Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 15 tháng 8, 2025

Bút kí của Leonardo da Vinci (8)

 Hà Vũ Trọng dịch

Nguyên văn: The Notebooks of Leonardo da Vinci do Irma A. Richter biên tuyển, Ấn quán Đại học Oxford, 1991.


3. SỰ SỐNG VÀ CẤU TẠO CỦA VẬT THỂ

 

Mặc dù con mắt của hoạ sĩ chỉ nhìn thấy bề mặt của vật thể, nhưng khi thể hiện bề mặt y phải hiểu rõ và thông giải được sự cấu tạo hữu cơ nằm ở bên dưới. Việc miêu tả nhân hình đòi phải có một tri thức về cơ thể học và tỉ lệ. Những phong cảnh đòi hỏi sự nghiên cứu về hình thái học (morphology) của thực vật, về sự cấu tạo của địa cầu, về những chuyển động của nước và gió.

Tác phẩm này phải bắt đầu với sự hoài thai ra con người, và miêu tả tính chất của tử cung và bào thai sống trong đó bằng cách nào, và nó cư ngụ ở đó tới giai đoạn nào và nó máy động sự sống và sinh dưỡng ra sao. Cũng vậy, sự tăng trưởng của nó và khoảng cách nào giữa một giai đoạn tăng trưởng này và một giai đoạn khác. Điều gì buộc bào thai xuất ra khỏi cơ thể người mẹ, và nguyên nhân đôi khi nó ra khỏi tử cung người mẹ sớm trước thời hạn.     

Tiếp theo, tôi sẽ miêu tả chi thể nào sau khi bé trai sinh ra, sẽ tăng trưởng hơn những chi thể khác, và quyết định những tỉ lệ của một bé trai được một tuổi. Rồi miêu tả người nam, nữ đã trưởng thành hoàn toàn, với tỉ lệ của họ, sắc diện, màu da và tướng mạo. 

Sau đó, nói về huyết quản, gân, cơ bắp, và xương kết hợp ra sao. Và trong bốn bức vẽ trình bày bốn điều kiện phổ biến của con người. Đó là, tiếng cười với những hành vi khác nhau của người cười; và miêu tả nguyên nhân tiếng cười. Khóc trong những khía cạnh khác nhau với những nguyên nhân của chúng. Sự xung đột với những hành vi giết người khác nhau: đào thoát, sợ hãi, hung bạo, dũng cảm, tàn sát, và mọi thứ liên quan đến những điều kiện như thế. Tiếp đến, trình bày sự Lao động qua việc kéo, đẩy, khiêng vác, ngăn chận, chống đỡ, và những động tác đại loại như thế.

Hơn nữa, tôi miêu tả những tư thế và những vận động. Tiếp theo, phối cảnh quan hệ đến chức năng của mắt; và thính giác – ở đây tôi sẽ nói về âm nhạc – và về những giác quan khác – và miêu tả tính chất của ngũ quan. Cơ chế này của con người, chúng ta sẽ chứng minh bằng hình vẽ.

(a)  Tỉ lệ

Lí thuyết về tỉ lệ có một sức quyến rủ lớn đối với những nghệ sĩ thời Phục hưng. Tác phẩm của họ không chỉ chủ tâm phô bày kĩ năng nghệ thuật, họ còn muốn đạt được sự hài hoà. Những tỉ lệ trong hội hoạ, điêu khắc, và kiến trúc đều giống như hoà âm trong âm nhạc và đưa đến một khoái cảm cực kì.  

Tỉ lệ không chỉ tìm thấy trong những con số và những đo lường mà cũng còn trong âm thanh, trọng lượng, thời gian, và vị trí, và có thể là bất kì năng lực nào.

Nhà kiến trúc La-mã Vitruvius đã truyền một số dữ liệu từ quy điển (canon) Hi-lạp với những tỉ lệ về nhân thể và những dữ liệu này lại được tái lưu hành trong trong thời Phục hưng. Một bản vẽ của Leonardo được gọi là “Con người theo Vitruvius” (hiện bảo tồn ở Học viện ở Venice), được in lại trong một ấn bản sách của Vitruvius, phát hành năm 1511, để minh hoạ cho phát biểu rằng một thân thể hoàn hảo với hai cánh tay và hai chân dang ra có thể vẽ nội tiếp trong một hình vuông; trong khi cũng thân thể này dang thẳng chân tay chiếm một vòng tròn vạch quanh rốn làm trung tâm. Những tỉ lệ của nhân thể ở đây liên hệ tới những hình kỉ hà hoàn hảo nhất và có thể nói rằng được phối hợp thành vũ trụ hình cầu. 

Leonardo nỗ lực xác minh và trình bày cặn kẽ công thức toán học của Vitruvius để đặt chúng vào trong cơ sở khoa học qua việc quan sát thực nghiệm, và vì mục đích này, ông đã thu thập dữ liệu từ những người mẫu thực.

Hình học thì vô hạn bởi mọi số lượng liên tục có thể phân chia đến vô hạn theo phương hướng này hoặc phương hướng khác. Nhưng số lượng bất liên tục mở đầu bằng “một” và gia tăng tới vô hạn, và như đã nói, số lượng liên tục gia tăng tới vô hạn và giảm đến vô hạn. Và nếu bạn cho tôi một tuyến 20 thước Ý (braccia), tôi sẽ bảo cho bạn làm cách nào làm cho một tuyến thành 21 thước Ý.

Mọi bộ phận trong toàn thể phải tỉ lệ với cái toàn thể... tôi cho rằng cùng nguyên tắc này được xem là thích dụng với tất cả động vật và thực vật.

Khởi từ hội hoạ vốn phục vụ mắt, giác quan cao quý nhất, nảy sinh sự hài hoà về tỉ lệ; hệt như nhiều giọng khác nhau kết hợp và đồng thanh hợp xướng, sinh ra một tỉ lệ hài hoà dẫn tới sự thoả mãn cơ quan thính giác mà người nghe bị say mê trong niềm thán phục như thể đang trong cơn ngất ngây. Nhưng hiệu quả của tỉ lệ đẹp từ một gương mặt thiên thần trong hội hoạ thì lớn hơn nhiều, vì những tỉ lệ này sản sinh ra sự hoà hài đồng thời truyền tới mắt, hệt như một hợp âm trong âm nhạc tác động tới tai nghe; và nếu sự hoà hợp đẹp đẽ này được phô bày tới người yêu của nàng khi vẻ đẹp của nàng được miêu tả, thì chàng chắc chắn sẽ mê mẩn chiêm ngưỡng trong niềm hoan lạc vô song vượt trên mọi xúc cảm khác.

Người hoạ sĩ bằng những tỉ lệ hài hoà tạo nên những phần tổ hợp có tác dụng đồng thời, vì vậy có thể tức thời thấy chúng, tác động tới nhau như là hợp nhất, đồng thời vừa là chung và riêng; chung, nhìn xem thiết kế của bố cục như một toàn bộ; và riêng, nhìn xem thiết kế từ những phần tổ hợp.        

Vitruvius, nhà kiến trúc, phát biểu trong tác phẩm luận về kiến trúc của ông rằng những số đo về nhân thể được phân phối theo tự nhiên như sau: 4 ngón tay làm thành 1 lòng bàn tay; 4 lòng bàn tay thành 1 lòng bàn chân; 6 lòng bàn tay thành 1 cubit; 4 cubit tạo thành chiều cao của một con người; và 4 cubit thành một bước; và 24 lòng bàn tay thành một người; và ông sử dụng những đơn vị đo này trong kiến trúc. 

Nếu bạn dang chân tới độ giảm chiều cao của bạn xuống còn 1/14 và dang và giơ hai cánh tay lên để cho những ngón giữa ngang bằng với chóp đầu của bạn, bạn phải biết rằng cái rốn sẽ tạo thành trung tâm của một vòng tròn và tứ chi dang ra chạm vào chu vi của vòng tròn; và không gian ở giữa hai cẳng chân sẽ tạo thành một tam giác đều.

Sải tay của một người dang hai cánh tay thì bằng với chiều cao của người ấy.

Từ chân tóc đến đáy cằm là một phần mười chiều cao của một người; từ đáy cằm đến đỉnh đầu là một phần tám chiều cao của một người. Từ chóp ngực đến chân tóc là một phần bảy của tổng thể chiều cao; từ núm vú đến đỉnh đầu là một phần tư của một người. Bề ngang tối đa của đôi vai là một phần tư của chiều cao; từ khuỷu tay tới đầu ngón tay giữa là một phần năm; từ khuỷu tay đến cuối vai là một phần tám. Toàn bộ bàn tay là một phần mười. Dương vật bắt đầu ở trung tâm của một người. Bàn chân là một phần bảy của một người. Từ lòng bàn chân đến ngay dưới đầu gối là một phần tư của một người. Từ bên dưới đầu gối đến nơi dương vật bắt đầu là một phần tư của một người.

Khoảng cách giữa cằm và mũi và khoảng cách giữa lông mày và chỗ tóc bắt đầu thì bằng với chiều cao của tai và là một phần ba của khuôn mặt.

Đầu af lớn hơn nf một phần sáu.

Bàn chân từ chỗ tiếp giáp với cẳng tới chóp đầu ngón cái, thì cự li bằng khoảng giữa phần trên của cằm và chân tóc ab; và bằng năm phần sáu của khuôn mặt.

                    

Đối với mỗi người, khoảng cách giữa ab bằng với cd.

Độ dài của bàn chân từ đầu những ngón chân tới gót thì gấp hai lần từ gót tới đầu gối, tức là từ chỗ xương cẳng nối với xương đùi. Bàn tay tới cổ tay thì gấp bốn lần khoảng cách từ đầu ngón tay dài nhất tới khớp vai.   

Chiều rộng ở hông người đàn ông thì bằng khoảng cách từ đỉnh hông tới đáy của mông, khi người ấy đứng cân bằng trên hai bàn chân; và cũng có cùng khoảng cách từ đỉnh hông tới nách. Thắt lưng, hay phần hẹp hơn ở trên hông, sẽ là nửa chừng giữa nách và đáy mông.

Mọi người lúc ba tuổi thì bằng nửa chiều cao trọn vẹn sau này tăng trưởng.

Có dị biệt lớn về độ dài giữa những khớp nối ở người thành niên và nhi đồng. Ở người thành niên, khoảng cách từ khớp vai tới khuỷu tay, và từ khuỷu tay tới đầu ngón cái, và từ vai này tới vai kia, trong mỗi ví dụ là hai đầu, trong khi đó ở thiếu nhi chỉ có một đầu; bởi Tự nhiên hình thành cho chúng ta kích thước này vốn là ngôi nhà của trí tuệ trước khi hình thành những gì chứa đựng những nguyên tố thiết yếu.   

Hãy nhớ rất cẩn thận khi vẽ tứ chi, chúng nên tỉ lệ với kích thước của thân thể và tương xứng với tuổi tác. Vậy, một người trẻ có tứ chi cơ bắp không nhiều lắm và không gân guốc lắm, còn bề mặt thì mịn và đầy đặn, còn màu sắc thì nhu hoà. Ở người thành niên, tứ chi nhiều cơ bắp và vạm vỡ; trong khi đó trên bề mặt người già thì nhăn nheo, gồ ghề và nhiều mấu, và các tĩnh mạch thì nổi lên.      

(b) Cơ thể học và sự vận động của cơ thể

Nhân thể là một thể thống nhất phức hợp bên trong một trường tự nhiên lớn hơn, là một tiểu vũ trụ mà trong đó những nguyên tố và những năng lực của vũ trụ được phối hợp. Để nghiên cứu sự cấu tạo của cơ thể, Leonardo đã mổ xẻ những tử thi để khảo sát xương, khớp, và cơ bắp vừa riêng rẽ vừa trong tương quan với nhau, và phác hoạ từ nhiều góc nhìn và dùng những bản vẽ này cho sự chứng minh bằng thị giác, vì một sự miêu tả thích đáng không thể nào nêu ra bằng ngôn từ. Theo Leonardo, những chứng minh bằng thị giác đưa ra “những khái niệm hoàn chỉnh và chính xác về những hình dạng khác nhau bất luận tác giả là người xưa hoặc người hiện đại có thể nào nêu ra mà không bị tẻ nhạt và rối rắm vô cùng vì sự  rườm rà trong việc viết và mất thời gian”. Hơn nữa, không chỉ là những góc nhìn khác nhau, mà là vô vàn những khía cạnh phải xem xét, và cũng còn là những chuỗi liên tục của những giai đoạn khi vận động. Những vận động tròn của vai, cánh tay, và bàn tay, chẳng hạn, gợi lên một tính liên tục bằng hình ảnh như chúng ta có thể thấy trên một đoạn phim.

Việc nghiên cứu về cấu tạo nhân thể bao gồm nghiên cứu về chức năng, về cách thức mà những hành vi và những động tác được thực hiện, những cơ bắp khác nhau tác động cùng nhau như thế nào khi cong và duỗi thẳng những khớp; trọng lượng của một cơ thể được chống đỡ và giữ thăng bằng ra sao. Leonardo nhìn cơ thể học bằng con mắt của nhà cơ học. Mỗi chi thể, mỗi cơ quan ông tin rằng được thiết kế và thích nghi hoàn toàn để thực hiện chức năng đặc biệt của nó. Như vậy, những cơ của lưỡi được tạo ra để sản sinh ra vô số những thanh âm bên trong miệng khiến con người phát âm được nhiều ngôn ngữ. Trong thời đại của Leonardo, không có sự phân chia giữa những ngành khác nhau của cơ thể học. Ông đã khảo sát những vấn đề của sinh lí học và bào thai học, và những hệ thống dây thần kinh và những động mạch. Ông đã dự kiến những nguyên lí về sự tuần hoàn của máu và chuẩn bị nền tảng cho những phân tích đi xa hơn về nhiều bộ môn. 

Bạn cho rằng tốt hơn cả là quan sát một cuộc chứng minh về cơ thể học hơn là xem những bản vẽ này, hẳn là bạn đúng nếu có thể quan sát tất cả những chi tiết cho thấy trong những bản vẽ ấy trong một bức hình đơn độc, trong đó, bằng tất cả sự thông minh, bạn sẽ không nhìn thấy hoặc hấp thu được tri thức hơn vài tĩnh mạch, trong khi đó để đạt được một tri thức đích thực và hoàn chỉnh về những tĩnh mạch này, tôi đã mổ xẻ hơn mười thi thể, huỷ mọi chi thể khác nhau và loại bỏ những mẩu thịt nhỏ nhất bao quanh những tĩnh mạch này, mà không làm máu tuôn ra ngoài những ống mao quản. Và vì một cơ thể đơn độc đã không đủ đáp ứng suốt một thời gian dài, cho nên cần thiết xúc tiến từng giai đoạn với thật nhiều cơ thể để giúp cho kiến thức của tôi được hoàn hảo; điều này tôi đã lập lại hai lần để phát hiện ra những dị biệt. Mặc dù bạn có một tình yêu đối với những thứ như thế, bạn có thể bị nhụt chí bởi cảm xúc ghê tởm có tính tự nhiên, và nếu điều này không cản trở bạn, bạn có thể bị nhụt chí do nỗi sợ trải qua bao nhiêu giờ trong đêm giữa những tử thi, bị phanh thây, bị róc lột và trông thật kinh khủng; và nếu điều này không làm bạn nhụt chí, vậy thì có thể là bạn thiếu kĩ năng về hình hoạ, nó cần thiết cho việc miêu tả; còn nếu bạn có kĩ năng về hoạ hình mà không kết hợp với kiến thức về phối cảnh; và nếu đã có kết hợp như thế, có thể bạn không hiểu những phương pháp chứng minh hình học và phương pháp ước lượng những lực và sức mạnh của những cơ bắp; hoặc có thể là bạn thiếu kiên nhẫn cho nên bạn sẽ không có sự chuyên cần.

Về những tố chất ấy, chúng có trong tôi hay không, một trăm hai mươi quyển sách mà tôi đã soạn sẽ đưa ra phán xét “có” hay “không”. Trong những sách này, tôi đã không bị trở ngại bởi sự bần tiện hoặc cẩu thả, mà chỉ thiếu thời gian. Tạm biệt.

Hoạ sĩ cần phải biết sự cấu tạo nội tạng của con người

Hoạ sĩ có một tri thức về tính chất của gân, cơ, và dây chằng sẽ hiểu rất rõ về sự vận động của một chi thể có bao nhiêu và gồm những gân nào tạo ra nó, và những cơ nào khi gồng lên là nguyên nhân của sự co rút từ gân đó; và những gân nào mở rộng thành lớp sụn mong manh bao quanh và chống đỡ cho cơ.    

Như vậy, người hoạ sĩ sẽ theo những cung cách khác nhau và phổ biến, biểu thị những tư thái khác nhau trong những hình tượng của mình; và sẽ không làm như nhiều người, trong những vận động đa dạng, vẫn phô bày cùng những thứ này nơi cánh tay, lưng, ngực, và cẳng chân. Và những thứ này không thể xem là những khuyết điểm nhỏ.  

Trong toàn bộ 15 đồ hình sẽ cho bạn thấy cái tiểu vũ trụ nằm trên cùng bình diện như trước đây, Ptolemy đã tiếp thu trong vũ trụ học của ông;  và tôi sẽ chia chúng thành những chi thể như ông đã chia đại vũ trụ thành những địa hạt; và tiếp theo, tôi sẽ xác định những chức năng của những bộ phận trong mỗi hướng của chúng, đặt trước mắt bạn sự miêu tả toàn bộ hình thể con người và khả năng vận động nhờ những bộ phận của y. Và có lẽ điều ấy làm hài lòng đấng Tạo hoá của chúng ta khi tôi có thể phơi mở tính chất của con người và những tập tính của y ngay cả khi tôi miêu tả về hình thể của y.

Hãy nhớ, để chắc chắn về đầu mối của mỗi cơ khi kéo dây gân đã được cơ này sản sinh sao cho cơ này được vận động, và sự liên kết của nó với dây chằng của xương. Bạn sẽ rất dễ bị lầm lẫn khi chứng minh những cơ và những vị trí, đầu mối và tận cùng của chúng, trừ phi đầu tiên bạn chứng minh những cơ mảnh kiểu như sợi chỉ; và theo cách này bạn sẽ có thể miêu tả với cơ này chồng lên cơ kia như tự nhiên đã sắp đặt chúng; và như vậy, bạn có thể đặt tên chúng tuỳ theo chi thể mà chúng phục vụ, ví dụ, cơ vận đầu ngón chân cái, và của xương giữa hoặc của xương đầu tiên, v.v... Và khi bạn đã đưa ra thông tin này, bạn sẽ nhìn nghiêng cái hình dạng, kích thước và vị trí đích thực của mỗi cơ; nhưng hãy nhớ làm cho những sợi biểu thị những cơ này trong cùng những vị trí như tuyến trung tâm của mỗi cơ; và như thế, những sợi này sẽ chứng minh hình dạng của cẳng chân và khoảng cách của chúng theo một cách rõ ràng.

Cấu tạo bên trong bàn tay

Khi bạn bắt đầu vẽ cấu tạo bên trong bàn tay, đầu tiên hãy tách rời tất cả xương cốt ra với nhau một chút, như thế bạn có thể nhanh chóng nhận ra hình dạng thực sự của mỗi cái xương từ lòng bàn tay và cũng nhận ra số mục và vị trí thực sự trong mỗi ngón; và có một số ngón cưa theo chiều dọc để xem cái nào rỗng và cái nào đặc. Sau việc này, đặt lại vị trí xương vào đúng khớp của chúng và miêu tả toàn bộ bàn tay mở banh ra từ bên trong. Chứng minh tiếp theo sẽ là những bắp cơ bao quanh cổ tay và phần còn lại của bàn tay. Việc thứ năm sẽ là miêu tả những sợi gân làm di động những khớp thứ nhất của ngón tay. Thứ sáu, những sợi gân di động những khớp thứ hai của ngón tay. Thứ bảy, gân làm di động các khớp thứ ba của ngón tay. Thứ tám, miêu tả những dây thần kinh đem lại xúc giác cho chúng. Thứ chín, tĩnh mạch và động mạch. Thứ mười, cho thấy toàn bộ bàn tay hoàn chỉnh với da và kích thước; và kích thước của xương cũng nên đo. Và bất kể những gì bạn làm với phía này của bàn tay, bạn cũng nên làm với ba phía kia – đó là với phía lòng bàn tay, với phía mặt lưng, và với những phía các cơ duỗi và cơ gấp. Như vậy, trong chương về bàn tay, bạn sẽ trình ra 40 bức chứng minh; và bạn cũng làm y như thế với mỗi chi thể. Theo phương pháp này, bạn sẽ có được tri thức toàn diện. Sau đó, bạn nên có một luận văn liên quan đến bàn tay của từng động vật, để cho thấy chúng khác biệt như thế nào. Chẳng hạn, trong loài gấu, những dây gân chằng từ những ngón chân đều gắn vào bên trên mắt cá của bàn chân.    

Trọng lượng, sức, và vận động của những vật thể và những chấn động là bốn năng lực cơ bản trong đó mọi tác động hữu hình của loài người đều có hiện hữu và mục đích.

Sau việc chứng minh tất cả những bộ phận chi thể của con người và của những động vật khác, bạn sẽ trỉnh bày đúng cách thức động tác của những chi thể này, từ nằm cho tới trỗi dậy, khi di động, chạy, và nhảy trong nhiều động tác khác nhau, khi nhấc và mang những trọng vật, khi ném đồ vật đi xa, và khi bơi; và trong mọi động tác bạn cho thấy những chi thể và những cơ bắp nào vận dụng nó, và đặc biệt xét về vai trò của những cánh tay.

Về khuynh hướng của chi thể khi vận động, bạn sẽ phải xem xét khi bạn muốn thể hiện một người vì lí do nào đó phải quay ra đằng sau hoặc quay nghiêng, bạn đừng làm cho y dời hai bàn chân và tất cả chi thể hướng tới phía mà y quay đầu sang. Đúng hơn, bạn phải làm cho động tác xúc tiến theo những cấp độ và thông qua những khớp khác nhau, của bàn chân, của đầu gối, của hông, và của cổ. Nếu bạn cho y trụ ở bàn chân phải, bạn phải làm cho đầu gối trái uốn vào trong và bàn chân trái hơi nhấc lên ra phía ngoài; và cho vai trái hơi thấp hơn vai phải; và cho cái gáy thì nằm một đường chạy thẳng trên mắt cá phía ngoài bàn chân trái. Và vai trái sẽ nằm theo tuyến thẳng góc ở bên trên ngón chân phải. Và luôn sắp đặt hình thể người sao cho phía đầu quay sang không phải là phía lồng ngực hướng tới, bởi thiên nhiên vì sự tiện lợi khi ban cho chúng ta một cái cổ có thể uốn dễ dàng theo nhiều hướng khi mắt nhìn sang những điểm khác nhau và những khớp nối khác phần nào đều phục tùng nó.       

Tính uyển chuyển của chi thể

Tứ chi sẽ thích nghi với thân thể bằng tính uyển chuyển và bằng sự tương quan với hiệu quả mà bạn muốn nhân hình tạo ra. Nếu bạn muốn tạo ra một nhân hình trông nhẹ nhàng và duyên dáng, bạn phải làm cho tứ chi thanh nhã và duỗi ra, và không phô bày quá nhiều cơ bắp; và bạn cần thể hiện một số cơ một cách mềm mại, ẩn ước và bóng không đậm lắm; tứ chi và đặc biệt là cánh tay phải thoải mái, và không nên theo một tuyến thẳng với những bộ phận tiếp giáp. Hai bên hông, vốn là cột trụ của một người, nên được sắp đặt sao cho bên phải cao hơn bên trái, rồi cho vai bên phải thấp hơn vai trái và cho khớp nối của bên vai cao hơn theo một tuyến thẳng ở trên phía hông cao nhất. Hãy cho cuống họng luôn ở trên trung tâm của mắt cá bàn chân đang trụ. Còn cẳng chân không chịu lực thì đầu gối nên thấp hơn bên kia, và gần cẳng chân kia. Những vị trí của đầu và cánh tay thì biến thiên vô kể và vì thế tôi sẽ không bổ sung thêm bất cứ quy tắc nào cho chúng. Tuy nhiên, hãy để chúng thoải mái và thư giãn, với những việc quay và vặn khác nhau và những khớp cong lại duyên dáng, và trông không giống như những khúc gỗ.

Cái được gọi là vận động giản đơn của một người khi kẻ ấy đơn thuần khom về phía trước, hoặc phía sau, hoặc sang phía bên cạnh.       

Cái được gọi là vận động kết hợp của một người khi kẻ ấy cần phải khom xuống và đồng thời quay sang bên cạnh...

Sự vận động của con người

Khi bạn muốn thể hiện một người làm động tác di chuyển một số vật nặng cho thấy những vận động này được thể hiện theo những phương hướng khác nhau. Một người có thể khom xuống để nhấc một vật nặng với chủ ý nhấc nó lên trong khi duỗi thẳng thân thể; đây là một vận động giản đơn từ dưới lên trên; hoặc người ấy có thể muốn kéo lùi một vật; hoặc đẩy nó tới hoặc kéo nó xuống bằng một sợi dây thừng chạy qua một cái ròng rọc. Ở đây bạn nên nhớ rằng thể trọng của một người khi kéo thì tỉ lệ với trọng tâm của trọng lượng của người ấy là khoảng cách từ điểm tựa của người ấy, và bạn phải bổ sung lực tạo ra từ cẳng chân và khom sống lưng khi người ấy duỗi thẳng thân thể.        

Cơ gân hướng dẫn cẳng chân, và gắn liền với xương bánh chè của đầu gối, cảm thấy nó phải tốn sức nhiều hơn khi mang một người thẳng đứng so với cẳng chân cong hơn; cơ bắp tác động lên góc độ do đùi tạo ra nơi nó gắn với phần thân thì ít khó khăn và ít trọng lượng khi nhấc lên, bởi vì nó không có trọng lượng của chính phần đùi. Và ngoài điều này ra, những cơ của nó khoẻ hơn những cơ hình thành phần mông.   

Điều đầu tiên mà một người làm khi bước lên những bâc thang là giải phóng cẳng chân mà y muốn nhấc lên khỏi trọng lượng của phần thân người vốn đang trụ trên cẳng chân này, và đồng thời y chất cẳng chân kia toàn bộ sức nặng của mình kể luôn sức nặng của cẳng chân nhấc lên. Tiếp theo y nhấc cẳng lên và đặt bàn chân lên bậc mà y muốn leo lên; sau đó, y vận chuyển sang cái bàn chân đặt cao hơn tất cả sức nặng của thân mình và trọng lượng của cẳng chân rồi chống tay lên đùi, lao đầu tới trước và di chuyển hướng tới điểm của cái bàn chân cao hơn, trong khi đó nhấc nhanh gót của cái bàn chân thấp hơn; và bằng động lực tiếp thu được như vậy, y nhấc bản thân lên; và đồng thời bằng việc duỗi rộng cánh tay vốn đang tựa trên đầu gối, y đẩy thân mình và đầu lên phía trên và như vậy làm thẳng đường cong của lưng.

Con người và mọi động vật chịu đựng sự mỏi mệt khi đi hướng lên hơn là hướng xuống, vì khi đi lên thì mang theo trọng lượng của mình, còn khi đi xuống, chỉ việc buông thả nó.      

Một người, khi chạy, thì lao trọng lượng của mình trên đôi cẳng ít hơn là khi đứng yên. Giống như tư thế của con ngựa, khi đang chạy, ít ý thức về trọng lượng của người mà nó đang chở theo; vì thế, nhiều người coi điều đó là tuyệt diệu khi một con ngựa trong cuộc đua có thể tự chống đỡ một chân mà thôi. Do đó, chúng ta có thể nói về trọng lượng khi chuyển động hướng ngang, vận động càng nhanh, thì trọng lực hướng về địa tâm càng ít đi.      

Khi một người đang ngồi trên đất bằng, y đứng lên như thế nào.

Kí ức không có khả năng nhớ được mọi phương diện và biến hoá của bất cứ chi thể động vật nào. Chúng ta sẽ chứng minh điều này qua ví dụ về bàn tay. Bởi vì mỗi lượng liên tục có thể chia đến vô hạn qua sự vận động của mắt vốn quan sát bàn tay, di chuyển qua một không gian, và cũng là một lượng liên tục và có thể chia đến vô hạn. Và trong mỗi giai đoạn của vận động, vẻ ngoài và hình dạng bàn tay có biến thiên, và sẽ tiếp tục biến đổi khi mắt di chuyển theo vòng tròn. Và bàn tay lần lượt sẽ tác động theo cung cách tương tự như khi nó nhấc lên trong khi chuyển động, tức là nó sẽ di chuyển qua không gian vốn là một lượng liên tục.  

Có [bốn loại] vận động giản đơn chính yếu nơi khuỷu tay cử động bởi khớp vai, đó là khi cánh tay gắn chặt với khớp vai di chuyển hướng lên và hướng xuống hoặc hướng tới phía trước hoặc phía sau. Tuy vậy, ta có thể nói, những vận động như thế là vô hạn. Vì nếu chúng ta xoay vai hướng tới một bức tường và miêu tả một hình tròn với cánh tay, chúng ta sẽ phải thực hiện tất cả những vận động chứa trong vai nói trên. Và, vì [mỗi vòng tròn là] một lượng liên tục, nên vận động của cánh tay [sản sinh ra] một lượng liên tục. Vận động này sẽ không sản sinh ra một lượng liên tục nếu như nó không được dẫn đạo bởi nguyên tắc của sự liên tục. Vì thế, vận động của cánh tay ấy đã đi qua mọi phần của vòng tròn. Và vì vòng tròn là có thể chia vô hạn nên những biến thiên của vai là vô hạn.

Động tác đồng nhất nhìn từ những vị trí khác nhau

Cùng một tư thế được nhìn thấy với vô số những biến thiên, bởi có thể quan sát nó từ vô số những vị trí và những vị trí này là một lượng liên tục, và có thể chia thành vô số những phần. Vì thế, mọi động tác của con người tự cho thấy sự biến thiên vô hạn.   

Những vận động của con người thực hiện trong một trường hợp đơn độc hoặc vì một mục đích đơn độc đều biến thiên vô hạn trong tự thân. Điều này có thể chứng minh như thế này. Ta hãy giả định rằng một người đập vào vật thể nào đó. Vậy tôi cho rằng việc đập vào của y được tạo thành từ hai trạng thái. Hoặc là người ấy nhấc vật ấy lên và phải đi lên để tạo ra việc đập, hoặc là vật thể ấy đã hạ xuống rồi. Bất cứ trường hợp nào, không thể phủ nhận rằng sự vận động xảy ra trong không gian và không gian đó là một lượng liên tục, và lượng liên tục có thể chia đến vô hạn. Kết luận: mọi vận động của vật hạ xuống đều có thể biến thiên đến vô hạn.    

(c)  Sinh lí học

Ở đâu có sự sống ở đó có nhiệt; ở đâu có nhiệt thì có sự vận động của những lưu thể.

Nguyên nhân làm di chuyển nước qua suối ngược lại dòng chảy tự nhiên của hấp lực cũng tương tự nguyên nhân làm di chuyển những dịch thể (humour) trong mọi hình dạng của những sinh vật thể.

[Với bản vẽ quả tim cho thấy những tĩnh mạch và động mạch]

Hỡi văn sĩ, bạn sẽ miêu tả bằng ngôn từ nào với sự hoàn thiện tương tự toàn bộ cấu tạo của nó trong bức hoạ này đây? Vì thiếu tri thức, bạn sẽ miêu tả nó một cách lẫn lộn khi truyền đạt nhưng mà lại ít am hiểu về những hình dạng đích thực của sự vật; và tự dối mình rằng bạn tìn rằng bạn thoả mãn thính giả hoàn toàn khi bạn nói về hình thể của bất cứ gì có cơ thể và được bao quanh bằng những bề mặt.

Tôi khuyên rằng, bạn đừng trở ngại mình bằng những ngôn từ trừ phi bạn đang nói với người mù, hoặc nếu bạn muốn chứng minh với đôi tai bằng ngôn từ thay vì bằng đôi mắt của con người đang nói về những thực vật hoặc về những vật thiên nhiên và không mất công rót vào tai những thứ mà lẽ ra phải biểu đạt bằng mắt vì ở đây bạn sẽ bị tác phẩm của hoạ sĩ vượt qua rất xa.     

Bằng ngôn từ nào bạn có thể miêu tả quả tim này mà không chiếm cả quyển sách? Thế nhưng, bạn càng viết chi tiết bao nhiêu về nó bạn càng làm rối trí người nghe. Và bạn sẽ luôn cần tới những người chú giải hoặc trở lại với kinh nghiệm, và đối với bạn thì ngắn ngủi và chỉ bàn về một vài điều khi so sánh với mức độ của chủ đề liên quan trong những gì bạn mong muốn tri thức toàn diện.

Mắt người                    

Đồng tử của mắt thay đổi sang nhiều kích thước khác biệt tuỳ theo những khác biệt về mức độ sáng và tối của vật thể ở trước mắt... Trong trường hợp này, thiên nhiên đã ban cho năng lực thị giác, khi bị ánh sáng quá độ kích thích, thì đồng tử thu nhỏ lại và ở đây thiên nhiên tác động giống như người thấy trong nhà quá nhiều ánh sáng, thì khép cửa sổ lại ít nhiều tuỳ mức cần thiết, còn khi đêm xuống, thì mở toang cửa sổ để nhìn thấy rõ hơn...   

Thiên nhiên ở đây ban sự điều chỉnh không ngừng và tính quân bình liên tục bằng sự giãn nở và thu nhỏ của đồng tử tuỳ theo độ tối hoặc sáng ở phía trước nó. Bạn có thể quan sát quá trình ở những động vật sống về đêm, như mèo, cú mèo, cú tai dài, chúng vốn có đồng tử nhỏ vào ban trưa và rất to vào ban đêm... còn nếu bạn muốn thí nghiệm với một người nhìn chăm chú vào đồng tử của mình trong khi cầm cây nến sáng ở cách một khoảng cách ngắn và cho người ấy nhìn vào ánh nến này trong khi bạn mang nó càng lúc càng tới gần hơn, và bạn sẽ thấy ánh nến càng tới gần hơn thì đồng tử của người ấy sẽ càng co lại.

Đồng tử định vị ở trung tâm của giác mạc vốn có hình dạng của bộ phận hình cầu chọn đồng tử ở trung tâm đáy của nó. Giác mạc (luce) này hình thành bộ phận của khối cầu tiếp nhận tất cả hình ảnh của những vật thể và truyền chúng thông qua đồng tử ở bên trong tới nơi mà thị giác hình thành.     

Trong việc giải phẫu mắt, để có thể nhìn thấy rõ được cấu tạo bên trong mà không làm trào dịch lưu (watery humour) của nó, bạn nên đặt toàn bộ con mắt trong lòng trắng của quả trứng rồi nấu nó cho tới khi rắn lại; rồi cắt ngang quả trứng và con mắt sao cho không bộ phận nào của phần giữa bị trào ra.

Hãy đục hai lỗ thông trong cuống sừng của những tâm thất (ventricle) lớn và bơm sáp chảy vào bằng ống chích, đục một lỗ trong tâm thất của bộ nhớ (memoria), và qua cái lỗ này bơm đầy ba tâm thất của bộ não; và sau đó khi sáp đã tước đi bộ não và bạn sẽ thấy hình dạng chính xác của ba tâm thất.

(d) Lưỡi

Về những cơ làm di chuyển lưỡi [được minh hoạ bằng những bản vẽ]

Không có khí quan nào có số cơ nhiều như lưỡi, – trong những cơ này có hai mươi bốn được biết là tách biệt khỏi những cơ khác mà tôi phát hiện được; và trong tất cả những chi thể di chuyển bằng động tác tự giác thì khí quan này vượt qua tất cả những phần còn lại về số lượng vận động của nó... Công việc hiện tại là khám phá ra bằng cách nào mà hai mươi bốn cơ này được phân chia hoặc phân phối để giúp đỡ lưỡi trong những vận động cần thiết vốn có nhiều và khác biệt; và hơn nữa, nó phải được nhìn thấy những dây thần kinh truyền xuống đáy bộ não ra sao, và bằng cách nào chúng đi vào lưỡi, tự phân phối và chỉa ra những chi nhánh. Và phải ghi nhận thêm hai mươi bốn cơ này tự biến đổi thành sáu trong việc cấu tạo của chúng trong lưỡi. Hơn nữa, bạn nên cho thấy những cơ này phát xuất từ đâu, mà một số cơ trong cột sống nơi cổ... một số trong hàm trên, và một số trong khí quản... và tương tự những tĩnh mạch nuôi dưỡng chúng và những dây thần kinh gây cảm giác cho chúng... lưỡi tác động trong việc phát âm và đọc rõ ràng những âm tạo ra lời. Lưỡi cũng dùng trong những vòng quay cần thiết của thực phẩm trong tiến trình nhai và làm sạch từ bên trong miệng và răng. Lưỡi có bảy loại vận động chủ yếu...

Hãy xem xét kĩ sự vận động của lưỡi ra sao cùng sự giúp đỡ của môi và răng, việc phát âm tất cả những danh xưng của sự vật mà chúng ta quen biết; và những từ đơn và câu phức của một ngôn ngữ lọt tới tai chúng ta bằng khí cụ này; nếu như mỗi hiệu quả tự nhiên, đều có danh xưng, thì những danh xưng đạt tới vô hạn, cùng vô số những sự vật trong hoạt động và trong cơ năng tự nhiên; với những danh xưng này, người ta không biểu đạt chỉ bằng một ngôn ngữ mà bằng nhiều ngôn ngữ, và chúng có xu hướng tới vô tận; bởi chúng liên tục biến thiên từ thế kỉ này sang thế kỉ khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác, qua sự hỗn dung giữa các dân tộc bởi chiến tranh và những tai biến khác không ngừng pha trộn vào với nhau; và cùng những ngôn ngữ này có khả năng bị lãng quên, và cũng bị tiêu vong như mọi tạo vật; và nếu chúng ta thừa nhận rằng thế giới là bất diệt, chúng ta có thể nói những ngôn ngữ này đã đang, và vẫn còn là, mang tính đa dạng vô hạn, lưu truyền qua bao thế kỉ bền gan với tuế nguyệt. Và đây không phải là trường hợp có bất kì ý nghĩa nào khác; vì những điều này chỉ liên quan tới những sự vật như thiên nhiên không ngừng sản sinh; và những hình dạng thông thường của sự vật do thiên nhiên tạo ra không thay đổi, như những sự vật do con người tạo ra qua các thời đại, và con người là khí cụ vĩ đại nhất của thiên nhiên. 

Tôi có rất nhiều từ ngữ trong tiếng mẹ đẻ mà đáng lẽ tôi phải than phiền về việc thiếu hiểu biết chính xác về sự vật hơn là việc thiếu từ ngữ thể hiện đầy đủ khái niệm trong tâm trí của tôi.

(e)  Môi

Những cơ làm di động đôi môi của miệng

Những cơ làm di động đôi môi của miệng ở con người thì nhiều hơn bất kì ở động vật nào khác; và điều này cần thiết cho con người bởi vì nhiều hành vi mà đôi môi này được sử dụng không ngừng, như trong việc phát âm bốn mẫu tự bfmp, khi huýt sáo, cười, khóc, và những hành vi tương tự. Cũng vậy, trong những việc nhăn nhó kì quái mà những chú hề vận dụng khi họ mô phỏng những khuôn mặt.

Những cơ nào căng thật chặt miệng và những đường biên ở bên của nó sát lại gần nhau?

Những cơ làm căng miệng như vậy làm giảm bớt độ dài của nó đều nằm trong đôi môi; hoặc đúng hơn đôi môi này đều là những cơ thực sự tự khép lại. Trên thực tế, cơ này thay đổi kích thước của môi bên dưới những cơ khác vốn liên kết với nó và từ đó cặp môi căng phồng lên và máy động thành nụ cười,... còn cái cơ thu nhỏ lại nó giống như như vành môi dưới được thành hình; và tiến trình tương tự đồng thời diễn ra ở vành môi trên. Có những cơ khác khiến đôi môi đi tới một điểm; những cơ khác làm phẳng chúng; những cơ khác làm méo lệch tất cả; và những cơ khác đem chúng trở về vị trí ban đầu. Vì thế, luôn có nhiều cơ tương ứng với những điệu bộ khác nhau của đôi môi này và nhiều cơ khác giúp phục hồi những điệu bộ này; và mục đích của tôi ở đây là miêu tả và trình bày đầy đủ, chúng minh những sự vận động này nhờ những nguyên tắc toán học.   

Có lần, tôi thấy ở Florence một người đàn ông bị điếc, khi bạn nói thật lớn tiếng, y không hiểu bạn, nhưng nếu bạn nói khẽ và không gây ra tiếng, y hiểu được bạn đơn thuần từ cử động của đôi môi. Giờ đây, có thể bạn sẽ cho rằng đôi môi của một người nói lớn tiếng không cử động giống như đôi môi khi nói khẽ, và nếu chúng cử động giống nhau chúng sẽ không được hiểu giống nhau. Về tranh luận này, tôi để lại quyết định này cho việc thực nghiệm; hãy cho một người nói với bạn nhẹ nhàng và lưu ý đôi môi người ấy. 

(f)   Bào thai

Mặc dù kĩ năng của con người có thể tạo ra những phát minh đa dạng và đáp ứng bằng những máy móc khác nhau dành cho cùng một mục đích, nó sẽ chẳng bao giờ nghĩ ra một phát minh nào đẹp hơn, giản đơn và trực tiếp hơn Tự nhiên; bởi trong những phát minh của bà mẹ Tự nhiên không gì thiếu và thừa. Bà mẹ Tự nhiên không cần sự đối trọng nào khi bà sáng tạo các chi thể thích hợp cho vận động trong cơ thể động vật, mà đặt trong chúng linh hồn của thân thể vốn tạo hình  nên chúng, đó là linh hồn của người mẹ nó đầu tiên tạo dựng trong tử cung hình hài của con người, và đến đúng kì hạn đánh thức cái sẽ là kẻ cư trú trong cái nhân dạng đó. Và linh hồn này ban đầu nằm ngủ dưới sự giám hộ của linh hồn người mẹ, người ban cho nó dưỡng chất và sự sống thông qua tĩnh mạch cuống nhau và toàn bộ những thành phần tâm linh của nó; và điều này vẫn tiếp diễn chừng nào sợ dây rốn nói trên kết nối với nó bởi rau thai và phôi nhờ đó đứa con gắn bó với người mẹ. Đây là những lí do tại sao một mong mỏi, một ước muốn mạnh mẽ, một nỗi sợ hãi mà người mẹ trải qua thì đứa con cảm nhận còn mạnh hơn cả người mẹ nữa; vì có bao nhiêu trường hợp đứa con bị thiệt mạng vì thế...             

Do một tinh thần cai quản hai thân thể, cho nên những ước muốn, sợ hãi, và đau đớn của người mẹ là một với nỗi đau, đó là nỗi đau thân xác, cùng những ham muốn của đứa con trong thân thể người mẹ, cũng như thế, cách thức truyền dưỡng chất cho đứa con và nó được nuôi dưỡng cùng nguyên nhân như những phần khác của người mẹ,và những năng lực đời sống của nó được rút từ không khí cũng là nguyên lí sinh tồn chung của loài người và mọi tạo vật khác.  

Người da đen Ethiopia không phải là sản phẩm của mặt trời; vì nếu da đen lấy da đen có con ở Scythia, thì dòng dõi vẫn là da đen; nhưng nếu một người da đen lấy vợ da trắng có con thì dòng dõi có màu tro. Điều này chứng tỏ hạt giống của người mẹ có năng lực trong bào thai ngang với hạt giống của người cha.

Tôi bộc lộ cho con người về dòng dõi đệ nhị của họ – đệ nhị hoặc có thể là đệ nhất – nguyên nhân của tồn tại. Sự phân chia phần tâm linh khỏi phần vật thể. Và đứa con thở và được nuôi dưỡng ra sao qua cuống rốn; và tại sao một linh hồn cai quản hai thân thể, khi ta thấy người mẹ khao khát một thực phẩm nào đó thì đứa con cũng mang những biểu thị đó. Và tại sao đứa con [sinh ra] khi được tám tháng thì không sống được. Ở đây, Avicenna tranh biện rằng linh hồn sinh linh hồn và nhục thể sinh nhục thể và các loại khí quan, nhưng ông sai lầm.

(g) Cơ thể học so sánh

Bạn sẽ trình bày ở đây việc so sánh cặp giò của con ếch, vốn có một sự tương tự lớn với cặp giò của con người, cả về xương và cơ. Rồi thêm nữa, chân sau của con thỏ rừng có nhiều bắp thịt, với những cơ hoạt động mạnh, bởi vì chúng không bị mỡ làm trở ngại.

Hãy lưu ý những khúc cong ở những khớp và quá trình thịt căng phồng lên khi gấp và duỗi; về chuyện này quan trọng nhất là phải viết một chuyên luận: miêu tả vận động của những động vật bốn chân; trong đó kể cả con người trong ấu thời bò bằng cả tứ chi.

Con người luôn bước đi theo cách của những động vật bốn chân hệt như họ di chuyển bàn chân chéo nhau theo kiểu con ngựa phi, con người cũng chuyển động tứ chi chéo nhau như thế; tức là khi bước đi, bàn chân phải của người ta đi tới thì cánh tay trái đánh tới trước và ngược lại, lúc nào cũng vậy.

Con ếch sẽ chết tức khắc nếu cột sống bị đâm xuyên; và trước khi điều này xảy ra, nó vẫn sống không có đầu, không tim hoặc bất kì xương hoặc ruột hoặc da, và vì thế, ở đây cột sống gần như là nguyên nhân nền tảng của sự vận động và đời sống. Tất cả những dây thần kinh của động vật bắt nguồn từ đây: khi bị đâm vào, chúng chết tức khắc.

Tôi đã phát hiện trong cấu tạo của cơ thể con người những cơ quan cảm giác trì độn hơn và thô sơ hơn so với những cơ quan cấu tạo của động vật. Như vậy, nó được cấu thành từ một khí cụ ít tinh xảo và từ những bộ phận ít có khả năng tiếp nhận năng lực của những giác quan. Tôi đã thấy trong đàn sư tử, khứu giác hình thành bộ phận thực chất của não đi xuống lỗ mũi để hình thành một chỗ đón nhận lớn cho khứu giác. Đi vào chỗ đón nhận này là một lượng lớn những tế bào sụn với nhiều thông đạo dẫn tới não bộ nói tới ở trên. Đôi mắt trong đàn sư tử có một bộ phận lớn ở đầu dành cho hốc mắt và những dây thần kinh thị giác liên thông trực tiếp với não bộ; với con người thì ngược lại, hốc mắt chỉ chiếm một phần nhỏ, còn những dây thần kinh thị giác thì mỏng, dài và yếu; và bởi hoạt động yếu cho nên chúng ta ban ngày nhìn thấy rõ, còn ban đêm thì tồi; trong khi đó, sư tử ban đêm nhìn rõ hơn ngày; và bằng chứng có thể thấy là chúng săn mồi vào đêm và ngủ vào ban ngày, như những loài chim sống về đêm.  

Đôi mắt của động vật

Đôi mắt của mọi động vật đều có đồng tử thích nghi với việc giãn nở và co lại tuỳ tỉ lệ ánh sáng mặt trời hoặc nguồn sáng khác nhiều hơn hoặc ít hơn. Nhưng trong loài chim, sự biến thiên lớn hơn, đặc biệt với loài chim ban đêm thuộc chủng loại cú. Như cú sừng, cú trắng và cú nâu. Với những loài cú này, đồng tử giãn nở cho tới khi hầu như nó chiếm trọn con mắt, hoặc co lại kích thước chỉ bằng hạt kê, và luôn giữ lại hình tròn.

Nhưng ở đàn sư tử, như loài báo đen, báo, báo tuyết, hổ, sói, mèo rừng, mèo Tây-ban-nha, và những động vật tương tự khác, đồng tử khi co lại từ hình tròn xoe sang hình trứng.     

Tuy vậy, con người có một thị lực yếu hơn bất kì động vật nào khác, lại ít bị ánh sáng quá độ làm tổn thương và đồng tử ít gia tăng ở những chỗ tối. Nhưng trong đôi mắt của những động vật sống ban đêm đã nêu trên, trong loài cú sừng, là loài chim đêm lớn nhất, thị lực gia tăng rất lớn tới nỗi trong màn đêm mờ nhất (gọi là bóng tối) nó có thể thấy rõ rệt hơn là chúng ta nhìn thấy vào giữa trưa chói lọi, khi những loài chim này ẩn trong những chỗ tối; hoặc nếu chúng buộc phải xuất hiện ra ánh mặt trời, thì đồng tử co lại thật nhỏ tới nỗi thị lực của chúng giảm theo lượng ánh sáng.  

Hãy nghiên cứu cơ thể học về các loại mắt khác nhau và nhìn những đồng tử của các đôi mắt động vật nói trên xem các cơ nào mở và đóng.  

Nếu ban đêm, mắt của bạn ở giữa ánh sáng và mắt của một con mèo, bạn sẽ thấy mắt mèo giống như lửa.

Khi loài chim nhắm mắt lại bằng hai lớp phủ, đầu tiên nó khép lớp thứ nhì, lớp này nằm ở một phía tuyến nước mắt hướng tới đuôi mắt, và lớp phủ ngoài nhắm lại từ dưới lên trên. Hai lớp này  giao nhau và đầu tiên che mắt từ hướng của tuyến nước mắt bởi vì chim đã thấy rằng nó an toàn phía trước và phía sau; nó chỉ bảo toàn phần trên của mắt bởi vì những nguy cơ từ loài chim săn mồi hạ từ trên xuống và sau tới; và trước tiên nó sẽ mở lớp màng theo hướng của đuôi mắt, vì nếu kẻ thù ập tới từ sau thì chim có cơ hội bay tới trước. Cũng vậy, nó giữ lớp màng gọi là thứ nhì vốn có kết cấu trong suốt, nó làm vậy bởi nếu không có tấm chắn này thì nó không thể giữ đôi mắt mở ra chống lại luồng gió đập vào mắt khi bay nhanh.   

Phân tích sự vận động của lưỡi con chim gõ kiến.

Miêu tả lưỡi con gõ kiến và hàm của con sấu châu Phi.

Sau khi một hoạ sĩ đã làm chủ khoa cơ thể học, y có tự do sáng tạo ra những sinh vật dựa theo ý tưởng riêng của mình. Y có thể, chẳng hạn, ráp các bộ phận của nhiều loài vào với nhau để tạo ra một cấu trúc giả tưởng. Những con quái vật của Leonardo là một ví dụ kì lạ về phương thức mà tậm trí ông kết hợp khoa học với hư cấu. Chúng thường là những ý tưởng dành cho những lễ hội hoá trang và những huy hiệu.

Làm sao tạo ra một con vật tưởng tượng trông có vẻ tự nhiên.

Bạn biết rằng bạn không thể tạo ra bất cứ con vật nào mà không có những chi thể, như mỗi chi thể mang một số điểm tương tự với chi của một số những động vật khác. Nếu vậy, bạn muốn tạo ra một trong những con vật theo trí tưởng tượng trông có vẻ tự nhiên – ta hãy giả thiết nó là một con rồng – hãy cho cái đầu của nó của loại chó lớn tai cụp hoặc chó săn lông xù, cho mắt như mắt mèo, cho tai của loài nhím, cho mũi của loài chó săn, với lông mày sư tử, và thái dương của con gà trống già và cổ của con rùa nước.    

(h)  Vải vóc

Các loại vải mỏng, dày, mới, cũ, với những nếp gấp đứt đoạn và xếp nếp, ánh sáng nhẹ, bóng tối mờ và ít tối mờ, có hoặc không có những phản chiếu, rõ nét hoặc không rõ nét tuỳ khoảng cách và màu sắc; và những y phục tuỳ theo địa vị xã hội của người mặc, dài hoặc ngắn, phất phới hoặc cứng nhắc tuỳ những di động; bao bọc quanh nhân vật khi khom xuống hoặc đuôi áo phất phới thành dòng nhấp nhô, tuỳ những những nếp gấp; bám chặt bàn chân hoặc tách biệt khỏi, tuỳ theo đôi chân đang nghỉ hoặc gấp, hoặc xoáy hoặc sải bước; bó chặt hoặc tách biệt với những chỗ nối theo bước chân hoặc chuyển động hoặc khi có gió.  

Và những nếp gấp nên tương ứng với phẩm chất của những vải vóc dù trong suốt hay mờ đục...

Về y phục mỏng của phụ nữ khi đang bước đi, đang chạy, đang nhảy, và các trạng thái khác.

Nên vẽ tính chất của vải như thế nào: tức là, nếu bạn muốn miêu tả loại vải len thì vẽ những nếp gấp từ đó, và nếu là lụa, hoặc vải mịn hoặc thô, hoặc vải gai hoặc nhiễu đen, làm biến đổi từng nếp gấp và không miêu tả những bộ áo dài, như nhiều người thường làm, từ những người mẫu che phủ bằng giấy hoặc da thuộc mỏng thì sẽ rầt dễ đánh lừa bạn.

Mọi vật thể tự tính chất có xu hướng duy trì thế yên nghỉ. Loại vải có mật độ và độ dầy bằng nhau có xu hướng nằm phẳng; vì thế khi bạn gấp nó lại hoặc xếp nếp để bắt buộc nó không giữ độ phẳng, hãy chú ý hiệu quả của sự kiềm chế ở phần kiên cố nhất; và phần xa nhất ra với sự kiềm chế thì rơi lại trạng thái tự nhiên nhất; tức là trải loang ra một cách tự do.     

Bạn không nên để cho y phục bị quá nhiều nếp gấp lộn xộn, mà nên đưa vào chỉ những nếp gấp tạo ra bởi bàn tay hoặc cánh tay; phần còn lại bạn có thể để cho buông xuống đơn thuần mà bản tính làm nó trôi chảy; và đừng cho những hình thể khoả thân bị vắt ngang bởi quá nhiều đường nét hay những nếp gãy khúc.

Những nhân vật mặc áo choàng không nên cho thấy hình thể quá nhiều tới nỗi cái áo khoác trông như thể sát liền da thịt. Vì chắc chắn bạn không muốn chiếc áo khoác sát với thịt bởi vì bạn phải nhận thức rằng giữa áo choàng và thịt là những bộ y phục khác ngăn những hình dạng của tứ chi không hiển hiện được và xuất hiện qua cái áo choàng. Và những chi thể mà bạn phô ra thì hãy làm nó dày chắc để nó dường như là có những loại trang phục khác dưới lớp áo choàng. Chi thể của một tiên nữ hoặc một thiên sứ nên cho thấy trong trạng thái hầu như nguyên  hình, vì những chi thể này được miêu tả khoác trang phục nhẹ, thướt tha và ép sát vào chi thể của những nhân vật khi gió đang thổi.  

(i)   Thực vật học

Những trang dưới đây bao gồm một tuyển chọn từ bút kí của Leonardo về thảo mộc. Những bút kí khác liên hệ đến phong cảnh, chẳng hạn như những nghiên cứu về sự hình thành nham thạch, những vận động của nước và mây, được nêu ra trong Chương II. Những bút kí về khí quyển, ánh sáng và màu sắc trong phong cảnh được nêu ra trong Chương IV.

Nhiều bản vẽ về cây cối và hoa thảo bản xứ của nước Ý có thể tìm thấy trong thủ cảo của ông. Ông quan tâm đến tầm ảnh hưởng của ánh sáng mặt trời và nước đối với việc tăng trưởng của chúng. Ông theo dõi quá trình chín muồi của một quả bầu. Ông quan sát hấp lực của địa cầu đối với những thực vật nhất định (hướng địa tính/geotropism) và tập tính của những thực vật khác quay hướng tới mặt trời (hướng nhật tính/heliotropism). Ông khảo sát nhựa các loại cây và và phát hiện rằng tuổi của chúng tương ứng với số vòng trong thân cây cắt ngang. Sự quan sát của ông về trật tự theo đó lá cây chiếm những vị trí khác nhau trên thân cây hoặc trục là bước đầu tiên để thiết lập những quy tắc về sự sắp xếp lá (phyllotaxis) và việc này đã được phát triển mấy thế kỉ sau đó.  

Người không có tính đại đồng (universal) thì không yêu quý bình đẳng mọi thứ bao gồm trong Hội hoạ. Chẳng hạn có người không quan tâm đến phong cảnh và yêu quý chúng thì chỉ xem xét một đề tài qua loa và đơn giản. Vì thế, Botticelli của chúng ta nói rằng những học tập như thế là vô ích, bởi chỉ việc ném miếng bọt bể tẩm màu sắc khác nhau lên một bức tường thì ở khoảng vấy màu sẽ hình thành một bức phong cảnh thú vị có thể nhận ra rồi. Tôi thừa nhận hoàn toàn đúng là trong một mảng vấy màu đó, người ta có thể dò tìm ra những sáng chế khác nhau nếu người ta tìm kiếm chúng, giống như đầu người, những con vật khác nhau, những trận chiến, nham thạch, biển, mây, cây cối, và những thứ tương tự, hệt như khi lắng nghe những tiếng chuông chùm, ta gần như nghe được bất kể những gì ta chọn. Nhưng mặc dù những mảng vấy màu đó có thể gợi lên với bạn những bố cục, nhưng chúng không dạy cho bạn biết cách nào để hoàn tất bất kì chi tiết nào.

Và loại hoạ sĩ này chỉ có thể vẽ những bức phong cảnh rất tồi!

Miêu tả bốn mùa trong năm hoặc về những sự vật liên quan

Vào mùa thu, bạn sẽ vẽ những sự vật tuỳ theo tiến triển của mùa, khởi đầu lá cây bắt đầu héo tàn trên những cành già cỗi nhất, ít hoặc nhiều, phụ thuộc vào cây được thể hiện đang sinh trưởng trên đất cằn hay phì nhiêu, và ngay cả những loại cây nhạt màu và có sắc đỏ hơn thì sinh ra quả trước tiên.     

Không nên, như nhiều người, vẽ tất cả những loại cây, cho dù chúng có cự li đều nhau, có cùng loại màu lục. Nói về những cánh đồng, thảo mộc, những loại đất và đá khác nhau, và thân cây, chúng đều luôn dị biệt. Bởi thiên nhiên thì biến thiên vô hạn, không chỉ về những chủng loại mà ngay cả trong cùng thứ cây có thể thấy màu sắc khác nhau và trên nhánh có lá đẹp và lớn hơn những cành khác. Thiên nhiên hết sức thú vị và phong phú theo những biến thiên, trong số những cây cùng loại sẽ không tìm thấy một cây gần như tương tự với cây khác, và không chỉ cây cối như một toàn thể, mà các cành, lá và quả của chúng, cũng không thể tìm thấy cây này giống hệt như cây kia.

Vì thế, hãy quan sát điều này và biến hoá chúng hết sức nếu có thể.

Ở những đầu mút cành cây, trừ phi chúng trĩu nặng do quả, nó hướng hết sức lên bầu trời. Mặt trên của lá hướng lên bầu trời để nhận dưỡng chất từ sương rơi ban đêm.

Mặt trời ban tinh thể và sự sống cho cây cối và mặt đất nuôi dưỡng chúng bằng độ ẩm.

Những cành thấp hơn, sau khi chúng đã hình thành góc tách biệt với thân mẹ, thì luôn cong xuống sao cho không chen chúc với những cành khác sẽ liên tiếp ở phía trên chúng trên cùng một thân và có thể  hấp thu không khí để nuôi chúng dễ dàng hơn.

Mỗi chồi non và mỗi quả được sinh ra bên trên vị trí chen vào (trong nách lá) của lá vốn phục vụ như người mẹ, bằng việc đem nước mưa và độ ẩm của sương rơi ban đêm từ bên trên và bảo vệ chúng khỏi bị quá nhiều sức nóng của ánh mặt trời.

Về việc lá sinh trên cành

Độ dày cành không bao giờ sút giảm trong khoảng giữa lá này và là khác trừ khi bởi độ dày của cái mắt ở trên chiếc lá; và độ dày này lại thiếu hụt trong phần kế tiếp của cành tới khi có cái lá sau.   

Thiên nhiên đã sắp đặt lá cây từ những chồi mới nhú trong nhiều loại cây, chiếc lá thứ sáu bao giờ cũng ở bên trên lá thứ nhất và tiếp tục như thế nếu quy luật này không bị ngăn chặn.

Và việc này giúp cây cối hai công dụng, một là khi cành và quả sinh ra trong năm sau từ mầm (hay mắt) vốn ở bên trên để tiếp xúc với sự gắn bó của lá, thì nước làm ướt cành này có thể hạ xuống để nuôi dưỡng chiếc mầm này, giọt nước đọng lại trong nách lá là nơi mà lá nảy sinh; và công dụng thứ hai là khi những chồi này phát triển trong năm tới thì chồi này sẽ không che chồi khác, vì năm cành cây đâm ra theo năm hướng khác nhau, và cành thứ sáu đâm phía trên cành thứ nhất ở một cự li nào đó.

Tất cả đoá hoa tiếp thụ mặt trời trực tiếp mới kết hạt chứ không phải những đoá hoa khác chỉ tiếp thu ánh phản chiếu của mặt trời. 

Nếu bạn tước đi một vòng từ vỏ của một thân cây, nó sẽ héo tàn từ vòng trở lên và vẫn sống từ vòng trở xuống, còn nếu bạn tạo cái vòng trong tuần trăng xấu, rồi cắt cây từ dưới gốc trong một tuần trăng tốt, thì cái cây có vòng cắt trong tuần trăng tốt sẽ sống sót và phần còn lại sẽ héo tàn.   

Những cành cây luôn bắt đầu ở trên lá.

Khởi đầu của cành cây sẽ luôn có tuyến trung tâm với độ dầy [trục] nhắm tới tuyến trung tâm [trục] của cây.

Nói chung, gần như tất cả những bộ phận thẳng đứng của cây hơi cong cong theo độ lồi hướng tới phương nam; và những cành của chúng dài hơn, dày hơn và nhiều hơn hướng tới phương nam hơn là phương bắc. Và điều này xảy ra vì mặt trời kéo nhựa tới bề mặt của cây vốn gần nhất với nó. Và người ta ghi nhận điều này trừ phi mặt trời bị cây cối khác che chắn.

Tất cả những cành cây ở mỗi tầng phát triển trong độ cao của chúng, kết hợp với nhau, bằng với độ dầy của thân cây.

Tất cả những nhánh sông ở mỗi tầng trong độ dài của chúng có vận động bằng với kích thước của dòng chủ lưu.

Sự sáp nhập cành lên cây

Khởi đầu chi nhánh của cây trên cành chính, giống như khởi đầu của lá trên chồi của cùng cây ấy. Những lá này có bốn cách sinh trưởng và cách này ở bên trên cách kia; cách thứ nhất, và thông thường nhất, chiếc lá thứ sáu luôn bắt nguồn bên trên lá thứ sáu bên dưới; cách thứ nhì, hai phần ba lá ở bên trên là hai phần ba lá bên dưới; cách thứ ba, chiếc lá thứ ba bên trên ở trên chiếc lá thứ ba bên dưới; và thứ tư, cây linh sam được sắp xếp thành những tầng.

Tất cả hạt đều có cuống rốn khi hạt chín muồi. Và tương tự như thế, chúng có tử cung và rau thai, như thấy trong cỏ và mọi loại hạt sinh trưởng trong những vỏ bọc. Nhưng những loại hạt sinh trưởng trong loại vỏ cứng, như hạt dẻ, hạt hồ trăn và những hạt tương tự có cuống rốn dài và điều này phơi bày trong thời sơ sinh của chúng.

   

Cây anh đào (cherry) có đặc tính của cây linh sam (fir) về chi nhánh bố trí thành tầng quanh thân; và những cành của nó mọc thành những bốn, những năm, hoặc những sáu đối ngịch với nhau; và chóp của những chồi cao nhất hình thành một hình kim tự tháp từ trung tâm hướng lên; và cây hồ đào và sồi hình thành một bán cầu từ trung tâm hướng lên.    

Chiếc lá luôn quay mặt chính diện lên bầu trời để cho nó có thể tiếp nhận toàn diện bề mặt khi sương rơi nhẹ từ khí quyển; những chiếc lá này được phân bố trên cây cối sao cho lá này phủ lên lá khác thật ít, nhưng chúng nằm luân phiên cái này trên lá kia như thấy trong dây thường xuân phủ những bức tường. Và sự luân phiên này giúp hai mục đích; một là để lại những khoảng trống sao cho không khí và mặt trời có thể thâm nhập vào giữa chúng, – và mục đích thứ hai là những giọt nước rơi xuống từ lá thứ nhất có thể rơi lên lá thứ tư, hoặc lá thứ sáu trong trường hợp của những loại cây khác.  

Khi miêu tả gió, ngoài việc cho thấy những cành bị uốn cong và lá lật ngược khi gió thổi tới, bạn nên trình bày những đám mây bụi mịn trộn lẫn vào không khí bị xao động.  

Những cây non có lá trong suốt hơn và vỏ cây bóng láng hơn những cây già cỗi; và đặc biệt cây hồ đào có màu nhạt hơn vào tháng Năm so với tháng Chín.

Những vòng mặt cắt ngang của cành cây cho thấy số năm của nó, độ rộng lớn hơn hoặc nhỏ hơn của những vòng này cho thấy năm nào ẩm hơn và khô hơn. Chúng cũng cho thấy hướng cành cây xoay về, vì phần quay tới hướng bắc dầy hơn phần quay tới hướng nam vì thế trung tâm của thân thì gần với cái vỏ xoay về hướng nam hơn là xoay về hướng bắc.

Mặc dù điều này không quan trọng trong hội hoạ, tuy nhiên, tôi muốn miêu tả nó, ngõ hầu bỏ sót thật ít những gì tôi biết về cây cối.