Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 15 tháng 8, 2025

Công và tội của người dịch

 Hiếu Tân

Mấy ý nghĩ nhân đọc TRANSLATION  của Susan Bassnett (Routledge, 2014) – cuốn sách được viết khi chưa mấy ai nói gì về AI. Những cứ liệu trong bài này phần lớn lấy trong sách, ngoài mấy phần tham khảo nguồn bên ngoài liên quan đến chủ đề.


CÔNG

CÔNG LAO VỚI NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA

Cicero, 106-43 trước Công nguyên: triết gia, nhà hùng biện La Mã khẳng định sự độc lập của văn hóa Latin đối với kiểu mẫu Hi Lạp, mở rộng ý nghĩa chính trị vượt ra ngoài chiều kích văn bản trực tiếp. Ông chủ trương dịch tiếng Hi Lạp sang tiếng Latin. Thời đó độc giả là những trí thức biết cả hai ngôn ngữ này, vì thế dịch không phải cho người không biết tiếng Hi Lạp, mà chỉ để làm giàu  thêm tiếng Latin. Quan điểm của ông “không cần dịch sát nghĩa từng chữ, chỉ giữ tinh thần của ngôn ngữ gốc” được coi là mở đầu cho lý thuyết dịch. Bản dịch là tuyên ngôn về địa vị của tiếng Latin trước ngôn ngữ gốc (tiếng Hi Lạp), tiếng Latin có thể ngang ngửa với tiếng Hi Lạp và thậm chí vượt trên nó. Về sau, trong thời Phục Hưng, các dịch giả người bản xứ châu Âu dịch từ tiếng Latin ra ngôn ngữ của họ noi theo tấm gương này

Boucher nghiên cứu Phục Hưng dã đến Anh quốc như thế nào, gợi ý rằng Phục Hưng không chỉ tái phát hiện những ngôn ngữ cổ điển mà còn gắn với những ngôn ngữ bản địa châu Âu, dẫn đến làm giàu văn chương Anh ngữ. (Boucher, 2000).

Matthiesson: dịch là hành động  yêu nước

Thời Phục Hưng, thuật ngữ  “englishing” có nghĩa là dịch.

Quốc gia này đã nhận thức được sự thua kém về văn hóa so với lục địa, và đột nhiên khao khát vượt qua các đối thủ về chữ nghĩa, cũng như về tàu thuyền và vàng bạc. Công trình của người dịch là một hành động của lòng yêu nước.

(Matthiesson, 1931: 3)

VỚI TÔN GIÁO: SỨ MỆNH TRUYÈN ĐẠO

Đạo Phật xuất hiện và phát triển ở Trung Hoa gắn với tên tuổi những dịch giả lỗi lạc: và Cưu Ma La Thập và Huyền Trang (Đường Tam Tạng).

CƯU MA LA THẬP (344-413)

Từ khi Phật Giáo được truyền vào Trung Hoa, số lượng kinh điển Hán dịch ngày càng tăng nhiều, tuy nhiên lối dịch phần nhiều không thông suốt, văn chương khó hiểu, chẳng nhất trí với nguyên bản. Riêng La Thập thì vốn thông hiểu nhiều ngôn ngữ ngoại quốc, cho nên nội dung phiên dịch của ông hoàn toàn khác xa với các dịch bản trước đây, văn thể tuy giản dị nhưng súc tích, rõ ràng. Suốt đời La Thập đã đem tất cả năng lực của mình để phiên dịch các kinh điển Đại Thừa thuộc hệ Bát Nhã, cùng với những luận thư của học phái Trung Quán thuộc hệ Long Thọ, Đề Bà. Những kinh điển Hán dịch của ông có ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với sự phát triển Phật Giáo ở Trung Hoa.

(Theo Thư viện Hoa Sen)

HUYỀN TRANG [Đường Tam Tạng] (602-664)

Quy mô những gì Sư biên dịch bao trùm tất cả mọi giáo pháp của Đức Phật: Duy thức tông; Trung quán tông; kinh cầu siêu (Huyền Trang là người đầu tiên đưa khái niệm "Tịnh độ" – cõi của một vị Phật mà người ta có thể tái sinh – với Tây phương cực lạc, cõi Phật A-di-đà; về sau cõi này trở thành phổ thông nhất đối với người dân Đông Á); Mật tông và mật chú đà-la-ni; Nhân minh luận; Tạng kinh (do Phật thuyết giảng); ..và một bộ luận thuộc Thắng luận gia của Ấn Độ giáo. Thay vì chọn những đề tài tranh biện thắng lợi của một giáo phái chống lại một giáo phái khác, Sư đưa ra những bản dịch chính xác để cho mọi người cùng nhau ghi nhận... Mặc dù bản Phạn ngữ ngày nay không còn, sự so sánh giữa bản dịch của Huyền Trang và bản Tạng ngữ cho thấy bản dịch sau của Sư sát với bản gốc hơn bản của Chân Đế (bản dịch của Huyền Trang đồng nhất với bản Tạng ngữ trong phần lớn, trong lúc bản của Chân Đế đầy những chú thích và nhiều phân tán).

Học trò người Nhật của Sư đem giáo pháp về lại Nhật, thiết lập trường phái Pháp Tướng tại đây (gọi theo tiếng Nhật là Hossō), đó là trường phái danh tiếng nhất cho đến khi phái Thiên Thai du nhập vài thế kỉ sau đó. Giáo pháp của Sư cũng được chú ý tại Triều Tiên, nơi đó nó tổng hợp với phái Hoa nghiêm và Thiền và gây ảnh hưởng quyết định lên nền Phật giáo Triều Tiên từ cả ngàn năm nay...

(Theo Wikipedia.vn)

 “BẢN DỊCH KINH THÁNH CẦN CHO TIẾN BỘ TÂM LINH CỦA NHÂN LOẠI.”

 Lịch sử dịch Kinh Thánh đầy những bất đồng về cách dịch mà nhiều khi dẫn đến những xung đột công khai đến mức dịch giả bị ngược đãi thậm chí bị giết chết. Tất nhiên vấn đề dịch Kinh Thánh vượt ra ngoài phạm vi dịch thuật cả về phương diện dịch lẫn đọc, vô số tranh cãi về tính đich thực của các nguồn. Tuy nhiên rất nhiều bản kinh được dịch từ tiếng Hebrew sang  tiếng Hi Lạp vào thế kỉ 3 trước Công nguyên và việc dịch Kinh Thánh tiếng Hebrew và Tân Ước sang tiếng Latin bắt đầu sớm trong kỉ nguyên Thiên Chúa. George Steiner (1929-2020) tổng kết: sức đẩy liên tục đằng sau việc dịch là một chủ đề thuờng xuyên trong văn học Tông đồ và đời sống của Giáo hội sơ khai là cần dịch các thông điệp của Chúa cho tất cả để mọi người có cơ hội được cứu rỗi qua việc gặp được Lời Chúa. Do đó, việc dịch trong thế giới Cơ đốc giáo là cần thiết cho sự tiến bộ tâm linh của nhân loại, và những thay đổi trong giáo lý đòi hỏi phải có những bản dịch mới.

Mỗi động lực cải cách từ bên trong Giáo hội đều mang theo lời kêu gọi phải có những phiên bản chân xác hơn, dễ hiểu hơn của lời thánh. Có một ý nghĩa rất thực tế mà cải cách có thể được định nghĩa là lời kêu gọi chuyển dịch đầy đủ hơn, cụ thể hơn những lời dạy của Chúa Kitô thành lời nói hàng ngày và đời sống hàng ngày. (Steiner, 1992: 258)

MARTIN LUTHER (1483-1546): CATI CÁCH TÔN GIÁO và NĂNG TÂM NGÔN NGỮ

Tạp chí Time đã nhận xét rằng “có nhiều sách viết về Martin Luther hơn bất kỳ ai khác trong lịch sử, ngoại trừ chính thầy của ông là Jesus Christ”. Lời nói và hành động của Luther đã góp phần khai sinh Phong Trào Kháng Cách (Protestant Reformation) – một “cuộc cách mạng có ý nghĩa to lớn nhất trong lịch sử nhân loại”. Qua đó ông đã góp phần thay đổi bộ mặt tôn giáo Châu Âu và khép lại thời kỳ Trung Cổ ở lục địa này. Luther cũng đặt nền tảng chuẩn hóa chữ viết của tiếng Đức.

Năm 1521 một mình Martin Luther bắt tay dịch Tân Ước từ bản tiếng Hy Lạp của Erasmus ra tiếng Đức. Theo nhà thần học Philip Schaff thế kỷ 19, chỉ riêng công trình này cũng đủ để Luther được công nhận là một trong số những người đóng góp nhiều nhất cho các dân tộc nói tiếng Đức. Bản dịch giúp người dân thường Dức từ Bắc đến Nam dễ tiếp cận hơn với Kinh Thánh, đồng thời làm suy giảm ảnh hưởng của giới tăng lữ. Trong thời gian dịch, ông thường lắng nghe người dân nói chuyện với nhau nhằm đưa ngôn ngữ đại chúng vào bản dịch của ông.

Đến năm 1534, Luther hoàn tất bản dịch phần Kinh Thánh (Cựu Ước) tiếng Hebrew. Ông có khả năng kết hợp hài hòa văn phong, nhịp điệu và từ vựng. Kinh Thánh của Luther đã giúp đặt nền móng cho một hệ thống chữ viết chuẩn mà về sau được chấp nhận trên toàn nước Đức. Nó đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền bá học thuyết của Luther trên khắp nước Đức. Trước đó đã có nhiều bản dịch Kinh Thánh sang tiếng Đức, nhưng Luther đã điều chỉnh bản dịch của ông theo học thuyết riêng của mình. ‘Kinh Thánh Luther’ đã ảnh hưởng đến các bản dịch tiếng bản địa [châu Âu] khác, như bản dịch của William Tyndale [Pháp], là ấn bản tiền thân của Kinh Thánh King James. [Anh]

DỊCH VĂN CHƯƠNG

THĂNG TRẦM CỦA VIỆC TIẾP NHẬN DỊCH THUẬT

Mỗi thời đại có một li tưởng về dịch thuật, các tiêu chí thẩm mĩ thay đổi đôi khi nhanh đến mức không kịp thiết lập một bộ tiêu chuẩn cho dịch phẩm tốt.

Năm 1781 Dr Johnson đánh giá: “Bản dịch Homer của Alexander Pope (1688-1744) là bản tốt nhất về thơ mà thế giới từng có.” Nhưng chỉ vài năm sau, khi thể thơ anh hùng ca yêu thích của Pope không còn là thời thượng trong thời đại mới Lãng mạn, bản dịch Homer của Pope không còn mấy ảnh hưởng. Năm 1831 Southey phê bình nặng nề bản dịch này, coi nó là “ảnh hưởng suy đồi lên thơ ca Anh Quốc nói chung”.

Một trong những người dịch Homer nổi tiếng và thành công nhất là G. Chapman

George Chapman (c. 1559–1634) dịch Iliad trong 10 năm, bản cuối 1611, từ 1614 đến 1616 ông dịch Odyssey, ngoài nguyên bản Hi Lạp, dựa trên nhiều phiên bản, Latin, Pháp, Ý, v.v. thành công lâu dài, tìm ra vận luật thơ hợp với Iliad. Làm những bài thơ đề cao phẩm chất thơ cả nguyên bản, cả của thơ tiếng Anh. Độc đáo và tân kỳ. Đưa ra những từ những câu mới  vào tiếng Anh, gợi hứng cho người đọc.

Thành công của Chapman: bản dịch thơ Homer được đọc rộng rãi đến khi những bản dịch xuôi của Pope nổi lên, Theo Ezra Pound: dịch văn Cổ Hi Lạp phải khổ công, ngoài Chapman, không có bản dịch nào đáng đọc. Trong khi đó Charles Swinburne không khen, còn bình ác ý (1875) rằng  ‘no poet was ever less of a Greek in style or spirit’ chưa từng có nhà thơ nào kém về phong cách và tinh thần Hi Lạp hơn [Chapman]”.

Tuy nhiên, Chapman không định tạo ra một phong cách Hi Lạp, ông dịch cho bạn đọc mà với phần lớn họ, Homer là mới mẻ. Do đó ông  không bị hạn chế trong những khuôn mẫu cũ, cũng không bị hạn chế bởi lòng sùng kính thái quá văn bản Hi Lạp cổ.

Đến đầu thế kỉ 19 John Keat chàng trai20 tuổi bàng hoàng đọc được Homer của Chapman, so sánh lần đầu đọc Homer như một phát kiến khoa học vĩ đại, hay như cảm giác ngỡ ngàng của Hernan Cortes lần đầu nhìn thấy Thái Bình Dương.

Cùng thời Phục Hưng, Douglas dịch Eneid sang tiếng Scotish, mở rộng lãnh thổ ngôn ngữ và văn học Trong khi Englishing có nghĩa là dịch [ra tiếng Anh], Douglas tuyên bố ông viết bằng tiếng Scots. Xây dựng tiếng bản địa như một thách thức ưu thế của tiếng Latin là một khía cạnh quan trọng, cố ý hay vô tình, của các dịch giả thời  Phục Hưng.

Phục Hưng dã đến Anh Quốc như thế nào? Boucher gợi ý rằng Phục Hưng không chỉ tái phát hiện những ngôn ngữ cổ điển mà còn gắn với bản địa châu Âu, dẫn đến làm giàu văn chương Anh ngữ.

DỊCH LÀ HÀNH ĐỘNG  YÊU NƯỚC

Trong thời Phục Hưng, ‘englishing’ đồng nghĩa ‘dịch thuật’.

Quốc gia này đã nhận thức được sự thua kém về văn hóa so với lục địa, và đột nhiên khao khát vượt qua các đối thủ về chữ nghĩa, cũng như về tàu thuyền và vàng bạc. Công trình của người dịch là một hành động của lòng yêu nước.

(Matthiesson, 1931)

LAN TỎA NHỮNG GIẤ TRỊ VĂN HÓA TINH THẦN

Edward FitzGerald 1809 - 1883) là một nhà văn người Anh, được biết đến bởi bản dịch tiếng Anh đầu tiên và nổi tiếng nhất của bài Thơ Rubaiyat – một tập thơ Ba Tư theo thể tứ tuyệt của nhà thơ Omar Khayyám (1048-1131).

“Thơ Rubaiyat của Omar Khayyam về ý nghĩa cuộc đời người, về sự bất lực của con người trước số phận và thời gian, về những sung sướng và đau khổ của kiếp người, về tuổi trẻ và tình yêu, tuổi già và cái chết, về những lời khuyên răn mà trong đó mỗi người có thể tìm thấy cho mình một điều gì thầm kín chưa từng được nói ra – tất cả đã trở thành tài sản tinh thần của toàn nhân loại.”

Tháng 3 năm 1857, giáo sư Cowell phát hiện thấy một bài thơ trong một thư viện, đó là Rubaiyat của Omar Khayyam, ông gửi cho FitzGerald, người trước đó đã hết sức đồng cảm với Omar. Ngày 15 tháng 1 năm 1859, FitzGerald công bố bản dịch ‘Thơ Rubaiyat của Omar Khayyam. Trong thế giới rộng lớn, và trong giới bạn bè thân thuộc của FitzGerald, bản dịch bài thơ Rubaiyat ban đầu không thu hút được sự chú ý nào. Các nhà xuất bản để nó rơi xuống giá 4 penny.

Bản dịch được coi là thành công đứng thứ nhì mọi thời đại, (đứng nhất là Bản dịch Kinh Thánh Có Thẩm quyền [Authorized Version]) Ngày nay, sau gần 200 năm, bản dịch từ tiếng Anh Rubaiyat of Omar Khayyam của Edward FitzGerald vẫn là phiên bản được in thường xuyên nhất trên thế giới. Họa sĩ Edmund Joseph Sullivan vẽ 75 bức tranh minh họa cho 75 bài thơ của phiên bản này. Việt Nam cũng đã có một số bản dịch từ  phiên bản này của FitzGerald, tuy nhiên chất lượng các bản dịch không đồng đều.

Năm 1967, nhà thơ Robert Graves hợp tác với học giả Ba Tư – Omar Ali-Shah – dịch lại, phê phán nặng nề bản dịch của FitzGerald, nói ông đã phá vỡ tính huyền thoại của nguyên bản và thành một lời thú tội dông dài của một tín đồ khoái lạc “chúng ta hãy ăn và uống vì ngày mai chúng ta sẽ chết”.

Nhưng bản dịch mới không có tác động gì, và bản của FitzGerald vẫn được đọc. Giống các vở kịch của Shakespeare và bản dịch Kinh Thánh của Vua James, bản dịch đầy nhịp điệu nặng nề và những câu dễ nhớ đã đi vào trí nhớ của công chúng.

Đến nay thơ Rubaiyat của Omar Khayyam đã được dịch ra hầu hết các ngôn ngữ châu Âu. Còn châu Á, theo tư liệu chưa đầy đủ, ngoài các ngôn ngữ trong thế giới Hồi giáo, đã có những bản dịch tiếng Nhật, tiếng Hán, tiếng Hàn, tiếng Việt, tiếng Hindi, tiếng Urdu... Ngay cả tiếng Thái cũng có tới bốn bản dịch.

ĐƯA VĂN CHƯƠNG TINH TÚY, CỔ ĐIỂN ĐẾN VỚI ĐÔNG ĐẢO THƯỜNG DÂN

Tác phẩm “The Odyssey” của Homer do E.V. Rieu dịch ra văn xuôi tiếng Anh, là tác phẩm cổ điển theo cách riêng, được biết đến do tính dễ hiểu và lôi cuốn của nó, Rieu nhằm đưa văn chương cổ điển Hi Lạp đến với đông đảo công chúng bằng văn xuôi tiếng Anh hiện đại và trong sáng, không phải một thứ tiếng Anh giả cầy, [đi cà kheo], lỗi thời, rỗng tuếch mà rất nhiều dịch giả vẫn theo. Bản dịch bán được 100.000 bản trong vòng mấy tháng, và 50 năm sau đã bán được 3 triệu bản. Phiên bản văn xuôi Iliad của ông năm 1950 cũng rất thành công, đạt đến một triệu rưỡi bản. Ông vứt bỏ kiểu cố bắt chước cổ là nét nổi bật của rất nhiều bản dịch cổ điển trong thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20. Tuy nhiên ông bị phê phán nặng nề vì đã làm ‘mất chất thơ’ của Homer. Adam Parry tổng kết bản kết tội nặng nề việc Rieu đã ‘hiện đại hóa’ Homer như sau:

Thật ra thế giới của Homer khác quá xa thế giới của chúng ta - khác với những thế giới của tất cả chúng ta, và việc làm cho người ta tưởng rằng Homer nói năng như chúng ta dẫn đến việc dịch không chân thực như ông đã nói và đã soạn, giống như những bản dịch Kinh Thánh thời vua James 1.

và về khía cạnh thương mại, rõ ràng dịch phẩm của ông đã quá thành công: công lao của ông được ghi nhận bởi đông đảo bạn đọc.

TỘI

Trước hết, dịch đòi hỏi trung thành. Người không biết ngoại ngữ hoàn toàn tin vào dịch giả. Người đọc cần tin rằng bản dịch tương đương bản gốc, nếu họ nghi ngờ nghi ngờ người-dịch, họ sẽ nghi ngờ bản dịch. Đặc biệt phiên dịch trong vùng chiến tranh, khi bị nghi thân với kẻ địch. Năm 2011, tại Afganistan, người ta tìm thấy thi thể các phiên dịch bị bắn, lưỡi bị cắt, biểu tượng của sự nghi ngờ đối với  người làm công việc dịch.

- TỪ LỊCH SỬ DỊCH KINH THÁNH

Nói đến công và tội  trong dịch thuật, một câu hỏi bình thường không thể không được đặt ra: “Công với ai và tội với ai?”. Dịch Kinh Thánh là nhu cầu tự thân, nhưng thê thảm cho các dịch giả khi họ bị kẹt giữa cuộc xung đột tư tưởng tôn giáo vô cùng tàn khốc.

Wycliffe, [1328-1384] (Anh)

Ông cũng là một trong những người đầu tiên dịch Kinh Thánh ra tiếng bình dân (thay vì tiếng Latinh), bản dịch của ông và các đồng sự gọi là Kinh Thánh Wycliffe. Giáo lý của ông nhắm vào việc tách rời quyền lực thế tục và tôn giáo, nhất là từ sự lý giải về tín điều Tiệc Ly. Những giáo lý cải cách của ông là thách thức đáng kể với Giáo hội Công giáo ở thế kỷ XIV.

Mười năm sau khi chết, di cốt của ông  bị khai quật, bị thiêu, và rải xuống sông.

Tyndale (Anh) (1494 -1536) bị lên giàn thiêu vì bản dịch Tân Ước quá giống đạo Luther. Thomas More  (Anh) (1478 - 1535) kết tội Tyndale đã dịch sai những chữ thông thường để thay đổi niềm tin:

Church [giáo hội] thành →  Congregation [giáo đoàn], Priest [thấy tu] →  Senior [bậc trưởng thượng], Penance (hành xác để chuộc tội) → Repenting (ân hận)

Đau thay, bản dịch của Tyndale được coi là mẫu mực cho bản dịch có thẩm quyềncủa Kinh Thánh [Authorized Version of the Bible] xuất hiện năm 1611 và có tác động lớn lên văn học Anh nói chung. Tội lỗi nghiêm trọng của Tyndale là ông đã làm cho Lời Chúa đến được với những người bình thường; ông đã bị một điệp viên người Anh phản bội và bị thiêu sống tại Flanders vào năm 1536. Đối với người Công giáo, Kinh Thánh Rheims-Douai được xuất bản vào năm 1610, một năm trước Phiên bản có thẩm quyền.

Étienne Dolet [Pháp] (1509-1546) bị kết tội dị giáo vì dám dịch sai Plato (“Sau khi chết, ngươi sẽ chẳng là gì cả”) khiến người ta có thể không tin vào sự bất tử của linh hồn. Năm 1546, ông bị thiêu chết cùng với sách của mình.

VAI TRÒ (HAY THÂN PHẬN?) CỦA NGƯỜI-DỊCH

Ngày trước những người biết chữ có thể có một nghề là ‘nghề viết (chép) thuê’. Người dịch vốn trước nay vẫn bị coi như vậy [khi người ta cho rằng dịch chỉ là một quá trình đơn giản thẳng tuột, việc dịch chỉ là một công việc thủ công, không lý gì bắt người ta coi là công việc sáng tạo.]

[Câu chuyện này ở ta bây giờ vẫn là thời sự. Tất cả các “Hợp đồng Dịch thuật” đều phải ghi:

“Đại diện Bên A, ông/bà ____ THUÊ bên B, ông/bà _______dịch ________”.

Một dịch giả nổi tiếng thường xuyên tự tìm bản gốc, tự mình dịch và đem bản dịch đến NXB để in, yêu cầu sửa chữ THUÊ, với cái lý: đây là lao động của tôi, tôi có xin làm thuê đâu, thì được trả lời: đây là quy định, không thay đổi được!]

Những người làm công việc về chữ nghĩa nhiều khi ngán ngẩm. Một chữ ở đây đã nói nhiều hơn những điều nó có thể nói. Một thái độ không chỉ lạnh nhạt, mà còn rẻ rúng đối với một hoạt động  tinh thần.

TÍNH VÔ HÌNH (the invisibility) của NGƯỜI DỊCH

Khái niệm này có lẽ chỉ có trong nghiên cứu dịch thuật. Người đặt ra nó (Lawrence Venuti) ban đầu cho nó một nội hàm riêng biệt trong những hoàn cảnh riêng biệt (nhưng sau này biểu nghĩa của nó mở rộng hơn). Một mặt là địa vị thấp kém và mức thù lao thấp dành cho người dịch, mặt khác trong thế giới Anh-Mỹ, công chúng coi trọng tính trong sáng (transparency) và thanh thoát (fluent), để có thể đọc bản dịch như thể nó là sản phẩm của nền văn hóa Anh ngữ, nói cách khác, nó được “nội địa hóa” (domesticated) hoản toàn; đọc bản dịch người đọc phải có cảm tưởng những đọc văn bản Anh-Mỹ. Đây là một biểu hiện của chủ nghĩa đế quốc, về tính cao ngạo, tự mãn về văn hóa: nó đề cao tính bề trên của ngôn ngữ Anh-Mỹ, các bản dịch phải xóa hết mọi dấu vết ngoại lai. trong những trường hợp như vậy, hành động dịch thuật chính là'việc chiếm đoạt các nền văn hóa nước ngoài cho các chương trình nghị sự văn hóa, kinh tế, chính trị trong nước. Dĩ nhiên, hình ảnh của người dịch phải biến mất.

Nhà thơ Eliot Weinberger tán thành quan điểm dịch giả vô hình, mặc dù ông phê phán các nhà điểm sách không nhắc đến tên dịch giả. “Sự vô danh của bản dịch là niềm vui của dịch thuật vì dịch giả làm việc trên bình diện ngôn ngữ cố gắng tạo ra những hiệu quả tương đương, nắm bắt thực chất, mà không có sự can thiệp của cái tôi háo danh” (Weinberger, 2002)

Theo Weinberger dịch thuật là dạy cách viết tốt nhất. Ông đồng ý với Octavio Paz rằng dịch và sáng tạo là những quá trình song song, dịch giả “giải thoát” cho nguyên bản. Bản dịch không thấp hơn nguyên bản. Ông trách các nhà phê bình mà mẫu mực của họ là điều không tưởng cho ràng phải trung thành tuyệt đối vói nguyên tác. Ông ủng hộ tính mềm dẻo trong dịch thuật, mỗi bản dịch là một cách đọc khác nhau,  gợi ý nên dịch lại (càng nhiều lần càng tốt) thậm chí cùng một dịch giả, vì bạn ‘không thể bước vào cùng một tác phẩm hai lần’.

Matthew Reynold (giáo sư Oxford) trong Thi pháp của dịch gợi ý rằng trong các bản dịch văn chương, điều nắm bắt được không chỉ nằm trong văn bản gốc, mà được hình thành từ quá trình liên tục đọc-tạo ý nghĩa-dịch. Cuốn sách của Reynold là một tác phẩm quan trọng trong đó ông không chỉ tái khẳng định vai trò của dịch trong văn học Anh mà còn nhấn mạnh vai trò sáng tạo của dịch giả.

Bản dịch là những dấu vết thấy được của từng cách đọc riêng lẻ. Vấn đề không phải là người dịch vô hình, mà là khi đánh giá bản dịch, dư luận phê bình đã chọn cách làm cho người dịch trở nên vô hình bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của bản gốc hơn là bản dịch.

Tony Harrison, nhà thơ, dịch giả Anh: cho rằng “Ý tưởng về tính bất di bất dịch của bản gốc là ảo tưởng thông thái rởm, giáo điều.”

Privak: Dịch là hành động đọc riêng tư nhất, vì nó dính đến việc gặp gỡ giũa hai nhà văn trong một cuộc hẹn mà cô gọi là “thất bại”

Umberto Eco (nhà văn, dịch giả) thấy khó khăn trong dịch thuật không phải từ việc dịch của ông mà từ việc người khác dịch văn ông, tức là quan sát quá trình tác phẩm của ông được dịch sang thứ tiếng khác

Theo ông bản dịch là biểu hiện sự làm rõ của người đọc một văn bản, sản phẩm cuối cùng của một quá trình sáng tạo bao gồm nhiều giai đoạn đọc lại và viết lại.

Clive Scott coi bản dịch là lai tạp (métissage), chỉ ra tầm quan trọng của tác động của dịch giả trong cơn lốc xoáy đa ngôn ngữ này, trong đó đầu vào của phẩm chất văn chương của dịch giả với tư cách người đọc và người viết cũng quan trọng như phẩm chất văn chương của bản gốc.

Nasos Vayenas (nhà thơ Hi Lạp): bản dịch là dạng đọc tỉ mỉ kĩ lưỡng nhất. Dịch giả là độc giả giỏi nhất (đúng hơn là kỹ nhất – Hiếu Tân)

G. G. Marquez thì nói toạc: “Người ta nói dịch là loại đọc tốt nhât. Tôi thấy nó còn là loại khó nhất, được ghi nhận và trả công thấp nhất.”

Ngày nay người ta nhận rõ sự phức tạp của quá trình dịch, và đề cao vai trò của dịch giả hơn.

Tư duy sáng tạo về dịch thuật đã đi rất xa khỏi những cuộc tranh cãi vô bổ về yêu cầu “trung thành” và “chính xác” vốn đã làm cho cuộc tranh luận về dịch thuật như một hoạt động văn chương trở nên nhức nhối. Các nhà văn hiện đại có thể đi vào mối quan hệ với các nhà văn cổ đại mà không cảm thấy bị ‘áp lực’ bởi địa vị mà thời đại ban cho và đặt vào vị trí kinh điển, một mối quan hệ được đặc trưng bằng lòng tôn trọng không nô lệ và bằng ước muốn đọc lại và tái hiện lại những văn bản lẽ ra chỉ có giới tinh hoa uyên bác mới tiếp cận được.

Walter Benjamin (1892-1940) triết gia, nhà phê bình Đức gốc Do Thái:

Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo đảm sự tồn tại của văn bản, tầm quan trọng của vai trò cá nhân dịch giả – như một tác nhân giải phóng.

Ông phản đối coi dịch là hoạt động  thứ yếu, nghề thủ công chứ không phải nghệ thuật. Ông xem dịch thuật như một sức mạnh cho đổi mới và nhấn mạnh vai trò của dịch giả trong sự thay đổi diễn ngôn về quyền lực.

Tymoczko và Gentzler:

Như vậy, dịch thuật không chỉ đơn thuần là một hành động lựa chọn, lắp ráp, tái cấu trúc và chế tác, và thậm chí, trong một số trường hợp, là sự xuyên tạc, từ chối thông tin, làm giả và tạo ra mật mã bí mật. Theo những cách này, dịch giả, cũng như các nhà văn sáng tạo và chính trị gia, đều tham gia vào những hành động mạnh mẽ tạo ra tri thức và định hình văn hóa.

(Tymoczko và Gentzler, Dịch thuật và Quyền lực, 2002)

Ngày nay dịch thuật là trung tâm của truyền thông toàn cầu, dịch thuật đã đóng vai trò truyền bá tư tưởng và văn chương qua các thế kỉ. Vai trò đó lớn đến nỗi ngày nay không còn có thể coi dịch giả chỉ là nhân vật phụ bên cạnh nhà văn, vì dịch giả là tác nhân qua đó thực hiện việc truyền qua các nền văn hóa khác nhau. Thời đại mới của dịch thuật: đã đến thời ghi nhận và tán dương vai trò trung tâm của dịch thuật và dịch giả.