Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 15 tháng 8, 2025

Tạo hình tiểu thuyết Sóng đồng bằng

 Đinh Thanh Huyền

Có những cuốn tiểu thuyết mà dù rất muốn, ta cũng không thể hiểu hết được nó hoặc – ít nhất – cảm thấy hiểu hết nó. Những tiểu thuyết như thế thường có vẻ ngoài rất đáng ngờ, đem lại cảm giác có gì “sai sai”. Nó khiến người đọc ngờ vực chính mình, rằng “ta ngốc hay nhà văn ngốc?”. Nhưng rốt cuộc, chẳng có ai ngốc. Chỉ là cuốn truyện được thiết kế để người đọc nghi ngờ chính kinh nghiệm đọc của mình. Trong trường hợp này, người nào chấp nhận cuốn sách không chút băn khoăn mới là kẻ khờ khạo trong sự đọc.

Sóng đồng bằng là cuốn sách có thể khơi nên những ngờ hoặc về bút pháp tự sự. Đây là đầu mối của mọi thắc mắc cũng là đột phá khẩu để tiến vào văn bản truyện.

Trong Sóng đồng bằng, tiểu sử các nhân vật rất mù mờ, dường như nhà văn có chủ ý tước bỏ tối đa các chi tiết cá thể hóa nhân vật. Dù có tên riêng, có gốc gác gia đình, nhân vật vẫn không có một nhân thân sắc nét. (Thậm chí có những nhân vật như “từ trên trời rơi xuống”: Quang, Tâm, Hà. Họ đột nhiên xuất hiện ở một sự kiện rồi mất hút ngay sau đó). Các chi tiết lí lịch của cha Út, cha Tài tập trung vào lịch sử dòng tộc, từ hành trình khai phá đất đai, xây dựng cuộc sống, những thăng trầm của gia tộc cho đến thời hiện tại của các nhân vật. Điều này làm cho nhân vật có vẻ mơ hồ, không rõ ràng trong “hình thể” cá nhân, nhưng lại rất rõ nét trong bức tranh văn hóa - xã hội - lịch sử. Dòng tộc của Tài thuộc thế hệ những người khẩn đất đầu tiên ở vùng này. Nhờ vào sức lao động, sự chăm chỉ và khí chất “dân đồn điền tứ chiếng giang hồ” mà trở thành địa chủ hạng trung. Cha của Tài là một người “có óc thực tế, quý trọng những người biết làm ăn, coi gạo thóc làm ra từ chân tay cao hơn chữ nghĩa phù phiếm. Chính cái đầu óc thực tế đó đã thúc đẩy ông cho con trai mình đi học chữ Quốc ngữ, chứ không cho học thứ chữ Nho đã trở nên lỗi thời, vô dụng”. Còn gia đình Út đã sinh sống nhiều đời ở vùng này, ông nội làm nghề coi mạch, hốt thuốc chữa bệnh, mở hiệu thuốc Nghĩa Hòa Đường có tiếng trong vùng. Sau bị “tố cáo đã từng cứu chữa cho nghĩa quân của Đức Cố quản, hiệu thuốc bắt đầu gặp nhiều khó khăn, chỉ hoạt động lây lất cầm chừng,… một thời gian sau thì Nghĩa Hòa Đường lụn bại, … nghề thuốc mai một dần”. Những dòng tiểu sử đó chỉ cho biết một cách đại thể về nhân thân lai lịch của một vài nhân vật, nhưng lại dựng lên một không gian – thời gian của lịch sử cộng đồng trong kí ức. Nó cho biết những trạng huống sinh tồn, biến dịch chủ yếu của đời sống con người vùng đồng bằng sông Cửu Long một thời. Họ, hoặc là dân bản địa, hoặc dân khai hoang, hoặc giang hồ tứ chiếng cùng chung một phận khốn cùng mới chịu dừng chân ở “cái xứ không thiên tai thì cũng địch họa” nhưng cũng là “xứ sở dành cho những cuộc chơi lớn”, chỉ có kẻ “dám nuôi chí lớn, những kẻ có đầu óc phiêu lưu, thậm chí phường bạt mạng, liều lĩnh táo tợn” mới trụ lại nổi.

Mặt khác, kể cả các nhân vật chính của truyện cũng không được miêu tả ngoại hình cụ thể. Không có mô tả tỉ mỉ về gương mặt, dáng người, ánh mắt, cử chỉ - chi tiết thường thấy trong tiểu thuyết truyền thống. Không có xung đột mạnh giữa nhân vật với nhân vật, giữa nhân vật với hoàn cảnh; các biến động trong đời nhân vật không được đẩy thành cao trào. Họ hiện ra qua một vài nét tính cách nổi bật, qua kí ức về dòng tộc, dòng suy tưởng trầm lặng, đặc biệt qua mối quan hệ với đất đai, làng xóm, người thân và các sự kiện lịch sử. Liên quan đến các nhân vật và sự kiện, Sóng đồng bằng có nhiều chi tiết không được giải thích rõ, những “điểm mù” xuất hiện ở văn bản. Chẳng hạn, mối quan hệ giữa cha của Út và ông Cảnh Thiên rất khó hiểu. Không rõ họ là bạn, cộng sự hay là gì khác? Không biết ông Cảnh Thiên giúp Út vì lòng tốt hay vì tình bạn với người cha, hay vì lí do nào nữa? Ông của Tài bị vu là giúp đỡ nghĩa quân nhưng ông cụ có thực sự làm việc đó không? Vì sao cha của Út lại đến thắp hương cho Đức Cố Quản trong chuyến đi Long Xuyên? Thái độ thật sự của ông tây Bernard với người bản xứ thế nào? Có thiện chí hay chỉ “thực dân hóa mềm”? Út có cưới Doanh Châu không? Vì sao ông Út không có con cái?... Rõ ràng, tác giả Vũ Thành Sơn không xây dựng nhân vật như những cá thể độc lập (với nhân thân, đời sống, cá tính riêng biệt), mà như những thành tố trong dòng chảy lịch sử – xã hội miền Nam. Họ là những con người “đại diện” cho một tầng lớp, một trạng thái tâm thức cộng đồng. Việc tác giả đặt ra các chi tiết rồi bỏ đó cũng là một cách để tạo ra cảm thức mơ hồ, chập chờn giữa cái biết và cái không biết như chính cảm thức sống của con người trong tình trạng bị lịch sử xô đẩy mà không được giải thích. Thế giới nhân vật trong Sóng đồng bằng giống như những cái cây trong một khu rừng, hòa lẫn vào màu xanh miên man bất tận, cùng làm nên “nhịp điệu” ủa khu rừng đó, không cây nào giữ vai trò trung tâm của rừng. Đặc điểm này củng cố cách nhìn của tôi về Sóng đồng bằng: một tiểu thuyết viết về những con người bình thường, vô danh trong lịch sử miền Tây, bị cuốn đi trên dòng chảy dữ dội nhưng cố “cầm cương số phận và không để lịch sử đè bẹp”.

Về kĩ thuật tự sự, đây là một lựa chọn có chủ đích của nhà văn. Nhìn sâu hơn, thấp thoáng ở đó còn là một quan niệm nhuốm màu triết lí về con người và đời sống. Dường như nhà văn không xem mỗi cá nhân là một hiện thể chắc chắn. Cá nhân không phải một bản ngã cố định, có khả năng định đoạt hoặc thay đổi vận mệnh. Dù việc “cầm cương số phận” là khao khát, là mục đích sống thì con người vẫn trôi lăn trong dòng lịch sử, trong khi bản thân lịch sử cũng là những sự kiện không thể lường được.

Vậy, kiểu nhân vật của Sóng đồng bằng có liên quan gì đến kết cấu của truyện? Câu trả lời là: Có liên quan chặt chẽ, và thậm chí, chính kiểu nhân vật này là điều kiện tiên quyết cho sự hình thành kết cấu đa tuyến của tiểu thuyết.

Sóng đồng bằng là tiểu thuyết đa tuyến. Truyện được kể với hai tuyến chính: tuyến của nhân vật Út (các chương 1, 3, 5, 7) và tuyến của nhân vật Tài (các chương 2, 4, 6, 8). Trong mỗi tuyến chính lại có những tuyến phụ (tuyến kể về những nhân vật phụ nhưng lại cho thấy đời sống nông thôn Nam Bộ tràn đầy cá tính, sinh lực và biến động, tuyến kí ức cộng đồng: nạn đói, sạt lở, dịch tả, các biến cố chính trị,…).

Ở tuyến thứ nhất, nhân vật Út xuất hiện ngay phần Dẫn chuyện, sống một mình trong ngôi nhà ở ngoài bờ sông, trồng cây chỉ để ngắm hoa, không để thu hoạch, “thản nhiên như không” trước những vụ sạt lở kinh hoàng ở vàm sông. Ngôi nhà của ông Út “mang ý nghĩa tinh thần biểu tượng cho một cái gì đó trường tồn”, thế nên khi ông rời đi, “nối gót theo ông nhiều nhà lục tục kéo nhau rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn để lánh nạn làm nên một phong trào “hà bá rượt”. Trong suốt mạch truyện, ông Út được khắc họa như một biểu tượng của sự trầm tĩnh, của kí ức và sự giữ gìn. Ông là người giữ nghề, giữ đất, giữ nhà, giữ kí ức dòng họ, giữ luôn cả vị trí bên bờ sông sạt lở. Nhưng hành trình cuộc đời của ông Út đã từng phải lựa chọn, từ bỏ. Thời trẻ, Út từng tràn trề nhiệt huyết, say sưa tìm kiếm con đường tham gia cứu nước, từng bị lôi cuốn bởi các phong trào kháng chiến. Nhưng Út cũng là người thận trọng, tỉnh táo và luôn suy ngẫm. Không tin tưởng mù quáng vào bất cứ hội nhóm, đường lối nào, anh có khả năng nhận ra những bất cập ẩn sau lời tuyên truyền sôi nổi. Anh luôn “cần biết nhiều hơn một sự thật” và hiểu rằng “không dễ dàng gì để sống trong một thời đại mù mịt, giằng xé và mâu thuẫn này, nhưng cho dù như thế nào, người ta vẫn phải sống”. Cuối cùng sự lựa chọn của Út là một kết thúc vừa bất ngờ vừa hợp lí với nhân vật. Tết năm đó, Út quyết định về quê, xin cưới Doanh Châu, rời xa những cơn sóng thời cuộc đang dồn dập đổ về nơi đô thị. “Đó là một cái Tết đặc biệt anh không bao giờ quên được. Nó đã đặt dấu chấm hết cho cuộc đời độc thân và lạc lối bên dưới những tấm bảng chỉ đường.” Út đã chọn dừng lại, thôi vật vã, lang thang giữa những lựa chọn đời sống.

Có một câu hỏi nảy sinh ở đây: khi một người chọn rút lui vào đời sống riêng thay vì tiếp tục dấn thân với cộng đồng, lí tưởng, liệu đó là một hành vi ích kỉ hay một sự trưởng thành đầy bi kịch? Nhà văn có mạo hiểm không khi khơi nên những truy vấn không chỉ dành cho nhân vật Út mà còn chạm đến một vấn đề đạo đức - triết học rất phức tạp trong văn chương và đời sống? Với trường hợp nhân vật Út trong Sóng đồng bằng, tôi cho rằng đó là một diễn biến đúng tâm lí, giàu nhân tính trong một thế giới mà cộng đồng đã tan rã, lí tưởng mờ nhòe, và con người chỉ còn cách giữ lại chút gì cho riêng mình mà không tan biến hoàn toàn. Thậm chí, chọn sống, yêu, lập gia đình còn là hành vi tiếp nối sinh mệnh cộng đồng theo một cách âm thầm và bền vững. Hãy chú ý đến chi tiết “Lạc lối bên dưới những tấm bảng chỉ đường”, “Tấm bảng chỉ đường” là hình ảnh biểu tượng cho những định hướng từ bên ngoài. Út không thiếu định hướng, thậm chí có quá nhiều thứ mách bảo anh nên làm gì. Nhưng anh không thực sự đi theo hướng nào, hoặc không còn biết hướng nào là đúng với mình. Anh lạc lõng trong thế giới có quá nhiều tín hiệu, nhưng thiếu chân lí cá nhân. Đây là một nghịch lí rất sâu của đời sống được diễn đạt bằng ngôn ngữ châm biếm nhẹ nhàng nhưng sắc bén. Có những người lạc lối ngay dưới những tấm bảng chỉ đường bởi không có con đường nào của riêng họ. Những lời khuyên, lời chỉ dẫn từ người khác, niềm tin của xã hội, các khuôn mẫu đạo đức… đều có thể dẫn người ta đi, nhưng ý chí của người đó mờ nhạt hoặc bị vô hiệu hóa. Cái kết của nhân vật Út là sự kết thúc trạng thái lơ lửng giữa những khả thể, trở về là chính mình. Không có sự ca tụng chân lí, chỉ có sự dừng lại. Dừng lại cũng là một cách tiếp tục cuộc đời.

Út là kiểu nhân vật trí thức truyền thống, gắn bó sâu nặng với dòng tộc, quê hương, người chứng kiến, suy ngẫm nhiều hơn là hành động. Dưới sự bình lặng ấy là một dạng kháng cự lặng lẽ, sống tiếp, không đầu hàng dù biết mình không thể cứu tất cả. Không ai có nghĩa vụ phải gánh toàn bộ lịch sử trên vai, cách xử lí truyện của nhà văn đã kín đáo cho thấy một cách nhìn công bằng đối với con người, khác với thói quen buộc người khác phải hành động cho lí tưởng của mình (như đòi hỏi của một số lí thuyết xã hội).

Tuyến truyện thứ hai thuộc về nhân vật Tài. Khác với Út, Tài mang trong mình “dòng máu Lương Sơn Bạc phương Nam” phóng túng, phiêu lưu, ham hành động, không chịu khuôn mình trong các giới hạn. Tài là bạn thuở nhỏ của Út. Cậu nghịch ngợm, bỏ học sớm, theo cha khai khẩn đất đai, săn bắt, sống hòa với thiên nhiên. Những trò chơi tuổi thơ như đi câu ếch, lượm trứng, đốt rơm nướng khoai... không chỉ là chi tiết sinh hoạt, mà còn thể hiện tinh thần tự do hồn nhiên của nhân vật. Từ nhỏ, Tài luôn mơ được ra biển. Ước mơ ấy cứ trở đi trở lại trong Tài như là một ẩn dụ cho khát vọng vươn ra cuộc đời rộng lớn, vượt thoát định mệnh (điều không có ở Út). Đến khi được nhìn thấy biển, Tài nhận vào mình nỗi xúc động sâu xa trước vẻ đẹp và sự vĩ đại của biển: “Anh ngẩn ngơ một lúc, thấy mình như ngộp thở trước sự bao la vô tận mang màu xanh thẳm. Biển như níu chân anh lại. Biển bất thường vĩnh cửu. Biển đầy cám dỗ. Biển độ lượng. Biển không khoan nhượng. Biển là đích đến cuối cùng của con người khốn cùng”. Vì sao biển lại là đích đến cuối cùng của con người khốn cùng? Phải chăng, biển là biểu tượng cho chốnđược gọi là “vô sở trụ”, nơi con người nếu có đủ may mắn sẽ thoát được sự khốn khổ của kiếp người.

Có thể nhìn Tài như người đi tìm tự do, chống lại số phận “chìm dần” như bờ sông bị sạt lở, một mẫu hình nhân vật dấn thân quả cảm, trong sáng, sẵn sàng vắt kiệt mình cho lí tưởng cứu nước. Nhưng Tài thất bại. Anh thất bại bởi toàn bộ niềm tin của mình đặt vào một cá nhân: Huỳnh Giáo Chủ. Sự tin tưởng vô điều kiện vào vị thủ lĩnh tinh thần dẫn dắt anh hành động, xả thân. Nhưng rõ ràng anh đã xây lâu đài trên cát. Huỳnh Giáo Chủ mất, những người lãnh đạo Hòa Hảo tiếp theo đã phản bội lí tưởng. Sau tất cả, Tài nhận ra: “Những mất mát anh chịu đựng cho tới ngày hôm nay, suy cho cùng, chỉ là sự đổ vỡ của một tòa lâu đài xây trên cát và anh sẽ còn tiếp tục xây đi, xây lại nhiều lần như vậy nữa trong đời như một con còng biển mù quáng”. Tài đã kiên trì, bền bỉ vô hạn trong hành trình xây dựng cuộc sống nhưng lại bị chính cuộc sống ấy phủ nhận. Anh đã từng tin rất mãnh liệt và trống rỗng đến tột cùng khi niềm tin bị phản bội. Anh đã hành động nhưng không được giải phóng. Cuối cùng, Tài cũng chọn từ bỏ: “Anh dứt khoát rời bỏ tổ chức. Không còn lý do gì chánh đáng để anh tiếp tục đứng dưới cùng một lá cờ với những người theo đuổi một mục tiêu khác. Nấn ná thêm giây phút nào cũng chỉ là kéo dài một sự miễn cưỡng đầy cay đắng. Chưa biết những ngày sắp tới sẽ như thế nào, một cảm giác buồn bã làm trái tim anh chùng hẳn xuống. Vào lúc này anh chỉ cảm thấy bị thôi thúc mãnh liệt bởi ý muốn phải rời xa khung cảnh và những con người thân thuộc ngay lập tức như thể giũ bỏ một cơn mê dài”. Lựa chọn đó để lại trong Tài một vết thương sâu kín, vĩnh viễn không lành.

Trong Sóng đồng bằng, xung đột nội tâm không hiện ra qua những quyết định hay hành động kịch tính, mà tồn tại dưới dạng phân rã âm thầm, mỏi mòn. Các nhân vật bị xé rách từ bên trong. Kết thúc của cả Út và Tài đều là từ bỏ sau rất nhiều nỗ lực hành động. Họ đã tin tưởng, đã cống hiến, đã làm tất cả những gì có thể để vượt lên con sóng dữ nhưng cuối cùng đành phải từ bỏ. Cái kết của Tài và Út hé lộ hai thái độ sống khi đối diện với một thế giới không còn giữ được nguyên vẹn. Tài ra đi như một cách từ chối đời sống đang tan rã, nhưng càng đi càng mất phương hướng. Út ở lại, chọn một đời sống mới vừa sức nhưng ít nhiều bất lực. Giữa sự trôi giạt của đất, của kí ức, của lịch sử… một người mất mình, một người giữ được chút gì còn lại. Nhưng dù mất niềm tin hay tái thiết một niềm tin đời thường, truyện vẫn gợi ra sự bất ổn hiện sinh không chỉ của một thời đại. Hai tuyến truyện về Út và Tài vừa song song vừa đối chiếu. Chúng như hai nhánh sông trong một vùng châu thổ, có lúc gần nhau, có lúc rẽ nhánh, nhưng cùng đổ về một vùng nước lớn: hiện thực lịch sử – văn hóa miền Nam.

Như vậy, nhà văn Vũ Thành Sơn đã dụng công xây dựng kiểu nhân vật phi trung tâm để kiến tạo một cấu trúc phi trung tâm. Truyện bắt đầu từ nhân vật Út, kết thúc ở nhân vật Tài, mỗi nhân vật gắn với một nhánh truyện riêng. Các nhân vật không phát triển nội tâm hay xung đột cá nhân, mà hiện ra như điểm tựa cho một tuyến truyện khác nhau trong tổng thể. Câu chuyện liên tục tản mát, mở ra các mạch không gian từ ngoài vào trong, từ quá khứ đến hiện tại, từ hồi ức cá nhân đến hồi ức gia đình, từ lịch sử địa phương đến chuyện dòng họ, từ sự kiện chính trị – xã hội sang tín ngưỡng,… Thời gian của truyện vừa có yếu tố tuyến tính vừa có sự đứt gãy, mạch hồi cố xen lẫn kể, tả. Kiểu nhân vật phi trung tâm trở thành nền tảng của kết cấu đa tuyến – một hình thức tự sự đặc trưng của tiểu thuyết hậu truyền thống. Nhân vật không được thiết kế như “bánh răng tạo cốt truyện” mà như kênh dẫn. Lúc này, truyện không phân biệt nhân vật chính/phụ mà là đồng đẳng hóa mọi giọng nói, mọi thân phận trên cùng một nền tảng địa chính trị, địa văn hóa. Sự “mờ chân dung”, “thiếu kịch tính”, “lối kể hồi cố không trọng cao trào”... của Sóng đồng bằng đến từ một hệ hình thẩm mĩ khác truyền thống. Lựa chọn này dẫn đến những khúc mắc, thậm chí phản ứng của độc giả khi không tìm thấy những đặc tính của nhân vật thuộc loại hình tự sự cấu trúc. Tất nhiên, độc giả hoàn toàn có quyền chờ đợi những nhân vật được dựng với kĩ thuật tự sự cao, trong khi vẫn đảm bảo được sự thực hành nghệ thuật riêng của tác giả. Nhưng đó là tình huống lí tưởng nhiều hơn khả năng thực hiện.

Sóng đồng bằng không thực hiện chức năng kể chuyện theo nghĩa truyền thống, nhưng điều đó không triệt tiêu tư cách tự sự của văn bản. Ngược lại, nó đề xuất một kiểu tự sự khác, nơi truyện được kể để lưu giữ một trạng thái văn hóa – tinh thần. Vậy thì, đi đến cùng, ở Sóng đồng bằng, không chỉ con người mới là nhân vật, cả không gian tự sự cũng hiện diện như một kiểu nhân vật mang tính “lưỡng trị”: vừa được khắc họa lại vừa có chức năng kể chuyện. Đó là không gian dòng chảy của con sông, trận sạt lở, ruộng đất, miếu thờ, cây bắp, hoa hướng dương, căn nhà cũ, … tất cả đều là “nhân vật” theo nghĩa biểu tượng. Tiếp đó, không gian sự kiện của người dân, từ cúng giỗ đến cưới hỏi, từ học hành đến yêu đương, từ bệnh viện, hiệu thuốc đến cuộc biểu tình, bắt bớ, chém giết, tham gia kháng chiến, cái chết,… đều là “nhân vật” đồng hành cùng con người, mở ra một hình thái sống, một lịch sử phi trung tâm, tạo nên cảm thức về những biến động, chuyến tiếp văn hóa của một vùng đất, một thời đại. Ở đây không chỉ có người kể chuyện, mà còn "đất kể chuyện", "sông kể chuyện", "đồng bằng kể chuyện", “đời sống kể chuyện”,…

Vậy, điểm kết nối của các tuyến truyện trong Sóng đồng bằng là gì?

Sóng đồng bằng không chọn kiểu kết nối mạnh (các tuyến truyện ban đầu tách biệt nhưng dần hội tụ ở một điểm. Kiểu kết nối này tạo được cảm giác “giải mã”, “vỡ lẽ”, làm hài lòng độc giả). Sóng đồng bằng có kiểu liên kết lỏng: không phải tất cả các tuyến truyện đều hội tụ về một sự kiện duy nhất hay một nhân vật trung tâm rõ rệt, mà được kết nối qua không gian văn hóa – lịch sử chung, biểu tượng sóng, và chủ đề xuyên suốt là sự bấp bênh và ý chí tồn tại của con người miền Nam trong biến động lịch sử xã hội. Không có một điểm hội tụ kịch tính rõ ràng ở cuối truyện, nhưng các tuyến truyện cùng phản chiếu lẫn nhau, tạo ra một bức tranh đậm màu sắc văn hóa, lịch sử Nam bộ vừa chất chứa khát vọng con người.

Kết cấu đa tuyến góp phần tạo ra nhịp điệu “sóng” như tên tác phẩm. Mỗi tuyến truyện như một đợt sóng: dâng lên, va đập và trôi đi. Có con sóng của kí ức (những hồi tưởng của các nhân vật), có con sóng của hiện tại (câu chuyện của Út và Tài), có sóng của cảm xúc (thông qua miêu tả thiên nhiên, tâm lí, kí ức). Việc thay đổi điểm nhìn trần thuật cũng góp phần tạo nên sự lay động, nhấp nhô liên tục của các lớp sóng ngôn từ.

Ở phần đầu bài viết này, tôi đã nhắc đến những nghi ngờ khi đọc tiểu thuyết bởi ban đầu đã nếm trải những nghi ngờ đó. Ngay lúc này, khi viết những dòng cuối cùng, tôi vẫn đặt ra những câu hỏi về thành công của lối viết trong Sóng đồng bằng. Chắc chắn Sóng đồng bằng là một thể nghiệm riêng về tiểu thuyết đa tuyến của tác giả. Những trọng điểm trong tạo hình tiểu thuyết nêu trên có lẽ có chỗ chưa tới, có chỗ khiến người đọc thốt lên mấy chữ “giá như…!”. Nhưng tôi vẫn cho rằng một tiểu thuyết hay vẫn có thể là một tiểu thuyết bất toàn chứ không phải một thị phạm hoàn hảo của bậc thầy văn chương.

Hà Nội, 9/8/2025