vào cảnh nghèo khổ, bị tha hóa.

- Con người bị biến thành công cụ trong guồng máy sản xuất và tiêu thụ, đánh mất chiều kích tinh thần và nhân vị.

Mounier nhấn mạnh rằng chính từ trong lòng hệ thống tư bản duy vật này đã nảy sinh những phản ứng cực đoan khác: Chủ nghĩa Marx ở tả khuynh và Chủ nghĩa phát xít ở hữu khuynh. Cả hai đều là những “câu trả lời sai” cho một vấn đề có thật – vấn đề tha hóa và bất công mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.

3/ Chủ nghĩa Marx. Mounier nhìn nhận Chủ nghĩa Marx như một phản ứng tất yếu và hợp lý trước những bất công của chủ nghĩa tư bản. Ông thừa nhận Marx đã nêu bật được tình trạng tha hóa và bóc lột mà nền kinh tế tư bản gây ra cho người lao động. Chính vì vậy, Marx đã đánh động được lương tri của nhiều người, khơi dậy một tinh thần đấu tranh xã hội cần thiết. Tuy nhiên, theo Mounier, sai lầm căn bản của Marx nằm ở cái triết học nền tảng của ông: một chủ nghĩa duy vật vô thần cực đoan, mang tính chất “phản linh hồn” đậm nét hơn cả chủ nghĩa tư bản thế tục. Ông đã chỉ ra rằng, trong khi Marx hoàn toàn đúng khi phê phán tính tha hóa của chủ nghĩa tư bản, thì chính học thuyết của Marx cũng phạm những sai lầm tương tự khi giản lược con người thành một sản phẩm của quan hệ sản xuất, một mắt xích trong bộ máy kinh tế - lịch sử.

Mounier đặc biệt phê phán cách các chế độ Marxist đã hiện diện trong của thời đại ông – cụ thể là các chế độ của Lenin và Stalin – đã biến lý thuyết thành công cụ của những nhà nước toàn trị. Dưới danh nghĩa giải phóng giai cấp, họ đã dựng nên những hệ thống đàn áp, nơi con người cá thể bị nghiền nát, còn cộng đồng thì bị nhà nước toàn trị chiếm đoạt. Theo Mounier, sức hấp dẫn của Marx nằm ở chỗ: ông đã chạm tới một vấn đề có thật – sự bất công của chủ nghĩa tư bản. Nhưng giải pháp của Marx lại dựa trên một nhân học sai lầm, “phi linh hồn” và “phi nhân vị”. Vì vậy, chủ nghĩa Marx chỉ là một “phản ứng cần thiết” nhưng lại “chứa đầy hiểm nguy”: nó đã đúng khi chỉ ra vết thương, nhưng sai lầm khi đưa ra phương thuốc chữa trị. Đối với Mounier, cần phải học lấy tinh thần phê phán bất công xã hội của Marx, nhưng đồng thời phải khước từ nền tảng duy vật vô thần của ông, cũng như những hình thái toàn trị mà nó đã sản sinh. Chỉ bằng cách tái khẳng định chiều kích nhân vị và linh hồn con người, người ta mới có thể đấu tranh cho công bằng xã hội mà không rơi vào những tha hóa mới.

4/ Chủ nghĩa phát xít. Theo Mounier, chủ nghĩa phát xít là một phản ứng cánh hữu chống lại cả chủ nghĩa tư bản tự do lẫn chủ nghĩa Marx. Nó không chỉ là một hiện tượng chính trị nhất thời, mà còn bắt nguồn từ những lực lượng văn hóa và tâm linh sâu xa, thậm chí – theo cách nói của ông – mang tới những sức mạnh “ma quỷ”.

Chủ nghĩa phát xít tự nhận là lực lượng cứu rỗi trong bối cảnh thế giới hiện đại rơi vào khủng hoảng. Nó đưa ra ba tuyên bố chính:

  1. Lấp đầy khoảng trống tinh thần mà chủ nghĩa duy vật để lại.
  2. Bảo vệ cộng đồng và truyền thống trước sự tan rã do chủ nghĩa tư bản gây ra.
  3. Chặn đứng bước tiến của chủ nghĩa Marx vô thần.

Tuy nhiên, Mounier chỉ rõ rằng tất cả những tuyên bố ấy chỉ là sự ngụy trang. Thực chất, phát xít không mang lại một linh hồn sống động cho cộng đồng, mà chỉ áp đặt sự cuồng tín tập thể; nó không phục hồi truyền thống, mà biến truyền thống thành công cụ phục vụ ý chí quyền lực; nó không khắc chế chủ nghĩa Marx vì lý tưởng công bằng, mà chỉ muốn bảo vệ trật tự tư sản.

Ông cũng lưu ý rằng giới tư sản giàu có ban đầu tỏ ra lo lắng trước sự trỗi dậy của phát xít, vì e ngại nó có thể phá vỡ trật tự xã hội. Nhưng rồi, khi phải lựa chọn giữa phát xít và Marx – giữa nguy cơ mất mát tài sản và nguy cơ mất mát tự do chính trị – nhiều người trong tầng lớp tư sản đã ngả về phía phát xít, coi đó là “lá chắn” bảo vệ quyền lợi kinh tế của họ.

Do đó, theo Mounier, phát xít không phải là một giải pháp, mà chỉ là một biến dạng nguy hiểm hơn nữa của khủng hoảng hiện đại. Nó lợi dụng khát vọng cộng đồng và tinh thần linh thiêng của con người, nhưng lại biến chúng thành công cụ bạo lực, áp bức và sùng bái quyền lực.

III. SỰ KHÁC BIỆT CỦA CUỘC CÁCH MẠNG NHÂN VỊ VỚI CÁC CUỘC CÁCH MẠNG KHÁC

Mounier nhấn mạnh rằng cuộc cách mạng nhân vị mà ông kêu gọi không thể đồng nhất với các hình thức cách mạng hiện đại quen thuộc đã biết. Nó khác biệt căn bản với các cuộc cách mạng đã xẩy ra trước đó. Cách mạng nhân vị là một cuộc biến đổi xã hội từ nền tảng, đặt nhân vị toàn diện làm trung tâm. Đó là:

- Một cuộc cách mạng vừa mang tính xã hội vừa mang tính tinh thần, vừa tái cấu trúc các định chế chính trị - kinh tế để phục vụ công bằng, vừa nuôi dưỡng đời sống linh thiêng của con người.

- Một cuộc cách mạng phi bạo lực, bởi bạo lực chỉ tạo ra những hình thái tha hóa mới. Thay vào đó, nó dựa trên sự sáng tạo xã hội, đối thoại, và dấn thân nhân vị.

- Một cuộc cách mạng mở, không khép kín thành hệ tư tưởng, mà luôn ở trong tiến trình, luôn tự phê phán và tái định hướng dưới ánh sáng của nhân vị và cộng đồng.

Mounier cho rằng, chính vì thế, cuộc cách mạng nhân vị không đơn giản chỉ là “một con đường thứ ba” giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa Marx, mà đó là một con đường khác hẳn – một cuộc tái sinh văn minh dựa trên nền tảng nhân vị.

IV. ẢNH HƯỞNG LÂU DÀI CỦA MOUNIER

Sau khi qua đời, Emmanuel Mounier để lại một di sản phong phú cho triết học, thần học và các phong trào xã hội của thế kỷ XX. Dù cuộc đời ông ngắn ngủi, nhưng những ý tưởng về nhân vị cộng đồng đã tiếp tục là nguồn cảm hứng nuôi dưỡng nhiều dòng chảy trí thức và tôn giáo.

- Trong triết học, Mounier mở đường cho những cách tiếp cận hiện sinh - nhân vị khác nhau, từ Paul Ricoeur đến Karol Wojtyła (sau này là Giáo hoàng Gioan Phaolô II). Cả hai đều đã phát triển triết học nhân vị theo hướng riêng, nhưng vẫn mang dấu ấn sâu đậm của Mounier: nhấn mạnh đến tự do, trách nhiệm và cộng đồng.

- Trong thần học Công giáo, tư tưởng của Mounier ảnh hưởng đến các trào lưu thần học xã hội, đặc biệt là những bước chuẩn bị về tư tưởng dẫn đến sự ra đời của Công đồng Vatican II (1962–1965). Nhiều nhà thần học coi nhân vị luận của ông là nguồn cảm hứng quan trọng để đổi mới quan điểm về Giáo hội, tự do tôn giáo và công bằng xã hội.

- Trong phong trào xã hội, các hoạt động dấn thân Kitô giáo như Phong trào Công nhân Công giáo (Catholic Worker Movement) ở Mỹ, hay các phong trào Công giáo tiến bộ tại châu Âu và châu Mỹ Latinh, đều tìm thấy trong Mounier một nền tảng triết học cho việc kết hợp giữa đức tin và công bằng xã hội.

Di sản này cho thấy: Mounier không chỉ là một triết gia, mà còn là một người thầy tinh thần của phong trào dấn thân xã hội, người đã chỉ ra rằng con đường của Kitô giáo và của triết học nhân bản không thể tách rời khỏi cuộc đấu tranh vì con người và cộng đồng.

V. VỀ TÁC PHẨM CHỦ NGHĨA NHÂN VỊ (LE PERSONNALISME) MỚI ĐƯỢC DỊCH RA TIẾNG VIỆT

Được xuất bản trong tủ sách nổi tiếng “Que sais-je?”, cuốn Thuyết Nhân vị (Le Personnalisme) là nỗ lực của Mounier nhằm trình bày một cách hệ thống và súc tích toàn bộ viễn tượng nhân vị của ông. Khác với hai tác phẩm Révolution personnaliste et communautaire (tạm dịch: Cách mạng Nhân vị và Cộng đồng. 1935) mang tính tuyên chiến và Manifeste au service du personnalisme (tạm dịch: Tuyên ngôn Phụng sự của Chủ nghĩa Nhân vị. 1936) mang tính cương lĩnh hành động, tác phẩm năm 1949 này mang hình thức một bản tổng quan triết học. Nó nhằm giới thiệu cho độc giả rộng rãi – cả trong giới trí thức lẫn công chúng phổ thông – những nguyên lý căn bản của thuyết Nhân vị.

Trong cuốn sách, Mounier đã:

  1. Định vị thuyết nhân vị trong truyền thống triết học bằng cách so sánh thuyết nhân vị với các trào lưu lớn của triết học phương Tây, từ chủ nghĩa duy lý, duy vật, đến hiện sinh, để chỉ ra điểm mạnh và giới hạn của từng hệ thống.
  2. Trình bày cấu trúc của nhân vị thông qua việc mô tả nhân vị vừa như một trung tâm ý thức độc đáo, vừa như một hiện hữu mở ra trong quan hệ với cộng đồng và Thượng đế.
  3. Đưa ra viễn tượng xã hội - chính trị. Mounier khẳng định rằng nhân vị không thể tồn tại nếu thiếu công bằng xã hội, dân chủ và sự liên đới cộng đồng. Thuyết nhân vị, vì vậy, không phải là một siêu hình học trừu tượng, mà là một định hướng cho văn minh tương lai.

Nhờ lối viết súc tích, sáng sủa và cân đối, Thuyết Nhân vị đã trở thành tác phẩm phổ biến rộng nhất của Mounier, giúp triết học nhân vị lan tỏa ra ngoài phạm vi hẹp của giới trí thức và ảnh hưởng đến nhiều thế hệ độc giả sau này.

P/S. Cho đến nay CHỦ NGHĨA NHÂN VỊ là tác phẩm duy nhất của Mounier đã được dịch ra tiếng Việt. Hiện có hai bản dịch đang được phát hành. Bản thứ nhất là của dịch giả Đào Quốc Minh (NXB Lao Động & Khai Minh xuất bản, 2024). Bản thứ hai của dịch gia Võ Thị Thu Thảo (NXB Tri Thức xuất bản, 2024). Xin gửi lời cám ơn tới bạn Trần Thanh Phương (Phương Trần) và Nhà sách Khai Minh đã gửi tặng tác phẩm rất sâu sắc này của E. Mounier để mình có cơ hội đọc và viết bài điểm sách quan trọng này.