Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 29 tháng 7, 2025

Sự “phi nhân hóa” của nghệ thuật đương đại

 Dương Thắng

1. Trước hết phải tuyên bố rõ ràng rằng khái niệm “phi nhân hóa” ở đây không mang nghĩa tiêu cực, nó chỉ là một khuynh hướng phát triển của nghệ thuật đương đại, làm cho nó trở nên khác biệt với các trào lưu nghệ thuật đã ra đời trước nó. Nếu các trào lưu nghệ thuật mới không hề dễ hiểu với tất cả mọi người, điều đó có nghĩa là các cơ chế của nó không phải là cơ chế “tự nhiên” vốn có của loài người. Nói đúng hơn là chúng không trùng khít với những cơ chế quen thuộc của con người. Đây không phải là nền nghệ thuật cho con người đại chúng nói chung, nó chỉ dành cho một lớp người rất đặc biệt mà, dù rằng họ không hẳn là “đáng giá” hơn những người khác, nhưng rõ ràng là họ “khác biệt” với những người khác.

2. Trong nghệ thuật cổ điển, thế nào là một “niềm vui thẩm mỹ”? Điều gì xảy ra trong tâm trí của công chúng khi một tác phẩm nghệ thuật, ví dụ một vở kịch, “làm họ hài lòng”? Câu trả lời là rất rõ ràng: một vở kịch làm họ hài lòng khi nó đã thành công trong việc đề cập đến số phận những con người trong vở kịch đó. Những tình yêu, hận thù, nỗi đau, niềm vui của các nhân vật làm rung động trái tim khán giả: họ tham gia vào đó như thể đó là những trường hợp thực tế của cuộc sống. Và họ sẽ nói rằng tác phẩm “thành công” khi nó sản sinh ra một lượng ảo tưởng cần thiết để các nhân vật tưởng tượng ấy gần tương đồng với những con người đang sống. Trong thơ trữ tình, họ sẽ tìm kiếm những tình yêu và nỗi đau của con người đang đập mạnh mẽ trong trái tim của nhà thơ. Trong hội họa, đó là những bức tranh mà họ tìm thấy hình dáng của những người đàn ông và phụ nữ mà, theo một nghĩa nào đó, sẽ thú vị để sống cùng, để thu hút họ. Một bức tranh phong cảnh sẽ dường như là “xinh đẹp” nếu phong cảnh thực tế mà nó đại diện xứng đáng, nhờ sức quyến rũ hoặc tính bi thảm của nó, để họ đi du ngoạn đến đó.

3. Từ cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, đã xuất hiện một thế hệ nghệ sĩ trẻ không còn thấy hứng thú với nghệ thuật cổ điển nữa, thậm chí là còn cảm thấy ghê tởm nó. Đối với những nghệ sĩ trẻ này, công chúng chỉ có thể chọn một trong hai thái độ: hoặc là lôi họ ra bắn, hoặc là cố gắng thay đổi mình đi để có thể hiểu được họ. Trong cuộc cách mạng nghệ thuật này, họ tìm cách thanh lọc một cách tối đa các “yếu tố con người” trong tác phẩm của họ, một yếu tố bấy lâu nay vẫn thống trị trong tất cả các lĩnh vực, từ sản xuất các sản phẩm vật chất đến sản xuất các sản phẩm tinh thần. Kết quả là trong các tác phẩm nghệ thuật mới này, những nội dung liên quan đến con người trở nên “gầy guộc” đến mức không thể nhận ra. Để thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật giờ đây không thể sử dụng các “khả năng tự nhiên” thu nhận từ một cuộc sống bình thường hàng ngày để hiểu nó. Một tác phẩm nghệ thuật giờ đây là một đối tượng đặc biệt mà chỉ những người có một tư chất đặc biệt – “tư chất nhạy cảm nghệ thuật” – mới có thể lĩnh hội được nó. Nghệ thuật giờ đây chỉ dành cho những nghệ sĩ hoặc rộng hơn là cho ai có tâm hồn nghệ sĩ chứ không còn là một thứ nghệ thuật dành cho quảng đại quần chúng nữa. (Trong trường hợp ngược lại, một tác phẩm mà ai cũng hiểu được, ai cũng thấy nó hay thì khó có thể nói rằng tác phẩm đó thuộc về một nền nghệ thuật mới). Đó là lý do vì sao nền nghệ thuật mới này đã chia công chúng thành hai nhóm đối lập nhau: những người hiểu nó và những người không hiểu nó. Nghĩa là những nghệ sĩ và những người không phải là nghệ sĩ. Nghệ thuật mới vì thế là một nền “nghệ thuật vị nghệ thuật” chứ không thể là một nền “nghệ thuật vị nhân sinh” như ông Hải Triều vẫn gân cổ cãi với ông Hoài Thanh.

4. Để hiểu được khái niệm “phi nhân hóa”, một xu hướng ngày càng đậm nét trong nghệ thuật hiện đại, chúng ta hãy thử so sánh những phong cách đặc trưng giữa hai bức tranh vẽ phong cảnh, một theo lối cổ điển thực hành vào nửa cuối thế kỷ 19, ví dụ như vào năm 1860. Bức thứ hai được vẽ cách nó khoảng 100 năm, tức là vào năm 1960 chẳng hạn. Trong bức tranh của năm 1860, các đối tượng chẳng hạn như con người, ngôi nhà, ngọn núi đem tới một cảm giác thân quen của những người bạn cũ, chúng mang dáng vẻ như những cái chúng thường có ở bên ngoài, chúng thuộc về một thực tế sống mà con người vẫn thường trải nghiệm. Dù các đối tượng được thể hiện trong bức tranh là gì, chúng vẫn mang tính “người”, gắn với cảm xúc tự nhiên của con người. Người họa sĩ đã thể hiện rất rõ rằng mình đang “sống” trong cái cuộc sống này và mình đang thể hiện nó ra theo cách này hay cách khác.

Với bức tranh phong cảnh được giả định vẽ vào năm 1960, người họa sĩ đã chọn hướng đi hoàn toàn ngược lại với con đường hướng tói con người đang sống trong thế giới tự nhiên, hướng tới những cảm xúc tự nhiên vốn có nơi con người. Người họa sĩ của năm 1960 sẽ quyết tâm phá vỡ cái vẻ bề ngoài mang phẩm chất “người “ của phong cảnh, làm biến dạng nó, “phi nhân hóa” nó ở mức cao nhất có thể. Nếu anh ta vẫn còn nhận thấy sót lại những “cây cầu” hay những “con tàu” có thể đưa chúng ta trở lại cái thế giới quen thuộc, yên ả của “cảm xúc người” thân thuộc, anh ta sẽ không ngần ngại thiêu trụi hết chúng đi. Kết quả là chúng ta, những người xem bức tranh phong cảnh ấy bị nhốt vào trong một cái vũ trụ lạ lẫm. Phải giao du với các đối tượng mà không thể có cách nào quy chúng về thế giới “người”. Để hiểu được những bức tranh loại này, chúng ta phải tạo ra những cảm xúc chưa từng có trong ta, một thứ thẩm mỹ nghệ thuật hoàn toàn mới mẻ. Nó thuộc về một hệ thống tâm lý hoàn toàn khác, chỉ có thể được xây dựng trong chính nội tâm sâu thẳm của chúng ta chứ không thể cầu viện từ cái thế giới vật chất xung quanh đang tồn tại bên ngoài và đã quá quen thuộc với chúng ta kể từ lúc chào đời đến nay. Người nghệ sĩ của năm 1960 không vẽ tranh theo cách là mình đang sống trong khung cảnh ấy mà là theo cái cách mình cảm nhận về khung cảnh ấy. Hành trình “phi nhân hóa” trong nghệ thuật hiện đại vì vậy không phải là việc tìm cách vẽ một cái gì đó KHÁC BIỆT VỚI với một con người, một ngôi nhà mà con người hay ở, một ngọn núi mà con người hay đi dạo, mà là sẽ tìm cách vẽ một con người ít giống nhất với hình ảnh quen thuộc về con người, sẽ vẽ một ngôi nhà chỉ còn lưu giữ lại những gì cần thiết tối thiểu để ta hình dung ra sự biến thái của nó, sẽ không còn quả núi mà chỉ là một hình nón tạo thành từ một quả núi, kiểu như như cái hình hài còn lưu lại của một con rắn sau khi vừa lột da xong. Hành trình “phi nhân hóa” của hội họa cũng như của thơ ca đương đại không phải là nhằm để vẽ ra những hình thù vô nghĩa hay một văn bản với chuỗi từ rời rạc không thể hiểu nổi, đó là việc hướng đến một tác phẩm nghệ thuật không ở bất kỳ dạng sao chép quen thuộc nào của trí não lười biếng của con người, dẫu là đã được “phi nhân hóa” cao độ, chúng vẫn mang tới một thông điệp về một sự thật, một thế giới thực nào đó mà con người đã, đang hoặc sẽ đối mặt.

Joan Miró - Women, Birds and a Star (Phụ nữ, Chim và Một Ngôi Sao. 1949)