Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2025

Bút kí của Leonardo da Vinci (2)

 Hà Vũ Trọng dịch

Nguyên văn: The Notebooks of Leonardo da Vinci do Irma A. Richter biên tuyển, Ấn quán Đại học Oxford, 1991.

CHƯƠNG  I

KHOA HỌC CHÂN CHÍNH

Dự kiến của Leonardo về khoa học báo trước những phương pháp phê phán và kiến thiết của thời hiện đại. Ông xúc tiến từng bước. (1) Kinh nghiệm về thế giới quanh ta đạt được qua giác quan được xem như điểm xuất phát. (2) Lí tính và suy tưởng, tuy có liên kết với các giác quan, nhưng đứng trên và ở ngoài chúng, rút ra những quy luật vĩnh cửu và phổ biến từ những kinh nghiệm nhất thời và cá biệt. (3) Những quy luật phổ biến này phải được chứng minh bằng chuỗi luận lí giống như những mệnh đề toán học, và cuối cùng (4) chúng phải được trắc nghiệm và chứng thực bằng thực nghiệm, và rồi ứng dụng vào việc sản sinh ra những công trình tiện ích hoặc tác phẩm nghệ thuật căn cứ theo dự án. Chính vì mục đích của Leonardo nhờ có được tri thức để ông có thể đạt được năng lực và sản sinh ra những tác phẩm. Như vậy chân lí có thể được chứng thực. Ông đối lập với những hệ thống triết học thành lập chỉ bằng ngôn từ.

 

I. KINH NGHIỆM

Độc giả, hãy suy xét! Chúng ta có thể tin cậy điều gì vào người xưa, họ đã cố gắng định nghĩa Linh hồn và Sinh mệnh là gì—vốn vượt ngoài chứng cớ—trong khi đó, bất kì điều gì có thể biết rõ và chứng minh bằng kinh nghiệm qua nhiều thế kỉ lại không được biết tới hoặc bị hiểu sai.

Nhiều người sẽ cho rằng họ có lí do trách cứ tôi, viện cớ những chứng cứ của tôi trái với quyền uy của một số nhân vật vô cùng đáng kính bởi những phán đoán thiếu kinh nghiệm của họ, mà không suy xét rằng những tác phẩm của tôi phát xuất từ kinh nghiệm giản dị, hiển nhiên và vốn là nữ chúa chân thật.

Những quy luật này giúp cho bạn biết cái đúng khỏi cái sai—và điều này khuyến khích chúng ta chỉ tìm kiếm những sự việc trong khả năng và với tính trung dung thích hợp—và chúng cấm chỉ chúng ta dùng cái áo khoác ngu muội, vốn chỉ mang lại cho bạn sự vô kết quả và thất vọng buông mình cho nỗi buồn khổ.

Tôi hoàn hoàn ý thức rằng thực tế tôi không phải là văn sĩ nên có thể là nguyên nhân cho một số người mạo muội lấy lí do trách cứ tôi, viện cớ rằng tôi là người vô học. Thật xuẩn ngốc! Họ không biết rằng tôi có thể trả đũa như Marius nói với những nhà quý tộc La-mã: “Những ai tô điểm bản thân mình bằng thành quả lao động của kẻ khác sẽ không cho phép tôi lấy làm thành quả của mình”.[1] Họ sẽ nói rằng, bởi vì tôi không có kiến thức sách vở, nên tôi không thể hiện được chính xác những gì tôi muốn trình bày—nhưng họ không biết rằng những chủ đề của tôi đòi hỏi sự khai giải bằng kinh nghiệm thay vì là ngôn từ của kẻ khác. Kinh nghiệm là chúa vương của bất cứ người viết văn nào; và cũng là nữ chúa mà tôi sẽ trích dẫn trong mọi trường hợp.

Tuy tôi không có sức trích dẫn những tác giả như họ, nhưng tôi sẽ trông cậy vào điều lớn lao hơn và giá trị hơn—kinh nghiệm, là nữ chúa chỉ đạo cho những của họ. Họ dương dương tự đắc và tô điểm không phải bằng thành quả lao động của họ, mà của người khác, mà họ còn không cho phép tôi dùng những lao động của chính mình. Và nếu họ khinh miệt tôi là nhà phát minh, họ đáng trách biết bao nhiêu vì họ không phải là những nhà phát minh mà chỉ là những kẻ thổi kèn và trích tụng tác phẩm người khác!

Những nhà phát minh và những nhà thông giải giữa Tự nhiên và Con người, nếu so sánh với những kẻ thổi kèn và trích tụng tác phẩm của người khác, thì chỉ đáng xem như một vật ở trước gương so với hình ảnh của nó thấy trong gương, một cái bản thân là thật, cái kia là hư không; những người mắc nợ với tự nhiên thì nhỏ nhoi, bởi họ chỉ ngẫu nhiên được phú cho hình hài con người, và chỉ với điều này, tôi có thể xếp loại họ vào những bầy thú.

Xét rằng tôi không thể tìm ra bất cứ chủ đề nào ích lợi lớn hoặc thú vị, bởi những vị đi trước đã đem theo với họ mọi chủ đề ích lợi và thiết yếu, do sự nghèo nàn của mình, tôi sẽ làm như kẻ cuối cùng tới phiên chợ, vả lại, không thể tự chu cấp, nên chọn lấy tất cả mọi thứ mà người khác đã nhìn thấy và không lấy đi hoặc từ chối vì xem là ít giá trị; tôi sẽ chất lên cá túi đeo lưng khiêm tốn của mình những hàng hoá bị khinh rẻ và vứt bỏ, cùng những đồ vật bỏ lại của nhiều khách hàng; và tôi sẽ đi khắp nơi phân phát, không ở những đô thị lớn, mà ở những thôn xóm nghèo, và tôi sẽ nhận lấy sự đền đáp theo vật mà tôi cho xứng đáng là bao nhiêu

Những nhà tóm lược[2] (những tác phẩm) làm tổn hại tri thức và tình yêu, vì tình yêu với bất kì điều gì đều là con cái của tri thức, tình yêu càng nồng nhiệt tỉ lệ với tri thức thì càng chắc chắn bấy nhiêu. Và tính chắc chắn này phát sinh từ một tri thức trọn vẹn về mọi bộ phận vốn khi thống nhất sẽ hợp thành trọn vẹn cái vật đáng được yêu.

Vậy, ích lợi gì đối với kẻ rút ngắn bộ phận của sự vật mà y tự cho là để đưa ra thông tin đầy đủ, cho nên đã loại bỏ phần lớn những thứ vốn kết hợp thành toàn thể. Cũng giống như tính thiếu kiên nhẫn, bà mẹ của rồ dại, nó ca tụng sự vắn tắt, như thể những kẻ ấy không sống lâu đủ để mà thủ đắc tri thức trọn vẹn về một bộ môn, chẳng hạn như nhân thể. Đã thế, họ muốn lĩnh ngộ tinh thần của Thượng đế vốn bao bọc toàn vũ trụ, họ cân đo và băm nhỏ ra thành những bộ phận vô hạn, như thể họ mổ xẻ nó. Ôi, sự ngu xuẩn của con người! Các người không nhận thấy đã phí cả đời với bản thân mình, mà còn chưa nhận ra điều mà các người chủ yếu sở hữu, đó chính là sự xuẩn ngốc? Cũng như vậy với đám nguỵ biện, các người tự huyễn gạt mình và người khác, khinh miệt những khoa học có cơ sở là toán học bao hàm thông tin chân thực về những bộ môn mà họ xử lí. Và rồi các người hân hoan bận rộn với những kì tích và viết lách, đưa thông tin về những điều mà trí óc con người không có khả năng, và không thể chứng minh bằng bất kì ví dụ nào từ tự nhiên. Và các người tưởng rằng đã tạo ra những kì tích trong khi các người lại làm hỏng công trình của một số đầu óc chân phương nào đó và không nhận thức rằng các người đang rơi vào cùng những sai lầm giống như kẻ tước bỏ khỏi cây những trang điểm cành nhánh trĩu lá lẫn với hoa quả thơm để mà chứng minh sự tiện ích của cây cho việc làm ra những tấm ván. Như Justinus[3] từng làm, ông đã rút ngắn sử kí của Trogus Pompeius, người đã viết bằng một văn phong hoa lệ tất cả hành vi vĩ đại của tổ tiên ông, đầy những mô tả đáng khâm phục và đẹp như tranh; với việc biên soạn một tác phẩm khô khốc như thế chỉ thích hợp cho những đầu óc thiếu kiên nhẫn vì họ nghĩ rằng lãng phí thời gian, khi mà họ được bổ ích nếu dành nó để nghiên cứu những tác phẩm về tự nhiên và hành vi của con người.

Tất cả tri thức bắt nguồn từ những tri giác của chúng ta.

Con mắt vốn được gọi là cửa sổ linh hồn, là khí quan chính nhờ đó việc nhận thức có thể được đầy đủ nhất và thưởng ngoạn dồi dào trước những tác phẩm vô hạn của tự nhiên.

Kinh nghiệm quyết không sai lầm; chỉ có phán đoán của bạn sai lầm khi tự hứa hẹn những kết quả không được tạo bằng những thực nghiệm. Bởi vì, khi đưa ra một khởi điểm, những gì tiếp theo nó phải là những hệ quả thực sự nếu không có chướng ngại. Còn nếu có chướng ngại, thì cái kết quả đáng ra phải tuân theo ngay từ cái khởi đầu nói trên sẽ dự phần vào với chướng ngại này trong cấp độ hơn kém, cân xứng với chướng ngại này và ít nhiều mạnh mẽ hơn khởi điểm đã nói trên. Kinh nghiệm không sai lầm, chỉ có phán đoán của bạn sai lầm khi đặt kì vọng vào nó những cái không có trong năng lực của nó. Người ta sai khi than phiền về Kinh nghiệm và với những trách móc gay gắt và buộc tội nó dẫn họ đi lạc. Hãy để Kinh nghiệm một mình, đúng hơn, hãy hướng những than phiền chống lại sự ngu muội của chính mình, nó khiến bạn bị cuốn đi bởi những dục vọng vô ích và ngu ngốc khi kì vọng từ kinh nghiệm những cái vốn không nằm trong năng lực của nó; và cho rằng nó là sai lầm. Người ta sai khi than phiền về Kinh nghiệm ngây thơ, và buộc tội nó thường lừa gạt và chứng minh dối trá.

Đối với tôi, gần như mọi ngành khoa học đều vô ích và đầy dẫy sai lầm nếu không được sản sinh từ Kinh nghiệm, người mẹ của mọi xác thực, và không được thử thách bằng Kinh nghiệm; nghĩa là, ngay từ đầu, giữa, hoặc kết, không được thông qua năm giác quan. Vì nếu chúng ta hoài nghi về tính xác thực của sự việc thông qua các giác quan, chúng ta còn chất vấn bao nhiêu thứ nữa dựa vào những cái mà các giác quan này nổi loạn, chẳng hạn như bản tính của Thượng Đế, linh hồn và những thứ tương tự, về những thứ đó, người ta không ngớt tranh luận và dị nghị. Và thật sự xảy ra rằng nơi đâu thiếu lí tính, nơi đó bị ồn ào chiếm cứ. Điều này chẳng bao giờ xảy ra khi sự việc được chắc chắn. Do đó, ở đâu có tranh cãi, ở đó thiếu khoa học chân chính; bởi chân lí chỉ có một cách kết luận—nơi nào chân lí được biết thì dị nghị bị câm tiếng cho đến muôn đời, còn nếu dị nghị vẫn cứ lại phát khởi, vậy thì những kết luận của chúng ta chắc hẳn thiếu chắc chắn và hoang mang chứ không phải chân lí được tái sinh.

Tất cả những khoa học chân chính là kết quả của Kinh nghiệm vốn đã kinh qua các giác quan, vì vậy làm im miệng lưỡi những kẻ tranh biện. Kinh nghiệm không nuôi dưỡng những nhà điều tra về những huyễn mộng, mà luôn xúc tiến từ những nguyên lí đầu tiên đã được quyết định chính xác, từng bước theo đúng trình tự chân thật đi tới kết luận; như có thể thấy trong những thành tố của toán học... Ở đây không ai cãi lại như 2 lần 3 là nhiều hơn hoặc ít hơn 6 hay không hoặc những góc của một tam giác là ít hơn 2 góc vuông hay không. Ở đây mọi tranh cãi kết thúc bằng sự im lặng vĩnh cửu và những ngành khoa học này có thể được hân thưởng bởi những người tận tuỵ với nó trong hoà bình. Điều này, những loại khoa học huyễn gạt thuần tuý tư biện không thể đạt được.

Hãy cảnh giác với lời dạy của những nhà tư biện này, bởi lí giải của họ không được Kinh nghiệm chứng thực.

II. LÍ TÍNH VÀ NHỮNG QUY LUẬT CỦA TỰ NHIÊN

Những giác quan là thuộc đất; lí tính đứng cách biệt khỏi chúng trong chiêm nghiệm.

Trí tuệ là con gái của kinh nghiệm.[4]

Kinh nghiệm, là nhà thông giải giữa tự nhiên hình thành và loài người, nó dạy rằng những gì mà tự nhiên này hành sự giữa nhân sinh bị ước thúc do tính tất yếu không thể vận hành bằng cách nào khác hơn là bằng lí tính, vốn là bánh lái của nó, và chỉ dẫn nó hành sự.

Đầu tiên, tôi sẽ kiểm tra bằng thực nghiệm trước khi xúc tiến xa hơn, bởi chủ ý của tôi là thăm dò kinh nghiệm trước và sau đó bằng việc lí giải cho thấy tại sao kinh nghiệm ấy buộc phải vận hành theo cách ấy. Và đây là quy tắc đích thực nhờ đó những ai phân tích những hiệu quả của tự nhiên phải xúc tiến: tự nhiên tuy khởi đầu bằng nguyên nhân và kết thúc bằng kinh nghiệm, nhưng chúng ta phải tiến hành ngược dòng, tức là, khởi đầu bằng phương tiện kinh nghiệm khảo sát đến nguyên nhân.

Ôi, tính tất yếu thần kì! Bằng lí tính tối cao, mi ước thúc mọi hiệu quả trở thành kết quả trực tiếp từ nguyên nhân của chúng, và bằng quy luật tối cao và bất khả kháng, mọi hành động tự nhiên phải phục tùng mi bằng tiến trình ngắn nhất khả dĩ.

Tự nhiên không phá vỡ quy luật của Nàng; tự nhiên bị ước thúc bởi tính tất yếu luận lí của quy luật vốn tiềm tàng trong Nàng.

Tính tất yếu là nữ chúa và hướng đạo của tự nhiên.

Tính tất yếu là chủ đề và là nhà phát minh của tự nhiên, là sự ước thúc và quy luật vĩnh cửu của nó.

Tự nhiên đầy những nguyên nhân vô hạn chẳng bao giờ xảy ra trong kinh nghiệm.

Trong tự nhiên, không hiệu quả nào không có nguyên nhân; hiểu được nguyên nhân, bạn không cần tới thực nghiệm.

III. CHỨNG MINH TOÁN HỌC

Phương pháp Leonardo đề cử cho việc đệ trình kết quả khảo sát của ông phù hợp với hình học Euclid.

Việc trình bày phải được thực hiện theo trình tự luận lí. Đầu tiên là phát biểu về định lí, “mệnh đề”; rồi đến “thoái nhượng” hoặc “thỉnh nguyện”, tức là những định đề không yêu cầu hoặc không có được chứng cứ và phải được chấp nhận như thế thôi; sau đó việc kiểm tra chủ đề được xem xét.  

Những ai không phải nhà toán học xin chớ đọc những yếu tố trong tác phẩm của tôi.

Không có sự xác thực khi người ta không thể áp dụng bất kì khoa học có cơ sở toán học nào hoặc bất kì những gì gắn liền với các khoa học có cơ sở toán học.

Bất cứ ai kết án tính xác thực tối cao của toán học thì ăn theo sự hỗn loạn, và chẳng bao giờ có thể làm yên những mâu thuẫn trong khoa học nguỵ biện và dẫn tới một loại rởm đời mãi mãi.

Khoa học là cuộc điều tra bằng tinh thần vốn khởi đầu bằng nguồn gốc tột cùng của một chủ đề, ngoài nó không gì trong tự nhiên có thể tìm thấy để hình thành một phần của đối tượng. Ví dụ, hãy lấy cái số lượng liên tục trong khoa hình học: nếu ta khởi đầu quan sát bề mặt một vật thể, chúng ta thấy rằng nó do những tuyến mà thành, những tuyến biên giới của bề mặt. Nhưng chúng ta không để cho vấn đề ngừng ở đây, vì chúng ta biết rằng bản thân tuyến được quyết định bằng những điểm, và điểm là đơn vị rốt ráo và không có gì nhỏ hơn nữa. Vì vậy, điểm là khởi đầu trước hết của hình học, bất luận trong tự nhiên hoặc trong tâm trí con người, không gì có thể phát sinh điểm... Không có điều tra nào của con người có thể gọi là khoa học chân chính mà không đi qua những trắc nghiệm của toán học; và nếu bạn nói rằng những khoa học khởi đầu và kết thúc trong tâm trí chứa đựng chân lí, điều này không thể nhượng bộ được và bằng mọi lí do phải bị chối bỏ. Trước tiên và trên hết là vì trong những luận thuyết tinh thần, kinh nghiệm không có nhập vào, không có nó thì không gì tự mở phơi với tính chắc chắn.

Quy cách về những gì tôi yêu cầu nên coi là đương nhiên trong những chứng minh của tôi về phép phối cảnh. Tôi yêu cầu, hãy coi là đương nhiên khi mọi tia sáng đi qua không trung đều cùng loại và đi bằng những đường thẳng tuyến từ nguồn sáng chiếu tới những vật thể mà nó dội lại.

Ở đây, bạn phải xúc tiến theo phương pháp; đó là, bạn phải phân biệt giữa những thành phần khác nhau của mệnh đề, để cho không có hoang mang gì và bạn được hiểu rõ.

Hãy lo liệu những ví dụ và những chứng cứ đưa ra trong tác phẩm này được định nghĩa trước khi bạn viện dẫn.

IV. THỰC NGHIỆM

Nhưng trước khi bạn đặt một quy luật lên trường hợp này, hãy trắc nghiệm nó hai hoặc ba lần và xem những trắc nghiệm sản sinh ra cùng hiệu quả hay không.

Việc thực nghiệm này nên được làm nhiều lần sao cho không có sự ngẫu nhiên có thể xảy ra làm trở ngại hoặc làm sai lệch chứng cứ này, vì thực nghiệm có thể sai lầm dù nó có huyễn gạt người điều tra hay không.

Khi bạn kết hợp khoa học về sự vận động của nước, hãy chú ý bao gồm trong mỗi mệnh đề tính ứng dụng và công dụng của nó, để những khoa học này không thành vô dụng.

Khoa học là thủ lĩnh, thực hành là chiến sĩ.

Hỡi những kẻ tư biện về mọi sự, đừng phô trương về việc hiểu sự vật mà tự nhiên thông thường mang lại; nhưng hãy vui mừng nếu các người biết kết quả của những thứ mà các người chế tạo ra.

Những ai yêu việc thực hành mà thiếu khoa học thì giống như người thuỷ thủ đi lên con tàu mà thiếu báh lái hoặc la bàn, và y chẳng thể xác định được mình đang đi đâu.

Cơ học là thiên đường của khoa học về toán, bởi vì bằng phương tiện của nó người ta tới được thành quả của toán học.

V. TÌM KIẾM TRI THỨC CHÂN CHÍNH

THUẬT LUYỆN ĐAN

Leonardo khiển trách những nhà luyện đan (alchemist) khảo sát quá trình của tự nhiên thay vì kiếm tìm vàng. Những nhà hoá học thời kì đầu này hoạt động suốt thời Trung Cổ, họ đã lưu truyền một bộ phận văn học lớn lao, là nhân chứng cho sự cả tin và vô tri của những thời đó. Cho đến thời điểm có những người như Leonardo khởi đầu quan sát Tự nhiên vì mục đích để học những phương thức của nó, vẫn chưa thực sự có tiến bộ nào. Trích dẫn dưới đây những quan điểm khoa học hiện đại pha trộn với những huyễn tưởng thơ mộng thời Trung Cổ—vàng được coi là biểu trưng cho mặt trời, những cơ cấu tự nhiên được gọi là ‘nguyên tố’.

 

Tự nhiên có quan hệ với việc sản sinh ra những vật cơ bản. Tuy nhiên, con người từ những vật cơ bản này lại sản sinh ra vô số những hợp chất; mặc dù con người không có khả năng tạo ra được nguyên tố nào ngoại trừ một đời sống khác như chính y—đó là, con cái của y.

Những nhà luyện đan thời xưa sẽ là những chứng nhân cho tôi, họ chưa bao giờ bằng ngẫu nhiên hoặc bằng thực nghiệm mà thành công trong việc tạo ra một nguyên tố nhỏ nhất mà tự nhiên đã tạo ra; tuy nhiên, những nhà sáng tạo ra những hợp chất đáng được tán dương vô chừng vì sự hữu dụng của những sự vật được phát minh cho con người sử dụng, và thậm chí còn đáng tán dương hơn nếu họ không phải là những nhà phát minh ra những thứ tai hại như độc chất và những thứ khác tương tự để tàn phá đời sống hoặc tinh thần; đó là những thứ mà họ khó được miễn khiển trách. Hơn nữa, bằng nhiều việc nghiên cứu và thực nghiệm, họ tìm cách luyện ra không phải những sản phẩm thấp kém nhất của Tự nhiên nhưng là sản phẩm tuyệt hảo nhất, là vàng, đứa con chân chính của mặt trời, bởi trong hết thảy tạo vật, nó giống với măt trời nhất. Không có tạo vật nào bền vững hơn vàng. Vàng không sợ lửa huỷ diệt, mà lửa vốn có sức mạnh trên mọi tạo vật khác, hoá chúng thành tro, thuỷ tinh, hoặc khói. Và nếu như lòng tham tệ hại dẫn bạn tới những sai lầm ấy, tại sao bạn không đi tới những mỏ vàng do Thiên nhiên sản sinh, và ở đó bạn trở thành môn đệ của Nàng? Tự nhiên sẽ thành tâm chữa căn bệnh điên rồ cho bạn, và cho bạn thấy rằng trong lò luyện của bạn không có thứ gì thuộc vào những thứ mà Nàng dùng để sản sinh ra vàng. Ở đây không có thuỷ ngân, không có loại lưu huỳnh nào, không có lửa cũng không có nhiệt nào khác hơn bằng những thứ của Thiên nhiên ban đời sống cho thế giới chúng ta; và Nàng sẽ cho bạn thấy những mạch vàng [kim thạch] toả khắp lam ngọc, và màu sắc của nó không bị hoả lực biến đổi.

Và hãy kiểm nghiệm kĩ chi nhánh này của vàng và bạn sẽ thấy những cực độ liên tục bành trướng bằng chuyển động chậm, và chuyển hoá thành vàng với bất kì thứ gì nó tiếp xúc; chú ý trong đó bao hàm một cơ quan sống động, đấy là thứ mà năng lực của bạn không thể tạo được.

Trong mọi kiến giải của con người, điều xuẩn ngốc nhất là tin vào thuật chiêu hồn (necromancy), đứa em của thuật luyện đan. Nhưng nó lại dễ lĩnh hội hơn thuật luyện đan bởi nó chẳng bao giờ đẻ ra bất kì thứ gì trừ những thứ giống nó, ấy là, những dối trá; điều này không xảy ra trong thuật luyện đan mà chức năng không thể thi hành bởi chính tự nhiên, vì trong luyện kim không có những khí quan hữu cơ để tác động công việc nên con người phải thực hiện bằng đôi tay mình, với việc lợi dụng nó, con người đã làm ra thuỷ tinh, và những thứ khác... Còn thuật chiêu hồn, ngọn cờ, cái phướn phất theo gió, bảng chỉ đường của đám đông ngu xuẩn, và không ngớt chứng kiến những tác dụng vô hạn của cái kĩ xảo này; và họ trám đầy sách vở, tuyên bố rằng bùa mê và linh hồn có thể hoạt động, nói chuyện mà không cần miệng lưỡi, và có thể nói chuyện mà không cần những khí quan hữu cơ—thiếu nó, không thể nào có tiếng nói—và có thể nhấc những vật cực nặng và hô phong hoán vũ; và những kẻ đó có thể hoá thành mèo, sói và những cầm thú khác, tuy quả là những kẻ khẳng định những điều đó là những người đầu tiên hoá thành cầm thú. Vậy chắc là nếu thuật chiêu hồn này đã tồn tại, như được tin bởi những trí óc nông cạn, thì chẳng còn gì trên trần gian là quan trọng cho lắm như giữa việc hại và lợi với con người; nếu thực là có một kĩ xảo kiểu ấy về một uy lực khuấy động sự thanh tĩnh của không trung và biến nó thành bóng tối, để tạo nên những chớp sáng và gió với tiếng sấm kinh hồn và tia chớp xuyên màn đêm, và với bão tố dữ dội phá đổ những toà nhà cao và làm bật rễ cây rừng; và bằng những cơn bão này để lung lay quân đội, làm tan tác và đánh bại họ, và—quan trọng hơn cả điều này—để tạo ra những cơn bão tàn phá và do đó, tước đoạt mùa màng của người nông dân. Có phương pháp chiến tranh nào gây phương hại cho kẻ thù cũng như sức mạnh tước đoạt những thu hoạch của y? Có trận thuỷ chiến nào sánh được với những gì mà một kẻ khi khai chiến, y có thể ra lệnh cho gió và tạo ra cuồng phong làm chìm bất cứ hạm đội nào? Chắc chắn, kẻ nào chỉ huy được những lực lượng cường bạo như thế sẽ là chúa tể các quốc gia, và không có con người thông minh tài trí nào có khả năng chống trả những lực lượng huỷ diệt của y. Những kho tàng chôn giấu, những châu ngọc nằm dưới lòng đất, tất cả sẽ phơi bày với y. Mặc dù bất khả xâm phạm, không có cái khoá hay thành trì nào hữu dụng để cứu được ai đối với ý chí của một nhà chiêu hồn như thế. Y sẽ tự du hành trên không trung từ Đông sang Tây, và qua mọi thái cực của vũ trụ. Nhưng tại sao tôi lại còn phải bàn rộng thêm nửa về điều này? Có gì mà một nghệ nhân như thế không thể làm được? Hầu như không có, trừ việc tránh khỏi cái chết.

Do đó, chúng ta đã giải thích một phần sự phá phách và công dụng của loại kĩ xảo như thế nếu nó có thật. Và nếu nó có thật, tại sao nó không duy trì với những kẻ rất mong muốn nó, mà lại không hề tôn kính một thần linh nào? Vì tôi biết có vô số kẻ, để thoả mãn thị hiếu của mình, họ có thể huỷ diệt Thượng Đế và toàn vũ trụ. Nếu kĩ xảo này chẳng bao giờ tồn tại, mặc dù quá cần thiết với họ, thì như thế nó chẳng hề tồn tại, và sẽ không tồn tại.

Không thể có thứ gì đơn độc tự thân là nguyên nhân của sự sáng tạo ra nó; và những sự vật nào vốn thuộc tự thân đều là vĩnh hằng.

[1] Lời Marius nói với những công dân ở Sallust, Bellum Iugurthium.

[2] abbreviatori, danh xưng này để chỉ các thư kí làm việc trong phòng hồ sơ của Vatican. Trong thời gian Leonardo ở Rome, ông bị Vatican cản trở việc nghiên cứu về giải phẫu học. Ở đây có lẽ nhắc tới sự ngăn cản của họ.

[3] Iunianus Iustinus, sử gia La-mã vào thế kỉ thứ 2, người biên tuyển bộ thông sử do Pompeius Trogus viết trong thời đại Augustus. Cuốn sách này rất thông dụng trong thời Trung cổ.

 [4] Xem Dante, Thiên đường, ii, 94-96. ‘Kinh nghiệm, suối nguồn duy nhất từ đó các nghệ thuật khơi dòng’.