Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 7 tháng 8, 2025

Người viết nào cũng có người đọc vô hình

 Hồ Anh Thái


Nhà văn viết cho ai? Hoặc nói cách khác, ai đọc sách của nhà văn?

Chắc hẳn không phải là một nhà văn khác.

Trong môi trường văn chương xứ ta, cách nghĩ của nhiều nhà văn cũng giống như nhà sản xuất: một khi đang nỗ lực tính toán việc bán sản phẩm của mình, ít nhà sản xuất nào lại chịu tiêu thụ sản phẩm cùng loại của nhà sản xuất khác. Điều đó không ở trong chiến lược tiêu thụ hàng hóa, không phù hợp với nguyên tắc của nhà sản xuất còn đang chật vật tìm kiếm thị trường. Những mặt hàng cùng loại thì phải đẩy vào một cuộc cạnh tranh, có thể không khốc liệt như thương trường đích thực, nhưng cũng đủ vị đắng cay mặn chát của cuộc đời.

Nói như vậy đủ hiểu nhà văn không hề chăm đọc sách. Đừng có nghe lời mấy ông bà đoạt giải Nobel với Booker tuyên truyền rằng không đọc thì không thể viết cho hay được. Đấy là lý sự của người phong lưu giàu sang, một khi đã có đủ tiền bạc và danh tiếng thì họ hay đặt ra những quy phạm phép tắc để gây khó cho đám nghèo. Những người phong lưu ấy không tin vào năng khiếu bẩm sinh – đám nhà nghèo kia có một mẩu năng khiếu thôi mà mài ra cả đời. Có một mẩu năng khiếu ghép vần là thành nhà thơ, hoặc không có năng khiếu ghép vần thì cứ chặt khúc những câu văn xuôi ra mà cho xuống dòng, thế là tự coi mình làm ra thơ. Có một mẩu năng khiếu viết cho trôi chảy, kể một câu chuyện có đầu có đuôi, thế là thành nhà văn. Văn thơ ấy thì đúng là họ không đọc.

Nhưng các nhà tinh hoa vẫn bảo người viết cần phải đọc để biết thế gian đã có nhiều lối mòn của người đi trước, anh biết thì anh sẽ tránh lối mòn đó để phải tự mở con đường mới của mình mà đi.

Lỗ Tấn nói: thoạt đầu thế gian làm gì đã có đường, người ta đi mãi mà thành đường thôi.

Nhà văn không đọc và không tìm tòi thì nói: thoạt đầu thế gian làm gì đã có đường, người ta ép mía mà thành đường thôi.

Tóm lại là, với họ, chẳng việc gì phải… đọc. Ta là một, là riêng, là một bản gốc không lặp lại bao giờ, không bao giờ có phiên bản. Nhà sản xuất chỉ lo bán hàng, nhà sản xuất rất kiềm chế tiêu thụ sản phẩm của nhà sản xuất khác. Người đời phải đọc ta, chứ ta không đọc người đời.

Cũng có tâm lý sợ đọc, nhưng chuyển hóa thành tuyên ngôn tinh tướng: đọc cho lắm rồi sẽ viết giống như người khác. Họ ngụy biện: như cái dấu vân tay ấy, từ khi ta sinh ra nó đương nhiên là duy nhất, cái dấu vân tay có cần học ai đâu mà xác suất cả triệu triệu người mới có một.

Quả thật vẫn có thiên tài không đọc ai mà vẫn một mình một cõi, nhưng đấy là thiên tài, mà có nhiều thế kỷ vắng bóng thiên tài.

Còn ở trường hợp ta đang nói, nhà văn rơi vào tình trạng nếu đọc thì sẽ sợ bị ngợp, trước những tầm cỡ lớn cao. Ngợp đến mức phải bỏ viết. Họ tự thú nhận mình là cái cây non mong manh, sợ giãi nắng dầm sương nhiều mà thành cớm nắng. Như vậy họ tự thú chưa đủ công lực để mà ra gió không sợ cảm gió.

Nhưng họ không nhìn ra một sự thật khác: đọc cái lớn lao, đọc cái sinh động đa dạng, đọc cái mộc mạc chân thành… trong khi đọc, người ta nhận được hiệu ứng, nhận được sự kích động, sự thúc mầm, khiến hạt giống ý tưởng bên trong họ bật nảy mầm vào lúc bất ngờ nhất. Nhà văn Tô Hoài vốn đọc rất tốn chữ, đọc từ tên báo ở trang đầu cho đến giá tiền tờ báo ở trang cuối – “đọc phải cái dở cũng là cách để học”.

Có nhà văn hư cấu lại bảo: tôi không đọc sáng tác của đồng nghiệp, tôi chỉ đọc sách công cụ.

À thì nhu cầu đọc của mỗi người cũng khác. Cái gọi là sách công cụ ấy cung cấp cho người ta tư liệu lịch sử, kiến thức các ngành khoa học, kỹ năng sống… nó thực dụng cho nhà văn chuyển hóa vào tác phẩm của họ. Vậy, đấy chỉ là sự khai thác và ứng dụng để sản xuất. Tuyên bố mình chỉ đọc sách công cụ để thâm tâm tự thấy là mình sang, mình đọc khoa học chứ không đọc những thứ “nhảm nhí” bịa đặt hư cấu. Nếu nghĩ vậy thì đáng tiếc, vì đọc sách hư cấu cho người ta cảm xúc, được sung sướng với ngôn ngữ sáng tạo, được sống nhiều cuộc đời cùng lúc – như lời của một chính khách Mỹ mê đọc tiểu thuyết.

Nhưng đấy là chuyện xa xôi, còn ở đây, nhà văn đừng mong sách của mình sẽ bán được cho nhà văn khác.

Cách nói khác: nhà văn không đọc sách.

***

Vậy thì ai là người đọc sách của nhà văn?

Chắc chắn chính nhà văn cũng không tiêu thụ sản phẩm của mình đâu.

Họ cày trên luống cày giấy trắng, trên màn hình máy tính, thêm câu bớt chữ, điều nhân vật này ra, rút nhân vật kia vào hậu trường… vừa là nhà tổ chức quản lý vừa là lao công dọn dẹp hiện trường, vừa là cô bảo mẫu nuôi lớn một cuốn sách vừa là nhà tư vấn tâm lý và khơi gợi tâm tư cảm xúc cho các nhân vật. Sơ sơ bằng ấy việc thì thấy nhà văn phải gánh gồng cùng lúc rất nhiều trọng trách và nghĩa vụ.

Sơ sơ bằng ấy việc để thấy thực hiện được rồi, khi xong một cuốn sách, là nhà văn như thoát ra khỏi một cơn mê, có cả cảm khoái lẫn ác mộng, thoát ra được là thoát cái nợ đời.

Không thoát hẳn được. Xong rồi, họ phải đọc đi đọc lại nhiều lần bản thảo ấy, sửa lại từng chữ, sắp xếp lại trật tự cấu trúc, thay đổi nhân vật… cứ đay đi đay lại mãi như thế, đến mức đọc lại tác phẩm của mình thì không còn thấy khoái cảm hồn nhiên của một độc giả nữa.

Chỉ thiểu số nhà văn tự sướng mới có thể mê đắm với sách của chính mình, mới có thể đọc thuộc lòng vanh vách từng câu văn mà thôi.

Vậy nếu được soạn thảo luật đọc sách, nhà văn có thể xin đưa vào một điều khoản: nhà văn được miễn đọc sách của chính mình.

***

Đến đây vẫn cứ phải kiên trì câu hỏi: nhà văn viết cho ai?

Có nhiều nhà văn khi ra sách mới, phải mua thêm vài trăm bản để biếu tặng. Đã có nhà văn tổng kết: viết báo thì được tiền, viết văn thì mất tiền.

Viết báo thì có nhuận bút, nhuận bút tốt hẳn hoi nếu in ở những tờ báo bán được nhiều. Bài in báo rồi, không mấy ai mua tờ báo đem đi tặng người thân.

Viết văn cũng có nhuận bút, và rất ít nhà văn có sách bán được, cho nên nhuận bút mà dành mua một vài trăm bản sách đem tặng thì đúng là sạt nghiệp.

Nhưng nhà văn vốn quảng giao, giới bạn bè đông, phải chia sẻ được niềm vui ra sách đến bằng ấy con người. Sách tặng đồng nghiệp. Sách tặng bạn bè của vợ hoặc chồng. Sách tặng thầy cô của con. Sách tặng bác sĩ gia đình. Sách tặng người cùng thành phố và gửi đến bạn bè nơi xa… Hai trăm bản không phải là nhiều.

Nhà văn kể, tặng sách cho bác sĩ thường xuyên chữa răng cho mình, coi là một cử chỉ xã giao và tỏ lòng biết ơn. Gọi là quà cáp cây nhà lá vườn. Mấy tháng sau quay lại phòng khám, thấy quyển sách đặt trong giá để báo dành cho bệnh nhân ngồi chờ. Quyển sách vẫn còn nhiều trang chưa rọc. Thế là biết chưa ai đọc quyển sách ấy, kể cả bác sĩ là người được mình tặng sách. Một tiên đề không cần phải chứng minh: Sách tặng là sách không ai đọc. Nói cách khác: Người ta không đọc sách được tặng. Phải tự đi tìm kiếm, phải tự tay mua, người ta mới đọc.

Có người bảo: Tại vì ông tặng sách không có chọn lọc, cần phải tặng đúng đối tượng.

Biết ai là đối tượng bây giờ?

Chẳng nhẽ phải ra phố sách, cứ gặp người lảng vảng ở đó thì kết luận rằng người mê sách đây rồi, tặng cho người ta là đúng đối tượng.

Nhưng cũng chẳng đúng đâu. Người khách ấy chỉ đọc sách công cụ hoặc sách kỹ năng, quẳng gánh lo đi mà vui sống. Mà sách của nhà văn rất có thể lại chất thêm lên người ta cả đống gánh lo.

Đời sống nhiều lựa chọn, người ta có thể chọn những thứ khác mà không chọn sách, không nên than thở về điều đó. Nhưng nếu tin rằng “đọc” là một cách “học” thì cái kết luận rằng người Việt hiếu học chỉ là ước mong, không phải là hiện thực.

Tôi từng viết: nhà văn đích thực là người đứng khuất đằng sau trang sách. Khi nhà văn từ bỏ chỗ đó, nhà văn bước ra khỏi cuốn sách, tiếp xúc và giao lưu với người đọc, đấy là lúc gây ra sự thất vọng cho cả đôi bên. Cả nhà văn lẫn người đọc ông ta.

Nhà văn nên vô hình. Người đọc cũng nên vô hình. Khi ngồi viết, nhà văn hình dung đang viết cho người đọc ấy, người đang ở nơi nào đó, không rõ nơi chốn không gian thời tiết, không rõ hình hài. Người đọc ấy đang khóc đang cười cùng với mình, người đọc ấy có lúc phản biện, và sự phản biện ấy được nhà văn ghi nhận ngay cả khi đang viết tác phẩm của mình. Tâm hồn họ đồng điệu xuyên qua không gian và thời gian. Đây là ta đang nói về người đọc lý tưởng, không liên quan gì đến người đọc kiểm duyệt. Đối tượng ấy thì có khi phải xóa mờ đi coi như không hiện diện trên đời. Nhà văn đang ở vị trí thấu suốt, như một đấng trên cao, nhìn thấy ai đang yêu ai, đang lừa dối ai, ai sắp ra đời và ai sắp giã từ đời… Ở vị trí ấy, người viết là đấng toàn tri toàn giác, tự do sáng tạo và vượt qua mọi quy tắc quy phạm.

Nói cho gọn thì nhà văn không viết cho một người đọc cụ thể nào mà mình biết. Người đọc của ông ta không ở cùng không gian và trục thời gian. Một người đọc vô hình, ở nơi xa họ đang rung động xúc cảm, đang cay đắng phẫn nộ, đang êm dịu bình yên với từng trang sách của ông ta. Có thể một ngày nào đó họ sẽ gọi một cú điện thoại, viết một bức thư điện tử, hoặc gửi thư qua bưu điện, có thể nhắn qua một người quen nào đó. Nhiều năm sau, người đọc ấy vẫn lưu giữ cuốn sách mà mình thích trong đầu và trên giá sách nhà mình.

Như vậy để thấy nhà văn không hề tỏ ra thần bí hóa công việc sáng tạo, cũng không hề thần bí hóa đối tượng đọc văn mình. Nhà văn nào cũng cần có người đọc, ai tuyên bố viết không cần người đọc thì chỉ là một cách nói khác về nhu cầu thiết yếu trong tiềm thức. Một nhà văn chỉ thích trò chuyện với người đọc không hiện hữu không phải vì khắc kỷ hoặc ghét đời ghét người. Chỉ đơn giản là sự đối thoại và chia sẻ trong âm thầm, trong thần giao cách cảm, đem lại một khoái cảm nguyên sơ và căn cốt cho chính người sáng tạo.

Cái người đọc vô hình ấy có khả năng thấu cảm vô biên mà người hiện hữu không thể có được.

*

*    *

Thế thì nhà phê bình có phải là người đọc hiếm hoi của nhà văn không?

Câu hỏi khác đi: nhà văn có viết cho nhà phê bình không?

Nếu chủ trương viết cho nhà phê bình là nhà văn đang tự thu hẹp đối tượng đến mức tối thiểu. Nhà phê bình đích thực được định nghĩa là người song hành với văn chương, văn chương vì thế không phát triển bản năng, tự phát. Nhà phê bình đích thực giúp cho văn chương tự ý thức, đồng cảm với văn chương nhưng không thần bí hóa nó.

Hiếm có nhà văn đích thực. Cũng vậy, nhà phê bình đích thực còn khó tìm hơn. Nhà phê bình đích thực không chỉ là nhà khoa học mà phải là nhà khoa học có tâm hồn nghệ sĩ. Một người đọc lý tưởng mà vô hình, dù không phải là nhà phê bình chuyên nghiệp, vẫn là một nhà phê bình đúng nghĩa nhất.

Không phải nhà phê bình nào cũng đọc cho hết một cuốn sách. Và cũng vậy, nhà văn ngay khi đang ngẫm ngợi trên tác phẩm của mình cũng có thể đã có những ý kiến tự phản biện, đấy là nhà phê bình thiết thực ở ngay trong chính nhà văn rồi. Nhà văn càng có tư tưởng phản biện về nghề thì càng có khả năng tự hoàn thiện hơn ai hết.

Nếu khi viết mà chỉ còn nghĩ đến nhà phê bình tức là nhà văn đã tuyệt vọng lắm. Nhà văn đã đánh mất hoàn toàn niềm tin vào người đọc và chỉ còn lại mỗi một chỗ dựa mà thôi.

Mà chỗ dựa ấy xem ra cũng không hẳn đáng tin cậy.

***

Người đọc vô hình luôn là người lưu giữ sách của nhà văn. Lưu trong ký ức và trên giá sách, lâu lâu họ mang sách ra đọc lại, mỗi tuổi đọc lại có thể thấy một điều khác đi trong ấy.

Nhưng còn ai nữa lưu sách của nhà văn?

Có mấy nhà văn đem sách của mình tặng hết, không giữ lại được bản nào. Lúc cần đến, đành phải tìm đến bạn bè để mượn, thậm chí “xin lại”. Tôi giống như thủ thư một thư viện cộng đồng, cung cấp lại cho các nhà văn thân thiết mà tôi lưu sách. Nhưng tôi cũng nói với họ cái ý, nếu sách của mình mà chính nhà văn còn không lưu giữ, thì không ai lưu giúp họ đâu.

Không gian nhà ai cũng hạn hẹp, sách chồng chất qua nhiều năm tháng, lấn mất không gian sống, ắt có lúc cần loại bớt. Không phải ai cũng coi dựng một cái giá sách bên tường coi như trang trí nội thất, thay cho những bức tranh chép hoặc tranh tân gia. Thế là sách bị đẩy ra hàng đồng nát, gánh đồng nát mang đến hiệu sách cũ. Sự thật là trên mạng bán sách cũ bây giờ tràn đầy sách tác giả ký tặng đồng nghiệp, tặng người thân hoặc tặng hiếu hỉ. Lại còn được giải thích là sách có chữ ký của tác giả thì dễ bán hơn. Cũng phải tùy tác giả nào chứ nhỉ.

Có nhiều người đọc nhìn những cuốn sách bị bán đồng nát mà thấy cám cảnh. Có nhiều nhà văn thấy bức xúc. Sao người ta không làm được một cử chỉ có văn hóa là trước khi tống sách ra đường thì nên xé bỏ cái trang có chữ ký tặng đi?

Nhưng không hẳn là chính người được tặng đã thải sách. Họ có thể đã qua đời, hoặc chưa, nhưng vợ chồng và con cháu họ mới là người thải bỏ. Người còn chẳng giữ được, giữ sách đâu còn nghĩa lý gì. Và cũng chẳng nghĩa lý gì cái tên ông cha mình được ký tặng trong quyển sách lại hiện ra trên mạng, khai báo rằng chúng tôi không cần giữ sách.

Nhưng cũng đúng như lập luận của người thải sách: cái thân còn không giữ được, thì mọi vật là vô thường và hư vô. Buông bỏ đi. Thanh thản đi.

Chắc chỉ còn thư viện là nơi giữ sách cho nhà văn.

Một nhà văn lão thành có ý định tặng toàn bộ tủ sách mấy nghìn cuốn cho thư viện. Bạn bè ông phải can: về lý thuyết, thư viện là nơi có nhiệm vụ thường xuyên cập nhật và bổ sung sách, nhưng mọi tòa nhà đều có không gian cố định. Đất không sinh nở. Mà đất đô thị là đất vàng đất bạc.

Một cái tin trên báo chí là học giả nọ nhà văn kia tặng sách cho thư viện. Thiên hạ nghe tin đầy cảm hứng nhưng đối với thư viện có thể là cái tin kinh hoàng. Họ ở thế phải công khai bày tỏ lòng cảm kích nhưng trong bụng thì bối rối ngập ngừng. Chỗ sách ấy biết chất vào đâu trong cái nhà kho chật hẹp phủ bụi lưu cữu. Số lượng nhân viên có hạn, ai có việc người ấy rồi, đâu có thêm phụ cấp cho người ngồi phân loại chỗ sách hiến tặng. Đâu thể tìm thêm phòng thêm giá sách để lưu giữ chỗ sách từ trên trời rơi xuống đột ngột. Không gian thư viện có khi còn phải dành để tăng thu nhập cho cán bộ nhân viên, nhiều phòng ốc đẹp hoặc căn phòng kho dưới hầm đã biến thành quán cà phê hầm hoặc quán ăn lộ thiên.

Số phận chỗ sách hiến tặng thế nào, chắc nhiều người hình dung được.

Người viết sách không tự lưu lấy sách của mình thì không ai lưu cho họ cả. Nghe có vẻ nghiệt ngã, câu chuyện ấy có vẻ lạ với nhiều người, nhưng dù thế nào vẫn là điều có thật.

Người viết sách không mong chờ những điều quá xa xôi hư ảo. Người đọc ông ta mãi mãi là người đọc vô hình nhưng không hề là ảo giác. Họ chính là động lực là yêu cầu là nguồn khích lệ nhà văn ngay trong những dòng còn dang dở, khi tác phẩm còn đang hoài thai chuyển động dần thành hình hài. Với người đọc ấy, người viết không phải ngờ vực như trước cái bắt tay trực diện khen thốc vào mặt. Như những bài bình luận xã giao. Người đọc vô hình tinh tế hơn, một lời khen có thể ẩn sâu giữa những dòng chữ họ đọc, cũng có khi chỉ là sự trân trọng ở lại cùng với quyển sách mà họ lưu giữ.

Nhà văn viết cho người đó và chỉ cần người đó là độc giả. Thế cũng đã đủ cho mọi nỗ lực và sự say mê sáng tạo. Và tất nhiên, với người đọc vô hình ấy, nhà văn mà họ yêu thích cũng là nhà văn vô hình.

Không phải là cái ông nhà văn mà ai cũng thấy đang tuyên ngôn trên diễn đàn kia.