Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 29 tháng 6, 2025

Một tóm tắt về các chế độ hậu Cộng sản (kỳ 7)

 Tác gi: Magyar Bálint – Madlovics Bálint

Bản tiếng Việt: Nguyễn Quang A

Nhà xuất bản Dân Khí – 2025

 

80. KIỂU NỀN KINH TẾ dưới hình mẫu tham nhũng nhà nước tội phạm, hoạt động theo logic của các mạng lưới bảo trợ phi-chính thức, được gọi là một nền kinh tế quan hệ. Trong tiểu luận trứ danh của ông “The Economy as Instituted Process -Nền kinh tế như Quá trình được Thể chế hóa,” Polányi Károly (Karl) phân biệt ba hình thức tích hợp của nền kinh tế: có đi có lại, tái phân phối, và trao đổi. Như ông giải thích, có đi có lại “cho biết những chuyển động giữa các điểm tương quan của những sự tụ nhóm đối xứng; tái phân phối chỉ rõ những chuyển động chiếm đoạt hướng tới một trung tâm và lại từ đó; trao đổi nhắc đến ở đây những sự chuyển động vice-versa (ngược lại) xảy ra giữa ‘các bàn tay’ dưới một hệ thống thị trường.” Polányi nói thêm rằng, trong khi một cơ chế luôn luôn là chi phối trong một nền kinh tế, các cơ chế khác không bị loại bỏ mà tiếp tục cùng tồn tại với nó. Theo một cách tương tự, trong Hệ thống Xã hội chủ nghĩa Kornai János nói về các cơ chế điều phối khác nhau, đặc biệt các cơ chế liên quan đến sự phân đôi chính của môn kinh tế học so sánh của các hệ thống: chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.

Được Polányi và Kornai gây cảm hứng, chúng ta có thể xây dựng một loại hình học của các hệ thống kinh tế được phân biệt bởi các cơ chế chi phối của chúng (Bảng 25). Thứ nhất, cơ chế chi phối của một nền kinh tế thị trường là sự điều phối thị trường được điều chỉnh. Theo lời của Kornai (Hệ thống Xã hội chủ nghĩa, 1992), sự điều phối thị trường là “một sự liên hệ bên phụ, mối quan hệ ngang” nơi các cá nhân “ngang hàng nhau về mặt pháp lý,” và đóng vai trò của của những người bán và mua (90–94). Các quyết định tự nguyện của họ về việc mua và bán tạo thành lợi nhuận và lỗ, cung cấp một sơ đồ của các khuyến khích cho sự điều phối các hoạt động của những người kinh doanh. Tuy vậy, khi mô tả các nền kinh tế hiện đại ngày nay chúng ta không thể bỏ qua sự thực rằng chúng “được điều chỉnh” bởi một nhà chức trách trung ương, và các nền dân chủ tự do ngày nay là các nền kinh tế hỗn hợp như một tiêu chuẩn. Các cơ chế chi phối trong hai loại nền kinh tế khác là các kiểu tái phân phối theo nghĩa Polányian. Trong một nền kinh tế kế hoạch, cơ chế chi phối là tái phân phối quan liêu các nguồn lực. Trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, toàn bộ lĩnh vực hoạt động thị trường bị sáp nhập với lĩnh vực hoạt động chính trị trong một thực thể quan liêu đơn nhất, được điều phối qua kế hoạch tập trung. Trong hệ thống được chính thức hóa và chuẩn tắc này, nomenklatura (bộ máy chức danh) quyết định cả cơ cấu sở hữu và cơ cấu sản xuất với các chỉ tiêu vật lý (có nghĩa là, trong kế hoạch tập trung, các chỉ tiêu sản xuất được trình bày bằng các con số chính xác với các đơn vị tự nhiên và chất lượng).

Ngược lại, các chế độ chuyên quyền bảo trợ chỉ xác định cấu trúc sở hữu: nhà bảo trợ chóp bu không phải là nhà lập kế hoạch và nhà quản lý sản xuất, nhưng là nhà tái phân phối các thị trường và các cơ hội trục lợi (rent-seeking). Do đó, chúng ta nói về tái phân phối thị trường quan hệ, trong khi nền kinh tế không phải là một nền kinh tế kế hoạch mà là một nền kinh tế quan hệ. Hình mẫu tham nhũng có tính hệ thống của nhà nước tội phạm thấm vào nền kinh tế, điều chỉnh hoạt động của nó theo logic của các mạng lưới bảo trợ phi-chính thức. Nói cách khác, trong khi vẫn là tư bản chủ nghĩa theo nghĩa sự chi phối của tài sản tư nhân de jure, nhà bảo trợ chóp bu làm cho hệ thống bị nhúng về mặt bảo trợ: bị bảo trợ hóa về kinh tế và bị lệ thuộc vào các lợi ích của gia tộc chính trị nhận con nuôi.

Bảng 25: Nền kinh tế thị trường, nền kinh tế quan hệ, nền kinh tế kế hoạch.

81. TRONG MỘT NỀN KINH TẾ QUAN HỆ, RENT ĐƯỢC TẠO RA qua sự can thiệp nhà nước tùy ý, thay thế các thị trường-đóng một cách chuẩn tắc bằng các thị trường-đóng một cách tùy ý. Rent (tô) là lợi nhuận xuất phát từ sự thiếu cạnh tranh. Khi nhà nước điều chỉnh hoạt động kinh tế trong một thị trường hay ngành công nghiệp, nó đóng một thị trường mở: nó cấm các loại đối thủ cạnh tranh nào đó, và cho phép chỉ các đối thủ cạnh tranh thỏa mãn các tiêu chuẩn do nhà nước đặt ra (các tiêu chuẩn về chất lượng và an toàn, các giấy phép v.v.) để cạnh tranh. Việc này tạo ra các rào cản cho sự gia nhập, mà bảo vệ một phần những người đương nhiệm khỏi những người tham gia mới, tức là, khỏi sự cạnh tranh tiềm năng. Như một kết quả, những người đương nhiệm có thể giảm sản xuất và tăng giá—tóm lại, có thể đạt lợi nhuận cao hơn, các thứ khác ngang nhau. Rent là hiệu số giữa thu nhập lẽ ra đã là trong một thị trường mở và thu nhập thực sự, nảy sinh từ việc đóng thị trường với những người tham gia nào đó.

Rent cũng được tạo ra dưới sự điều phối thị trường được điều chỉnh của các nền kinh tế thị trường. Sự khác biệt then chốt giữa các nền kinh tế thị trường và các nền kinh tế quan hệ là, trong khi các nền kinh tế thị trường đóng các thị trường một cách chuẩn tắc, các nền kinh tế quan hệ đóng các thị trường một cách tùy ý (Bảng 26).

Sự tạo ra các thị trường đóng một cách chuẩn tắc là phần khăng khít của các nền kinh tế thị trường hiện đại, vì nhà nước cấm các loại sản phẩm nào đó (thuốc, thực phẩm không được phép v.v.), các hình thức sản xuất nào đó (mà không thỏa mãn luật lao động, các quy định môi trường v.v.), và các hình thức định giá nào đó (bán phá giá, cắt giảm giá săn mồi, đặt lương dưới lương tối thiểu v.v.). Nhưng trong các trường hợp như vậy, các rent do sự can thiệp nhà nước tạo ra là (1) chuẩn tắc, có nghĩa nó nhắm tới các nhóm kinh tế thỏa mãn các tiêu chuẩn bất luận chính xác ai thuộc về nhóm đó (phi-cá nhân với không tiêu chuẩn kép nào); (2) hợp pháp, có nghĩa là sự can thiệp nhà nước được thể hiện trong các luật, các quy định và các thuế chính thức; (3) được lobby bởi các nhóm lợi ích, tham gia vào một quá trình cạnh tranh rent-seeking.

Ngược lại, các rent trong một nền kinh tế quan hệ được tạo ra bởi sự can thiệp nhà nước mà là (1) tùy ý, có nghĩa là nó nhắm những người hay những công ty nào đó mà nhà bảo trợ chóp bu chọn để tác động đến (cá nhân với tiêu chuẩn kép); (2) kết hợp các yếu tố hợp pháp và bất hợp pháp, có nghĩa là sự can thiệp nhà nước thể hiện trong các luật chính thức cũng như các thực hành phi-chính thức; (3) nhận được bởi gia tộc chính trị nhận con nuôi, vì rent-seeking mất đặc trưng cạnh tranh của nó và rent được nhà bảo trợ chóp bu phân phối từ trên.

Bốn kỹ thuật của sự tạo ra rent tùy ý có thể được phân biệt một cách giải tích: (a) sự đối xử tùy ý chính thức, khi nhà nước ban lợi thế cạnh tranh cho một hãng nào đó bằng việc ban hành một lex được may đo (Mệnh đề 57); (b) sự đối xử tùy ý phi-chính thức, khi lợi thế cạnh tranh được trao bằng việc dùng các công cụ phi-chính thức, như sự thực thi pháp luật chọn lọc về mặt chính trị (Mệnh đề 60); (c) độc quyền hóa một thị trường, loại trừ tất cả mọi người khỏi một thị trường đang tồn tại trừ những người được ưu ái, nhận được một khoản tài trợ độc quyền rõ rệt trong một thủ tục tham nhũng từ trên xuống; và (d) sự tạo ra một thị trường, khi nhà nước ủy thác một hoạt động kinh tế trước kia không-tồn tại từ các diễn viên tư nhân và/hoặc hướng dẫn cầu nhân tạo cho công ty (các khoản mua sắm công được vống giá lên, các hợp đồng nhà nước được phân bổ một cách tùy ý v.v.).

Bảng 26: So sánh các thị trường đóng một cách chuẩn tắc và tùy ý.

82. TRONG MỘT NỀN KINH TẾ QUAN HỆ, CÁC QUYỀN TÀI SẢN   một đặc tính có điều kiện, liên tục bị đe dọa bởi sự săn mồi dùng các phương tiện cướp bóc xám và trắng. Trong một nền kinh tế thị trường, các quyền tài sản được giữ vững một cách phi-cá nhân. Như nhà kinh tế học được giải Nobel Douglass C. North và các đồng nghiệp của ông giải thích trong Violence and Social Orders (2009), các diễn viên kinh tế trong các trật tự tiếp cận-mở “không cần tham gia vào chính trị để duy trì các quyền, để thực thi các hợp đồng của họ, hay để bảo đảm sự sống sót của họ khỏi sự chiếm đoạt; quyền của họ để tồn tại và cạnh tranh không phụ thuộc vào việc duy trì các đặc quyền.”

Trong một nền kinh tế quan hệ, các quyền tài sản có một đặc trưng có điều kiện: tài sản của bất kể diễn viên nào có thể bị tiếp quản trên cơ sở tùy ý trong trường hợp họ thách thức các lợi ích của nhà bảo trợ chóp bu. Các sự tiếp quản như vậy được gọi là “reiderstvo-рейдерство” trong tiếng Nga, có gốc từ “raiding (đột kích, cướp bóc)” tiếng Anh. Tuy vậy, sẽ là lầm lối để cố gắng và áp dụng thuật ngữ như “đột kích công ty” hay “tiếp quản thù địch” ở đây theo ý nghĩa Tây phương của chúng. Vì các cuộc tiếp quản thù địch ở phương Tây hiếm khi được mô tả đặc trưng bởi sự dùng bất hợp pháp thẩm quyền công cộng, và bạo lực thân thể thậm chí còn hiếm hơn.

Reiderstvo có thể được định nghĩa như một kiểu săn mồi mà (1) nhắm mục tiêu các tài sản sản xuất, chủ yếu là các hãng, các công ty, và các doanh nghiệp, và (2) luôn luôn đi cùng các thực hành bất hợp pháp và dùng sự cưỡng bức vì lợi ích tư nhân. Một loại hình học của reiderstvo được tóm tắt trong Bảng 27, chỉ rõ các diễn viên liên quan cũng như môi trường chính trị-kinh tế mà trong đó các kiểu khác nhau thịnh hành. Khi năng lực nhà nước là thấp, mà đã là điển hình trong các tình trạng vô chính phủ tài phiệt hậu-cộng sản (Mệnh đề 30), hình thức điển hình của reiderstvo là cướp bóc đen. Cướp bóc đen là một kiểu reiderstvo được tiến hành bởi mối đe dọa trực tiếp hay dùng bạo lực thân thể (hành hạ thân thể, tống tiền bằng súng v.v.). Kiểu cướp bóc tiếp là cướp bóc xám, khi những người kẻ săn mồi dựa vào các nhà chức trách nhà nước tham nhũng hay bị bắt giữ. Những kẻ thực hiện cướp bóc xám không còn là các nhóm tội phạm mà là các thành viên của các cơ quan thẩm quyền công mức thấp hơn, mức địa phương. Họ có thể làm vậy vì lợi ích tư nhân của riêng họ hay được các nhà tài phiệt thuê để loại bỏ các doanh nghiệp đối địch. Nhà kinh tế học Stanislav Markus đưa ra một danh mục các dịch vụ và giá cả do các nhà hành chính thối nát đưa ra ở Nga trong giữa-các năm 2000, kể cả sự thanh tra hãng bị cơ quan thuế nhắm mục tiêu (4.000$), mở một vụ án hình sự chống lại các chủ của hãng mục tiêu (50.000$), một phán quyết tòa án thương mại chống lại hãng mục tiêu (10-100.000$) và thậm chí nhờ Bộ Nội Vụ bắt một đối thủ kinh doanh cạnh tranh (100.000$).

Hình thức cuối cùng của reiderstvo là cướp bóc trắng, nơi thay vì môi trường hợp pháp bị lạm dụng, nó được thích nghi và may đo cho các cá nhân và các công ty đơn lẻ theo một cách nhắm mục tiêu. Khi tài sản bị chiếm đoạt bởi các nhà chức trách đỉnh của nhà nước trung ương, thường với mệnh lệnh của và qua sự phối hợp với người giữ quyền lực hành pháp cao nhất, chúng ta nói về sự cướp bóc công ty do trung ương chỉ đạo, mà thường kết hợp những kỹ thuật cướp bóc xám và trắng. Đây là kiểu săn mồi mà nhà bảo trợ chóp bu tham gia, thường tiếp quản các công ty để tăng sự giàu có của bản thân ông và gia tộc chính trị nhận con nuôi của ông.

Sự cướp bóc công ty do trung ương chỉ đạo dùng các hành động tham nhũng được liên kết, nhờ đó các hành động mà tự chúng là bất hợp pháp—như tống tiền hay biển thủ quỹ—được kết hợp với các hành động mà tự chúng là không bất hợp—như các đề nghị được các đại biểu quốc hội độc lập hay kiểm toán điều tra thuế đệ trình. Việc này đòi hỏi biên độ rộng của tính tùy ý (Mệnh đề 28), hay sự kiểm soát hoàn toàn bộ máy nhà nước: dưới nhà bảo trợ chóp bu, các diễn viên từ mọi nhánh độc lập một cách chính thức và tự trị của quyền lực (từ cơ quan công tố đến cảnh sát, từ chính phủ đến quốc hội, từ cục cạnh tranh đến sở thuế và các cơ quan điều tiết khác nhau) hoạt động nhịp nhàng như các bánh răng trong bộ máy săn mồi của gới thượng lưu có tổ chức.

Bảng 27: Các kiểu và đặc điểm nhất định của reiderstvo trong các chế độ hậu-cộng sản.

83. TRONG MỘT NỀN KINH TẾ QUAN HỆ, QUỐC HỮU HÓA như một công cụ làm tăng sự giàu có của gia tộc chính trị nhận con nuôi xuất hiện trong ba hình thức: quốc hữu hóa trực tiếp, độc quyền hóa, và gián tiếp. Quốc hữu hóa, như được thực hành trong nhà nước mafia—sự tước đoạt tài sản tư nhân qua các công cụ của nhà chức trách công—trong chức năng của nó là khác cơ bản với thưc hành của nó cả trong các nền kinh tế thị trường và nền kinh tế kế hoạch. Trong một nền kinh tế thị trường, mặc dù các mục tiêu không-kinh tế có thể cũng xuất hiện giữa các động lực của nhà nước, hoạt động của tài sản bị quốc hữu hóa tuy nhiên vẫn phù hợp với lý do căn bản của thị trường. Trong các chế độ độc tài cộng sản, toàn bộ nền kinh tế được vận hành theo một cách không thể thay đổi và thuần nhất dưới quyền sở hữu của nhà nước—và sự ưu thế của chính trị.

Trong nhà nước mafia, quốc hữu hóa đồng thời được dùng để tăng sự giàu có của gia tộc chính trị nhận con nuôi, để cung cấp  tiền trả công được điều chỉnh cho những người được cấy vào chuỗi chỉ huy của nó, và để kiểm soát xã hội. Bảng 28 liệt kê vài phương pháp quốc hữu hóa, được phân loại theo loại quyền tài sản chúng vi phạm.

Thứ nhất, quốc hữu hóa trực tiếp vi phạm quyền cho sự an toàn và sự bảo vệ tài sản: nghĩa vụ của nhà nước để cung cấp sự bảo vệ các quyền tài sản tư nhân một cách chuẩn tắc, đối với mỗi người sống dưới thẩm quyền của nó. Loại này gồm tái-quốc hữu hóa (nhà nước chiếm đoạt hoàn toàn một công ty trước kia đã được tư nhân hóa trong một thời kỳ dài hơn), giải tư nhân hóa (mở rộng cổ phần nhà nước giữa các công ty đã tư nhân hóa), và cả quốc hữu hóa quá độ. Trong trường hợp sau cùng, công ty tư nhân của một diễn viên ngoài gia tộc chính trị nhận con nuôi bị đưa vào “sự chăm sóc nhà nước tạm thời,” và tái-tư nhân hóa cho các diễn viên được chọn vào thời gian muộn hơn. Trong pha quá độ của (tái-) quốc hữu hóa, các sản nghiệp tư nhân bị ép buộc vào quỹ đạo quyền sở hữu của gia tộc chính trị nhận con nuôi. Và quốc hữu hóa quá độ có cái nghịch đảo của nó, tư nhân hóa quá độ nữa, nơi một tài sản nhà nước tạm thời được tư nhân hóa sao cho nhà tài phiệt hay kẻ bù nhìn nhận được nó có thể lấy tiền ra khỏi nó, sau đó nhà nước mua lại nó (với giá nhiều lần của giá ban đầu như trong trường hợp của Stroytransgaz ở Nga hay Nhà máy Điện Mátra ở Hungary).

Loại thứ hai của quốc hữu hóa là quốc hữu hóa độc quyền hóa, mà vi phạm quyền để tiến hành một hoạt động kinh tế: nghĩa vụ của nhà nước để không đóng lối vào các thị trường tư nhân cho những người muốn tham gia và ở trong một vị thế để làm vậy, và không lấy mất cơ hội từ những người đã tham gia rồi. Bằng quốc hữu hóa độc quyền hóa, nhà nước không tước các chủ sở hữu doanh nghiệp của họ một cách trực tiếp nhưng độc quyền hóa hoạt động kinh tế được nói đến, sau đó nó hoặc tập trung hóa hay phân tán hóa trong dạng nhượng quyền (kinh doanh).

Cuối cùng, quốc hữu hóa gián tiếp vi phạm quyền với sự đối xử công bằng, tạo ra một môi trường kinh tế ngột ngạt cho các diễn viên kinh tế nào đó bởi sự can thiệp nhà nước. Trong quốc hữu hóa gián tiếp, nhà nước chiếm đoạt các vùng ven thị trường của một khu vực kinh tế cho trước mà không quốc hữu hóa trực tiếp các doanh nghiệp bên trong nó. Các biện pháp như dùng thẩm quyền nhà nước để quyết định giá, lập các thuế tùy ý hay điều chỉnh/hạn chế các lĩnh vực hoạt động qua các lex được may đo

để làm chảy máu các chủ doanh nghiệp, để chuẩn bị cho một sự quốc hữu hóa lâu dài hay quá độ của một doanh nghiệp, để đảm bảo sự lệ thuộc của những người chơi then chốt trong một khu vực. Quốc hữu hóa gián tiếp không nhất thiết biến thành quốc hữu hóa lâu dài hay quốc hữu hóa quá độ mà mở đường cho nhiều cách tiềm năng để bòn rút nguồn lực từ các doanh nghiệp.

Bảng 28: Các phương pháp quốc hữu hóa (các hình thức vi phạm các quyền tài sản ngoại sinh) trong các nhà nước săn mồi.

84. TRONG MỘT NỀN KINH TẾ QUAN HỆ, SỰ CƯỚP BÓC CÔNG TY  DO TRUNG ƯƠNG CHỈ ĐẠO được tiến hành theo ba pha: pha rình mồi, pha săn mồi và pha tiêu thụ. Trong một nền kinh tế thị trường, động học của sự chuyển giao quyền sở hữu được xác định một cách chi phối bởi các quyết định song phương, tự nguyện của những người mua và người bán. Khi đặc trưng của sự chuyển giao quyền sở hữu chuyển từ tự nguyện sang ép buộc, những người mua trở thành những kẻ săn mồi và người bán thành con mồi. Khi các diễn viên lấy các vai trò xã hội này, động học của sự chuyển giao quyền sở hữu chủ yếu được xác định bởi các quyết định đơn phương, ép buộc của những kẻ săn mồi.

Khi kẻ săn mồi là nhà bảo trợ chóp bu, chúng ta nói về sự cướp bóc công ty do trung ương chỉ đạo, quá trình đó có thể được chia thành ba pha liên tiếp (Hình 14). Trong pha rình mồi, nhà nước săn mồi tìm một con mồi. Không sự can thiệp nào xảy ra cả: mục tiêu tương lai vẫn hoạt động không bị quấy rầy. Nhưng kẻ săn mồi đánh giá liệu công ty có đáng được tiếp quản hay không. Về phần các lợi ích, hắn cần xem xét lợi ích chính trị, như việc tăng cường mạng lưới bảo trợ hay làm yếu một mạng lưới đối địch, cũng như lợi ích kinh tế. Cái sau gồm không chỉ giá trị thị trường của công ty, mà tác đông cung cấp nơi trú ẩn tiềm năng của hoạt động nhà nước (Mệnh đề 38) cũng như điều đó có thể được cung cấp sau khi tài sản được tiếp quản. Về phần chi phí, nó xem xét tính di động của con mồi (liệu nó có thể rời khỏi tầm với của kẻ săn mồi để thoát khỏi sự chiếm đoạt), tính không thể chiếm đoạt của nó (xuất phát từ tính đặc thù tài sản, chẳng hạn, sự hiểu biết đặc biệt để vận hành tài sản), và thiệt hại phụ mà sự tiếp quản có thể gây ra về mặt chính trị, kinh tế, và xã hội.

Khi con mồi được chọn, sự săn mồi bước vào pha săn. Pha săn bắt đầu với một lời chào mời không thể từ chối: giá đầu tiên được kẻ săn mồi định một cách đơn phương, và được đưa ra chào cho chủ sở hữu của công ty vì con mồi. Nếu người chủ từ chối, bất chấp năng lực ép buộc của kẻ săn mồi, quá trình phá vỡ tính toàn vẹn (liêm chính) bắt đầu, tại những điểm khác nhau với những sự chào mời mới (với giá ngày càng thấp). Như một kết quả của những sự can thiệp ad hoc chuẩn tắc và tùy ý khác nhau, giá trị của công ty trong con mắt thị trường giảm xuống. Nếu việc săn thành công, tài sản con mồi rơi vào quỹ đạo quyền sở hữu của gia tộc chính trị nhận con nuôi.

Ở đây chúng ta bước vào pha cuối cùng, pha tiêu thụ của sự săn mồi, khi giá trị chiến lợi phẩm được thực hiện khi nó được nhúng trong nền kinh tế quan hệ. Chúng ta có thể phân biệt bốn kiểu thuần túy của việc sử dụng công ty chiến lợi phẩm, bất kể sự kết hợp nào của chúng trong các trường hợp thế giới thực đều có thể: hoạt động thị trường cạnh tranh sau sự tăng cường một lần (ví dụ, một chuyển giao ngân sách duy nhất hay sự thay đổi về khung khổ điều chỉnh chuẩn tắc); thu gom-rent với sự can thiệp quy định tùy ý thích hợp (ví dụ, bằng việc nhà nước dẫn cầu nhân tạo cho công ty); xây dựng hay củng cố các mạng lưới bảo trợ với sự giúp đỡ của công ty (khi công ty có thể được dùng trong bộ máy chính trị, đặc biệt media); tái phân phối bên trong gia tộc chính trị nhận con nuôi (nếu nhà tài phiệt nhận chiến lợi phẩm trở nên không được ưu ái, các công ty của chính họ trở thành các con mồi).

Hình 14: Động học lý tưởng điển hình của giá trị thị trường cạnh tranh và quan hệ của các công ty con mồi. 

85. TRONG MỘT NỀN KINH TẾ QUAN HỆ, CÁC DIỄN VIÊN KINH TẾ CÓ THỂ THOÁT KHỎI SỰ CHIẾM ĐOẠT, bằng việc có giá trị rình mồi thấp, hay che giấu các tài sản của họ với những kỹ thuật kế toán kép và mẹo tài chính. Thông thường, nếu sự săn mồi được tiến hành vì lợi ích kinh tế, các công ty lớn được chọn, và hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa bị bỏ lại một mình (trong chừng mực liên quan đến săn mồi) bởi vì chi phí chiếm đoạt sẽ cao hơn lợi ích tiềm năng. Giáo sư Balogh Zoltán trong các năm 1970 đã gọi điều này, theo ngôn ngữ Marxist, là “giá trị thặng dư không thể thu được,” nhắc đến thời phong kiến ở các nước Scandinavia nơi hoàn cảnh thời tiết khiến cho lợi tức thu hoạch trung bình thấp đến mức chi phí của bộ máy thu thuế đã cao hơn bản thân thuế.

Nhưng ngay cả các công ty không bị nhắm mục tiêu trực tiếp cũng thay đổi hành vi của chúng. Quả thực, cái quan trọng trong một nền kinh tế quan hệ không phải là tỷ lệ nào của tài sản bị săn, mà là tài sản của bất cứ ai là một mục tiêu tiềm năng. Hoạt động săn mồi có một tác động báo hiệu, đưa vào các khuyến khích sai trái trong phần chưa bị sáp nhập của nền kinh tế quan hệ. Sớm hay muộn, các doanh nhân nhận ra rằng vấn đề chính của hoạt động trong một nền kinh tế quan hệ không phải là liệu họ có thể ở lại trong sự cạnh tranh thị trường công bằng mà là liệu họ có trở thành một phần của chuỗi thức ăn của nhà nước săn mồi hay không. Như một kết quả, họ có một khuyến khích để phân bổ các nguồn lực của họ không phải để tối đa hóa sản xuất thực mà để tối thiểu hóa giá trị rình mồi. Các công ty lớn có thể chia tách căn tính, hay chia công ty của họ thành các đơn vị nhỏ hay vừa như thế nó có thể trộn lẫn vào môi trường của khu vực SME (doanh nghiệp nhỏ và vừa), che giấu nó khỏi những con mắt rình mò của kẻ săn mồi. Các công ty khác có thể tham gia các phương pháp khác nhau về kế toán kép và mẹo tài chính.

Cho biết các thực hành như vậy phố biến thế nào trong vùng hậu-cộng sản, Ledeneva trong cuốn sách của mình How Russia Really Works? (2006) bà trích dẫn ngạn ngữ hậu-Soviet: “Nếu một công ty có lợi nhuận, nó có một kế toán viên tồi.” Ngoài sự chia tách căn tính và báo cáo thấp lợi nhuận ra, bà nhận diện những kỹ thuật thêm để tránh sự săn mồi như kế toán kép (tức là, một bộ sổ sách cho những người bên trong công ty và một bộ cho các cơ quan thuế), tháo dỡ tài sản (làm rỗng công ty được kỳ vọng bị tiêp quản), và các mẹo, thủ đoạn tài chính (dùng các công ty bình phong, các công ty offshore, và các hợp đồng giả để đẩy lợi nhuận ra khỏi sổ sách).

Trong một nền kinh tế thị trường, những kỹ thuật như vậy thường bị lên án như các phương tiện trốn thuế, hay hoạt động bên ngoài môi trường được điều chỉnh; trong một nền kinh tế quan hệ, chúng cho phép các tác nhân kinh tế tạo giá trị để bảo vệ tài sản và hoạt động kinh doanh của họ. Theo các ước lượng chuyên gia, nền kinh tế phi-chính thức chiếm ít nhất một nửa GDP của Nga. Tuy nhiên, sự tràn lan của các thực hành phi-chính thức cũng cho biết một mạng lưới đặc lợi mạnh bám chặt lấy sự tồn tại tiếp tục của họ, làm cho sự phát triển của một hệ thống thể chế chính thức kiểu Tây phương khó khăn hơn (cho dù có ý định chính trị để làm vậy).

86. MỘT NỀN KINH TẾ QUAN HỆ KHÔNG THỂ ĐƯỢC MÔ TẢ thỏa đáng trong paradigm “sự đa dạng của chủ nghĩa tư bản,” chỉ như một biến thể của chủ nghĩa tư bản chính trị. Văn liệu gần đây về các chế độ hậu-cộng sản đã cố gắng thâu tóm các hiện tượng liên kết với nền kinh tế quan hệ bên trong paradigm “sự đa dạng của chủ nghĩa tư bản.” Theo một nghĩa tối giản, nền kinh tế quan hệ là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, xét đến sự thống trị của tài sản tư nhân de jure (Mệnh đề 80). Nhưng việc biến điều này thành tiêu chuẩn chính của sự phân loại mang rủi ro của việc đánh đồng các nền kinh tế quan hệ, và các đặc tính sui generis của chúng, với các nền kinh tế kiểu Tây phương, cản trở sự hiểu về bản chất thực sự của chúng.

Theo nghĩa này, việc mô tả nền kinh tế quan hệ trong paradigm “sự đa dạng của chủ nghĩa tư bản” đúng là gây lầm lạc như việc mô tả nền chuyên quyền bảo trợ Nga hay Hungary như trong paradigm “sự đa dạng của nền dân chủ,” tức là, theo một kiểu-phụ bị bớt đi của nền dân chủ (Mệnh đề 2-3). Một mặt, sự phân nhóm có vẻ được biện minh bởi vì—de jure, trên mức chính thức—hệ thống có các định chế tương tự với khái niệm gốc. Mặt khác, sự phân nhóm không được biện minh bởi vì—de facto, trên mức phi-chính thức—hệ thống có các đặc tính khác rõ rệt, cũng là các đặc tính tạo thành-hệ thống mà bác bỏ bản sắc chính thức của hệ thống. Trong một nền kinh tế quan hệ, tài sản tư nhân de jure bị đan xen de facto với quyền lực chính trị, như được bày tỏ trong khái niệm về quyền lực&quyền sở hữu: không thể có quyền lực kinh tế mà không có quyền lực chính trị, hay ít nhất một tiền đặt cược trong hậu phương chính trị, và quyền lực chính trị không thể có mà không có quyền lực kinh tế (Mệnh đề 10).

Nếu chúng ta muốn nhấn mạnh bản chất tư bản chủ nghĩa của một hệ thống như vậy, đúng hơn chúng ta nên dùng khái niệm về “chủ nghĩa tư bản chính trị.” một thuật ngữ Weberian cũng được Randall G. Holcombe (Political Capitalism-Chủ nghĩa tư bản Chính trị, 2018) dùng một cách nổi bật, chủ nghĩa tư bản chính trị là một thuật ngữ bình phong cho các hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa được đặc trưng bởi sự tham nhũng đồng lõa của các diễn viên chính phủ mà số họ đủ lớn để ảnh hưởng đến cơ chế kinh tế chi phối của nền kinh tế (Bảng 29). Hình thức thấp nhất trong loại hình học của chúng ta là chủ nghĩa tư bản cánh hẩu (thân hữu): ở đây, các thân hữu khởi xướng các giao dịch tham nhũng thi thoảng mà không có các chuỗi bảo trợ, dẫn đến một nhà nước rent-seeking (trục lợi) với cạnh tranh tự do vì rent (gia nhập tự do, rời đi tự do; Mệnh đề 24). Khi tham nhũng không còn là tự nguyện nữa, mà là một loại bắt giữ, thì câu hỏi là liệu nó là nhà nước bị bắt giữ từ dưới lên—trong trường hợp đó chúng ta nói về chủ nghĩa tư bản tài phiệt—hay sự bắt giữ nhà nước từ trên xuống—trong trường hợp đó chúng ta nói về chủ nghĩa tư bản bảo trợ mà có thể được liên kết tốt nhất với nền dân chủ bảo trợ.

Cuối cùng, chúng ta đến nền kinh tế quan hệ khi chúng ta nói về chủ nghĩa tư bản mafia. Hệ thống này được đặc trưng bởi logic nội tại của sự tích tụ quyền lực và của cải, tập trung cả hai vào tay của gia tộc chính trị nhận con nuôi bằng phương tiện của văn hóa mafia được nâng lên địa vị của chính trị trung tâm. Trong khung khổ giải tích này, thực tế của hậu-chủ nghĩa cộng sản có thể được tiết lộ, và các đặc tính như quyền lực&quyền sở hữu, sự can thiệp nhà nước tùy ý, sự săn mồi, và tham nhũng từ trên xuống có thể được đặt vào chỗ đúng của chúng: như các yếu tố thiết yếu xác định hệ thống, và không phải như một số tác động phụ kỳ lạ nào đó trong một chủ nghĩa tư bản về cơ bản kiểu-Tây phương.

Bảng 29: Các kiểu chủ nghĩa tư bản chính trị.

Chế độ độc tài khai thác thị trường: Sự cùng tồn tại của ba Cơ chế Kinh tế ở Trung Quốc

87. CÁC NỀN KINH TẾ THUỘC KIỂU CHẾ ĐỘ TRUNG GIAN nền dân chủ bảo trợ, nền chuyên quyền bảo thủ, và chế độ độc tài khai thác thị trường — là các hỗn hợp của các nền kinh tế của các kiểu cực. Trong khung khổ tam giác (Mệnh đề 12), nền dân chủ tự do, nền chuyên quyền bảo trợ, và chế độ độc tài cộng sản là các chế độ kiểu cực, không chỉ vì tầm quan trọng thực nghiệm của chúng. Chúng là các cực định hình-ngôn ngữ. Các kiểu chế độ này mà đòi hỏi ngôn ngữ riêng của chúng: một bộ phân biệt của các khái niệm phản ánh các đặc trưng sui generis của chế độ. Ngược lại, những kiểu trung gian—nền dân chủ bảo trợ, chế độ chuyên quyền bảo thủ, và chế độ độc tài khai thác thị trường—có thể được thâu tóm bởi các ngôn ngữ hỗn hợp, được xây dựng từ các ngôn ngữ chính của các cực định hình-ngôn ngữ.

Logic là tương tự như logic của một bánh xe màu: các ngôn ngữ của ba chế độ kiểu cực giống các màu chính (đỏ, vàng, xanh) mà không thể được trộn từ bất kể màu nào khác; trong khi các ngôn ngữ của ba kiểu trung gian giống các màu thứ cấp (cam, tía, xanh lá cây) như chúng có thể được trộn từ các ngôn ngữ chính của các kiểu cực lân cận của chúng.

Cho nền dân chủ bảo trợ, chúng ta cần kết hợp các khái niệm chủ yếu từ nền dân chủ tự do (mạng lưới quyền lực nhiều-kim tự tháp) và nền chuyên quyền bảo trợ (chủ nghĩa bảo trợ phi-chính thức); cho chế độ chuyên quyền bảo thủ, chúng ta cần kết hợp các khái niệm chủ yếu từ nền dân chủ tự do (nền kinh tế không-bảo trợ) và chế độ độc tài cộng sản (chủ nghĩa bảo trợ quan liêu). Logic này cũng áp dụng cho các nền kinh tế của chúng: nền dân chủ bảo trợ có một nền kinh tế thị trường “hỗn hợp” với một đa số  thị trường cạnh tranh(ít nhiều nhẹ) và một thiểu số thị trường quan hệ(ít nhiều nhẹ), còn nền chuyên quyền bảo thủ có một nền kinh tế thị trường “hỗn hợp” với một đa số của các thị trường cạnh tranh (ít nhiều nhẹ) và một thiểu số của các thị trường hành chính (ít nhiều nhẹ).

Tình hình trong các chế độ độc tài khai thác-thị trường là phức tạp hơn. Ngôn ngữ của nó được xây dựng chủ yếu từ các kiểu lân cận của nó, chế độ độc tài cộng sản (chủ nghĩa bảo trợ quan liêu) và nền chuyên quyền bảo trợ (chủ nghĩa bảo trợ phi-chính thức). Nhưng trong trường hợp này, các khái niệm từ nền kinh tế tư nhân và sự điều phối-thị trường được điều chỉnh cũng cần được “trộn” vào ngôn ngữ. Nền kinh tế của các chế độ độc tài khai thác-thị trường, mà ví dụ mẫu mực của nó trong vùng hậu-cộng sản là Trung Quốc, cho thấy một cân bằng động của ba cơ chế kinh tế, nơi gần như là không thể để nói kiểu thị trường nào thống trị theo nghĩa rằng nó sẽ “dẫn dắt” các kiểu (phụ) khác. Trong vùng hậu-cộng sản, các chế độ độc tài khai thác-thị trường phát sinh từ các chế độ độc tài cộng sản, một mặt, giữa lại đảng nhà nước và thiếu đối lập chính trị, trong khi, mặt khác, thiết lập lĩnh vực kinh tế tự do một phần.

88. TRONG MỘT CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI KHAI THÁC THỊ TRƯỜNG, TÁI PHÂN PHỐI NGUỒN LỰC đi cùng với sự điều phối thị trường được điều chỉnh qua sự cân nhắc mở cửa cấu trúc sản xuất. Một mô hình giải tích so sánh cho các chế độ với đảng nhà nước được Csanádi Mária đưa ra trong cuốn sách của bà Self Consuming Evolutions-Những sự Tiến hóa Tự Cưỡng đoạt (2006). Bà nhận diện các hình mẫu lý tưởng điển hình của mạng lưới đảng-nhà nước được phân biệt trên cơ sở sức mạnh mặc cả—được định nghĩa như năng lực để bòn rút, thu hút và phân phối các nguồn lực (kinh tế) và để kháng cự những sự can thiệp nhà nước—được phân bố thế nào giữa các diễn viên (Bảng 30). Trong hình mẫu mà bà gọi là “tự-khai thác,” quyền lực được tập trung vào tay nomenklatura mức-đỉnh. Những người lập kế hoạch tập trung điều phối quá trình quan liêu tái phân phối-nguồn lực với ít phản hồi, vì các chủ thể bên dưới họ có năng lực hạn chế để kháng cự hay mặc cả. Chúng ta có thể thêm rằng nền kinh tế kế hoạch cũng là một cấu trúc sản xuất toàn trị đóng: tất cả mọi người được phép sản xuất chỉ những gì được phân cho họ, và không có các thị trường chính thức nơi các sản phẩm được sản xuất vượt kế hoạch có thể được bán và mua với giá thị trường. Tóm lại, đấy là mô hình lý tưởng điển hình của nền kinh tế kế hoạch cộng sản.

Sự tiến hóa của các chế độ độc tài cộng sản tới chế độ độc tài khai thác-thị trường có nghĩa là một sự thay đổi mô hình mà không có một sự thay đổi chế độ: hệ thống vẫn là một chế độ độc tài và đảng nhà nước giữ lại bá quyền của nó trong lĩnh vực hoạt động chính trị. Tuy vậy, trong khi các đặc điểm chính của mạng lưới đảng-nhà nước trong hình mẫu tự-khai thác đã là (1) sự tập trung quyền lực và (2) biến đổi có nghĩa rằng đảng nhà nước từ bỏ chính xác hai nét đặc trưng này. Trong các chế độ độc tài khai thác-thị trường, quyền lực—theo thuật ngữ của chúng ta, việc lập kế hoạch tái phân phối nguồn lực một cách quan liêu—được phân cấp, phi tập trung hóa, và cấu trúc sản xuất mở ra bên trong khung khổ của hệ thống đảng nhà nước. Vì thế quốc gia chuyển từ mô hình “tự-khai thác” sang một mô hình “tự-rút lui.”

Bảng 30: Các hình mẫu lý tưởng điển hình của phân bố quyền lực theo mô hình Đảng-Nhà nước Tương tác (IPS-Interactive Party-State) của Csanádi Mária.

Quá trình này xảy ra ở Trung Quốc qua một loạt cải cách từ từ: quyền ra quyết định nhiều hơn (về sản xuất, tiếp thị, các quyết định đầu tư, nhân viên v.v.) được ủy thác cho các mức dưới quốc gia và cho các doanh nghiệp sở hữu nhà nước; các hợp tác xã nông nghiệp bị giải tán, và một hệ thống khoán hộ được đưa vào; thu hẹp phạm vi và số lượng sản xuất bắt buộc; một hệ thống hai giá được đưa vào, cho phép các chủ thể bán các sản phẩm vượt kế hoạch của họ với giá thị trường; thị trường được “mở” khi các doanh nhân bên ngoài mạng lưới được cho phép, cả dưới dạng FDI và các đầu tư mới địa phương. Điều này giải thích sự phân bố nguồn lực quan liêu và sự điều phối thị trường được điều chỉnh pha trộn và hình thành một cân bằng động thế nào.

89. TRONG MỘT CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI KHAI THÁC THỊ TRƯỜNG, ĐIỀU PHỐI THỊ TRƯỜNG ĐƯỢC ĐIỀU CHỈNH dẫn đến sự quá nóng đầu tư và sự rút lui của mạng lưới đảng-nhà nước. Sự điều phối thị trường được điều chỉnh trong một chế độ độc tài khai thác thị trường vẫn khá nhạy cảm với động học của mạng lưới đảng-nhà nước ban đầu. Điều này được minh họa bởi đầu tư quá nóng do nền kinh tế mới tạo ra (Hình 15). Trong các chế độ độc tài cộng sản, các nhà lập kế hoạch trung ương cố gắng đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế bằng hoạt động mở rộng đầu tư. Nếu kế hoạch đánh giá quá cao các năng lực của nền kinh tế—thường bởi vì sự mặc cả kế hoạch và báo cáo láo—mạng lưới đối mặt với ràng buộc sản xuất cứng, và sự không thỏa đáng của các nguồn lực buộc đảng nhà nước ngừng mở rộng, dẫn đến một hình mẫu chu kỳ đầu tư.

Trong các chế độ độc tài khai thác-thị trường, các chu kỳ đầu tư cả được khuếch đại và dùng cho sự tự-tái sản xuất mở rộng của mạng lưới. Một mặt, chúng được khuếch đại vì các thị trường cạnh tranh bên ngoài mạng lưới cố gắng thích nghi với các ưu tiên phân bổ của mạng lưới thay vì thích nghi với cầu thị trường thực sự. Như một kết quả, biên độ của sự quá nóng đầu tư mở rộng. Mặt khác, đảng nhà nước bây giờ có thể không chỉ “đạp phanh” để ngừng đầu tư mà cũng đánh thuế các thị trường mới nổi được hợp pháp hóa mà đang quá nóng. Điều này có nghĩa rằng các ràng buộc sản xuất cứng được mềm hóa, và mạng lưới có khả năng tự-tái sản xuất được mở rộng, đi cùng với sự tăng trưởng của các thị trường cạnh tranh được cân bằng.

Điều này dẫn chúng ta đến câu hỏi vì sao nhà nước đảng cộng sản tiến hành thay đổi mô hình. Câu trả lời là không hiển nhiên: như một kết quả của việc để cho các thị trường cạnh tranh phát triển, mạng lưới đảng-nhà nước rút lui cả về mặt tuyệt đối và tương đối vis-à-vis khu vực tư nhân. Trong khi người ta có thể cho rằng nó giữ các vị trí thống trị của nó trong các ngành chiến lược, và ảnh hưởng đến các thị trường mới nổi, nó mất sự thống trị nó đã có trong môi trường toàn trị của chế độ độc tài cộng sản.

Sự xuất hiện của của một nền kinh tế tư nhân cũng đưa đến sự tự trị và chủ quyền cá nhân, mà gây nguy hiểm cho tính không thể chia cắt quyền lực của đảng nhà nước.

Lý do để vẫn tiến thành các cải cách mà cho phép điều này là sự leo thang của các nguồn lực mới và tăng trưởng kinh tế do chúng mang lại. Nền kinh tế càng phát triển, đảng nhà nước có thể bòn rút càng nhiều nguồn lực từ nó, tiêu chuẩn sống của nhân dân càng cao, và tính chính danh của đảng nhà nước có thể được kéo dài. Vì thế chúng ta gọi kiểu chế độ này là một chế độ độc tài “khai thác-thị trường:” duy trì độc quyền chính thức của quyền lực chính trị, đảng nhà nước thả tự do (một phần) lĩnh vực hoạt động thị trường như thế nó có thể thu các thành quả của nó về mặt tính chính danh chính trị, sự tự-tái sản xuất kinh tế, và sự ổn định xã hội.

Hình 15: Các chu kỳ đầu tư trong chế độ độc tài khai thác thị trường Trung quốc.

 Ghi chú: làn sóng thứ nhất đã là sử mở rộng một lần, còn các làn sóng khác tiếp tục mở rộng nền kinh tế tư nhân song song với các làn sóng trước.

90. TRONG MỘT CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI KHAI THÁC THỊ TRƯỜNG, TÁI PHÂN PHỐI THỊ TRƯỜNG QUAN HỆ nổi lên như một hệ quả không lường trước của sự phi tập trung hóa (phân quyền). Trong khi sự đưa điều phối thị trường được điều chỉnh vào là một quá trình được đảng nhà nước khởi động với sự cân nhắc, sự xuất hiện của thị trường-tái phân phối quan hệ đúng hơn là một hệ quả không dự kiến trước của sự thay đổi mô hình sang chế độ độc tài khai thác-thị trường. Lý do chính là sự phi-tập trung quyền lực mà không có cạnh tranh mà đảng trao cho các nhà lãnh đạo đảng địa phương một độc quyền địa phương về quyền lực chính trị. Như chuyên gia tham nhũng Trung quốc Jiangnan Zhu giải thích, “sự ủy thác trách nhiệm lớn hơn cho các chính quyền mức thấp hơn để tối ưu hóa sự tăng trưởng kinh tế […] tình cờ [dẫn đến] sự phát triển của nhiều ‘vương quốc địa phương hay dọc’ đóng, độc lập với sự giám sát trung ương và giám sát công chúng.” (“Corruption Networks in China” 32–33.) Ở mức địa phương của hệ thứ bậc bảo trợ quan liêu, các nguồn lực được phân từ trung ương cũng như thu nhập thuế của các công ty đăng ký ở địa phương được các bí thư đảng địa phương quản lý, mà có thể dễ dàng sử dụng vị trí này để phát triển các mạng lưới bảo trợ lớn.

Sự thực rằng các thị trường cạnh tranh được xây dựng trên các thị trường hành chính làm cho sự phân phối-thị trường trở thành một quyền lực tùy ý của các bí thư đảng. Trong khi các thị trường cạnh tranh có bắt đầu phát triển bên ngoài mạng lưới đảng-nhà nước khi cấu trúc sản xuất được mở ra, đảng nhà nước giữ sự kiểm soát chặt chẽ đối với hầu hết dự án đầu tư: lãnh đạo đảng địa phương quyết định về ai có thể tham gia vào một thị trường mới được thiết lập và ai không thể. Về lý thuyết, các chính quyền địa phương có thể đưa ra các quy định chuẩn tắc, nhưng trong thực tiễn các quy định có khuynh hướng là tùy ý, và sự ủy thác các quyền ra quyết định kinh tế cho các chính quyền địa phương thường dẫn đến sự bảo trợ hóa và gia sản hóa kinh tế. Kết quả của các nhân tố này là việc sáp nhập các thị trường cạnh tranh qua sự bắt giữ nhà nước từ trên xuống.

Các nhà bảo trợ chóp bu địa phương có thể dùng các phương tiện đạo tặc (như khi các cán bộ đảng Trung quốc đòi một phần của lợi nhuận công ty, thực tế là tiền bảo kê, trong sự trao đổi cho việc cung cấp các dịch vụ hành chính) hay thậm chí các phương tiện săn mồi (như sự ăn cắp có tính hệ thống các tài sản công và tư). Phụ thuộc vào kiểu tham nhũng chúng đại diện, chúng ta có thể nói về các nhà nước đạo tặc tiểu-vương hay các nhà nước mafia tiểu-vương như một kết quả. Trong các nhà nước mafia lớn như nước Nga, các nhà nước mafia tiểu-vương là các chính quyền địa phương thực hiện ở mức nhỏ đúng những gì mà chính phủ trung ương làm trong mức độ lớn, theo sự cho phép phi-chính thức của trung ương (Mệnh đề 108); trong các nhà nước lớn không-mafia như Trung Quốc, các thực thể như vậy nảy sinh ngược lại với ý định của ban lãnh đạo trung ương, và sự hoạt động quan hệ của chúng có tính tàn phá cho đảng nhà nước được cải cách.