Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2025

Chủ nghĩa dân tộc tai họa - sự sụp đổ của nền văn minh tự do (kỳ 1)

 

Tác giả: Richard Seymur

Việt dịch: Nguyễn Quang A

 Nhà xuất bản Dân Khí-2025

Mục lục:

Lời giới thiệu.. v

Lời cảm ơn.. ix

Dẫn nhập.. 1

  1. Giai cấp: Không phải Kinh tế, Ngốc ạ.. 27
  2. Các Tai họa: Biết Quá Nhiều.. 48
  3. Tình dục: Chủ nghĩa dân tộc khiêu dâm chống lại Chủ nghĩa Marx (Làm cho Chủ nghĩa đế quốc Gợi dục Trở lại). 79
  4. Các Máy Chiến tranh: Chiến tranh Mạng, Những con Sói Đơn độc và Những kẻ Xả Súng Hàng loạt. 100
  5. Shitstorm có Vũ trang: Chủ nghĩa dân tộc Giết người. 124
  6. Sự Diệt chủng: Bị Che khuất trong Bóng tối. 155

Kết luận: Khí hậu Mù mịt. 191

GHI CHÚ.. 209

Index.. 269

Lời giới thiệu

Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ 73 của tủ sách SOS2,* cuốn Chủ nghĩa Dân tộc Tai họa - sự Suy sụp của nền Văn minh Tự do (Disaster Nationalsim - The Downfall of Liberal Civilization do Verso xuất bản 2024) của Richard Seymour.

Chủ nghĩa dân tộc, theo từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, là “hệ tư tưởng và chính sách đề cao và bảo vệ lợi ích cùng những đặc trưng của dân tộc mình,” xem như tách rời hoặc đối lập với các dân tộc khác.

Chủ nghĩa dân tộc đôi khi được gắn với chủ nghĩa yêu nước và theo nghĩa đó nó có ý tích cực. Nhưng phải cẩn trọng với chủ nghĩa dân tộc vì nó dễ biến thái thành những thứ độc hại hay cực kỳ đôc hại và vì thế cần phải tránh như chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa dân tộc tai họa,…

Thế chủ nghĩa dân tộc tai họa được nói đến trong cuốn sách này là gì? Theo tác giả, đại thể nó là loại chủ nghĩa dân tộc mà Donald Trump ở Mỹ, Narendra Modi ở Ấn Độ, Benjamin Netanyahu ở Israel đang theo đuổi, Rodrigo Duterte ở Phillipines và Jair Bolsonaro ở Brazil đã theo đuổi và nhiều người theo các đảng cực hữu ở khắp nơi trên thế giới đang theo đuổi.

Chủ nghĩa dân tộc tai họa bị kích bởi những xúc cảm, nỗi đam mê, nhất là những nỗi sợ hãi (về đủ thứ: về sự sinh tồn, sự mất của cải, mất địa vị xã hội, mất những thứ tưởng tượng, mất bản sắc, sự tận thế, …) và  những sự hận thù (những kẻ và các thứ khác, chẳng hạn,  gây ra sự sợ hãi), phẫn nộ,…

Các xúc cảm, đam mê chứ không chỉ những vấn đề vật chất là những lực lượng vô cùng quan trọng của sự tiến triển xã hội.

Theo tác giả, chủ nghĩa dân tộc tai họa chưa phải là chủ nghĩa phát xít, nhưng là chủ nghĩa phát xít chớm nở. Và nếu những điều kiện công nghệ, kinh tế-xã hội, thiên nhiên là phù hợp thì nó rất có khả năng trở thành chủ nghĩa phát xít.

Lưu ý rằng năm nước được nhắc tới ở trên đều được coi là các nền dân chủ, từ các nền dân chủ được cho là mạnh như Mỹ và Israel đến các nền dân chủ bị coi là yếu kém như Brazil, Ấn Độ và Phillipines. Còn tại các nước dân chủ lâu đời ở châu Âu, như Pháp, Anh, Hà Lan, Đức,..,thì sự lên của các lực lượng cánh hữu và cực hữu có thiên hướng dân tộc tai họa trong vài thập kỷ qua cũng thật nổi bật. Có sự suy thoái dân chủ, có suy sụp của nền văn minh tự do và đó là vì sao cuốn sách có tiêu đề phụ như thế. Chính sự suy thoái và sự suy sụp này lại là mảnh đất tạo thuận lợi cho chủ nghĩa dân tộc tai họa phát triển.

  “Chủ nghĩa phát xít là một bệnh lý nảy sinh bên trong dòng chính dân chủ.” (tr. 24). Tác giả cho rằng “Có một sự cám dỗ phát xít cho tất cả mọi người: tất cả chúng ta đề có giày ống của chúng ta” (tr. 26) và ông trích Foucault cảnh báo rằng vấn đề là “chủ nghĩa phát xít trong tất cả chúng ta … trong đầu chúng ta và trong hành vi hàng ngày của chúng ta, chủ nghĩa phát xít mà khiến chúng ta yêu thích quyền lực, để mong muốn chính thứ thống trị và khai thác chúng ta” (tr. 206).

“Chủ nghĩa phát xít lịch sử đã đặt sự tin cậy của nó vào chuyện hoang đường. Chủ nghĩa dân tộc tai họa, … , tin cậy vào các vật thay thế giả tạo.” (tr. 70)

Cuốn sách này của Richard Seymour phân tích thấu đáo sự trỗi dậy của cực hữu, cho chúng ta những cách nhìn thú vị, đôi khi có vẻ khiêu khích đối về tình hình thế giới, về tác động của mạng xã hội, của biến đổi khí hậu. Tôi chân thành giới thiệu với bạn đọc Việt Nam cuốn sách này.

                                                                                                                 Hà Nội 23-9-2025

                                                                                                                 Nguyễn Quang A 

 

* Những cuốn trước của tủ sách SOS2:

  1. Kornai János, Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam 2001, Nhà Xuất Bản Văn hóa Thông tin 2002.
  2. Kornai János, Hệ thống xã hội chủ nghĩa, Nhà Xuất Bản Văn hóa Thông tin 2002.

……….

  1. Daron Accemoglu, James A Robinson, Vì sao các Quốc gia Thất bại, 2012 (NXB trẻ có bản dịch khác được xuất bản 2013)

…….

  1. Timothy Snyder, Chống Chuyên chế (On Tyranny), NXB Dân Khí, 2017

…….

  1. Triệu Tử Dương, Tù nhân bí mật của Nhà nước – Nhật ký bí mật của Triệu Tử dương, NXB Dân Khí, 2019
  2. Gabriel Zucman, Của cải Giấu giếm của các Quốc gia, NXB Dân Khí, 2019
  3. Emmanuel Saez và Gabriel Zucman, Chiến thắng của sự Bất công:

………

  1. Amartya Sen, Quê Nhà trong Thế giới, NXB Dân Khí, 2021
  2. Desmond Shum, Roulete Đỏ, NXB Dân Khí, 2021
  3. Katherine M. Gehl và Michael E. Porter, Ngành Chính trị, NXB Dân Khí, 2021
  4. Ronald Inglehart và Christian Welzel, Hiện đại hóa, sự Thay đổi Văn hóa và Dân chủ, NXB Dân Khí, 2022
  5. Ronald Inglehart, Sự Tiến hóa Văn hóa, NXB Dân Khí, 2022
  6. Blanko Milanovic, Bất bình đẳng Toàn cầu, NXB Dân Khí, 2022
  7. Blanko Milanovic, Chủ nghĩa tư bản, Một mình, NXB Dân Khí, 2022
  8. Julia Cagé, Cứu Media, NXB Dân Khí, 2022
  9. Moisés Naím, Sự Trả thù của Quyền lực, NXB Dân Khí, 2022
  10. David Van Reybrouck, Chống Bầu cử - Biện hộ cho Dân chủ, NXB Dân Khí, 2022
  11. John Gastil và Eric Olin Wright biên tập, Cơ quan Lập pháp bằng rút Thăm, NXB Dân Khí, 2023
  12. Timothy Snyder, Đường tới không-Tự do, NXB Dân Khí, 2023
  13. Yves Sintomer, Chính phủ Tình cờ, NXB Dân Khí, 2023
  14. Daron Accemoglu và Simon Johnson, Quyền lực và Tiến bộ, NXB Dân Khí, 2024
  15. Jason Hannan, Trolling bản thân chúng ta đến chết, NXB Dân Khí, 2024
  16. David Daokui Li, Thế giới quan của Trung Quốc, NXB Dân Khí, 2024
  17. Fareed Zakaria, Thời đại cách mạng, NXB Dân Khí, 2024
  18. Dan Slater và Joseph Wong, Từ Phát triển đến Dân chủ, NXB Dân Khí, 2024
  19. Timothy Snyder, Về Tự do, NXB Dân Khí, 2025
  20. Magyar Bálint và Maldovics Bálint, Một tóm tắt cô đọng về các chế độ hậu-cộng sản, NXB Dân Khí, 2025

Lời cảm ơn

Tôi bắt đầu làm việc trên bản thảo này trong năm 2019, khi các xu hướng mà tôi mô tả trong cuốn sách này đã chín muồi. Vào lúc đó, cả Davinia Hamilton và China Miéville đưa ra phản hồi tuyệt vời về các bản thảo sớm hơn, và Davinia đã lặp lại sự ưu ái về các bản thảo cuối cùng. Tôi đã được lợi nhiều từ các cuộc trò chuyện hữu ích với các đồng chí của tôi tại Salvage Collective như Jamie Allinson (từ cô tôi đã chôm được nhiều ý tưởng hay), với Hannah Zeavin thuộc Parapraxis, và với Lukas Stolz và Liza Mattutat tại Đại học Leuphana. Tôi đã học được rất nhiều từ sự bất đồng có hiệu quả của Gargi Bhattacharyya trong vài cuộc tranh luận về chủ đề này. Tôi cũng mang ơn Sebastian Budgen tại nhà xuất bản Verso, mà đã cổ vũ tôi gắn bó với nó. Cảm ơn tất cả họ.

Tôi đặc biệt muốn cảm ơn biên tập viên của tôi tại Verso, Rosie Warren, lời khuyên và những gợi ý của bà vô cùng hữu ích, và bà đã rất ủng hộ. Cũng cảm ơn Nick Walther vì cái nhìn sâu sắc xây dựng của ông, và Bruno George vì việc biên tập-copy và Aaron Juneau vì việc đọc bản bông, mà cả hai đã loại đi các lỗi và cách diễn đạt quá xá của tôi.

 

Dẫn nhập

Một trong những bài học của thời kỳ Hitler là sự ngu đần của sự tài giỏi. Có bao nhiêu lý lẽ chuyên gia mà với chúng những người Do Thái đã gạt bỏ khả năng về sự nổi lên của Hitler, khi nó đã rõ như ban ngày rồi … Theo những người thông minh, chủ nghĩa phát xít là không thể ở phương Tây. Những người thông minh đã luôn luôn làm các thứ dễ cho những kẻ dã man, bởi vì họ rất ngu … Việc sự tài giỏi trở thành sự ngu đần là vốn có trong xu hướng lịch sử.

– Max Horkheimer và Theodor Adorno, Dialectic of Enlightenment1

 

I.

Cực hữu mới bị các hình ảnh về tai họa mê hoặc. ‘Các danh sách chết (death panels)’. ‘Nạn diệt chủng da trắng’. ‘Sự thay thế lớn’ của người da trắng bởi người nhập cư. Những người Do Thái mà ‘sẽ không thay thế chúng ta’. ‘Các bè đảng’ của những kẻ ấu dâm Satanist và cộng sản. ‘Islam hóa’. ‘Các phe phái FEMA’. ‘Sự xâm lấn’ nhập cư. ‘Bọn phản bội’ trong chức vụ. Trò lừa bịp khí hậu. ‘Plandemic (bộ ba phim về thuyết âm mưu đại dịch Covid 19 [plan-kế hoạch; pandemic- đại dịch]’. Chủ nghĩa cộng sản kiểu Trung quốc. Một cuộc bầu cử bị deep state (nhà nước ngầm) đánh cắp. Một quốc gia bị bọn khủng bố cánh tả tấn công. ‘Nội chiến ở đây, ngay bây giờ.’2 Các mũi tiêm chất kích thích (adrenaline).

Những kịch bản như vậy nhanh chóng chuyển thành sự hô hào bạo lực. ‘Tôi không thể ngồi yên và nhìn dân tôi bị tàn sát. Screw your optics, I’m going in (Mặc kệ chúng mày, tao xông vào).’ Hãy tấn công capitol (trụ sở quốc hội Mỹ). ‘Diễu hành vũ trang chống lại đồi capitol và tất cả các capitol tiểu bang.’ Hãy ‘vũ trang bằng súng trường, súng ngắn, 2 con dao và càng nhiều đạn càng tốt’. ‘Đừng để cho chúng tước vũ khí ai đó mà không qua đống xác chết.’ Hãy mang ‘còng tay và dây buộc nhựa’. ‘Tiên sư dây buộc nhựa, tao mang dây thừng!’ Vượt sông Rubicon. Hãy tuyên bố chế độ độc tài. Hãy viện dẫn Bộ luật Nổi loạn 1807, hãy triển khai quân đội và cảnh vệ quốc gia, và hãy trấn áp âm mưu cánh tả. Hãy viện dẫn Sắc lệnh Hành pháp 13848 và điều tra gian lận bầu cử. Bè đảng thối nát, như một cuốn sách QAnon bán chạy nhất đã diễn đạt, phải bị ‘xóa bỏ vĩnh viễn khỏi trái đất’.3 Hail (hoan hô) Trump.

Cuộc nổi dậy-giả ở Washington, DC, vào ngày 6 tháng Giêng 2021, có ý định để chặn một vụ được cho là đánh cắp cuộc bầu cử tổng thống và phục hồi quyền lực của Trump, đã là cuộc đảo chính kỳ quặc được đúc bởi sự tung tin sai lệch online để giải trí: Chủ nghĩa Caesar (chuyên quyền tuyệt đối) cho thế hệ QAnon. Nhưng nó đã không phải là loại cuối cùng thuộc loại này. Trong ít hơn một năm, một mưu toan đảo chính được cho là của phong trào Reichsbürger Nazi-mới ở Đức đã bị cản trở, những người ủng hộ tổng thống Brazilia Jair Bolsonaro đã tấn công các tòa nhà chính phủ trong hy vọng để kích ‘intervenção militar’ (sự can thiệp quân sự), và Nhóm bán quân sự Wagner Nga đã diễu hành nửa đường đến Moscow để loại bỏ ban lãnh đạo quân đội bị họ lên án phản bội cuộc chiến tranh chống Ukraine.

Trong mỗi trường hợp, cuộc nổi dậy-giả được biện minh bởi sự hoang tưởng thuyết âm mưu. Phong trào Reichsbürger cho rằng Cộng hòa Liên bang Đức không phải là một nhà nước-quốc gia mà là một công ty được các cường quốc Đồng minh tạo ra. Những người ủng hộ Bolsonaro tin rằng Lula cánh trung ủng hộ doanh nghiệp là một người cộng sản. Yevgeny Prigozhin, lãnh đạo của Nhóm Wagner, cho rằng chiến tranh chống lại ‘bọn hohol’ (một lời gièm pha kỳ thị chủng tộc cho những người Ukrainia) bị một ban lãnh đạo không tinh khiết về mặt sắc tộc (ông nhắc đến Tướng Shoigu, từ một nhóm sắc tộc Turkic bản địa Siberia, như một ‘kẻ Tuvan thoái hóa’) bán đứng. Còn đáng chú ý hơn, trong hầu hết các trường hợp, công việc đảo chính bẩn thỉu được cho là được thực hiện bởi ‘những gã tốt’ nắm quyền lực: Trump, Putin, hay quân đội. Theo một cách tương tự, những cuộc náo loạn và bạo lực đám đông chống những người Israeli bị bỏ lại dưới Netanyahu trước và trong cuộc tấn công diệt chủng chống lại Gaza đã ủng hộ những người nắm quyền.4

Bạo lực quần chúng dưới các hình thức khác, mỗi hình thức được thúc đẩy bởi huyễn tưởng về sự tận số và sự chuộc tội riêng của nó, đã được các chính phủ quốc gia cho phép. Tại Philippines, ranh giới giữa việc cảnh sát giết những người nghiện ma túy và việc đội sát thủ tình nguyện giết người là mờ ám một cách cố ý. Những cuộc tàn sát chống-Muslim ở Ấn Độ được cảnh sát, các chính trị gia và các tòa án cho phép một cách có hệ thống. Tại Israel, những cuộc tàn sát được những người định cư ở Bờ Tây tiến hành đã không thể xảy ra mà không có sự dính líu của quân đội Israeli, mà các sĩ quan và quân dự bị của nó thường được nhúng trong dân định cư. Trong mỗi trường hợp, một sinh lực nổi dậy mơ hồ được giải phóng, không phải chống lại một hiện trạng suy đồi, mà để bảo vệ nó chống lại những huyễn tưởng được gây cảm hứng bởi cảm giác gây nôn mửa về sự bình thường trôi dạt một cách thảm họa. ‘Chương trình nghị sự của Trump là về việc khiến nước Mỹ trở thành một nước bình thường,’ tỉ phú công nghệ Peter Thiel giải thích. ‘Nước Đức, nhưng bình thường’ là khẩu hiệu của đảng cực-hữu Alternative für Deutschland (AfD) trong 2021.5

Những kẻ muốn trở thành các nhà đảo chính này phần lớn là những người tình nguyện không có kinh nghiệm chính trị được huy động online. Lõi có tổ chức của những người tấn công tòa nhà capitol Hoa Kỳ là những cựu sĩ quan quân đội và cảnh sát mà đã quen với ‘việc đạo đức hóa bạo lực’ được Michael Mann mô tả trong sự hình thành của chủ nghĩa phát xít cổ điển, và mà vì thế cũng bày tỏ trí thông minh chiến thuật nào đó. Tuy vậy, hầu hết những người tham gia đã là những nhà hoạt động mới được rút ra một cách không cân xứng từ các giai cấp kinh doanh và chuyên nghiệp đang di động hướng xuống.6 Giống những cử tri cực-hữu ở Brazil và Vương quốc Anh, không phải sự tước đoạt mà là một quỹ đạo suy tàn đã thúc đẩy sự cực đoan hóa của họ sang phía hữu. Họ đã làm ăn tốt trong những năm bùng phát, chỉ để bị quăng vào nợ nần và thậm chí phá sản. Họ bị rủi ro đày ải xuống địa vị người bình thường, vật lộn.

Được các mạng online tổ chức, những người nổi loạn thế phẩm ở Hoa Kỳ, Brazil và Đức đã không hề được chuẩn bị về mặt chính trị hay hậu cần cho cuộc đảo chính họ ao ước. Các hành động của họ rất giống các phiên bản vũ trang của shitstorm (cuộc cãi vã loạn xị) online – mà chẳng hề giảm nhẹ sự nghiêm trọng của chúng. Những người ‘uống viên thuốc đỏ’ và tò mò viên thuốc-đỏ tham gia những đám đông vào ngày 6 tháng Giêng 2021 hy vọng để thực hiện huyễn tưởng của họ về một ‘sự Thức tỉnh Vĩ đại’, một ‘cơn bão’, hay một ‘ngày dây thừng’. Trong một cuộc thăm dò chớp nhoáng được thực hiện sau ‘cuộc nổi loạn’, trước những sự lệch lạc ý thức hệ đổ lỗi sự kiện cho ‘Antifa’ bén rễ, khoảng 45 phần trăm cử tri Cộng hòa nói họ ủng hộ hành động.7 Để kéo dài sự ngu ngốc lòe loẹt của những ý thức hệ này và sự hợp nhất của tính con trẻ media và lời giễu cợt thương mại, mà giúp chúng lưu hành, sẽ là chịu thua sự đền bù cảm giác vượt trội. Nó sẽ không thấy sức mạnh tâm lý bùng nổ của chúng, và tiềm năng của chúng để gây ra biến động nguy hiểm hơn rất nhiều. Các nấm mồ được lấp đầy bằng những người ‘biết rõ hơn’.

II.

Nếu bạn nghĩ sức mạnh đồng bóng đen tối này của sự thù ghét tập thể được tổng thống này đưa vào đất nước sẽ giải quyết bất kể sự ọp ẹp này, thì tôi sợ các nhà Dân chủ sẽ thấy một số ngày rất đen tối.

– Marianne Williamson8

Chủ nghĩa dân tộc tai họa, chủ nghĩa dân tộc ngày tận thế, đưa nhiều nhà lãnh đạo cực-hữu lên nắm quyền và thậm chi bây giờ đang sẵn sàng cho nhiều đột phá hơn, đã đưa ra một sự chỉ trích ngoạn mục đối với tính chính thống chính trị.

Quy luật trọng lực chính trị được James Carville trợ lý của Bill Clinton trong cuộc bầu cử 1992 bày tỏ: ‘Đó là kinh tế, ngốc ạ’.9 Khẩu hiệu tóm tắt một thế giới quan toàn bộ: nếu các cử tri được xem như những người tiêu dùng, thì các lựa chọn duy lý của họ sẽ giữ chính trị trong quan điểm trung dung đồng thuận. Các chính trị gia tài giỏi có thể đảm bảo sự thịnh vượng vừa đủ, dù bất bình đẳng có gây choáng váng đến thế nào, để làm nhụt các đam mê quấy rầy. Một ví dụ về kiểu tư duy này được Benjamin Friedman tóm tắt trong The Moral Consequences of Economic Growth (Những Hệ quả Đạo đức của sự Tăng trưởng Kinh tế): ‘Tăng trưởng kinh tế—có nghĩa là một tiêu chuẩn sống tăng lên cho đa số rõ ràng của các công dân—thường thì khuyến khích cơ hội, sự khoan dung đối với tính đa dạng, sự di động xã hội, sự cam kết với sự công bằng, và sự tận tâm với dân chủ lớn hơn.’10 Tiên đề này, được rút ra từ kinh tế học chính trị cổ điển, đã chưa bao giờ mô tả hành vi con người thực tế. Và bây giờ các chính trị gia cực hữu đã chứng minh rằng hàng triệu người sẽ vui vẻ, đôi khi tự-giác, làm tổn thương những gì họ được bảo là lợi ích tốt nhất của chính họ: thu nhập, việc làm, sức khỏe và đôi khi ngay cả cuộc sống của họ có thể bị hy sinh cho cơ hội để tiêu diệt một kẻ thù.

Các khối đối lưu (convection cells) của cơn bão này được tích tụ rõ ràng từ lâu. Ngay từ 1996, Đảng Bharatiya Janata Party (BJP) tối thượng Hindu đã trở thành đảng lớn nhất trong quốc hội Ấn độ bốn năm sau khi sự phá hủy (thánh đường Hồi giáo) Babri Masjid do đám đông dẫn dắt một cách bất hợp pháp. Cùng năm đó, cuộc vận động cực-hữu của Pat Buchanan có kết quả tốt hơn dự kiến rất nhiều trong các cuộc bầu cử sơ bộ Cộng hòa. Trong 1998, nhà dân tộc chủ nghĩa chống-cộng trẻ Orbán Viktor, người thừa kế Đô đốc Horthy Miklós nhà cai trị giữa hai cuộc chiến tranh của Hungary, đã lên nắm quyền trong cuộc tổng tuyển cử của Hungary. Trong 1999, Đảng Tự do của Jörg Haider đã trở thành đảng thứ hai trong các cuộc bầu cử lập pháp của Austria (Áo). Tiếp theo là một chuỗi sự nổi lên cho các chiến dịch cực-hữu, khi những tai họa của chiến tranh và rồi sự đổ nát tài chính đã tăng tốc sự bất hạnh, sự bất tín và sự phẫn nộ xã hội có gốc rễ sâu đang lan truyền rồi trong các xã hội mà, hướng nó tới những người Muslim và nhập cư. Mặt trận Dân tộc phát xít mới đứng thứ hai trong cuộc đua tổng thống 2002 của nước Pháp, chính trị gia Pim Fortuyn chống-Muslim leo lên 17 phần trăm phiếu bàu trong tổng tuyển cử Hà lan 2002, và đảng BJP thắng áp đảo các cuộc bầu cử ở bang Gujarat tiếp sau một cuộc tàn sát chống-Muslim. Tiếp sau là những đột phá cho Khối Vlaams Bỉ, Đảng Nhân dân Thụy sĩ, Đảng Dân tộc Anh và, ở Hoa Kỳ, sự ra đời của phong trào Tea Party (Tiệc Trà).

Những sự bùng nổ của bạo lực xuất quỷ nhập thần đi cùng những thảm họa của chiến tranh và suy thoái, mặc dù không mới về kiểu, được nâng lên trong những cơn gió hoang và gió xoáy của sự căm ghét hàng xóm. Alain Bertho lập tư liệu một sự nổi lên về các sự kiện khủng bố khắp thế giới kể từ cuộc xâm lăng 2003 vào Iraq, và một sự mạnh dần của bạo lực công dân kể từ sự sụp đổ tài chính 2008. Những vụ sói cô độc giết người đã tăng 143 phần trăm giữa các năm 1970 và các năm 2000 (tăng 45 phần trăm ở Hoa Kỳ, và 412 phần trăm trong mười bốn nước khác bị ảnh hưởng). Vào 2016, số người bị giết trong các cuộc tấn công sói đơn độc đã tăng hơn gấp đôi số trong các năm 2000: một sự lây lan ra theo cách bắt chước trên các diễn đàn game thủ và các kênh công nghiệp xã hội (mạng xã hội) cực-hữu. Bạo lực thượng đẳng da trắng đã trào dâng kể từ 2010, trong khi sự xả súng hàng loạt đã xảy ra ở Hoa Kỳ với một tỷ lệ hơn một vụ một ngày vào năm 2019. Sự tăng lên của các lực lượng bán quân sự cực hữu có thể thấy từ Đông và Trung Âu tới Hoa Kỳ, bên cạnh các ý thức hệ tôn giáo ngày tận thế và các giáo phái âm mưu thiên niên kỷ, từ loạt sách và phim cực kỳ nổi tiếng ‘Left Behind (những Người bị Bỏ lại)’ đến QAnon.11

Sự lên về bạo lực chính trị, ngay cả khi các hình thức khác của tội phạm bạo lực đã giảm trong ba mươi năm, Bertho lập luận, cho biết một khủng hoảng nghiêm trọng của hoạt động chính trị. Kể từ 2008, cuộc khủng hoảng này đã bị trầm trọng thêm bởi sự nhận biết đột ngột, gay gắt về bất bình đẳng, bị đổ thêm dầu vào lửa bởi sự trầm trọng thêm của ‘những sự bất bình đẳng ngang’ như chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ hay sự áp bức cộng đồng ở Ấn Độ. Như Gudrun Østby thuộc Viện Nghiên cứu Hòa bình ở Oslo chứng minh bằng tư liệu, bạo lực chính trị tương quan mạnh với độ lớn của các loại bất bình đẳng này, đặc biệt khi các cơ chế dân chủ không hoạt động để giảm nhẹ chúng.12 Và các hệ thống dân chủ yếu rồi càng thoái hóa và không có khả năng hấp thụ các khủng hoảng này, thì rủi ro về sự bùng nổ bạo lực càng lớn. Chính phong cảnh gây ủ ê, sắp sôi, hung tợn là cái tạo ra một chuỗi các đột phá cho một sự kết hợp pha tạp của những kẻ mị dân, những mạng lưới và các đảng cực-hữu, từ chiến thắng long trời lở đất của Orbán trong các cuộc bầu cử quốc hội 2010 của Hungary, đến chiến thắng của Narendra Modi trong cuộc thổng tuyển cử 2014 ở Ấn Độ, cuộc rời khỏi EU của Anh Quốc (Brexit) do phái hữu-cứng rắn thúc đẩy và sự đi vào Nhà Trắng của Trump trong 2016, chiến thắng gây sốc của Jair Bolsonaro ở Brazil trong năm 2018, và sự lên nắm quyền của Liên Đoàn phương Bắc (Lega Nord) cực-hữu của Italia trong liên minh với Phong trào Năm Sao dân túy trong cùng năm.

Thời gian đương nhiệm đã cực kỳ độ lượng với các lực lượng này. Trong 2019, Narendra Modi được bầu lại ở Ấn Độ, với một độ lệch 6 phần trăm có lợi cho ông, trên một chương trình nghị sự tước quyền công dân của những người Muslim và hung hăng nghiền nát đối lập ở vùng Kashmir bị chiếm đóng. Liên minh cầm quyền đã thêm 57 triệu phiếu vào tổng số phiếu của nó, tăng nó lên 229 triệu phiếu. Tỷ lệ chấp thuận Modi, ngay cả sau khi các luật được ông hứa đã dẫn đến các cuộc phản kháng quần chúng của đối lập và đã chính thức tha thứ các cuộc tàn sát chống lại những người Muslim, vẫn là hơn 70 phần trăm. Cũng trong năm 2019, một cuộc vận động Brexit dân tộc chủ nghĩa đã trao cho Đảng Bảo thủ Anh 44 phần trăm phiếu bàu trên một cương lĩnh ‘người ngoài cuộc’, chống-Westminster, sau gần một thập niên nắm quyền. Tại Philippines, các cuộc bầu cử giữa kỳ đã cho đảng của Tổng thống Rodrigo Duterte, đảng PDP-Laban, 56 phần trăm phiếu bàu sau hai năm của các đội tử thần và dân phòng giết hại hàng ngàn người nghiện ma túy. Tỷ lệ chấp nhận của Duterte từ lâu đã luẩn quẩn quanh 90 phần trăm. Người kế vị được xức dầu của ông, Bongbong Marcos, con trai của cựu độc tài Ferdinand Marcos, đã thắng cuộc tổng tuyển cử 2022 với 59 phần trăm phiếu bàu: cao hơn đáng kể so với 39 phần trăm của Duterte trong 2016. Trong 2022, Fidesz, đảng của Orbán, thấy một sự dao động gần 5 phần trăm có lợi cho nó bất chấp các đảng đối lập đã hậu thuẫn một ứng viên duy nhất. Các đảng cực-hữu khác cũng dường như trên bờ vực của một sự đột phá. Tại Pháp, ứng viên tổng thống cực-hữu Marine Le Pen đã hai lần vào vòng hai của cuộc bầu cử tổng thống, đạt được 33,9 phần trăm trong 2017 và tăng lên 41,5 phần trăm trong 2020. Tại Italy, Lega Nord đã bị tiếp quản như đảng cực-hữu chính bởi đảng Anh Em Italy, phô trương sự liên kết của nó với quá khứ phát xít của nước này. Sau cuộc tổng tuyển cử tháng Chín 2022, nó đã là đảng lớn nhất trong quốc hội Italy và đã thành lập một chính phủ liên minh với Lega Nord, Forza Italia và một đảng trung-hữu nhỏ ‘Us Moderates’. Trong tháng Mười Một 2023, hai nhà lãnh đạo cực-hữu mới lên nắm quyền, khi nhà ‘tự do chủ nghĩa-libertarian’ cực hữu Javier Milei đã thắng chức tổng thống Argentina với 55 phần trăm phiếu bầu, trên cơ sở của một cuộc chiến tranh văn hóa chống lại cánh tả, và Đảng Tự do bài Islam cực-hữu của Geert Wilders đã giành được phần phiếu bàu lớn nhất, 23 phần trăm, trong cuộc tổng tuyển cử Hà lan.

Trong cái nhìn dài hạn này, sự thất bại của Trump trong 2020 và Bolsonaro trong 2022 sẽ có vẻ là những sự dao động có thể dự đoán được trong hình mẫu chung của sự lên. Thực ra, dù Trump đã đẩy nhiều người hơn ông đã thu hút trong năm 2020, cơ sở của ông đã mở rộng hơn mười triệu phiếu: nhiều trong số các cử tri này đã bị hành hạ trong ‘các thành trì’ Dân chủ như Hạt Miami-Dade ở Florida, thung lũng Rio Grande ở Texas và những phần hoang vắng, suy thoái và giảm dân số của vành đai rỉ sét (rustbelt) cũng như các hạt xanh đậm chứa các thành phố như Milwaukee, Detroit và Philadelphia. Trump đã tăng phiếu bàu của ông trong các hạt với tỷ lệ thất nghiệp cao nhất, và giữa hầu như mọi mảng nhân khẩu học trừ những người đàn ông da trắng, gồm những người Muslim, Latino và những người đàn ông da đen. Vì lý do này, bất chấp thiệt hại với uy tín của ông do cuộc đảo chính phá thai gây ra, ông ta là ứng viên Cộng hòa trong các cuộc bầu cử tổng thống 2024. Vào lúc viết những dòng này, thăm dò dư luận thấy ông được hai điểm trước đối thủ chắc có thể của ông, Phó Tổng thống Kamala Harris.13

Những gì xảy ra vào ngày 6 tháng Giêng 2021 đã là một sự tụ họp ngắn ngủi của các yếu tố Mỹ của cơn bão này, được sự lo ngại về sự đổ vỡ dân sự gây xúc tác. Khủng hoảng sinh thái tăng cường, được thể hiện trong các vụ cháy rừng, các cơn bão nghiêm trọng, và một đại dịch được tiên đoán từ lâu, đã làm tăng tốc tâm trạng hiện tồn về sự sợ hãi xã hội. Hoa Kỳ, được lãnh đạo tồi và được định vị-tồi để đối phó do cơ sở hạ tầng sức khỏe bị tư nhân hóa và loạn chức năng và hệ thống phúc lợi hiếm của nó, đã để hàng triệu người phải tự xoay xở khi Covid-19 lan truyền. Trong cơn hoảng loạn tiếp sau, đã có những sự bùng phát chuẩn bị sống sót, một sự trào dâng về sở hữu súng giữa những người mua súng lần đầu đoán trước nội chiến, sự thiếu hụt các hàng hóa thiết yếu dẫn đến sự đổ vỡ của phép lịch sự bấp bênh và mức giết người cao nhất trong hàng thập kỷ.

Cánh hữu dân tộc chủ nghĩa Mỹ tìm những giải thích cho khủng hoảng bên trong thuật ngữ Manichaean (Mani giáo, nhị phân, trắng-đen) của họ. Đại dịch hẳn đã là công việc của một siêu cường Trung Quốc đe dọa sự tự tin của nước Mỹ. Sự cách ly xã hội hẳn phải là công việc của một âm mưu cộng sản hay Satăng nham hiểm trong những giới hạn trên của chính phủ. Khi cảnh sát tàn độc giết George Floyd kích thích phong trào phản kháng lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, các vùng ngoại ô da trắng thấy những người Marxist đang phát động tình trạng vô chính phủ. Các dân quân của nước Mỹ, các băng nhóm đi xe máy da trắng dân tộc chủ nghĩa và các đội dân phòng có vũ trang – Patriot Prayer, Proud Boys, Three Percenters, Boogaloo Boys và các nhóm mới nổi lên qua một đêm như Utah Citizens’ Alarm – đã xuống đường. Trong một số trường hợp, cảnh sát, rõ ràng được an ủi để phát hiện rằng sự ủng hộ truyền thống của họ trong xã hội dân sự đã không biến mất, đã công khai hoan nghênh hay hợp tác với các đội viên dân phòng.14

Khi các vụ cháy rừng ổ ra ở Oregon, các đội viên dân phòng kiểm soát đường phố, quay súng chống lại các nhà báo và càn quét vùng để tìm kiếm bọn khủng bố ‘Antifa’ mà họ, và một số sĩ quan cảnh sát cấp cao, đổ lỗi cho sự đốt rừng. Cuối cùng, khi cuộc bầu cử đến gần, Đảng Cộng hòa để chắc chắn mọi người biết rằng sự sụp đổ của nền văn minh đang diễn ra, cuộc bầu cử bị đánh cắp, những người ngoại đô dưới sự tấn công và chủ nghĩa cộng sản đang giật dây. Sự cóp nhặt rời rạc của thói toáy hoáy âm mưu, sự chống-chủ nghĩa cộng sản ảo giác, những lý thuyết ghê tởm về cái ác tình dục cực đoan và chủ nghĩa thiên niên kỷ thần học mà trải dài từ những bảng tin nhắn đến Nhà Trắng đã giải thích tất cả: những vết nứt và những căng thẳng của nền văn minh, sự tự-tin biến mất của Hoa Kỳ, các nỗi sợ hãi và những cú sốc của một thế giới trong khủng hoảng. Ở đây là một sự thể hiện địa phương của những gì các nhà thần học Kitô gọi là ‘kairos’: sự co lại và sự tăng cường của thời gian.

Các sự đứt gẫy này không phải là các sự kiện cô lập. Chúng là quá nhất quán theo thời gian, và quá toàn cầu, để được giải thích bằng các nhân tố địa phương như phản ứng dữ dội của một sự thượng đẳng da trắng đang mờ dần, hay các trang trại troll* Nga, hay ‘các diễn viên tồi’ đang cố ý lan truyền thông tin giả. Chúng là phần của một chu kỳ chính trị dài hơn mà trong đó chúng ta có thể thấy những gì Gramsci nhắc tới như ‘sự tích tụ phân tử của các yếu tố được dự định để tạo ra một “vụ nổ”.’15 Là hữu ích để phân biệt giữa những gì sử gia Fernand Braudel mô tả như biến cố (sự kiện), chu kỳ và longue durée (thời gian dài).16 Biến cố là chủ đề quen thuộc của tin tức hàng ngày và các feed media xã hội được andrenaline hóa (kích thích thần kinh). Longue durée mô tả một cấu trúc hành vi con người cơ bản mà được duy trì trong hàng thế kỷ, như chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa thực dân. Khi chúng ta nghĩ về longue durée hiện tại, chúng ta đang nghĩ về cách các cấu trúc đó tiếp tục lặp lại các hình mẫu nhất định – khủng hoảng kinh tế, hỗn loạn chính trị, bạo lực – theo thời gian. Đây là một trong những lý do vì sao các năm 1930 dường như là một ẩn dụ phong phú đến vậy cho chúng ta: có những sự tương tự lôi cuốn giữa Đại Suy thoái tiếp sau sự sụp đổ thị trường chứng khoán 1929, tác động chính trị không mong muốn dữ dội của nó, và Đại Suy thoái tiếp sau khủng hoảng tín dụng [2008].

Thời gian trung-hạn, chu kỳ, mô tả một thời kỳ một số thập niên trong đó một tập hợp những sự thay đổi xã hội hay xung đột xã hội nảy nở, phát triển và trưởng thành. Các ví dụ về một chu kỳ sẽ gồm cách mạng công nghiệp (1760–1840), nội chiến Âu châu (1914–45), hay toàn cầu hóa tân tự do (1980–2008). Những kết cục chính trị trong vài năm qua bảo chúng ta loại chu kỳ nào chúng ta đang bước vào. Giữa sự phân rã của giới quyền thế cũ, và sự yếu tương đối của những cơn bột phát cánh tả, chúng ta đang bước vào một chu kỳ của chủ nghĩa phục thù dân tộc chủ nghĩa. Những bệnh lý lâu dài của sự tàn bạo và sự tước đoạt được cấy vào đời sống hàng ngày, một phiên bản của cái nhà hoạt động môi trường Rob Nixon gọi là ‘bạo lực chậm’, đã bùng nổ thành bạo lực ngoạn mục.

Không phải là kinh tế, ngốc ạ. Nó thậm chí không phải là sự sống sót thể chất. Tại Ấn Độ, Philippines, Brazil và Hoa Kỳ, những cuộc tàn sát, chủ nghĩa dân túy đội-tử thần, dân quân cực-hữu và bạo lực cảnh sát và bán-quân sự là lực thúc đẩy của sự thành công dân tộc chủ nghĩa. Chúng không cung cấp sự tăng trưởng, mà tạo cơ hội để tiêu giệt một láng giềng. Những gì đang xảy ra này có phải là nền văn minh sa ngã?

 

III.

Hitler đã sát hại ba triệu người Do thái … có ba triệu kẻ nghiện ma túy … tôi sẽ vui để tàn sát bọn chúng.

– Rodrigo Duterte17

Bản phác thảo thu nhỏ này cố ý không bắt đầu bằng việc mô tả sự lên của Trump, Modi, Duterte và Bolsonaro như một sự tiếp quản của ‘những kẻ mạnh’, ‘các nhà độc đoán’ hay ‘bọn phát xít’. Sự nổi lên bất chấp trọng lực của các nhà dân tộc chủ nghĩa cánh hữu có tầm quan trọng to lớn. Những kỹ thuật của họ về sự nổi tiếng online, trò chơi hoài nghi của họ về các hệ thống chính trị bế tắc và chính trị tàn bạo của họ đã được nghiên cứu rộng rãi và một cách công bằng. Những nhà nước lớn mà trong đó họ giành được chức vụ – Ấn Độ, Hoa Kỳ, Philippines và Brazil – là giữa những nước đông dân nhất thế giới. Cùng nhau, chúng gồm hơn 2 tỉ dân.

Mặc dù xu hướng ‘người mạnh’ là thật, các nhà cai trị này là những người nổi tiếng cực-hữu, không phải các bạo chúa. Họ được đẩy lên quyền lực bằng các phương tiện bầu cử, không phải bởi quân đội hay các lực lượng bán-quân sự. Họ có khuynh hướng bảo tồn hệ thống bầu cử đa số hơn là thử lật đổ nó. Với ngoại lệ của Modi, mà sự kìm kẹp của ông lên đời sống công cộng Ấn độ được ủng hộ bởi một đảng quần chúng (BJP) và một phong trào dân tộc chủ nghĩa bán quân sự Hindu (Rashtriya Swayamsevak Sangh, RSS), họ không có một cơ sở dân sự mạnh để dựa vào. Các điều kiện của sự lên của họ là tiêu cực: sự bế tắc của các định chế nghị viện, uy quyền giảm sút của giới quyền uy cũ và sự đổ vỡ của đời sống xã hội (như được Robert Puttnam và Theda Skocpol chứng minh bằng tư liệu ở Hoa Kỳ).

Là phổ biến để so sánh chính trị của họ với chủ nghĩa phát xít, đặc biệt trong những sách Mỹ bán chạy nhất về Trump. Chủ nghĩa phát xít lịch sử, tuy vậy, là sản phẩm của một thế giới đã qua từ lâu. Tại châu Âu, nó đã là sản phẩm của một cuộc đấu tranh giai cấp dữ dội từ Nga đến Pháp, các quá trình hiện đại hóa và đô thị hóa hỗn loạn, sự bạo ngược chủng tộc dưới dạng sự tách biệt và chủ nghĩa thực dân, và các áp lực tới chiến tranh thế giới. Thế giới đồn trú, hết sức phân tầng đó đã qua rồi, cho dù các phong trào như Black Lives Matter đang khẩn trương nâng cao nhận thức về kiếp sau bạo lực của nó. Chủ nghĩa dân tộc tai họa của ngày hôm nay không phải là thực dân chủ nghĩa với sự ngoại trừ của cực hữu Israeli. Sự quyến rũ của chủ nghĩa đế quốc cho các phong trào phát xít là sự xác minh chủng tộc và bạo lực của nó như nguyên tắc sống, trong sự khẳng định của nó về hệ thứ bậc phản-dân chủ của nó, trong lời hứa tái thiết của nó qua cái Bismarck gọi là ‘máu và sắt’ (Blut und Eisen) và trong lời hứa của nó về ý nghĩa tinh thần đạt được qua một sự gặp gỡ với cái chết. Cực hữu ngày nay có một mối quan hệ mơ hồ hơn nhiều với chủ nghĩa đế quốc: trong khi nhiều binh lính Mỹ đã bị cực đoan hóa trên các chiến tuyến ở Iraq và Afghanistan, các định chế của chủ nghĩa đế quốc Mỹ chí ít được xem như là quá ‘woke (thức tỉnh)’ và đồng lõa trong dự án ‘toàn cầu chủ nghĩa’.

Chủ nghĩa dân tộc tai họa cũng chẳng đưa ra tuyên bố cách mạng chống-chủ nghĩa đế quốc nào, như chủ nghĩa phát xít đã tuyên bố trước khi nắm quyền. Ngược lại, nó gợi ý rằng các vấn đề của sự phát triển tư bản chủ nghĩa – trong các nước thu nhập-trung bình đang lên như Philippines, Ấn Độ hay Brazil, cũng như trong các cường quốc đang xuống như Hoa Kỳ – có thể được khắc phục bằng việc bỏ qua các luật nhân quyền, những sự kiểm soát khí hậu, sự đổi chác nghị viện và các thỏa thuận quốc tế gây suy yếu. Các lãnh đạo của nó, từ Trump đến Modi, thường xuyên tự giới thiệu mình như những đấng nam nhi chuyên quyền công ty, không thương xót, có khả năng buộc mọi người làm việc cùng nhau và ‘khiến các thứ được hoàn thành’. Chủ nghĩa đế quốc cơ bắp là tờ quảng cáo không tưởng yếu của họ.

Cực hữu mới này có thể là ‘hậu-phát xít’ như Enzo Traverso lập luận, hoặc nó có thể đại diện sự bắt chước phổ của chủ nghĩa phát xít như Samir Gandesha gợi ý.18 Tôi nghĩ các nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa tai họa là những người tìm đường cho một kiểu mới của chủ nghĩa phát xít, bởi vì theo một cách nói, chúng ta luôn luôn là tiền-phát xít chừng nào các điều kiện cho chủ nghĩa phát xít chưa được hủy bỏ. Nhưng bất cứ thứ gì nổi lên sẽ không là cosplay (hóa thân) của các năm 1920 và các năm 1930. Ngoài bất cứ thứ gì khác ra, kinh nghiệm phát xít đã không bắt đầu và chấm dứt với cuộc khủng hoảng giữa hai cuộc chiến tranh. Theo Rick Saull, mô hình cực-hữu phân biệt của chính trị, kết hợp chủ nghĩa bán-quân sự và sự lãnh đạo có sức thuyết phục, có thể truy nguyên về 1848 và phản ứng dữ dội chống lại các cuộc cách mạng đó lan ra khắp châu Âu năm đó. Sự phổ biến của chủ nghĩa dân tộc phi lý, chống-dân chủ tương tự có thể được truy nguyên về nửa sau của thế kỷ thứ mười chín. Arthur Rosenberg, viết không lâu sau khi Hitler lên nắm quyền, nhận xét rằng trước khi chủ nghĩa phát xít trở thành một đảng-nhà nước nó đã là một ‘phong trào quần chúng’ bén rễ trong cảm xúc của hàng triệu người. Trước khi nó là một phong trào quần chúng, hàng triệu người đã bị lây với các ý tưởng völkisch, dân tộc chủ nghĩa chủng tộc rồi. Nếu chủ nghĩa phát xít giữa hai cuộc chiến tranh là dấu chuẩn lịch sử mà đối lại nó chúng ta đo chủ nghĩa dân tộc mới, thì sẽ là thích hợp để bắt đầu ở nơi chủ nghĩa phát xít bắt đầu. Nó bắt đầu, theo lời của các nhà triết học Gilles Deleuze và Félix Guatarri, như một cuộc nổi dậy ‘phân tử’, với những chủ nghĩa phát xít vi mô gỡ rối làm suôn mượt trong quần chúng nhân dân. Ngày nay, chúng ta đang trong những ngày đầu của một chủ nghĩa phát xít mới.19

Mô hình thích hợp cho việc phân tích pha hiện thời của chính trị dân tộc chủ nghĩa, vì thế, không phải là ‘người mạnh’, độc tài quân sự hay nhà nước-đảng. Nó là sự bùng phát lây: ‘bệnh dịch nâu’, như Daniel Guérin gọi nó. (Chính một phần từ những quan sát của Guérin về bản chất của chủ nghĩa phát xít ở nước Đức mà Deleuze và Guattari dẫn ra khái niệm về chủ nghĩa phát xít vi mô.) Theo thuật ngữ ngày nay, sự lan truyền của các vụ giết người của sói đơn độc và sự xả súng hàng loạt, của các đội viên dân phòng DIY (tự mình làm lấy), các lực lượng dân quân được kết nối mạng, những kẻ tìm kiếm phù thủy âm mưu chủ nghĩa và những kẻ tàn sát có thể được gọi là một sự lây xã hội.

Một lý thuyết đổi mới sáng tạo về sự lây xã hội được nhà xã hội học Pháp Gabriel Tarde phát triển vào cuối thế kỷ thứ mười chín. ‘Sự truyền chuyển động từ một thân thể sang thân thể khác’, ông viết, xảy ra đầu tiên trong các mối quan hệ vi mô được hình thành bên dưới radar đại diện. Vào lúc đó nó không có ý thức cũng chẳng có nhận thức. Một xu hướng mốt, hay một chủ nghĩa phát xít vi mô, có thể bắt đầu với một quá trình không cố ý, ngẫu nhiên của sự gặp gỡ giữa hai nút trong một mạng lưới, khơi mào một sự kiện-đáng mong muốn. Từ đó, khát vọng lan ra trong một dòng phân tử của ‘các tia bắt chước’, thách thức các niềm tin và các giá trị được mã hóa, ép buộc sự thích nghi với một mốt mới, tạo ra các loại lai mới. Như thế, virus mới: sự sáng chế xã hội. Kể từ công trình của Tarde, nghiên cứu sự lây xã hội (social contagion) và xúc cảm đã xác minh rằng các quá trình truyền thường xảy ra bên dưới radar nhận thức. Những người đang trò chuyện, chẳng hạn, có khuynh hướng để bắt chước và đồng bộ hóa chuyển động của họ mà không nghĩ về nó, điều chỉnh với những kích thích mới trong vòng 125 đến 200 milli giây. Theo cùng cách, các trạng thái xúc cảm có khuynh hướng được đồng bộ hóa một phần thông qua những ám hiệu chốc lát của sự phản hồi nét mặt.20

Vấn đề là, trong khi là có thể để thấy các quá trình vô thức này có thể diễn ra trong sự siêu-nổi tiếng của internet, sự lây xã hội không phát tán mà không có sự suy ngẫm có ý thức nào đó. Quả thực, chính quan niệm về sự lây xã hội chẳng là gì trừ một ẩn dụ quyến rũ mà, bằng việc đối xử với các xu hướng xã hội cứ như chúng tương tự với các hạt viral, cho phép các nhà lý thuyết trừu tượng hóa khỏi các ý định của những người hấp thu để tập trung vào các cơ chế cho sự truyền. Một khi ý định được đưa trở lại, là rõ ràng rằng có các ngưỡng cho sự hấp thu. Trong tác phẩm của ông về sự lây xã hội, Damon Centola phân biệt giữa sự lây ‘đơn giản’ và ‘phức tạp’. Một sự lây đơn giản, giống một virus hoặc một ý tưởng marketing, có một ngưỡng thấp cho ‘sự thích nghi’ và sự truyền. Những sự lây như thế này lan truyền nhanh nhất qua các mạng lưới phân tán rộng với rất nhiều ‘mối quan hệ yếu’, chẳng hạn trên internet. Những sự lây phức tạp, như các phong trào xã hội, có các ngưỡng thích nghi cao hơn. Chúng đòi hỏi những người chấp nhận để nghĩ nhiều về sự nghiệp, các chi phí tham gia và các giá trị hiện có của họ. Hơn nữa, đối với hầu hết mọi người, nó đòi hỏi sự chấp thuận từ những người ngang hàng. Như Doug McAdam và Ronnelle Paulsen chỉ ra trong tác phẩm của họ về các quyền dân sự, sự quyết định để tham gia vào một phong trào phụ thuộc vào phản hồi chúng ta nhận được từ ‘một tập hợp con quan trọng của các mối quan hệ [của chúng ta]’. Một sự lây như thế lan truyền nhanh nhất trong một mạng lưới giống một cộng đồng dựa vào địa lý, nơi có rất nhiều sự dư thừa trong mạng lưới: có nghĩa là rất nhiều người biết cùng những người khác. Đó thực sự là cách hầu hết các phong trào xã hội đã lan ra, trong các làn sóng địa lý. Như Centola diễn đạt, ‘Trong khi những sự lây đơn giản lan truyền hiệu quả nhất khi những chiếc cầu là dài, còn những sự lây phức tạp phụ thuộc vào những chiếc cầu rộng.’21

Chủ nghĩa dân tộc tai họa, bất chấp mọi sự phức tạp của các ý tưởng và tâm trạng nó liên quan đến, lan truyền cứ như nó là một sự lây ‘đơn giản’: tìm những con đường chính của nó trong các mạng lưới truyền thông hơn là các khu dân cư hay các cuộc tụ họp chính trị. Quả thực, từ tuyên ngôn ‘sói đơn độc’ đến câu chuyện ‘tin giả (fake news)’, nó là memetic (lan truyền học) tự giác. Ví dụ, Anders Behring Breivik, tác giả gốc của tuyên ngôn ‘sói đơn độc’– thực ra, là một người cóp nhặt các tài liệu được cắt và dán từ các website cánh-hữu, viết tự truyện, sự tự lực nam tính và huyễn tưởng ngày tận thế – đã mô tả các vụ giết người của hắn như sự quảng cáo cho tuyên ngôn của hắn, cho phép sự hấp thu của nó. Các tuyên ngôn tiếp sau, được tự-xuất bản, đã vay mượn từ Breivik và được bầy sói đơn độc lưu hành cuống cuồng trên các diễn đàn alt-right (một phong trào cực-hữu dân tộc chủ nghĩa).

Mọi sự lây xã hội thành công, dù nó là một meme, một phụ kiện thời trang, một đồ dùng mới lý thú hoặc một cuộc vận động chính trị, đi theo một hình mẫu đường cong-chữ-s trong sự lan truyền của nó. Sự hấp thu ban đầu chậm đến mức giống sự trì trệ. Rồi có một thời khắc tăng tốc và cất cánh. Cuối cùng, sự lan phẳng ra, trước khi đạt giới hạn trên của nó, được biết đến như ‘asymptote (đường tiệm cận)’. Những sự tăng tốc kịch liệt được nhắc tới ở trên xác định độ nghiêng hướng lên trong đường cong chữ-s của sự lan ra, thời khắc khi sự lây cất cánh. Việc đó bắt đầu lâu trước sự đổ vỡ chính trị gần đây.

Nếu đời sống công dân không sôi động, thì làm sao sự lây lại lan truyền nhanh đến vậy? Làm sao quần chúng tìm thấy đường ‘một cách tự phát’ tới các ý thức hệ này khi chúng có ít sự hỗ trợ có tổ chức trong xã hội dân sự? Ngụ ý là ngưỡng cho sự hấp thu các ý tưởng này là thấp hơn ngưỡng có thể được giả thiết, hoặc nó được hạ thấp một cách có hệ thống.

IV.

Hệ thống hiến tế ràng buộc những người Mỹ có một lá cờ thiêng liêng ở trung tâm của nó. Những nghi lễ yêu nước tôn kính nó như sự hiện thân của một thần vật tổ khát máu tổ chức sinh lực giết người.

– Carolyn Marvin and David Ingle, Blood Sacrifice and the nation: Totem Rituals and the American Flag.22

Vì sao, nếu có một cuộc khủng hoảng của nền văn minh, lại có nhiều người đến vậy làm việc để đẩy nhanh sự kết thúc? Các huyễn tưởng tận thế của chủ nghĩa dân tộc tai họa, tôi gợi ý, khai thác một sự mơ hồ rộng khắp về nền văn minh mà nhất thiết gồm một sự thù hận tất cả những thứ văn minh, và một khát vọng ngầm để cho nó tan rã, cũng như một nhu cầu để được trấn an rằng tai họa rốt cuộc sẽ trở nên tốt. Điều này, như các tiểu thuyết tai họa, các phim ngày tận thế, thông tin giải trí ‘thời gian chấm dứt’ và chủ nghĩa dân tộc tai họa bây giờ gợi ý, là hết sức sinh lời. Nó tích lũy cả vốn lẫn linh hồn.

Trong năm 1929, khi sự khởi đầu Khủng hoảng sắp phóng bọn Nazi lên nắm quyền, Sigmund Freud đang nghiên cứu về cách để giải thích các xu hướng như vậy. Trong một tác phẩm ngắn nhưng ngông cuồng về siêu tâm lý bi quan, Nền văn minh và những sự Bất mãn của Nó (Civilization and Its Discontents), ông lập luận rằng bất chấp tất cả các lợi ích của nó, nền văn minh cũng làm cho chúng ta ốm yếu. Chúng ta phải từ bỏ quá nhiều sự thỏa mãn gợi tình và hung hăng nhân danh sự yêu quý láng giềng và sự lịch sự, mà không đến một cách tự nhiên, và gánh nặng của nó là sự bất hạnh. Nếu điều này không được chuộc lại bằng những lợi thế vật chất làm cho cuộc sống của chúng ta dễ chịu hơn, Freud gợi ý, thì nó sẽ dẫn đến một sự gây náo động nghiêm trọng. Các tác động chữa lành của sự phá hoại nền văn minh, khi hàng triệu người buông bỏ cái tôi đáng kính, phải đạo của họ và ủng hộ sự thô tục tự hủy hoại, căm ghét của họ với niềm tự hào, chỉ có thể kết thúc trong một sự bùng nổ khác nữa của loại mà trước đây đã biến những người Do thái thành dê tế thần của châu Âu.23

Sự tập trung tâm lý hẹp của Freud vào tình dục và sự gây hấn có lẽ đã dẫn ông để đánh giá thấp những gánh nặng của nền văn minh, và tầm quan trọng của sự phân phối không đều: xã hội có giai cấp sinh ra sự oán giận, nghen tị, sự thù hận, sự lo lắng, sự trầm cảm và sự thịnh nộ. Những người ngang hàng cấp tiến hơn của ông, như Wilhelm Reich và Erich Fromm, đã cố gắng thăm dò thêm vào các cấu trúc gia đình và tư bản chủ nghĩa của nền văn minh hiện đại và đời sống xúc cảm ngầm hỗ trợ sự bùng nổ phát xít. Muộn hơn, phân tâm học sẽ được Octave Mannoni và Frantz Fanon dùng để khai phá tác động đen tối, hủy hoại văn minh của chủ nghĩa thực dân.

Những gì hợp nhất những sự bùng nổ dường như vô nghĩa và ngẫu nhiên của bạo lực cá nhân và tập thể trong những năm gần đây là khía cạnh khác của nền văn minh hiện đại: nhà nước-quốc gia. Sự phổ biến của chủ nghĩa dân tộc, theo một cách, là vô cùng kỳ quặc. Chúng ta thường được bảo rằng những gì mọi người quan tâm nhất là các vấn đề ‘cơm áo gạo tiền’. Thế nhưng quan niệm về một sự trừu tượng chính trị có được sự ủng hộ chân thành từ hàng triệu người muốn những thứ khác nhau, mâu thuẫn nhau. Quốc gia đã là một đối tượng thờ phượng, được mường tượng như một vị thần hay nữ thần, đến nỗi chủ nghĩa dân tộc có thể được nghĩ là một tôn giáo sùng bái thần tượng. Nhà thần học David Ritchie đi xa đến mức gọi nó là một tôn giáo ma quỷ mà, ở Hoa Kỳ, đã chinh phục Kitô giáo ‘nhờ sức mạnh cám dỗ’. Chủ nghĩa dân tộc là hùng mạnh một phần bởi vì nó hết sức mơ hồ về mặt chính trị, bao gồm mọi thứ từ chủ nghĩa dân tộc chống thực dân đến chủ nghĩa dân tộc công dân Scottish, đến chủ nghĩa dân tộc-sắc tộc Hindu. Nó có một lịch sử dài về sự liên kết với cực hữu nhưng cũng tạo cơ sở cho các dự án chính trị của cánh tả dân chủ. Nó có thể được biểu đạt trong các hình thức hàng ngày, cái mà Michael Billig gọi là ‘chủ nghĩa dân tộc tầm thường’, và trong các sự kiện biểu tượng ngông cuồng như các giải đấu bóng đá.24 Nó tràn lan đến mức thường được coi là nghiễm nhiên.

Thế nhưng lịch sử của chủ nghĩa dân tộc còn xa mới tầm thường. Trong những nguồn gốc của nó, nó là một quá trình văn minh hóa, một cách chỉ dẫn quá trình hỗn loạn để thu hút quần chúng nhân dân vào sự cùng tồn tại dưới cùng quy tắc chính trị, tôn giáo và kinh tế. Và như một dự án văn minh hóa, nó thể hiện nhiều xu hướng mâu thuẫn nhau mà Freud đã nhận diện. Những mầm mống sớm nhất của chủ nghĩa dân tộc, như sử gia Anthony Marx cho thấy, xuất hiện trong khung cảnh của kỳ vọng ngày tận thế sôi sục, giữa nội chiến tôn giáo và nỗi sợ về sự chống-Kitô giáo chiến thắng. Chủ nghĩa dân tộc, vào lúc bắt đầu của nó, đã bị ám ảnh với âm mưu lật đổ, từ sự săn phù thủy của Nội chiến Anh đến sự săn đuổi sự phản bội của các nhà cách mạng Mỹ. Các nhà nước-quốc gia hiện đại được thành lập, như Heather Rae quan sát, trên sự cải đạo ép buộc, sự đàn áp và ‘việc di dân hàng loạt’, thường trong khung cảnh chiến tranh. Giữa các sự kiện sang chấn này là sự trục xuất những người Morisco và Do thái khỏi Tây Ban Nha, sự đặt đạo Tin lành Pháp ra ngoài vòng pháp luật và sự chạy trốn của những người Huguenot, ‘sự trao đổi dân cư’ hung bạo giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ vào đầu thế kỷ thứ hai mươi, và những cuộc tàn sát cộng đồng trong thời gian chia cắt Ấn Độ và Pakistan.25

Dù quốc hữu hóa đã hung bạo, trong thời hiện đại sớm nó đã có ý định ngăn cản một sự sụp đổ đáng sợ hơn nhiều. Nhà nước-quốc gia được cho là để thống nhất mọi người, đến mức các chà cai trị của chúng tìm cách đàn áp ngay cả ký ức về xung đột xã hội. Chính thể chuyên chế Pháp đã đòi hỏi rằng vụ tàn sát Ngày Thánh Bartholomew, trong đó các đám đông Công giáo Pháp đã tàn sát những người Tin lành, được đối xử cứ như nó đã chưa từng xảy ra. Cuộc Phục hồi Anh đã phải đòi hỏi một Đạo luật miễn Phạt và Quên lãng để tha thứ các tội bị phạm trong Nội chiến.

Việc quốc gia hóa quần chúng, tuy vậy, đã không trừ tiệt xung đột dân sự. Nó đã cho xung đột một sự biểu hiện mới. Việc rèn luyện các quốc gia trong chiến tranh đã xác định chúng chống lại một kẻ thù bên ngoài. Thuộc địa hóa, ràng buộc tình trạng nô lệ và chế độ nô lệ bằng khế ước, từ Ireland đến các nước châu Mỹ, từ Ấn Độ đến vùng Caribbea, đã xác định quốc gia chống lại các nước thấp kém hơn của nó – mà, do thiếu nhà nước-quốc gia vào giai đoạn đó, được cho là ngoài luật pháp và văn minh. Cuối cùng, các quốc gia thường đã có những người thấp kém hơn (bị bóc lột) và các kẻ thù (những người bị áp bức) bên trong của chúng. Trong khi các giai cấp thấp hơn có thể bị kiểm soát bằng cảnh sát và bị dụ dỗ, các thiểu số tôn giáo và sắc tộc là đối tượng của những đòi hỏi cải đạo và đồng hóa bắt buộc, nếu không phải là sự trục xuất hay cái chết. Các quá trình ép buộc, thuyết phục đạo đức, và bạo lực loại trừ này được kết hợp với hiện tượng thế kỷ thứ hai mươi ít được nghiên cứu về săn phù thủy và tàn sát chống-cộng sản, mà thường rơi nặng nề nhất lên các thiểu số không được ưa chuộng.

Dù nền văn minh mới này có thể là áp bức, nó cũng có thể hết sức dễ dãi với những người gây đau khổ cho các kẻ thù của quốc gia. Một người da trắng có tiền ở Hoa Kỳ trước chiến tranh đã không chỉ có thể sở hữu những người da đen như các nô lệ mà có thể làm hầu như mọi thứ với họ. Một người Nga không Do thái đã có thể tàn sát những người Do thái trong một cuộc tàn sát với một cơ hội cao được miễn trừng phạt. Trong lưu vực Amazon, như Sir Roger Casement đã lập tư liệu với sự báo động của ông, Công ty Amazon Peruvia đã có thể săn, xích lên, đánh đập, giết hại, hãm hiếp và nô lệ hóa những người Da đỏ Putumayo mà không có hậu quả nào. Tại Australia dưới sự cai trị Anh, Sir Arthur Gordon đã thấy ‘những đàn ông có văn hóa và tao nhã’ nói về cả ‘sự tàn sát cả khối’ lẫn ‘sự giết chóc cá nhân những người bản địa, chính xác như họ nói về một môn thể thao hàng ngày, hặc như việc giết loại thú vật gây rắc rối nào đó’.26

Những sự luyện tập này về toàn năng cá nhân được dệt thành các nghi lễ thượng đẳng dân tộc, sắc tộc và chủng tộc mà trong đó hàng triệu người có thể cảm thấy sự tham gia nào đó. W. E. B. Du Bois, viết về trạng thái nô lệ trước chiến tranh, đã mô tả các công nhân da trắng lương thấp đã nhận được một khoản đền bù thế nào cho sự lệ thuộc của họ, một ‘khoản lương công cộng và tâm lý’, từ sự thực rằng họ đã có một phần trong sự làm ông chủ. Họ đã có khả năng bỏ phiếu, được đối xử với sự lịch sự tương đối, và nhận được sự tôn trọng và sự phục tùng từ những người da đen mà họ được phép lăng mạ và xỉ vả. Lối hành hình lynching đã là ‘một loại ngày lễ Roman chấp nhận được cho sự giải trí của những người da trắng đồi bại’. Corey Robin, mô tả sự đổi mới mà điều này được trình bày trong tư tưởng phản động, gọi nó là một ‘hình thức tinh hoa của chủ nghĩa phong kiến dân chủ’ bởi vì nó trao cho những người bình thường một phần trong tư thế làm ông chủ. Dù nền văn minh hiện đại có thể đánh thuế, thì nó đưa ra những sự đền bù của tính ưu việt. Và những sự đền bù này, cho những người chấp nhận chúng, cũng hoạt động như một sự biện minh giả mạo cho sự bất bình đẳng bạo lực, một bằng chứng được cảm thấy về tính không thể tránh khỏi của nó: mọi người luôn đá xuống. Và, ngay cả với những sự bất bình đẳng này, chủ nghĩa dân tộc hứa hẹn sự thống nhất. Nó nói: chúng ta đều cùng nhau ở trong đó, nhân dân và nhà nước là một.27

Chủ nghĩa dân tộc tai họa xuất hiện khi sự thống nhất như vậy không còn đáng tin cậy nữa, và khi các khoản đền bù của chủ nghĩa dân tộc bị đe dọa. Mối đe dọa ngày tận thế, từ quan điểm này, không phải là tai họa, sự cháy rừng hoặc thảm họa sinh thái. Nó là sự thủ tiêu sự phân biệt xã hội. Nỗi lo sợ dân tộc chủ nghĩa về ‘ý thức hệ giới’, từ Đông Âu đến Mỹ Latin, là một nỗi sợ rằng đàn ông sẽ trở thành đàn bà. Nỗi sợ về ‘Antifa’ và Black Lives Matter là một nỗi sợ, như sử gia David Starkey một thời đã phàn nàn, về những người da trắng đang trở thành da đen. Nỗi sợ về ‘chủ nghĩa cộng sản’ là nỗi sợ rằng những người giàu, và thậm chí những người khá giả vừa phải, sẽ trở thành những kẻ nghèo túng. Và sự hỗn loạn này bị đe dọa bởi ‘các nhà Marxist văn hóa’ và ‘các nhà lý thuyết chủng tộc phê phán’ phỉ báng nhà nước-quốc gia bằng việc khăng khăng rằng lịch sử đen tối của nó, như tình trạng nô lệ ở Hoa Kỳ, là xác đáng ngày nay. Khi tiêu chuẩn sống bị ép lại và sinh kế trở nên bấp bênh hơn, thì sự mất phân biệt này được trải nghiệm rộng rãi bởi những người trước đây được xã hội quý trọng vì một sự bần cùng to lớn chẳng khác gì sự sụp đổ của nền văn minh. Một sự sụp đổ chỉ có thể được mô tả bằng các ngụ ngôn thuyết phục về mặt xúc cảm về ‘sự tuyệt chủng da trắng’ hoặc giới elite lạm dụng trẻ em. Và chống lại nó các nhà dân tộc chủ nghĩa tai họa, khủng bố đưa ra một sự phá hoại nền văn minh chữa lành: sự khôi phục bạo lực, tiếp theo bởi tiếng cười và sự quên.

V.

Bất chấp mọi bạo lực của nó, sự bày tỏ cảm xúc của chủ nghĩa dân tộc tai họa thường lạc quan đáng ngạc nhiên. ‘Những người tốt đẹp đang đến,’ các nhà dân tộc chủ nghĩa Hindu hứa hẹn. ‘Chiến thắng,’ Trump hứa. Rất nhiều chiến thắng. Có nhiều lời nói về niềm tự hào: tự hào dân tộc, tự hào da tắng, tự hào đàn ông, tự hào Kitô giáo, tự hào Hindu, Proud Boys (tổ chức cực hữu các Chàng trai Tự hào). Cứ như chủ nghĩa dân tộc là một phong trào tự-trọng hiện đại. Cứ như các cử tri dân tộc chủ nghĩa bí mật đau lòng với nỗi buồn, sự xấu hổ và tự-ghê tởm, và liều lĩnh cho sự cải đạo, cho sự thay đổi cả chính trị và cá nhân.

Có nhiều bằng chứng cho tình trạng khó chịu tập thể. Nó là một ‘thế giới lạnh lẽo’, như nhà văn Dominic Fox diễn đạt, một thế giới ngày càng ‘bị rỗng về cả sự nồng ấm con người lẫn sự thoải mái siêu hình’. Cách thức mà nỗi đau buồn này được phát hiện là vụng về và không thỏa đáng: các cuộc khảo sát hạnh phúc vẽ đồ thị sự hài lòng cuộc sống giảm sút, dữ liệu của Hội Tâm thần Thế giới cho thấy trầm cảm tăng lên khi bất bình đẳng tăng lên, tuổi thọ kỳ vọng giảm với số tăng lên của ‘cái chết tuyệt vọng’ (từ rượu cồn, ma túy hay tự tử), các chỉ số tin cậy cho thấy đời sống xã hội đang trở nên hoang tưởng và thù địch hơn, dữ liệu chuẩn đoán cho thấy bệnh tâm thần tràn lan, nghiên cứu tiết lộ rằng mỗi thế hệ mới ít hòa đồng xã hội hơn và cô đơn nhiều hơn, dữ liệu kinh tế cho thấy các cơ hội cuộc sống giảm sút và tính di động giai cấp đi xuống. Sự trầm cảm, đạt các tỷ lệ bệnh dịch trong thời Covid-19, đã là bệnh dịch địa phương rồi trong phần lớn thế giới. Trong năm 2017, Tổ chức Y tế Thế giới lưu ý rằng sự phổ biến của trầm cảm đã tăng 18 phần trăm giữa 2005 và 2015. Nó đã trở thành nguyên nhân hàng đầu của sự khuyết tật trên thế giới. Thật thú vị, một số nghiên cứu gợi ý rằng trong khi niềm tự hào công dân tương ứng với ‘well-being (an lạc, trạng thái khỏe mạnh và hạnh phúc) ­­chủ quan’ cao hon, ‘chủ nghĩa dân tộc sắc tộc’ dường như tương quan với well-being chủ quan thấp hơn.28

Cái gì ở đằng sau dịch bệnh trầm cảm, cô đơn và ‘cái chết tuyệt vọng’ này, và làm sao những xúc cảm như vậy bị chủ nghĩa dân tộc cứu rỗi chính trị hóa? Một phần, các xã hội đã trở nên bất hạnh hơn khi chúng trở nên bất bình đẳng hơn. Sự bất bình đẳng tăng lên tăng cường mối đe dọa được cảm nhận đối với địa vị thu nhập, nhất là giữa những người thuộc hệ thứ bậc cao hơn. Nó làm cho sự thất bại độc hại, sự rớt xuống sâu hơn nhiều. Đây là phần của một sự thay đổi so sánh, đã xảy ra trong hơn bốn mươi năm qua. Chủ nghĩa tân tự do, tên của sự thay đổi đó, thường được gọi một cách lầm lạc là ‘trào lưu chính thống thị trường tự do’. Nhưng các nhà tân tự do đã chưa bao giờ phản đối nhà nước lớn. Những gì họ phản đối là mối đe dọa do thời đại dân chủ quần chúng gây ra đối với chủ quyền của các thị trường và các nhà đầu tư. Họ đã muốn dùng chính sách nhà nước để cải cách con người, làm cho mọi người dứt bỏ niềm tin không có cơ sở của họ vào sự bình đẳng và quan niệm bộ lạc của họ về sự đoàn kết, và tập cho họ quen với quy luật cạnh tranh phổ quát: ‘để thay đổi linh hồn của họ’, như Margaret Thatcher diễn đạt.29

Đây là một hệ thống hoang tưởng. Từ quan điểm tân tự do, không có thứ gì như ‘lợi ích công cộng’ cả. Bất cứ ai tán thành nó là một kẻ đạo đức giả, một nhà quan liêu tối đa hóa quyền lực, hoặc một ký sinh trùng trên núm vú của người đóng thuế. Không có thứ như ‘tự do khỏi sự thiếu thốn’: đây là một lời nói dối được những người bị sa thải và các khách hàng nhà nước có đặc ân kéo dài mãi mãi. Không có thứ như ‘xã hội’: những người nói về xã hội đang che đạy sự theo đuổi tư-lợi hợp lý riêng của họ. Chỉ có những người cạnh tranh hoạt động dưới các quy tắc ít nhiều công bằng. Lời giáo huấn sáng lập của chủ nghĩa tân tự do có thể là ‘họ đều muốn tóm bạn’.

Tình trạng cạnh tranh phổ quát này đã gây ra các ý thức hệ phi chính thức của chủ nghĩa Darwin xã hội: một văn hóa ganh đua của ‘những người thắng’ và ‘những kẻ thua’ mà đã biến những kẻ cơ hội tàn khốc như Trump thành các anh hùng nhạc pop, và những tên côn đồ thành những người nhận phúc lợi. Trong bất kể xã hội có giai cấp nào, như nhà xã hội học T. H. Marshall gợi ý, chúng ta hiểu bản thân mình qua sự so sánh với những người khác. Chủ nghĩa tân tự do ồ ạt nâng tiền cược của sự kiểm tra địa vị điên rồ như vậy. Và ‘cái chết của một ngàn sự so sánh xã hội’ này, như nhà tâm lý học Oliver James diễn đạt, trở nên độc hại ngay tại điểm mà ‘một số người’ trước kia bị rủi ro trở thành ‘chẳng ai’ cả.

Thật mỉa mai, trận bão dữ liệu về trầm cảm giống sự trải nghiệm trầm cảm: nó đại diện cho thế giới, như Fox diễn đạt, trong một loại ‘khách quan’ bị biến dạng. Các sự thực đối mặt với chúng ta, nhưng chúng không có bất kể đam mê nào, hay mối quan hệ nào với chúng ta. Sự khốn khổ phổ biến được trình bày như một loạt biến số cần được quản trị, một cách lý tưởng qua sự thúc đẩy một phong cách sống tư sản gồm tập luyện, chế độ ăn uống lành mạnh, chánh niệm, thuốc và sự tự chăm sóc. Những người bị trầm cảm, vì mục đích của các chính phủ và các công ty bày tỏ sự lo lắng, có trách nhiệm chăm sóc tốt hơn về ‘vốn nhận thức’ của họ. Chẳng biện pháp nào trong số này hoạt động để đảo ngược bệnh dịch trầm cảm. Vì tình trạng khó chịu hiện đại biểu thị như ‘một sự giảm tổng quát của mong muốn và năng lực’, như William Davies diễn đạt, được bảo để làm phấn chấn, thách thức những suy nghĩ tiêu cực và trở nên vui vẻ thường chỉ làm cho nó tồi tệ hơn. Trong các hình thức của sự tự-dùng thuốc mà những người khốn khổ thực sự thích hơn nữa – chứng nghiện opioid, bạo lực, nghiện rượu– sự tự-chăm sóc là không thể phân biệt được với sự tự-làm hại. Cách chữa trị là sự tự sát chậm.30

Chủ nghĩa dân tộc tai họa đưa ra cách chữa trị khác, mà không là hạnh phúc cũng chẳng là sự tự-dùng thuốc. Về mặt lịch sử cực hữu đã bác bỏ hạnh phúc như một sự mở rộng của kinh tế học chính trị tự do. Mussolini chế nhạo, nó không phải là sự an lạc (well-being) thật mà là một sự suy đồi của con người xuống địa vị súc vật. Mô hình hồi sinh tinh thần được ưa thích hơn của cực hữu là sự phiêu lưu chiến tranh, với hàng triệu người diễu hành cùng nhau tới một cuộc chạm trán sống động với một tai họa họ có thể tiêu diệt, bị triển vọng chết kích thích và khuấy động. Như Julius Evola diễn đạt hàng tháng trước khi Mussolini xâm lược Ethiopia (chống lại ‘Bọn da đen và côn trùng thuộc địa khác’ như Evola lẽ ra đã gọi họ), thành tựu anh hùng của cá nhân trong chiến tranh, ‘cho dù nó là thời khắc cuối cùng của cuộc đời trần tục của hắn, có sức nặng vô cùng trên thang giá trị nhiều hơn một sự tồn tại kéo lê được dùng để tiêu thụ một cách đơn điệu giữa những thứ tầm thường của các thành phố’.31 Chủ nghĩa dân tộc tai họa không phải luôn luôn là về sự vội vã lao vào chiến tranh, mặc dù ở Kashmir và Gaza nó chắc chắn phát đạt nhờ cơ hội để thực thi các biên giới đạo đức của quốc gia bằng việc giết các kẻ thù. Nhưng ngay cả nơi nó không, nó khai thác sự bất an, sự làm nhục và sự khốn khổ của những người từ khắp các giai cấp tới một cuộc nổi loạn chống lại nền văn minh tự do, với các chuẩn mực đa số và dân chủ của nó. Nó cung cấp dầu thơm, không chỉ sự báo thù, mà một loại sự đặt lại bạo lực khôi phục sự an ủi truyền thống của gia đình, chủng tộc, tôn giáo và tính quốc gia, kể cả cơ hội để làm nhục những người khác. Vì thế thành ngữ gây lạm phát của chủ nghĩa dân tộc ‘chống-woke (thức tỉnh)’, mà trong đó ngay cả những cố gắng nhẹ nhàng, vụng về để bày tỏ một ngôn ngữ bao hàm bị coi như một mối đe dọa sống còn. Mục tiêu không đơn giản là để véo mũi của siêu ngã tự do mà để truyền sinh khí cho cuộc sống bằng việc đưa vào một mũi tiêm mạnh của bạo lực, sự lệ thuộc và cái chết.

Sự chữa trị, sự tàn sát cảm thấy-tốt, ‘viên thuốc màu đỏ’ này, dễ dàng đánh bại nền công nghiệp hạnh phúc với các phương thuốc vô vọng của nó về việc quên đi những suy nghĩ xấu hay việc tiêu diệt một khuynh hướng được cho là di truyền tới trầm cảm với ma túy. Cách điều trị và ma túy bịt miệng những tiếng khóc của những người bị tác động, trong khi chủ nghĩa dân tộc tai họa cho họ cái gì đó để than khóc. Chủ nghĩa dân tộc tai họa liên kết một sự lo âu tràn lan rồi với một loạt đối tượng ám ảnh sợ hãi (những người Muslim, cộng sản, những người theo toàn cầu hóa, những người Do thái và vân vân). Đối với những người đối mặt với ma quỷ trong đầu họ, nó gọi tên một con quỷ trần thế có thể bị tấn công. Nó gây ra sự lo âu, chỉ để tạm thời làm nhẹ bớt nó với một cơn tự chủ và một sự hồi hộp của sự thù hận tập thể. Giữa các đám đông reo hò ‘hãy xây dựng bức tường’, hay ‘cái chết cho những người Arabs’, hoặc ‘Jai Shri Ram (Hoan hô Thần Ram [một thần chính của Ấn Giáo])’, sự thắt chặt và thả lỏng cơ bắp tập thể, và sự tiết ra các hormon nhóm, hoạt động như một thuốc chống trầm cảm. Tiếp sau cuộc tàn sát chống-Muslim do nhà nước-dàn dựng tại bang Gujarat của Ấn Độ trong năm 2002, chẳng hạn, thủ tướng Narendra Modi, nói tại một loạt cuộc tập hợp ‘niềm tự hào Hindu’ lớn. Ông bảo đám đông: ‘Có những kẻ muốn phá hủy Gujarat.’ Nhưng, ông nói thêm, ‘nếu chúng ta nâng cao sự tự trọng và nhuệ khí của năm mươi triệu người Gujarati, thì những mưu kế của bọn Ali, Mali và Jamali sẽ không có khả năng làm hại chúng ta’.32 Âm mưu của bọn Ali, Mali và Jamali được nói đến là thiểu số Muslim của bang, mà đã vừa là các nạn nhân của một cuộc tàn sát.

Modi đưa ra sự tự trọng cho những người ủng hộ ông qua sự ban hành cái mà Freud gọi là ‘sự điên cuồng mù quáng nhất của sự phá hủy’, việc thực hiện ‘các mong muốn quyền vô hạn’ cùng cực nhất của họ. Như nhà phân tâm học Tad DeLay nói về Proud Boys, khẩu hiệu của họ rất có thể là: ‘Vâng, tôi biết tôi là một tên chết tiệt, nhưng nhóm này cho tôi sức mạnh.’ Những liên kết nhóm xung quanh sự lo âu và tính độc ác nâng cao nhuệ khí. Nó đông lại xung quanh những gì nhà thần học William Connolly gọi là ‘những sự oán giận ngầm’ lưu hành trong các xã hội có giai cấp, và xung quanh ‘đặc tính trả thù sống còn’ trừng phạt của nó’.33 Nhưng không lượng bạo lực nào có thể vững chắc với sự lo âu cả, hệt như không lượng giết nhện nào sẽ chữa được chứng sợ nhện cả bởi vì nhện không phải là nguồn thật của sự sợ hãi. Kẻ thù càng bị nghiền nát, nó dường như càng ít tìm ra lời giải, và người ta càng bất lực hơn khi đối diện với sự lo âu. Chủ nghĩa dân tộc tai họa thịnh vượng trên vòng xoáy này.

* troll là người hay post trên mạng xã hội cố tình gây bực tức, chọc tức những người khác, xem chẳng hạn Jason Hanan, Trolling chúng ta đến chết-dân chủ trong thời đại media xã hội