Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 26 tháng 6, 2025

Một lần làm xe ôm cho anh Bùi Ngọc Tấn

 Nguyễn Trọng Chức

Tác giả Chuyện kể năm 2000 qua đời vào cuối năm 2014. Tôi không đến được Hải Phòng ngày anh mất để thắp nén hương tưởng niệm. Nhưng năm năm sau, tôi có mặt bên ngôi mộ mới của anh cùng với nhiều bạn hữu. Được quen biết rồi kết thân với Bùi Ngọc Tấn là cái duyên may trong đời một người làm báo.

“[...] Phạm Đức, Cao Giang, Lê Hùng xiết tay tôi thật chặt. Cái xiết tay của các anh nói với tôi rằng tình hình rất gay go nhưng chúng ta tin rằng chúng ta đã làm một việc tốt và quyết đứng vững.  Vừa uống xong chén nước, cửa phòng biên tập bật mở. Một phụ nữ cao lớn, áo bành tô không cài khuy bước vào. Tôi chưa gặp chị bao giờ còn chị tươi cười chào tôi rất thân mật:

- Em chào anh Tấn.

Tôi đứng lên bắt tay chị. Chị ngồi xuống chiếc ghế đối diện. Hoàn toàn cởi mở như đã quen tôi từ lâu, như mọi người đang có mặt trong phòng là gia đình chị:

- Anh còn bộ nào không? Để cho em một bộ.

Tôi hơi hoang mang về cách đặt vấn đề hồn nhiên của chị ngay trong nhà xuất bản đang yêu cầu tôi nộp lại toàn bộ số sách bị nhà nước cấm mà danh nghĩa tôi đang giữ:

- Tôi hết mất rồi chị ạ.

Vẫn hồn nhiên như vậy, chị nói:

- Em có người bạn bay từ TP. HCM ra chỉ để mua bộ sách của anh mà không mua được lại bay vào. Người ta nhờ em kiếm cho một bộ.

Rồi lắc đầu cười:

- Không biết ông ta có bao nhiêu tiền mà ghê thế.

Đó là chị Hoàng Việt Hằng, vợ nhà văn Triệu Bôn.

Cái ông “không biết có bao nhiêu tiền mà ghê thế” này ngẫu nhiên tôi cũng đã gặp. Phải năm, sáu năm sau. Đó là “ông” Nguyễn Trọng Chức, thư ký tòa soạn báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật. Một hôm, tôi đang ở nhà vợ chồng Hải Yến, con gái tôi tại TP. HCM, thì nhận được điện thoại của Nguyễn Duy mời đến nhà uống rượu với Nguyễn Quang Sáng và mấy bạn đọc Việt kiều. Lát sau, một người cao lớn râu ria đi chiếc xe máy kềnh càng đen chũi đến nhà làm xe ôm. Người xe ôm này phóng xe với tốc độ kinh hoàng, luôn nhầm đường, phải quành đi quành lại. Tôi bảo anh đi chầm chậm thôi. Anh cười, dọa dẫm:

- Đèo anh, em đi thế là chậm rồi. Chốc nữa đưa anh về, em sẽ đi xe một bánh thôi cho nhanh, để chị đỡ mong.

Người lái xe ôm đó là Nguyễn Trọng Chức. Chức bảo tôi:

- Hỏi anh không được, chị Hằng đã gặp Lam Luyến, mua được một bộ gửi cho em rồi…”.

Đó là một đoạn trích trong Thời biến đổi gien (còn gọi là Hậu chuyện kể năm 2000). “Chiếc xe máy kềnh càng đen chũi” đó là con xe Honda Benley 125 cc mà tôi rất ưa thích, chạy trong nhiều năm, chỉ tới lúc nghỉ hưu mới bàn giao cho con trai.

Chuyện thế này. Sài Gòn Tháng Ba 2000, thông tin về cuốn tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 – một dạng như Quần đảo Gulag của nhà văn Nga Aleksandr Solzhenitsyn – đã lan rộng, gây xôn xao giới văn nghệ báo chí. Hỏi thăm những người quen thân làm xuất bản, tôi chỉ nhận được cái lắc đầu “Khó kiếm lắm”. Thế rồi có tin Chuyện kể năm 2000 sẽ bị tịch thu và tiêu hủy nên tôi vội tìm cách bay ra Hà Nội những mong sẽ có được một bộ.

Đến Hà Nội vào một buổi sáng trời đang rét căm căm, tôi gọi ngay cho nhà thơ Hoàng Việt Hằng, một người bạn và cũng là cộng tác viên của báo Tuổi Trẻ, nhờ chị tìm giúp một bộ. Nhưng mấy ngày ở thủ đô không có kết quả gì. Chị Hằng bảo tôi cứ về, sẽ cố gắng tìm để gửi vào. Không ngờ chỉ ít lâu sau tôi đã nhận được sách từ một bạn viết ở Hà Nội mang vào. Tất nhiên tôi “kín như bưng” chuyện mình đã có được Chuyện kể năm 2000 và say sưa đọc, đúng hơn là thưởng thức từng trang, từng dòng của bộ sách quý.

Thật ra, không phải đến bữa làm tài xế “xe ôm” chở anh Bùi Ngọc Tấn đến nhà Nguyễn Duy là lần đầu tiên tôi gặp được nhà văn mình yêu mến, kính trọng, sau khi đã đọc Chuyện kể năm 2000, rồi tìm đọc những gì anh đã viết và được xuất bản trước đó như Nguyên Hồng thời đã mất, Một thời để mất. Tôi cũng đã mấy lần trò chuyện với anh qua điện thoại sau khi được đọc tác phẩm của anh. Có bận anh gửi truyện của một tác giả trẻ ở Hải Phòng, nhắn nếu có thể đăng được thì báo cho anh biết.

Cuộc gặp đông vui tại nhà Nguyễn Duy là vào ngày 20-8-2006. Có các anh Nguyễn Quang Sáng, Ngô Thảo, Nam Dao (từ Canada về). Thế nhưng trước đó, ngày 16-2-2006 sau khi dự khai mạc Trại sáng tác điêu khắc quốc tế tại Hòn Dáu (Hải Phòng), trên đường về Hà Nội, đi ngang thành phố Hải Phòng, tôi và mấy người bạn bảo nhau phải ghé thăm anh Bùi Ngọc Tấn dù lúc đó trời đã tối hẳn. Chúng tôi gọi điện thoại, anh Tấn đáp: “Đến chơi nhé, anh chưa ngủ đâu”. Anh Tấn và chị Bích, vợ anh, đang sống trong căn hộ trên đường Điện Biên Phủ, nơi – theo lời dịch giả Dương Tường – anh đã sống và làm việc từ năm 1959.

Chúng tôi lên tầng trên bằng cầu thang gỗ cũ kỹ, trong ánh sáng vàng vọt của bóng điện nhỏ, thấy anh Tấn đã đứng đón để mở cửa căn phòng làm việc phía trước của anh (phòng của anh chị phía sau). Trong phòng có treo nhiều tranh chân dung anh của các họa sĩ Nguyễn Thanh Bình, Đỗ Phấn, Lê Đại Chúc… cùng bộ computer còn mới. Trông anh khỏe mạnh, sôi nổi và tươi vui với bao chuyện đã qua, đặc biệt là sau chuyến đi hai tháng năm 2004 đến nhiều nước châu Âu, được nhiều bạn đọc Chuyện kể năm 2000 tiếp đón ân cần, nồng hậu. Có chai rượu trên bàn trà, anh rót cho chúng tôi người một ly nhỏ. Rồi anh bật máy tính, cho chúng tôi xem nhiều hình ảnh của chuyến Âu du. Với bộ máy tính ấy, anh đang viết dở tiểu thuyết trường thiên Biển và chim bói cá và nhiều truyện ngắn đã in trong các tập truyện và ký, trong đó có Người chăn kiến.

Xin ngắt ở đây một lát: Tháng Tám 2014, khi đến Bến Tre thăm nhà văn Trang Thế Hy, tôi mang theo tập Người chăn kiến vì lần thăm trước, ông nói muốn đọc Bùi Ngọc Tấn. Tôi chọn tập truyện ngắn trên vì có nhiều truyện rất hay, vài truyện kể chuyện tù đày hết sức ám ảnh, lại không quá dài, hợp với một người tuổi đã ngoài chín mươi như chú Tư (cách tôi thường gọi nhà văn già xứ dừa). Ông già cảm động, mở trang đầu tập truyện, nắn nót viết: “Của Nguyễn Trọng Chức tặng. Bến Tre ngày 6-8-2014”. Không ngờ chỉ hơn một năm sau chú Tư ra đi, tôi nghĩ có lẽ Người chăn kiến là sách văn học ông đọc lần cuối trong đời.

Cũng từ cuộc vui ở nhà Nguyễn Duy, sau này mỗi lần vào Sài Gòn, anh Bùi Ngọc Tấn đều gọi cho tôi nhắn đến chơi (nhà gia đình cô Hải Yến, con gái anh trên đường Nguyễn Xí, quận Bình Thạnh, không xa nhà tôi), hay qua một bạn đọc thân thiết của anh là Nguyễn Đức Thành, mời tôi cùng đi ăn sáng, cà phê với anh. Có hôm lại rủ cả Nguyễn Duy đi ăn món lẩu nấm mà anh ưa thích.

Tháng 11-2008, tôi đi Mỹ nhiều ngày, qua nhiều tiểu bang. Trước khi đi, tôi gọi báo tin cho anh Tấn, hỏi anh có cần gì để tôi tìm, nhất là thuốc tây vì anh đang nhiều bệnh. Anh nói: “Em có thấy ở đâu có bán Chuyện kể năm 2000 in tại Mỹ thì mua giúp anh, anh đang sưu tầm bản in Chuyện kể năm 2000 từ nhiều nước nhưng chưa có bản in ở Mỹ”. Nghĩ rằng sẽ không khó tìm sách, tôi đã mạnh miệng hứa sẽ mang đầy đủ về cho anh, không ngờ là dù đã đến khá nhiều nhà sách ở những thành phố đã đi qua, nhiều nhất là tại khu vực Quận Cam của Cali nhưng tôi đã không thể nào tìm thấy sách, đơn giản vì sách đã in khá lâu rồi, không còn nữa.

Ở Westminster, quận Cam, tôi có hai ngày trọ mobile home của họa sĩ Nguyễn Đình Thuần, một điểm tụ tập của nhiều anh em từ Việt Nam sang. Nguyễn Đình Thuần cho biết ông Phan Nhật Nam ở cách đó chỉ vài trăm mét. Thế là tôi nhờ anh Thuần dẫn qua nhà tác giả Mùa hè đỏ lửa – tác phẩm mà tôi đọc không biết bao nhiêu lần trước 1975, giờ được gặp tác giả thì không gì bằng.

Trong khi chuyện trò với Phan Nhật Nam (ông vừa nói vừa ngồi gõ computer, xin lỗi vì đang mạch viết dở dang), tôi thấy trên kệ sách chật cứng của ông có hai tập Chuyện kể năm 2000. Mừng quá, tôi kể lại chuyện đi tìm sách cho anh Tấn rồi dè dặt hỏi Phan Nhật Nam, rằng liệu anh có giúp tôi thực hiện lời hứa đó với Bùi Ngọc Tấn, thế là cha đẻ của Dấu binh lửa, Dọc đường số 1 mau mắn đến rút ngay hai tập Chuyện kể… đưa cho tôi nhờ chuyển tặng anh Tấn. Không ngờ, năm sau Bùi Ngọc Tấn được sang Mỹ theo lời mời của Trung tâm William Joiner thuộc Đại học Massachusetts.

Trước ngày Bùi Ngọc Tấn qua đời ngày 18-12-2014, tôi còn nhận được sách tặng của anh – Thời biến đổi gien từ cô con gái anh ở Sài Gòn. Năm năm sau, giữa tháng 12-2019, tôi nhận được cuộc gọi của bạn văn Nguyễn Chí Cư ở Vũng Tàu: “Sắp xếp để đi Hải Phòng, dự ngày giỗ thứ năm của anh Bùi Ngọc Tấn, cũng là lễ sang cát* cho anh Tấn”. Nguyễn Chí Cư là doanh nhân nhưng quảng giao, gần gũi với anh em văn nghệ, được Bùi Ngọc Tấn và gia đình anh yêu quý, coi như ruột thịt. Cư đã tổ chức thật chu đáo chuyến đi Hải Phòng, với hai nhóm, một ở Sài Gòn gồm Hoàng Dũng, Nguyễn Quốc Thái, Nguyễn Thị Hậu, Thế Thanh và tôi (Hoàng Hưng, Nguyễn Duy, Lưu Trọng Văn đã bay ra trước); nhóm ở Vũng Tàu có họa sĩ Hoàng Minh Hằng, các dịch giả Tiết Hùng Thái, Phạm Nguyên Trường, Nguyễn Đình Hách. Nhóm ở miền Nam ra tụ hội với các thân hữu miền Bắc tại khu mộ Bùi tộc, rộng khoảng 100 m2, được gia đình mua lại từ một nghĩa trang tư nhân.

Nhà thơ Hoàng Hưng, thay mặt các đoàn có đôi lời với anh linh anh Bùi Ngọc Tấn rồi chúng tôi cùng thắp hương tưởng niệm một nhà văn lỗi lạc, một nhân cách lớn, người mà nhà văn Nguyên Ngọc nhận định: “Sự bình tĩnh, nhân hậu của ngòi bút anh cho thấy đức dũng cảm ở con người của anh cao cả biết dường nào”.

Khi viết bài này, tôi đọc lại gần như toàn bộ thông tin được đăng trên các phương tiện truyền thông đại chúng khi anh Bùi Ngọc Tấn qua đời. Hầu như các báo quan trọng, có số bản in nhiều, khi đăng tiểu sử, sự nghiệp của Bùi Ngọc Tấn đều không nhắc tới Chuyện kể năm 2000 – tất nhiên rồi vì đó là sách cấm! Cũng chẳng có mấy nơi viết về thời gian tù đày của anh. May mà có một số ngoại lệ, chẳng hạn trên website YBOOK.vn (NXB Trẻ) ghi: “Bùi Ngọc Tấn (1934-2014) sinh ở làng Câu Tử Ngoại, xã Hợp Thành, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng, là một nhà văn Việt Nam, nổi tiếng với cuốn sách Chuyện kể năm 2000”; website của Nhã Nam, phần tác phẩm của Bùi Ngọc Tấn cũng ghi rõ “Chuyện kể năm 2000, tiểu thuyết, 2000”.

Riêng website báo điện tử của Bộ Xây dựng viết: “Nhà văn Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Thủy Nguyên (Hải Phòng), năm 1954 trong đoàn quân về tiếp quản Hà Nội, sau đó làm báo Tiền Phong, với bút danh Tân Sắc. Giai đoạn từ tháng 11-1968 đến tháng 3-1973 ông vướng vào lao lý. Bùi Ngọc Tấn có một thời gian ngừng viết từ 1974 tới 1994. Sau 20 năm im tiếng trên văn đàn, ông trở lại viết và xuất bản những hồi ức về nhà văn Nguyên Hồng, những truyện ngắn nổi bật, và đặc biệt là cuốn tiểu thuyết mang tính tự thuật Chuyện kể năm 2000”…

Bùi Ngọc Tấn và Nguyễn Trọng Chức (tháng 2-2006 tại Hải Phòng)

 

Chân dung Bùi Ngọc Tấn (họa sĩ Đỗ Phấn)

 

Chân dung Bùi Ngọc Tấn (họa sĩ Lê Đại Chúc)

 

Từ trái sang: Lương Xuân Đoàn, Bùi Ngọc Tấn, Trần Chiến, Nguyễn Trọng Chức

 

Bùi Ngọc Tấn với bộ máy tính được anh dùng để viết nhiều tác phẩm để đời

 

Từ trái sang: Nguyễn Quang Sáng, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Trọng Chức, Nguyễn Duy, Nam Dao

 

Nguyễn Quang Sáng và Bùi Ngọc Tấn

 

Từ trái sang: Nguyễn Trọng Chức, Nguyễn Đức Thành, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Duy (30-8-2008)

* Sang cát hay là bốc mộ, cải táng.