Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 25 tháng 6, 2025

Một tóm tắt về các chế độ hậu Cộng sản (kỳ 5)

Tác gi: Magyar Bálint – Madlovics Bálint

Bản tiếng Việt: Nguyễn Quang A

Nhà xuất bản Dân Khí – 2025

 

55. CÁC CUỘC TRƯNG CẦU DÂN Ý ĐƯỢC CÁC NHÀ BẢO TRỢ CHÓP BU DÙNG trong các chế độ chuyên quyền để củng cố quyền lực của họ trong khi từ chối đối lập để dùng kiểu bỏ phiếu này. Các cuộc trưng cầu dân ý là một lối tắt của quá trình thảo luận cân nhắc công khai. Trong khi các cuộc bầu cử là hiện thân của nền dân chủ đại diện, các cuộc trưng cầu dân ý là một hình thức của nền dân chủ trực tiếp nơi nhân dân bỏ phiếu trực tiếp về các vấn đề, các luật hay trong một định dạng nhị phân “đồng ý hay không.” Các định chế hòa giải có cấu trúc của ý chí nhân dân không đóng một vai trò—một đặc tính cũng là phần khăng khít của chủ nghĩa dân túy (Mệnh đề 44-45). Quả thực, cái các cuộc trưng cầu dân ý thực hiện chính xác là một liên kết trực tiếp giữa nhân dân và người đứng đầu hành pháp, mà bảo đa số muốn gì trong cuộc trưng cầu dân ý. Song đúng như chúng ta đã thấy rằng chủ nghĩa dân túy, trong khi nhắc đến nhân dân và tính chính danh dân sự, thực tế dẫn đến sự loại bỏ việc ra quyết định nhà nước khỏi tay nhân dân và thay vào đó nhà dân túy quyết định cái gì là “lợi ích quốc gia” hay “vì lợi ích của nhân dân,” các cuộc trưng cầu dân ý bảo trợ cũng có nghĩa là sự chiếm đoạt bảo trợ của sự diễn giải về lợi ích chung.

Các cuộc trưng cầu dân ý trong các chế độ chuyên quyền bảo trợ được dùng để củng cố nhà bảo trợ chóp bu trong vị trí của Có diễn giải duy nhất về lợi ích chung và để loại bỏ các hạn chế về quyền lực của ông (hay, trong chuyện kể dân túy, để cho phép ông bước qua các ràng buộc hợp pháp không cần thiết để thực hiện các mục tiêu của “nhân dân”: tính chính danh thực chất-duy lý). Giữa nhiều ví dụ, chúng ta có thể nhắc đến các cuộc trưng cầu dân ý ở Belarus (2004), Azerbaijan (2009), và Nga (2020), mà đã thay đổi hay bỏ các giới hạn nhiệm kỳ hiến định cho tổng thống, nhà bảo trợ chóp bu, và các cuộc trưng cầu dân ý ở Hungary (2016, 2022), mà đã là các sự kiện chiến dịch vận động dùng chủ đề “nhập cư bất hợp pháp” và “tuyên truyền LGBTQ,” một cách tương ứng, để định vị nhà bảo trợ chóp bu Orbán như người bảo vệ quốc gia, huy động những người ủng hộ và giải ngũ các đối thủ.

Có thể thấy các ví dụ khác ở các nước hậu-cộng sản Trung Á, mà đều hợp với xu hướng chung để tăng cường quyền lực của chức tổng thống và giảm các điều khoản dân chủ. Mặt khác, chưa cuộc trưng cầu dân ý đối lập nào được tổ chức trong các chế độ chuyên quyền bảo trợ. Cuộc trưng cầu dân ý như một phương tiện thảo luận cân nhắc công khai bị vô hiệu hóa: sự dẫn chiếu đến ý chí nhân dân trực tiếp sẽ trở thành một phương tiện để loại trừ ý chí nhân dân được thảo luận cân nhắc.

56. Lập pháp và Hệ thống pháp luật: Từ Luật trị đến luật của sự Cai trị TRONG PHA LÀM LUẬT CỦA THẢO LUẬN CÂN NHẮC CÔNG KHAI, thứ nhất, các mục tiêu lập pháp của nhà nước mafia là các chính sách bảo trợ, mà không có các mục tiêu chính sách công nào, chỉ có các hậu quả chính sách công thôi. Trong một nền chuyên quyền bảo trợ, lợi ích công lệ thuộc vĩnh viễn và không ngẫu nhiên vào các mục tiêu tư nhân, xác định các quyết định chính trị cơ bản một cách có hệ thống. Khi lợi ích elite, hay động cơ kép của sự tập trung quyền lực và tích tụ tài sản cá nhân trở thành nguyên lý chi phối của hoạt động nhà nước (Mệnh đề 25) thì các mục tiêu chính sách công, như các lý do cho các quyết định chính trị, bị bỏ xó trong hậu trường Một khi chúng ta đã nhận diện một chế độ như một nền chuyên quyền bảo trợ, các lĩnh vực mà lẽ ra phải được coi như các lĩnh vực chính sách công trong một nền dân chủ tự do (như giáo dục, chính sách xã hội, hay chính sách văn hóa) nên được quan sát qua “lăng kính đặc thù-chế độ,” giả định lợi ích elite và xem xét các lợi ích của gia tộc chính trị nhận con nuôi. Cách tiếp cận này không chỉ hài hòa với khung khổ giải tích được chúng ta chọn cho chế độ mà cũng cung cấp một sự hiểu biết và sức mạnh tiên đoán mà lẽ ra không đạt được nếu chúng ta đưa ra giả thiết của mình về động cơ từ sự xem xét chính sách chính thức hơn là từ hệ thống hoạt động thế nào. Như thế, thay vì ghi nhận “các sai lầm” chính sách, mà không phục vụ một cách nhất quán các mục đích được tuyên bố chính thức, chúng ta có được sự mô tả chính xác về các quyết định phục vụ các động cơ quyền lực và tài sản.

Đương nhiên, nhà bảo trợ chóp bu cần nhận ra và thích nghi với các cơ hội hiện tại và bầu không khí chính trị, và những điều này ảnh hưởng đến nội dung của các chính sách theo nghĩa rằng các diễn viên và các định chế nào thực sự bị nhắm mục tiêu, và khi nào một cố gắng để phá vỡ sự tự trị của họ được khởi xướng. Nhưng động cơ căn bản vẫn như nhau: các quyết định trông giống các chính sách, “tái cấu trúc” hay “cải cách”, thực ra, là các quyết định bảo trợ hóa và gia sản hóa. Dưới hoàn cảnh được nhắc tới, nhà bảo trợ chóp bu luôn luôn cố gắng để xây dựng các mối quan hệ nhà bảo trợ-người được bảo trợ (patron-client), khai thác bầu không khí chính trị, và mở rộng quyền lực của mình nói chung để ông có thể coi nhà nước và xã hội như lãnh địa tư của ông (Mệnh đề 26-27). Như thế, thay vì các chính sách công, chúng ta nên nói về các chính sách bảo trợ.

Các chính sách bảo trợ không có động cơ chính sách công nào, chỉ có các hậu quả chính sách công thôi. Các tác động như sự bất bình đẳng tăng lên, sự bần cùng hóa của các tầng lớp xã hội thấp hơn, hay thành tích giảm đi của giáo dục chỉ là các hệ quả hay “tác động phụ” của sự thực hiện các động cơ trung tâm của gia tộc chính trị nhận con nuôi (Mệnh đề 114).

57. TRONG PHA LÀM LUẬT CỦA THẢO LUẬN CÂN NHẮC CÔNG KHAI, thứ hai, nhà nước mafia xây dựng luật công cụ, tùy ý dưới dạng các lex (luật cá biệt) được may đo. Khi các quyết định nhà nước thực tế được tùy biến theo nhu cầu của gia tộc chính trị nhận con nuôi nơi cả sự giàu có và quyền lực được quan tâm, hành động chuyên quyền và tùy ý chiếm chỗ của các quá trình chính thức và hợp pháp trong hệ thống thể chế chính trị mà không có kiểm soát và đối trọng.

Sự công cụ hóa hệ thống pháp lý được cơ sở chính danh của tính chính danh thực chất-duy lý (Mệnh đề 45) làm cho có thể. Trong khi tính chính danh luật định-duy lý của các nền dân chủ tự do là một ràng buộc với các chính trị gia, việc đặt chúng dưới luật trị, tính chính danh thực chất-duy lý là một dụng cụ cho phép của nhà bảo trợ chóp bu mà đẩy luật vào vị trí thứ yếu, công cụ của gia tộc chính trị nhận con nuôi.

Lập pháp không còn là một lĩnh vực của các quy tắc hợp pháp và chuẩn mực có thể áp dụng cho tất cả mọi người có thể bị buộc phải chịu trách nhiệm nữa, nhưng “hiệu may quần áo thích hợp” của gia tộc chính trị nhận con nuôi, nơi các luật được may đo để hợp với nhu cẩu của gia tộc. Điều này là ngược với các chế độ độc tài cộng sản: tại đó, sự công cụ hóa luật đạt được qua các sắc lệnh có hiệu lực như luật,gạt bỏ các tiêu chuẩn pháp lý hiện hành trên cơ sở từng trường hợp một. Các hiến pháp cộng sản cũng công khai tuyên bố tính chính danh thực chất-duy lý, trở thành các luật cho phép bản thân họ bằng việc gọi đảng cộng sản là “lực lượng lãnh đạo,” “tiên phong,” hay “hướng dẫn” của nhân dân.

Trong một nền chuyên quyền bảo trợ, hiến pháp tuyên bố tính chính danh luật định-duy lý, không phải tính chính danh thực chất-duy lý thật sự, còn tính tùy ý pháp lý đạt được qua các lex được may đo. Lập pháp được dùng để tạo ra các luật được may đo cho các cá nhân, các nhóm, các bạn và các kẻ thù chính trị.

Điều này được thực hiện với độ chính xác phẫu thuật dựa vào sự cho phép từng trường hợp một của người đứng đầu gia tộc chính trị, đưa ra sự thưởng hay phạt, đặc quyền hay sự kỳ thị (Bảng 18). Sự nhắm mục tiêu xảy ra một cách che đậy: trong khi bản thân luật có vẻ là chuẩn tắc, các tiêu chuẩn cho sự áp dụng của nó được soạn theo một cách mà chỉ ra mục tiêu nằm dưới phạm vi của nó. Thói quen này được gọi là kỹ thuật hóa (technicization) trong văn liệu tham nhũng, nhưng được nâng lên cấp bậc chính trị trung tâm trong các nền chuyên quyền bảo trợ. Bộ luật được điều chỉnh liên tục theo sự đồng bóng thay đổi liên tục của gia tộc chính trị nhận con nuôi. Lập pháp, vì thế, là tối quan trọng, vì cần hàng loạt thủ tục ad hoc để xây dựng và tạo ra các lex thích hợp.

Bảng 18: Các loại lex được may đo, với các ví dụ chung cho các chính sách thưởng và phạt.

Loại mục tiêu

Mục tiêu chính sách bảo trợ

Ví dụ chung cho

Chính sách thưởng               chính sách phạt

 

Diễn viên chính trị

Sắp đặt sự thực hiện các chức vụ công

Dỡ bỏ các đòi hỏi xung đột lợi ích để bảo đảm rằng các bù nhìn của gia tộc chính trị nhận con nuôi có thể được chỉ định cho các vị trí công

Sự loại bỏ tùy tiện các cá nhân khỏi chức vụ công được lập pháp cho phép

 

 

Diễn viên chính trị (định chế)

 

Sắp đặt tiền công các diễn viên chính trị

Tiền công hay sự hỗ trợ tăng lên cho các bù nhìn chính trị của gia tộc chính trị nhận con nuôi, hay tổ chức dân sự và chính trị, các chính quyền đô thị do họ thống trị

Tiền công hay sự hỗ trợ giảm đi của các đối thủ chính trị của chế độ trong các vị trí công các tổ chức dân sự hay chính trị quan trọng, các chính quyền đô thị

 

Diễn viên chính trị (định chế)

Sắp đặt thẩm quyền của các diễn viên chính trị

Mở rộng thẩm quyền của các định chế dưới các bù nhìn chính trị, sau khi họ được bổ nhiệm

Thu hẹp thẩm quyền của các định chế, hay các cơ quan đô thị và chuyên nghiệp giám sát chính phủ

 

Diễn viên kinh tế

Sắp đặt tính sinh lời của các diễn viên kinh tế

Đảm bảo các vị trí có lợi thế cho các doanh nghiệp trung thành

Loại bỏ các doanh nghiệp không tích hợp vào gia tộc chính trị nhận con nuôi khỏi thị trường, hay đảm bảo sự tiếp quản chúng

Diễn viên chính trị/ kinh tế/cộng đồng

 

Đạt lợi ích chính trị

Làm cho các diễn viên không thể bị kết án (thậm chí hồi tố) mà các tòa án lẽ ra kết án nhưng gia tộc chính trị nhận con nuôi không muốn họ bị

Làm cho các diễn viên có thể bị kết án (thậm chí hồi tố) mà các tòa án đã không kết án nhưng mọi người muốn họ bị


58. TRONG PHA LÀM LUẬT CỦA THẢO LUẬN CÂN NHẮC CÔNG KHAI, thứ ba, nhà nước mafia thông qua luật trong lập pháp dây curoa. Vì các quyết định mà định đoạt tương lai của xã hội được đưa ra ở bên ngoài các cơ quan chính thức, quốc hội trong một nền chuyên quyền bảo trợ chỉ được dùng để đóng dấu chấp thuận các quyết định chuyên quyền. Quốc hội ngừng là sự kiểm soát hành pháp, và trở thành một dây curoa nữa của gia tộc chính trị nhận con nuôi.
Trong các nền dân chủ tự do, các thành viên của quốc hội là các chính trị gia: các diễn viên tự trị có thể dùng quyền lực chính trị của họ theo ý họ. Trong khi họ có thể bị kỷ luật đảng ràng buộc, các chính trị gia được phép tranh luận, để giữ ý kiến thiểu số, và thậm chí đề xuất một dự luật theo quyền của chính họ. Nói cách khác, có thảo luận cân nhắc công khai bên trong đảng cầm quyền: có (1) việc thảo luận, trong chừng mực các thành viên có thể nêu ý kiến của họ để thuyết phục những người khác; (2) liên kết, trong chừng mực các phe phái và các cương lĩnh có thể được hình thành vis-à-vis ban lãnh đạo đảng; (3) bầu cử, trong chừng mực các nhà lãnh đạo đảng (và đôi khi ngay cả các ứng viên của đảng) được các đảng viên lựa chọn sau các cuộc vận động bên trong đảng; (4) làm luật, trong chừng mực đảng tạo ra các quy tắc nội bộ của riêng nó và các quy định mà các đảng viên (kể cả ban lãnh đạo) được kỳ vọng tuân theo; và (5) thi hành, trong chừng mực một sự vi phạm các quy tắc nội bộ của đảng kéo theo hành động kỷ luật. Vì thế, các đại biểu quốc hội không đơn giản là những người thực hiện ý chí của các nhà lãnh đạo đảng mà có thể định hình, hay ít nhất có một tác động lên các quyết định chính sách.
Ngược lại, các đại biểu quốc hội cầm quyền trong một cơ quan lập pháp dây curoa chủ yếu là những kẻ bù nhìn chính trị: đơn giản là những người thi hành với không sự tự trị và hầu như không tiếng nói nào trong việc định hình chính sách. Các cơ quan lập pháp dây curoa chỉ được yêu cầu để “giữ sổ sách” về các quyết định được đưa ra ở nơi khác, trong vương quốc của các định chế phi-chính thức. Điều quan trọng là mức độ đa số của phe phái quốc hội của gia tộc chính trị nhận con nuôi. Sự khác biệt chính giữa các nền dân chủ bảo trợ và các chế độ chuyên quyền xuất phát từ sự thực này: gia tộc chính trị nhận con nuôi cai trị trong một nền dân chủ bảo trợ không có siêu đa số, hay quyền lực để đơn phương thay đổi các quy tắc hiến pháp.
Siêu đa số là điều kiện tiên quyết cho việc thành lập và ổn định hóa mạng lưới bảo trợ có chỉ một-kim tự tháp của một nền chuyên quyền bảo trợ.
Trong khi hoạt động hàng ngày của nhà nước mafia—kể cả dùng luật như công cụ và thông qua các lex được may đo bất cứ khi nào cần—một đa số tuyệt đối (50%+1) là đủ, các nhà bảo trợ chóp bu thường cố gắng giữ siêu đa số (2/3) trong các cuộc bầu cử, để có thể thay đổi bất cứ thứ gì trong hệ thống pháp lý nếu cần.
59. TRONG PHA THI HÀNH CỦA THẢO LUẬN CÂN NHẮC CÔNG KHAI, trước tiên, nhà nước mafia thay sự bình đẳng trước luật bằng sự bất bình đẳng sau luật. Với sự chơi chữ nào đó, chúng ta có thể phân biệt giai đoạn trước khi luật được áp dụng—khi nó đã được xây dựng và chấp thuận nhưng vẫn chưa được dùng trong một vụ việc pháp lý—và giai đoạn khi nó được áp dụng. “Bình đẳng trước luật” nhắc đến giai đoạn trước, đến liệu mọi người có được quyền hợp pháp với cùng sự bảo vệ các quyền, và liệu từ ngữ của luật có gồm sự kỳ thị hay không; “bình đẳng sau luật” nhắc đến giai đoạn sau, và hỏi liệu các quyền được trao một cách hợp pháp và các luật được ban hành có được thực thi ngang nhau hay không.
Trong nền dân chủ tự do, luật trị thịnh hành, mà dựa vào các nguyên tắc của sự bình đẳng trước và sau luật. Trong một nhà nước mafia, luật trị (rule of law) được thay thế bằng luật của sự cai trị (law of rule): bình đẳng trước luật đi cùng với bất bình đẳng sau luật (Bảng 19). De jure, trên mức các định chế chính thức mỗi luật áp dụng ngang nhau cho mọi người, có nghĩa chúng nên được thực thi đối lại tất cả mọi người thuộc phạm vi của chúng; de facto, sự thực thi pháp luật chọn lọc về mặt chính trị cùng với các lệnh phi-chính thức thịnh hành, đối xử với các bạn và kẻ thù, các diễn viên kinh tế đầu hàng và không-đầu hàng, các đồng minh và những người đối địch chính trị theo những cách khác nhau. Địa vị chính trị, sự phụ thuộc bảo trợ, và lòng trung thành tạo thành cơ sở của các tiêu chuẩn phi-chính thức hướng dẫn sự thực thi pháp luật trong một nền chuyên quyền bảo trợ.
Nhà bảo trợ chóp bu luôn có thể quyết định cái nào có thể được thi hành giữa giữa sự không thi hành luật và luật được may đo; và ông có thể được kỳ vọng để chọn cái mà làm hại mặt tiền (façade) dân chủ của chế độ ít hơn và che giấu các động cơ thật (chính sách bảo trợ) của gia tộc chính trị nhận con nuôi nhiều hơn. Tuy vậy, điều này áp dụng chỉ cho các vụ nổi bật. Không phải là vụ mà mọi luật là có tính công cụ và mọi thủ tục pháp lý được điều khiển-bằng tay; mọi người bình thường có thể chắc chắn rằng các quyền của họ được tôn trọng, và sẽ không có sự can thiệp nào từ trên đỉnh trong các vụ bình thường hơn. Nhưng các quyền của mọi người có một đặc tính có điều kiện: chúng được thi hành chỉ trong chừng mực chúng không gây trở ngại cho các kế hoạch của nhà bảo trợ chóp bu, hay cho đến khi ông không muốn can thiệp để trừng trị hay thưởng. Các hành động của nhà bảo trợ chóp bu di chuyển trên một biên độ rộng của tính tùy ý (Mệnh đề 28), trải từ không sự can thiệp nào đến sự cung cấp nơi trú ẩn hoàn toàn và phá vỡ tính toàn vẹn [liêm chính] (Mệnh đề 38).

Bảng 19: Địa vị của luật trong ba chế độ loại cực.

 

Trước luật

Sau luật

Luật trị (Rule of law) (như trong nền dân chủ tự do)

Bình đẳng

Bình đẳng

Luật trị (như trong nền chuyên quyền bảo trợ)

Bình đẳng

Bất bình đẳng

Vô pháp luật (như trong chế độ độc tài cộng sản)

Bất bình đẳng

Bất bình đẳng

 60. TRONG PHA THỰC THI CỦA THẢO LUẬN CÂN NHẮC CÔNG KHAI, nhà nước mafia vô hiệu hóa nhánh tư pháp để cung cấp sự miễn bị trừng phạt cho những người được bảo trợ của nó. Thường là không cần thiết để kiểm soát trực tiếp các thẩm phán để khiến họ hành động theo các tiêu chuẩn phi-chính thức. Các quan chức có thể học được họ cần làm những gì qua các tín hiệu rõ ràng do những sự can thiệp trực tiếp khác nhau của nhà bảo trợ chóp bu trong các phần khác của xã hội. Như một kết quả của tác động gây ớn lạnh này, các quy tắc phi-chính thức từ từ trở thành tiêu chuẩn. Nhưng gia tộc chính trị nhận con nuôi có thể chắc chắn ý chí của nó được phục vụ trong tư pháp nếu nó đưa ra các bước cụ thể hơn để vô hiệu hóa nó.

Chúng ta có thể liệt kê ba cách vô hiệu hóa, mà cũng có thể được kết hợp và dùng cùng nhau. Cách thứ nhất, đơn giản nhất—nhưng cũng ít tinh tế nhất—cho nhà bảo trợ chóp bu là phá vỡ tính tự trị của bộ máy tư pháp. Bằng phương pháp này, ông hay một kẻ bù nhìn chính trị do ông lập nên như một nhà giám sát của các thẩm phán sẽ can thiệp vào các vụ án, di chuyển các vụ xử án một cách tùy tiện, hạn chế thẩm quyền của các tòa án, hay một cách phi-chính thức dự tính những hậu quả tiêu cực chống lại các thẩm phán “không thiên vị một cách sai trái”.

Thứ hai, một nền chuyên quyền bảo trợ có thể quyết định để thay thế vụ án nhạy cảm về chính trị từ các tòa án bình thường sang các tòa án hành chính mới được thành lập. Phương pháp vô hiệu hóa này đã được nhiều chế độ chuyên quyền bảo trợ áp dụng, kể cả Armenia, Azerbaijan, Belarus, Kazakhstan,Uzbekistan. Các tòa án hành chính trong nền chuyên quyền bảo trợ được nhồi đầy bằng các nô bộc bảo trợ (Mệnh đề 20) và/hoặc được thành lập với một khung khổ pháp lý đặc biệt mà hạn chế sự xét xử chuẩn tắc. Các tòa án như vậy tồn tại song song với hệ thống tư pháp bình thường và loại bỏ các khiếu nại chống lại nhà nước khỏi hệ thống bảo đảm luật trị mà chính thức tồn tại trong các tòa án bình thường. Trong các tòa án đặc biệt này, không có tranh luận chân thật nào, các thẩm phán chỉ kiểm tra sự tuân thủ với các luật đặc thù liên quan đến tổ chức nhà nước được nhắc đến, trong khi nguyên cáo (người kiện) có thể có cơ hội thắng nào đó nếu khiếu nại về các thủ tục (các thời hạn bị lỡ vân vân).

Lựa chọn thứ ba để vô hiệu hóa nhánh tư pháp là việc làm cho cơ quan công tố (viện kiểm sát) lệ thuộc vào các lợi ích phi-chính thức của gia tộc chính trị nhận con nuôi. Nếu cách này được chọn, hầu như không cần đối phó với các tòa án bởi vì các vụ hình sự không đạt đến mức đó của quá trình pháp lý,cơ quan công tố không khởi động các cuộc điều tra hình sự chống lại gia tộc chính trị nhận con nuôi trước hết. Hơn nữa, tại các nước hậu-Soviet cơ quan công tố đã là mạnh về mặt lịch sử trong hệ thống pháp lý, khiến nó thành một vũ khí đặc biệt quan trọng trong tay các nhà bảo trợ chóp bu. Vì thế, cơ quan công tố được chỉ đạo bằng tay không đơn giản đã vô hiệu hóa nhưng cũng có thể được dùng để tấn công hay tống tiền các kẻ thù của gia tộc chính trị nhận con nuôi. Như thế, cơ quan công tố trong các chế độ chuyên quyền bảo trợ có thể dễ dàng trở thành một phương tiện chính của sự thực thi pháp luật chọn lọc về mặt chính trị.

61. TRONG PHA THỰC THI CỦA ThẢO LUẬN CÂN NHẮC CÔNG KHAI, thứ ba, nhà nước mafia vũ khí hóa kompromat (tư liệu làm tổn hại thanh danh-компрометирующий материал) và buộc tội các đối thủ với các tội hình sự thông thường, hơn là tội chính trị. Kompromat không phải là cá biệt đối với các chế độ chuyên quyền bảo trợ; nó tồn tại trong các chế độ độc tài cộng sản và thậm chí trong các nền dân chủ bảo trợ. Nhìn chung, kompromat là một mẩu thông tin—một dữ kiện thực tế—mà với nó một diễn viên chính trị có thể bị tống tiền, hoặc bởi vì (a) nó sẽ tiết lộ sự phạm tội của họ hay (b) là một phần của đời sống cá nhân của họ mà họ không muốn đưa ra công khai (bằng chứng về các thói quen chi tiêu hoang toàng, hành vi tình dục vân vân). Ngược lại với “bằng chứng” trong phiên xử-trình diễn, kompromat không được bịa đặt ra mà được thu thập. Kompromat đã rất phong phú ở các nước hậu-cộng sản: thứ nhất, sự chuyển đổi và tư nhân hóa được tiến hành trong một môi trường pháp lý khá dễ lung lay, và với nhiều lạm dụng về phần của những người trở thành các diễn viên kinh tế và/hoặc chính trị; muộn hơn, sự hoạt động của các hệ thống bảo trợ với các định chế săn mồi và các dịch vụ công chất lượng thấp đã dẫn đến một khu vực rộng của nền kinh tế ngầm, mà là một môi trường màu mỡ cho kompromat.

Là một tài sản có giá trị, các thị trường cho kompromat đã phát triển trong các nước này với các doanh nhân (thường là các tội phạm hay những mật vụ trước kia) chuyên môn hóa về thu thập kompromat, và bán các mẩu thông tin cho các bên quan tâm. Trong các nền dân chủ bảo trợ và cả các chế độ tài phiệt vô chính phủ chớm nở (Mệnh đề 30), các mạng lưới bảo trợ và các nhà tài phiệt cạnh tranh nhau dùng kompromat trong cuộc chiến đấu của họ (“chiến tranh kompromat”), nơi các nhà tài phiệt cũng có thể dùng nó để tống tiền các chính trị gia trong nhà nước bị bắt giữ từ dưới lên.

Nhưng để cho một thị trường kompromat cạnh tranh tồn tại có hai điều kiện: chủ nghĩa đa nguyên media, vì một mẩu thông tin có tiềm năng tổn hại uy tín của một người chỉ nếu nó có thể được quảng bá; và một cơ quan công tố và bộ máy tư pháp không-bị diều khiển bằng tay, vì khác đi thì bất luận người ta có thể có kompromat nào, không ai sẽ bị kết án trừ người mà những hướng dẫn-bằng tay chấp thuận. Điều này giải thích vì sao sự thành lập mạng lưới bảo trợ có chỉ một-kim tự tháp sẽ chấm dứt một thị trường kompromat cạnh tranh. Trong một nền chuyên quyền bảo trợ, nhà bảo trợ chóp bu trở thành người dùng kompromat trước nhất. Nó không chỉ giúp ông kiểm soát những người được bảo trợ của ông, mà krysha bảo vệ họ khỏi sự khởi tố song bằng chứng về tội phạm của họ lại nằm trong tay nhà bảo trợ chóp bu.

Kompromat giúp khắc phục sự trái ngược giữa bình đẳng trước luật và bất bình đẳng sau luật. Trong các chế độ độc tài cộng sản, các đối thủ chính trị có thể bị tống vào tù khi các hoạt động đối lập bị cấm về mặt pháp lý, và do đó phạm trù tù nhân chính trị tồn tại (một cách điển hình tách biệt về mặt không gian, như một “giai cấp” khác biệt, với các tội phạm bình thường trong các định chế lao tù). Nhưng trong một nền chuyên quyền bảo trợ, hệ thống về hình thức là nền dân chủ, và các quyền cơ bản và các quyền tự do của mọi người được duy trì về hình thức. Vì thế, gia tộc chính trị nhận con nuôi phải biến các đối thủ chính trị thành các tội phạm thông thường để bỏ tù họ. Kompromat được gia tộc chính trị nhận con nuôi thu thập và dùng đặc biệt cho mục đích này, nơi nhà bảo trợ chóp bu có thể kích hoạt sự khởi tố tùy ý và (qua những kẻ bù nhìn) bàn giao bằng chứng, mà trên cơ sở đó các đối thủ chính trị có thể bị kết án.

62. TRONG PHA THI HÀNH CỦA THẢO LUẬN CÂN NHẮC CÔNG KHAI, thứ tư, nhà nước mafia dàn dựng các vụ xử trình diễn với bằng chứng bịa đặt cho các đối thủ không chịu khuất phục mà không sẵn có kompromat nào. Một vụ xử kompromat trong một nền chuyên quyền bảo trợ theo cấu trúc sau: một tội bị phạm; cơ quan công tố khởi động quá trình pháp lý và điều tra trên cơ sở quyết định chính trị; các thẩm phán so sánh luật hiện hành với kompromat, tức là, các dữ kiện thực tế mà nhà bảo trợ chóp bu thu thập và dùng cho việc tống tiền và trừng phạt các diễn viên không trung thành khi cần; tòa án đưa ra một phán quyết (điển hình về tội) dựa vào sự đánh giá kompromat. Ngược lại, cấu trúc của một phiên xử trình diễn là như sau: tội không bị vi phạm; cơ quan công tố khởi động quá trình pháp lý và điều tra trên cơ sở quyết định chính trị; các thẩm phán so sánh luật hiện hành với bằng chứng bịa đặt, tức là, dữ liệu hư cấu và những cáo buộc do các nhà cai trị đưa ra để định khung con dê tế thần số một như có tội; tòa án ra một phán quyết (về tội) dựa vào bản án chính trị được định trước (bản án bỏ túi). 

Các phiên tòa dàn dựng đã là tập quán trung tâm của các chế độ độc tài cộng sản. Tại đó, yếu tố “trình diễn-show” (của phiên xử) nhắc đến cả các mục tiêu chiến dịch vận động (Mệnh đề 52) và sự hiện diện của bằng chứng bịa đặt, nơi quá trình cũng gồm các làn sóng thanh trừng nhân viên nomenklatura nữa. Trong một nền chuyên quyền bảo trợ, sự can thiệp chính trị trong các phiên xử cho các mục tiêu chiến dịch vận động (như trong trường hợp của ban nhạc punk rock, nữ quyền, phản kháng, Nga Pussy Riot) không nhất thiết có nghĩa là sự áp dụng bằng chứng bịa đặt. Vì điều đó xuất hiện chỉ khi vụ xử là một mưu toan để vô hiệu hóa một đối thủ không chịu khuất phục, mà không sẵn có kompromat buộc tội nào. Không có khả năng vô hiệu hóa họ theo cách khác hay thâu nạp họ vào gia tộc chính trị nhận con nuôi, nhà bảo trợ chóp bu có thể dàn dựng một vụ xử trình diễn, mặc dù tập quán như vậy xuất hiện chỉ trong các chế độ chuyên quyền được củng cố hơn như BelarusNga.

Hệt như trong trường hợp kompromat, bằng chứng bịa đặt mà một nhà bảo trợ chóp bu dùng luôn nhắc đến các cáo buộc hình sự thông thường như tham ô và buôn bán ma túy; điều này là ngược lại với tập quán cộng sản, nơi các phiên tòa dàn dựng tập trung vào các tội chính trị như tội phản quốc. Cuối cùng, một yếu tố-trình diễn quan trọng của các phiên tòa dàn dựng cộng sản là bản thân những người bị cáo buộc nhận tội, thú nhận họ đã phạm tội chống lại đảng nhà nước và các nguyên tắc cộng sản. Điều này tương phản sắc nét với các chế độ chuyên quyền bảo trợ, nơi người bị cáo buộc thường không nhận tội và thay vào đó tận dụng cơ hội để bày tỏ sự chỉ trích mạnh mẽ chế độ (như trong trường hợp của chính trị gia đối lập Alexei Navalny ở Nga của Putin).

63. TRONG PHA THI HÀNH CỦA THẢO LUẬN CÂN NHẮC CÔNG KHAI, thứ năm, nhà nước mafia dùng sự cưỡng bức nhà nước được thuê ngoài (outsourced) cũng như insourced (dùng nguồn lực nội bộ) để thực thi ý chí của nó. Một nhà nước hiến định có thể dùng sự cưỡng bức nhà nước chỉ để chống lại các tội phạm, thực thi các luật đã được các đại diện được bàu của nhân dân lập ra. Kho vũ khí của nó biểu hiện độc quyền sử dụng hợp pháp bạo lực gồm các định chế chính thức, hợp pháp như các cơ quan thực thi pháp luật (cảnh sát, SWAT [Special Weapons and Tactics, các Vũ khí và Chiến thuật Đặc biệt] vân vân), các cơ quan thu nhập (sở thuế vân vân), và các tổ chức mật vụ.

Một nhà nước mafia cũng dựa vào các định chế này, nhưng nó thay đổi chức năng đặc trưng của chúng và bổ sung chúng với các phương tiện mới (Bảng 20). Chúng ta có thể minh họa sự thay đổi chức năng bằng ví dụ của các tổ chức mật vụ. Trong một nền dân chủ tự do, chúng ta nói về mật vụ của một nhà nước; trong một chế độ độc tài cộng sản, nó là mật vụ của đảng, cam kết để bảo vệ các lợi ích của đảng nhà nước. Trong một nền chuyên quyền bảo trợ, mật vụ lệ thuộc vào nhà bảo trợ chóp bu, phục vụ các lợi ích của ông bằng các mệnh lệnh phi-chính thức của ông, tiến hành giám sát đối lập chính thức và phi-chính thức (các đảng, các NGO, thậm chí các cá nhân). Cũng đã có tiền lệ cho việc tạo ra một cơ quan mới, song song từ những người trung thành của nhà bảo trợ chóp bu, như trong trường hợp của Cảnh vệ Quốc gia của Liên bang Nga, do vệ sĩ cá nhân của Putin lãnh đạo, và Trung Tâm Chống Khủng bố (TEK) ở Hungary, do cựu vệ sĩ cá nhân của Orbán lãnh đạo.

Việc dùng bạo lực qua các định chế chính thức thuộc về nhà nước, mà có thể được đặt cho biệt danh như sự cưỡng bức trắng, được bổ sung bởi sự dùng bạo lực hợp pháp được cho phép, hay sự cưỡng bức xám, cũng như sự dùng bạo lực bất hợp pháp, hay sự cưỡng bức đen, trong một nền chuyên quyền bảo trợ. Tuy vậy, nhà nước mafia có thể xem xét việc dùng bạo lực thân thể chỉ như một giải pháp cuối cùng. Nhà bảo trợ chóp bu là thực dụng; vì ông quan tâm đến việc duy trì một façade không đàn áp, ông chuyển sang các phương tiện ít bạo lực hơn, ít dân chủ hơn chỉ khi các phương tiện bình thường, trông giống dân chủ không còn đủ nữa. Đấy là nguyên tắc then chốt cho việc vô hiệu hóa quá trình thảo luận cân nhắc công khai: giữa sự cạnh tranh tự do và sự thanh toán các đối thủ, hay sự thiếu đàn áp trong các nền dân chủ tự do và khủng bố hàng loạt trong những chế độ độc tài cộng sản, có một dải rộng của các công cụ chính trị và kinh tế ngăn trở từ sự tống tiền và sự thâu-nạp qua việc phạt hay làm cho không đủ tư cách của các diễn viên đối lập đến việc thay đổi hoàn toàn các quy tắc cạnh tranh. Chỉ khi các phương tiện này có vẻ không thỏa mãn thì nhà bảo trợ chóp bu có thể dùng bạo lực thân thể để tống tiền và thanh lý các mục tiêu hay các đối thủ cụ thể của gia tộc chính trị nhận con nuôi. Quy mô cho các mục tiêu như vậy có thể trải từ các chính trị gia đối lập qua các nhà tài phiệt đối địch đến các nhà báo không chịu khuất phục.

Bảng 20: Các định chế cưỡng bức nhà nước và các chức năng của chúng. Nền trắng nhắc đến cưỡng bức nhà nước insourced, còn nền xám đến sự cưỡng bức nhà nước được outsourced.

 

 

Loại tổ chức

Chức năng nhà nước đặc trưng trong

Nền dân chủ tự do                chuyên quyền bảo trợ

 

 

 

 

Cưỡng bức trắng (mặc định dùng hợp pháp bạo lực)

Cơ quan thực thi pháp luật (cảnh sát, SWAT v. v,)

Thực thi pháp luật chuẩn tắc qua (các mối đe dọa của) bạo lực

Tống tiền qua sự thực thi pháp luật chọn lọc, bảo vệ gia tộc chính trị nhận con nuôi

Cơ quan thu nhập (sở thuế, cơ quan kế toán v.v.)

Thu thuế, phí được áp đặt một cách chuẩn tắc

Tống tiền qua thanh tra phạt chọn lọc

Cơ quan tình báo (mật vụ v.v.)

Giám sát và các đe dọa an ninh quốc gia vô hiệu hóa

Giám sát đối lập chính thức và phi-chính thức (các đảng, các NGO, các cá nhân)

 

 

Sự cưỡng bức xám (dùng hợp pháp bạo lực được cho phép)

Cảnh sát bổ trợ (tổ chức tự vệ v.v.)

Quân dự bị một phần thời gian của lực lượng cảnh sát quốc gia

Giúp các cơ quan thực thi pháp luật trong phục vụ gia tộc chính trị nhận con nuôi

Các cơ quan bảo vệ tư nhân (mật vụ, cảnh sát tư v.v.)

Bảo vệ nhân dân và các đối tượng có tầm quan trọng công cộng

Bảo vệ nhân dân và các đối tượng có tầm quan trọng bảo trợ

 

 

Sự cưỡng bức đen (dùng bạo lực bất hợp pháp)

Các fan club (cực đoan, đầu trọc v.v.)

 

n.a.

Vô hiệu hóa các cuộc biểu tình và các hoạt động đối lập khác

Nhóm bán quân sự (dân quân v.v.)

 

n.a.

Hăm dọa, giải tán hung dữ các hoạt động đối lập quần chúng

 

Thế giới ngầm có tổ chức (các nhóm tội phạm, mafia cổ điển v.v.)

 

 n.a

Tống tiền và thanh lý các mục tiêu cụ thể hay các đối thủ của gia tộc chính trị nhận con nuôi


 


Các cơ chế phòng thủ: Sự ổn định và Xói mòn của các nền Dân chủ và các Chế độ chuyên quyền

 64. CÁC NỀN DÂN CHỦ VÀ CÁC CHẾ ĐỘ CHUYÊN QUYỀN LÀ ỔN ĐỊNH, duy trì các hệ thống trong chừng mực chúng có các cơ chế phòng thủ chống lại sự xói mòn. Các hệ thống tự-duy trì có thể sụp đổ như một kết quả của các cú sốc ngoại sinh như các cuộc chiến tranh hay các suy thoái toàn cầu, nhưng các thành phần nội sinh của chúng, tức là, các quá trình nội bộ tạo thành hệ thống, không phá vỡ nó. Như triết gia Hungari Kis János giải thích (“Demokrácia vagy autokrácia?” [Nền dân chủ hay chế độ chuyên quyền?], 2016), một chế độ là ổn định trong sự kiện của hình trạng của ba tiêu chuẩn: (1) các thành phần của chế độ là tương thích nhau, tức là, hoạt động của một định chế không loại trừ các định chế khác khỏi việc thực hiện các nhiệm vụ được phân cho chúng; (2) các thành phần của chế độ hỗ trợ lẫn nhau, tức là, một định chế, trong khi thực hiện các nhiệm vụ riêng của nó, cũng tạo ra các điều kiện thuận lợi cho sự vận hành suôn sẻ của các thành phần khác, như thế làm tăng năng lực tự-duy trì của toàn bộ hệ thống và góp phần cho sự ngăn chặn các biến động không mong muốn trong chế độ; (3) chế độ có các cơ chế phòng thủ hiệu quả, ngăn chặn hay kiềm chế các xu hướng phá hoại như thế chúng không dẫn đến sự phá hủy bản chất của chế độ.

Các cơ chế phòng thủ là quan trọng nhất khi chúng bị tấn công, và trong các hệ thống hậu-cộng sản điều này đã xảy ra hoặc khi các diễn viên mưu toan biến đổi nền dân chủ tự do thành một chế độ chuyên quyền—như trong trường hợp Hungary, nơi mưu toan đã thành công—hay khi một nền dân chủ bảo trợ bị biến đổi thành một nền chuyên quyền bảo trợ—như trong trường hợp Ukraina, nơi các mưu toan đã không thành công. Trong mỗi trường hợp, bản chất của các chế độ tương ứng đã bị đe dọa.

Trong một nền dân chủ tự do, bản chất này của chế độ là sự bảo vệ phổ quát của các quyền con người và quyền ngang nhau của mọi người để có một tiếng nói về cuộc sống của họ được quản trị như thế nào: các thứ này được thể hiện trong quyền lực chính trị bị hạn chế và sự thảo luận cân nhắc công khai, một cách tương ứng. Trong một nền dân chủ bảo trợ, bản chất của chế độ là sự cạnh tranh của các mạng lưới bảo trợ: có nhiều kim tự tháp quyền lực phi-chính thức với kích thước đại khái ngang nhau tồn tại trong một cân bằng động, với mỗi mạng lưới luôn cố gắng để trở nên thống trị nhưng không có khả năng để làm vậy. Những sự khác biệt giữa hai chế độ đòi hỏi các loại cơ chế phòng thủ khác nhau, mà chúng ta sẽ khám phá dưới đây.

Các chế độ chuyên quyền cũng đòi hỏi các cơ chế phòng thủ—không phải để duy trì chủ nghĩa đa nguyên mà để ngăn cản nó, bảo vệ sự cai trị không bị ràng buộc, độc quyền của nhà bảo trợ chóp bu. Nhà bảo trợ chóp bu không phải là một kẻ cắp đơn thuần mà là một tên cướp ở một chỗ, để dùng từ ngữ của nhà kinh tế học Mancur Olson (Power and Prosperity, 2000). Cướp bóc không phải mục tiêu được chọn tạm thời nào đó mà là nơi sinh sống của riêng hắn, nhà bảo trợ chóp bu không thể đơn giản lấy cái ông ta muốn hôm nay mà cũng phải nghĩ về ngày mai nữa. Hắn cần đạt được sự bền vững và, vì thế, thiết lập các cơ chế phòng thủ để bảo đảm sự sống sót của chế độ của ông ta (Mệnh đề 115).

65. SỰ TÁCH BIỆT CÁC NHÁNH QUYỀN LỰC là cơ chế phòng vệ trong các các nền dân chủ tự do, hạn chế quyền lực chính trị để tránh các xu hướng chuyên quyền. Việc hạn chế quyền lực chính trị bắt nguồn từ nguyên tắc hiến pháp chủ nghĩa về các quyền con người: bạo lực của nhà nước không được dùng để thực hiện sự vi phạm các quyền. Ngược lại, raison d’être-lý do tồn tại của một nhà nước hiến định chính xác là để ngăn chặn những sự vi phạm các quyền, và mặc dù nó có thể được cho phép một cách dân chủ để thực hiện các chức năng (chính sách công) khác, thậm chí mọi người—thường là đa số—bị cấm khỏi việc khởi xướng sự vi phạm được trung ương dẫn dắt của các quyền cơ bản và các quyền tự do của những người khác—thường là của thiểu số.

Ngoài sự cấm đoán đơn giản, sự phòng thủ hữu hiệu chống lại sự chuyên chế của một nhánh quyền lực, đặc biệt nhánh hành pháp, là sự tách biệt của các quyền lực. Được Montesquieu ủng hộ một cách nổi tiếng, ý tưởng cơ bản về sự tách biệt của các quyền lực là để ngăn chặn mọi chức năng nhà nước được thực hiện bởi cùng một người hay một nhóm elite duy nhất. Các định chế được thiết lập theo một cách mà không phải mỗi diễn viên chính trị hoặc phụ thuộc vào hay chịu trách nhiệm với người đứng đầu hành pháp, còn, khi một xu hướng chuyên quyền bắt đầu, các nhánh khác được trao quyền một cách hợp pháp để kiềm chế nó (qua các quyền phủ quyết, các thủ tục phế truất, bỏ phiếu bất tín nhiệm v.v.). Do có khả năng ngăn chặn một số trong các hành động của nhau, các nhánh được tách biệt có thể hoạt động như sự kiểm soát và đối trọng của nhau và của các diễn viên chuyên quyền.

Quyền lực trong một nhà nước hiến định được tách biệt ngang cũng như dọc. Bên cạnh việc thu hẹp quyền lực của hành pháp bằng việc lấy đi một số thẩm quyền của nó và trao chúng cho các nhánh riêng biệt (sự tách biệt ngang), quyền lực cũng được chia sẻ giữa chính phủ trung ương và các chính quyền địa phương (sự tách biệt dọc). Trên mức thành phố, hạt hay dưới-quốc gia khác, sự hiện diện của các chính quyền địa phương hoạt động như một sự kiểm soát và đối trọng lên chính phủ trung ương, mà không có thẩm quyền đầy đủ về cuộc sống của các công dân vì một số thẩm quyền đó được chuyển cho các đại diện địa phương được bàu của của nhân dân.

Có một sự đa dạng hết sức về các chính quyền địa phương được tổ chức thế nào và có bao nhiêu mức của chủ nghĩa liên bang— quả thực, nó là một vấn đề đặc thù-quốc gia hơn là vấn đề đặc thù-chế độ (Mệnh đề 105). Nhưng nguyên tắc hỗ trợ (principle of subsidiarity) cho rằng các vấn đề xã hội và chính trị nên được xử lý tại mức trực tiếp nhất phù hợp với giải pháp của chúng. Vì thế, thẩm quyền của các chính quyền địa phương lý tưởng thường gồm các quyền lực lập pháp, tư pháp và hành pháp quan trọng về các vấn đề địa phương (giáo dục công, quản lý đất đai, các dự án đầu tư địa phương v.v.). Về các vấn đề này, thẩm quyền của chính phủ trung ương bị hạn chế và vì thế “các hòn đảo tự do” thay thế có thể tồn tại và điều chỉnh đời sống của các công dân địa phương với sự tự trị đáng kể.

66. THẢO LUẬN CÂN NHẮC CÔNG KHAI là một cơ chế phòng thủ trong các nền dân chủ tự do, ban cho nhân dân ảnh hưởng hữu hiệu đến cuộc sống của họ được quản trị thế nào. Việc đối xử với các công dân như những người tự do, có một tiếng nói về cuộc sống của họ được quản trị thế nào là một nguyên tắc then chốt nữa của chủ nghĩa hiến pháp, khung khổ tính chính danh bao quát của nền dân chủ tự do (Mệnh đề 43). Đảm bảo cho nguyên tắc này là sự thảo luận cân nhắc công khai: với quá trình của nó, nhân dân có thể đánh giá thành tích của chính phủ hiện hành và các lựa chọn thay thế khác nhau đối với nó (pha thảo luận, với một lĩnh vực truyền thông mở); có các lựa chọn thay thế cho chính phủ được thể hiện trong các cuộc biểu tình và các đảng chính trị (pha liên kết, với sự thực hiện tự do của quyền hội họp mà không có sự can thiệp nhà nước); chọn một lựa chọn thay thế trong một cuộc đua nơi nhân tố quyết định là họ thích ai hơn, không phải là người thao túng hệ thống bầu cử hay tiếp cận bất hợp pháp đến các lợi ích tiền bạc của chiến dịch vận động (pha bầu cử, với các cuộc bầu cử công bằng); có loại chính sách họ bỏ phiếu cho được hiện thân trong các luật (làm luật, với cơ quan lập pháp ra quyết định); và có các luật do các đại diện của họ tạo ra được thực thi, như thế cuộc sống của họ quả thực được quản trị theo cách họ đã chọn (pha thực thi, với sự bình đẳng sau luật).

Có thể thấy từ tổng quan này rằng sự hiện diện của một mình các cuộc bầu cử không có nghĩa là mọi người có một tiếng nói về cuộc sống của họ được quản trị ra sao. Việc tuyên bố khác đi đã được các học giả nhận diện như “sự ngụy biện của chủ nghĩa bầu cử,” phản ánh về các cuộc bầu cử mà những người đương nhiệm có thể thao túng để tạo ra kết quả họ muốn. Quyền của mọi người để chọn cuộc sống của họ được vận hành thế nào đòi hỏi việc biết các lựa chọn thay thế, và cả rằng các lựa chọn thay thế có một cơ hội để thắng cuộc bầu cử, thành lập chính phủ, và tạo ra các luật sẽ điều chỉnh cuộc sống của mọi người như họ muốn nó được điều chỉnh. Và vì quyền này nên được bảo đảm cho mọi công dân trong mọi thời kỳ, quá trình thảo luận cân nhắc công khai phải có tính chu kỳ. Mọi người sẽ phải có khả năng cách chức người đương nhiệm mà, đến lượt, phải không có khả năng thao túng sự cạnh tranh bầu cử khi đối mặt với việc mất sự mến mộ của nhân dân. Vì điều đó có nghĩa rằng ông ta cố bám lấy quyền lực bất chấp nhân dân đã thay đổi ý kiến của họ về cuộc sống của họ nên được quản trị thế nào.

Tóm lại, sự tách biệt của các nhánh quyền lực ngăn chặn các xu hướng chuyên quyền bằng việc hạn chế phạm vi cúa sự cai trị, cả theo chiều ngang và dọc, còn tính định kỳ của thảo luận cân nhắc công khai ngăn chặn các nhà chuyên quyền khỏi việc cai trị vĩnh viễn bằng việc bảo đảm khả năng loại bỏ (cách chức) và trách nhiệm giải trình. Hai môi trường thể chế này đảm bảo các động lực thù địch với chế độ chuyên quyền và thuận lợi cho sự cai trị dân chủ, hạn chế.

67. CHỦ NGHĨA BÈ PHÁI VÀ BỐN SỰ TỰ TRỊ CỦA XÃ HỘI DÂN SỰ là các đảm bảo xã hội cho hoạt động của các cơ chế phòng thủ của nền dân chủ tự do. Ngay cả nếu các quyền lực được tách biệt de jure, và các quyền (chính trị) cơ bản để tham gia vào thảo luận cân nhắc công khai được bảo vệ về mặt pháp lý, việc bảo đảm sự tách biệt và sự bảo vệ de facto có một điều kiện cơ bản: sự độc lập của những người vận hành các các định chế này. Một Cha Lập quốc Mỹ, James Madison lập luận một cách nổi tiếng rằng một hệ thống hiến định có thể tự-duy trì chỉ nếu các thành viên của mỗi định chế có càng ít sự phụ thuộc vào các định chế khác càng tốt, vì điều này là cái cho phép họ hành động tự do và đảm bảo rằng họ không bị ép buộc vào việc ủng hộ các định chế khác. Theo lời của Madison, châm ngôn của kiểm soát và đối trọng hữu liệu là như sau: “Tham vọng phải được thực hiện để chống lại tham vọng.” Để ngăn cản các xu hướng chuyên quyền hay “sự nhiễu loạn và sự yếu của các đam mê ngỗ ngược,” thì cần đến tính bè phái, có nghĩa là sự cạnh tranh của các nhóm độc lập với các lợi ích khác nhau tham gia vào thủ tục ra quyết định nhà nước. Vì không bè phái nào quan tâm đến sự cai trị độc nhất của một phe phái khác, chúng có một khuyến khích rõ ràng để chống lại các xu hướng chuyên quyền và cho sự tham gia của họ vào quá trình ra quyết định nhà nước; sự độc lập với diễn viên chuyên quyền cho phép họ làm vậy.

Lý lẽ của Madison ủng hộ chủ nghĩa bè phái liên quan đến các định chế công, tức là, sự tách biệt của các nhánh quyền lực, nhưng nó cũng rất có thể được mở rộng ra lĩnh vực tư nhân, cũng như ra toàn bộ quá trình thảo luận cân nhắc công khai. Điều này dẫn chúng ta đến sự tự trị của xã hội dân sự, được định nghĩa rộng như sự tự trị của bốn nhóm: sự tự trị của media, mà cho phép chúng phát các ý kiến phê phán mà không sợ các hậu quả từ nhà nước; sự tự trị của các doanh nhân, mà làm cho có thể để ủng hộ diễn viên chính trị nào họ muốn, còn cho đối lập nó tạo thuận lợi để gom các nguồn tài chính cần cho sự hoạt động hiệu quả; sự tự trị của các NGO, mà cho phép watchdog độc lập hoạt động để điều tra hoạt động của các định chế công; và sự tự trị của các công dân, mà có nghĩa rằng họ không thể bị ép buộc hay bị hăm dọa bằng các phương tiện tài chính, đặc biệt trong việc bày tỏ ý kiến của họ (trong pha thảo luận)chọn các nhà lãnh đạo của họ (trong pha bầu cử).

Bốn sự tự trị của xã hội dân sự là một đảm bảo xã hội chống lại chế độ chuyên quyền. Vì nó là mảnh đất, mà từ đó các trung tâm lựa chọn thay thế của quyền lực có thể lớn lên. Với các nhóm dân sự tự trị, nền dân chủ được bảo vệ, và các xu hướng chuyên quyền có thể bị đánh tan; không có chúng, thì không có cơ sở xã hội nào cho một đối lập hữu hiệu để nổi lên.

68. SỰ XÓI MÒN CỦA NỀN DÂN CHỦ TỰ DO CÓ BA GIAI ĐOẠN: mưu toan chuyên quyền, sự đột phá chuyên quyền, và sự củng cố chuyên quyền. một hệ thống đảng trong một nền dân chủ tự do có thể bị những sự chia tách sâu chia rẽ, và các đảng có thể tiến hành các tranh luận nảy lửa về các vấn đề chính sách, mà trong đó chúng giữ các lập trường ý thức hệ, hữu hay tả, đối chọi nhau.

Nhưng chúng làm vậy bên trong khung khổ của nền dân chủ tự do: chúng chất vấn chính sách của nhau, không phải tính chính danh của chúng, và chúng chấp nhận tính chính danh luật định-duy lý của hệ thống, tôn trọng các quy tắc hiến định của đấu trường chính trị. Hai đặc điểm này không được các nhà dân túy chia sẻ, những người tuyên bố mình là các đại diện hợp pháp duy nhất của nhân dân trong khung khổ của tính chính danh thực chất-duy lý (Mệnh đề 45).

Các nhà dân túy nắm quyền làm xói mòn nền dân chủ tự do, mà có thể được chia thành ba giai đoạn (Bảng 21). Đầu tiên, một mưu toan chuyên quyền gồm một loạt thay đổi thể chế chính thức do nhà dân túy khởi xướng và nhắm tới việc biến đổi có hệ thống một nền dân chủ sang một chế độ chuyên quyền. Các nhà dân túy dùng sự ủy thác dân chủ của họ để kết nối các nhánh quyền lực: để tăng cường sức mạnh của hành pháp, để thu hẹp thẩm quyền của các nhánh khác và của các chính quyền địa phương, và/hoặc để thay thế các thành viên lãnh đạo của chúng bằng những người trung thành cá nhân (các nô bộc bảo trợ; Mệnh đề 20). Việc nhồi tòa án (bằng người của mình), thay thế những người đứng đầu của các tòa án dân sự, tiếp quản cơ quan công tố bằng một nô bộc bảo trợ, việc làm yếu các chính quyền địa phương, đơn phương viết lại các quy tắc bầu cử, và thay đổi hiến pháp để mở rộng thẩm quyền hành pháp,… tất cả đều thuộc về kho vũ khí của một nhà dân túy thực hiện một mưu toan chuyên quyền.

Thành công của một mưu toan chuyên quyền phụ thuộc chủ yếu vào một nhân tố: liệu nhà dân túy có giành được độc quyền của quyền lực chính trị hay không, thường bằng việc thắng các cuộc bầu cử với siêu đa số. Nếu điều này xảy ra, nhà dân túy thực hiện một cuộc đảo chính hiến pháp. Không giống một cuộc đảo chính quân sự, một cuộc đảo chính hiến pháp duy trì tính liên tục pháp lý, và nhà dân túy không de jure loại bỏ sự tách biệt của các quyền lực. Nhưng họ kết nối các nhánh qua thẩm quyền của họ để bổ nhiệm các chư hầu theo một chiều dọc duy nhất, có được sự kiểm soát tân-gia sản đối với nhà nước (Mệnh đề 26). Như thế, nhà dân túy vô hiệu hóa cơ chế phòng thủ thứ nhất của nền dân chủ tự do, tức là, sự tách biệt của các quyền lực. Đây là điểm nơi chúng ta có thể nói, sau một mưu toan chuyên quyền, về một sự đột phá chuyên quyền.

Bước thứ ba và cuối cùng là sự củng cố chuyên quyền. Điều này có thể xảy ra chỉ nếu nhà dân túy cũng có thể vô hiệu hóa cơ chế phòng thủ thứ hai: nếu họ dùng quyền lực nhà nước để khuất phục bốn sự tự trị của xã hội dân sự, làm suy yếu đối lập hữu hiệu và quá trình thảo luận cân nhắc công khai.


Bảng 21: Các mức khác nhau của sự thay đổi chuyên quyền.

 

Elite chính trị lãnh đạo vô hiệu hóa thành công

Cơ chế phòng thủ thứ nhất (sự tách biệt các nhánh quyền lực)

Cơ chế phòng thủ thứ hai (sự tự trị của xã hội dân sự)

Mưu toan chuyên quyền

Sự đột phá chuyên quyền

X

Sự củng cố chuyên quyền

X

X