Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 23 tháng 6, 2025

Không khói hoàng hôn (Tập III - kỳ 15)

 Nguyễn Thị Kim Thoa

Mấy điều trao đổi cùng ông Bùi Tín và… (phần 3 - hết)

Ở đây tôi chỉ tập chú khái quát mối quan hệ giữa VN – TQ vào mấy điểm sau:

1/ Mấy yếu tố chủng tộc: Lạc Việt (cư dân Văn Lang) và Âu Việt (kết hợp giữa Mân Việt và Tây Âu) là hai nhóm trong Bách Việt đã liên minh và kết hợp thành Âu Lạc trước áp lực bành trướng của nhà Tần (Triều đại phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên của Trung Quốc). Sự chuyền giao quyền lực từ vị vua cuối cùng của triều đại Hùng Vương qua Thục Phán – An Dương Vương, người lãnh đạo kháng chiến, người đúng đầu nhà nước Âu Lạc, đánh dấu sự phát triển mới của Việt Nam thời cổ đại. (Phải chăng Âu và Lạc trong Âu Việt và Lạc Việt là những tên đầu trong câu chuyện thần thoại về mối lương duyên Tiên – Rồng, Âu Cơ và Lạc Long Quân)? Như thế đứng về mặt chủng tộc mà nói: đã có sự hợp nhất giữa hai khối người Việt: Một, người Lạc Việt định cư lâu đời trên địa bàn Bắc bộ và Bắc trung bộ - chủ nhân của nền văn minh Đông Sơn, con dân của nước Văn Lang. Hai, người Âu Việt vượt thoát từ trung tâm của cộng đồng Bách Việt cư trú hàng mấy ngàn năm trên địa bàn rộng lớn phía nam sông Trường Giang sau này trở thành lãnh thổ Trung Quốc (cả tỉnh Quảng đông, Quảng Tây…). Và như thế có sự gần gũi máu thịt giữa người Việt Nam và cư dân các tỉnh phía Nam Trung Quốc. Càng về sau người Việt (Lạc Việt + Âu Việt) trở thành tâm điểm quần tụ của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Trong số các tộc người đã quần tụ làm nên dân tộc Việt Nam ngày nay và đã từng bước Việt hoá có người Hoa (người Hán và các sắc tộc khác của Trung Hoa). Đó là những người Hoa vì nhiều lí do khác nhau đã tách ra từ các đoàn quân xâm lược, từ cộng đồng các quan binh đô hộ, những trí thức từ bỏ các trung tâm quyền lực phong kiến tìm nơi thoáng rộng để thở, những người Hoa tị nạn, lưu đày, và những người Hoa tha phương cầu thực.

Hoa – Việt, Việt – Hoa là những yếu tố hai mặt (tích

cực, tiêu cực) của Việt Nam trên những chặn đường từ Âu Lạc đến CHXHCN Việt Nam trong đề kháng dân tộc cũng như trong xây dựng.

2/ Yếu tố lịch sử: Cuộc đụng độ đầu tiên giữa Việt Nam và Trung Quốc phải chăng là cuộc chiến tranh giữa 50 vạn quân Tần và liên quân Âu Lạc. Cuộc chiến tranh này kết thúc bằng việc quân Tần thất bại rút lui, và sự ra đời của nhà nước Âu Lạc dưới sự lãnh đạo của An Dương Vương Thục Phán.

Cuộc đụng độ thứ hai là cuộc chiến tranh dai dẳng giữa Triệu Đà (nước Nam Việt, một chính quyền TQ cát cứ) và An Dương Vương Thục Phán (nước Âu Lạc). Cuộc đụng độ này kết thúc bằng cái chết của An Dương Vương, nước Âu Lạc rơi vào ách đô hộ của người Hán (cát cứ hay trung ương tập quyền), và trở thành quận huyện của nhà nước phong kiến Trung Quốc.

Tiếp theo là cuộc đụng độ liên lỉ kéo dài hơn một ngàn năm (từ cuối thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên đến thế kỷ thư 10 sau Công nguyên). Cuộc đụng độ này ngấm ngầm, âm ỉ và thường trực bằng các cuộc vận động bảo tồn, bổ sung và phát huy đời sồng các mặt, khẳng định bản sắc, bản lĩnh dân tộc, bứt phá các mưu đồ thủ đoạn Hán hoá, chuẩn bị các điều kiện để khi có thời cơ là phát khởi những cuộc nỗi dậy vũ trang lật đổ tiêu diệt các chính quyền đô hộ, xây dựng các cứ địa kháng chiến, ngăn chận các cuộc tiến công đàn áp, thành lập các chính quyền tự chủ (từ Hai Bà Trưng đến Khúc Thừa Dụ).

Và cuối cùng là các cuộc chiến tranh xâm lược –  chống xâm lược giữa Trung Quốc và Việt Nam, từ sau cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ thành công, chính quyền đầu tiên thời độc lập được thành lập. (Từ Ngô Quyền đến Quang Trung).

Có nhiều cuộc chiến tranh như thế đã xảy ra giữa hai nước. Nguyên nhân đưa đến các cuộc chiến tranh ấy có nhiều, tuy nhiên tựu trung Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi tầm nhìn, tay với của một nước Trung Quốc là trung tâm của thế giới, vua Trung Quốc là con trời, là vua của tất cả mọi ông vua, các dân tộc khác đều là man di mọi rợ, các nước khác đều là quận huyện, phiên thuộc hay chư hầu.

3/ Mấy yếu tố văn hoá: Cuộc hội nhập Âu Lạc và các tộc người khác thuộc nền văn hoá Đông Sơn, các tộc người Hoa (chủ yếu là người Hán), Chăm Pa, Khờ me… là một quá trình lâu dài làm nền móng, làm cốt lõi, làm tim óc, làm dạng thể cho nền văn minh văn hoá Việt Nam.

Có mấy điều mà bản thân những người bình thường như chúng tôi (không phải là những nhà chuyên môn thuộc lĩnh vực văn hóa sử) chưa sáng tỏ hết là tại sao trong quá trình tự khẳng định mình để tồn tại như một quốc gia độc lập, tự chủ và bình đẳng với các quốc gia khác, cụ thể là Trung Quốc, Việt Nam kể từ thời chống đô hộ, nhân dân vẫn tiếp thu học thuật của kẻ xâm lược, rút tỉa đạo lí của tam giáo, không có mặc cảm vay mượn, lệ thuộc. Đặc biệt trong hai triều đại Lý Trần các nhà cai trị đã sử dụng tam giáo (chủ yếu là Nho và Phật) làm phương châm, phương tiện bảo vệ, xây dựng, phát triển đất nước và con người? Phải chăng người Việt Nam nghĩ rằng chính mình đã tham dự như một mắc xích của xâu chuỗi dài hình thành và phát triển nhân loại, cũng như tộc Việt trong Bách Việt đã góp phần làm nên học thuật, văn hoá Trung Nguyên?

Một thực tế phát sinh (trong y học gọi là biến chứng) cũng cần được quan tâm đúng mức là song song với việc học tập, rút tỉa, vận dụng học thuật tư tưởng Trung Nguyên để biến nó thành sức mạnh của chính mình, Việt Nam còn bị động nhận chịu các tác hại do những khía cạnh tiêu cực cũng chính từ các nền tư tưởng học thuật ấy. Lý do là:

–  Một, bọn xâm lược bá quyền sử dụng chúng làm công cụ, làm chiêu bài để thực hiện các mưu đồ của mình.

–  Hai, một bộ phận quần chúng, kể cả một số chính quyền, đã tiếp nhận và vận dụng chúng một cách hình thức, máy móc, giáo điều và nô lệ (nô lệ văn hoá và nô lệ chính trị).

Từ những hiện thực tất yếu và phức tạp ấy, trong lòng dân tộc, đất nước luôn có những dị biệt mâu thuẫn làm chất xúc tác, chiêu bài cho những dị biệt mâu thuẫn lợi quyền khởi phát thành những đối kháng nội sinh. Trong hầu hết các triều đại thời độc lập, không thiếu những người Việt (người Việt gốc Hán, người Việt gốc Hoa, kể cả Việt bản địa hay gốc nguồn khác) do bị lép vế hay thua thiệt trước cuộc tranh bá đồ vương, giành giựt lợi quyền, đã kêu cầu dựa dẫm Thiên triều.

Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rất nhiều con dân như Trần Bình Trọng, nhưng đồng thời cũng có không ít những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống. Các triều đại Trung Quốc bao giờ cũng chờ sẵn hễ có cơ hội là đem quân qua tái lập kỷ cương, lễ nghĩa, phép tắc Hán tộc và Thiên triều.

4/ Mấy yếu tố ở biên giới: Các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và khu vực phía đông tỉnh Vân Nam ngày nay đã được (hay bị) sáp nhập vào lãnh thổ Trung Quốc từ Tần – Hán. Cư dân những địa phương này đa phần là những người gốc Bách Việt, gần gũi về chủng tộc, văn hoá, duyên nợ và lịch sử với Việt Nam. Các triều đại Trung Quốc đã xây dựng ở đây những căn cứ quân sự, những đơn vị hành chánh nhằm bảo vệ cương thổ và sử dụng chúng làm bàn đạp cho các cuộc xuất quân chinh phạt An Nam. Quan tướng, binh lính, dân công, và các thứ hậu cần phục vụ cho các cuộc viễn chinh thường lấy ở Ung châu, Khâm châu, Liêm châu. Triều đình Trung Quốc chỉ cử đi những nhân vật chủ chốt và bổ sung những nhu yếu mà địa phương không có. Từ các căn cứ địa xuất phát, quân Trung Quốc (quân bộ, quân thuỷ) chỉ một vài ngày là có thể đột nhập vào Việt Nam. Núi non, sông biển Việt Nam – Trung Quốc nối liền. Các điều kiện về thời tiết, thuỷ văn, khí hậu giữa hai bên không mấy chênh lệch.

5/ Vị trí địa lí của Việt Nam: Người Pháp đặt tên cho vùng lãnh thổ gồm ba nước Việt, Miên, Lào là L’ Indo – chine. Việt Nam ở phía đông, Lào, Cam Bốt ở phía Tây. Dãy Trường Sơn ngăn cách giữa đông và tây chạy dài từ Bắc xuống Nam. Phải chăng người Pháp đã căn cứ vào những nghiên cứu của họ rằng về cả mặt chủng tộc, cả về mặt kinh tế, văn hoá… hai trung tâm Ấn Độ, Trung Quốc đã góp phần làm nên lịch sử của các quốc gia thuộc bán đảo Đông Dương này. Phải chăng sự kết hợp các yếu tố ấy là kết quả tất yếu của một điều kiện tự nhiên là con đường biển từ bắc xuống nam, từ đông qua tây đi ngang qua vùng biển phía đông của Việt Nam. Từ hơn hai ngàn năm trước, Luy Lâu (ở đồng bằng Bắc bộ) là trạm trung chuyển của các thương nhân, các nhà truyền bá Phật giáo từ Ấn Độ đến Trung Quốc và ngược lại. Vị trí địa lí của Việt Nam trở nên quan trọng hơn khi công nghệ hàng hải phát triển và nhu cầu rút ngắn khoảng cách từ Âu qua Á ngày một gia tăng. Trung Quốc đã sử dụng đường biển để đưa thuỷ binh (phối hợp với bộ binh) tấn công qua Việt Nam nhiều lần trong lịch sử “an nam” của họ. Cũng có lần Trung Quốc bắn tiếng mượn đường bộ của “An Nam” để phối hợp thuỷ bộ chinh phạt Chăm Pa. Chiếm được Việt Nam, xem như giải quyết xong vấn đề Đông Dương. Muốn xuống Đông Nam Á, Việt Nam trở thành đầu cầu, bàn đạp trọng yếu. Ngày nay Trung Quốc ưu tiên phát triển, hiện đại hoá hải quân, không quân và quốc phòng vũ trụ cũng để thực hiện ham muốn bành trướng bá quyền trong tình hình mới. Hiện nay lực lượng vũ trang Trung Quốc đứng hàng thứ ba trên thế giới (chỉ sau Nga và Mỹ). Hải quân, cụ thể là hạm đội Nam Hải, đang vênh váo bảo vệ hoà bình và quyền lợi nước lớn của Trung Quốc ở vùng biển đông.

Thưa ông Bùi Tín,

Thế đó, tất cả những yếu tố: chủng tộc, văn hoá, lịch sử, thiên nhiên và nhiều yếu tố khác nữa đã làm cho Việt Nam, theo thiển kiến của tôi, trở thành một khu vực có thể xảy ra bất cứ lúc nào các cuộc xung đột giữa một bên (TQ) với mưu đồ bành trướng bá quyền, với một bên (VN) với khát vọng và ý thức độc lập, tự chủ. Do vậy, mặc dù ông Bùi Tín có bêu riếu thế nào các người mà ông gọi là “trí thức dởm”, tôi cũng chia sẻ với họ trong những nhận định về một địa lý chính trị của Việt Nam. Và, một khi các nước khác như Ấn Độ, Miến Điện chưa hội đủ các yếu tố để trở thành một khu vực như thế thì hẳn nhiên các nước ấy ở ngoài cái tình thế hay thân phận thường xuyên bị đe dọa bởi một láng giềng Trung Quốc to lớn chưa từ bỏ các thói quen và nhu cầu dòm ngó xâm lấn các lân bang. Chúng ta không thể để trên hai đĩa của một bàn cân hai vật có trọng khối khác nhau để rồi la toáng lên rằng tại sao chúng không ở vị thế cân bằng!

Trường hợp Mông Cổ và Mãn Châu mà ông Bùi Tín ngưỡng mộ bởi mặc dù “nhỏ bé” (từ của Bùi Tín) mà dám cả gan “tràn sang thống trị dân tộc Hán lớn đến vậy, luôn tự hào là Đại Hán Tộc, sống từ ngàn xưa trên đất tổ Trung Quốc” (BT). Có điều chẳng biết vì sao ông Bùi Tín hoàn toàn quên đi cái hậu quả của hành động tràn sang thống trị…, và sau khi đã thống trị dân tộc Đại Hán và nước Trung Quốc thì tình hình hai nước Mông Cổ, Mãn Châu ra sao? Lại nữa, đứng trên lập trường dân tộc (Mông Cổ, Mãn Châu) mà nói, liệu ông Bùi Tín có ngưỡng mộ nữa không, khi nhìn vào bản đồ châu Á và thế giới?

Tôi xin mạn phép bổ sung đôi điều Bùi Tín đã quên:

1/ Mông Cổ gọi là đế quốc cũng được, gọi là dân tộc, bộ tộc hay dòng họ cũng được, với các tên tuổi như Thành Cát Tư Hãn, Hốt Tất Liệt, Thoát Hoan… đã để lại trong ký ức Việt Nam và nhân loại những ấn tượng khó quên. Hai tiếng Tát Ta (Tartare) gây kinh hoàng và ám ảnh đen tối cho cả châu Âu suốt một thời gian dài. Vó ngựa Mông Cổ đã để lại trong lịch sử Việt Nam dấu vết của ba cuộc chiến tranh vừa bi thảm vừa hùng tráng. Hơn nửa thế kỷ nhân dân Việt Nam đã khắc vào da thịt tâm trí mình hai chữ “sát Thát”. Những đất nước vùng trung bắc Á, như Tây Hạ, Kim, Mãn, kể cả Đại Lý ở phía nam Trung Quốc và đặc biệt là đất nước nhân dân Trung Quốc (trong đó có người Hán) đã nhận chịu sự dày xéo, chà đạp của Mông Cổ trong đau thương nô lệ trên dưới một trăm năm (thế kỷ 14 đến đầu thế kỷ 15).

Thế tuy nhiên, đế chế Mông Cổ, đất nước Mông Cổ, dân tộc Mông Cổ và dòng họ các Đại Hãn, sau chừng ấy đau thương cho chính họ và cho một phần nhân loại, còn lại gì?

Đế chế tan rã, đất nước suy tàn, dân tộc bị chia lìa, tan tác và bị đồng hoá bởi chính những kẻ họ đã chinh phục. Phần lớn lãnh thổ Mông Cổ bị sáp nhập vĩnh viễn vào Trung Quốc. Mãi cho đến khi đế chế Mãn Thanh bị sụp đỗ (gần 500 năm sau, đầu thế kỷ 20) các lực lượng dân chủ trổi dậy và hình thành ở Trung quốc và châu Á, chiến tranh thế giới lần thứ hai xảy ra và kết thúc, Phát Xít Nhật đầu hàng, một bộ phận nhân dân Mông Cổ còn bảo lưu huyết thống đã tập họp lại, nương nhờ vào sự trợ giúp của Hồng quân Liên Xô, xây dựng nên nhà nước Cộng Hòa Mông Cổ. Nước Cộng Hòa Mông Cổ ngày nay làm chủ trên một phần lãnh thổ (của tổ tiên họ) ở vùng bắc Á – vùng ngoại Mông. Vùng nội Mông mênh mông Trung Á của dân tộc Mông Cổ ngày xưa không còn nữa.

2/ Mãn Châu: sau mấy trăm năm ngạo nghễ trên ngai vàng Trung Quốc, để lại cho Trung Quốc tên tuổi những vị hoàng đế sáng chói như Càn Long, Khang Hy, Từ Hy, dân tộc Mãn Châu đã bị đồng hoá, đã bị hòa tan trong cộng đồng các dân tộc Trung Hoa. Nước Mãn Châu đã từng khuất phục Trung Nguyên nay chỉ còn là một vùng lãnh thổ, một tỉnh của nước Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa.

Thì ra cái hào khí ngất trời của những kẻ đã làm nên các đế chế Mông – Mãn rốt cùng cũng chỉ là cái dũng bạo liệt của những cá nhân, những dòng họ chỉ biết thoả mãn khát vọng đội trời đạp đất, giày xéo và thống trị kẻ khác. Ngoài ra chẳng còn lại gì.

Phải chăng ông Bùi Tín muốn nhân dân Việt Nam noi gương các vị anh hùng Mông – Mãn ngày xưa mà “thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt”?

Thưa ông Bùi Tín,

Quả là không khó lắm để nhận ra các gợi ý của ông ở đoạn văn trên, nhưng tôi vẫn cứ hỏi, để mong rằng mình đã lầm. Đáng tiếc là tôi đã không lầm. Tôi chỉ diễn đạt chưa đầy đủ “tư tưởng chiến lược” mà ông Bùi Tín muốn điều hướng đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đi hẳn về một phía, bởi tôi chưa kịp đọc mấy dòng tiếp theo của ông:

“Ngày nay, với khoa học kỹ thuật và công nghiệp quốc phòng phát triển cao, không gian và thời gian bị thu hẹp lại, quan hệ quốc tế trên cơ sở những giá trị của thời đại toàn cầu hóa với tổ chức LHQ, không dễ gì một nước lớn lấn áp thống trị một nước láng giềng, trừ khi nhóm lãnh đạo của nước đó dại dột tự nguyện đi làm chư hầu cho nước lớn”.

Xin hỏi ông Bùi Tín – ngày nay ai (nước nào, tổ chức nào) có trình độ khoa học kỹ thuật và công nghiệp quốc phòng phát triển cao? Việt Nam chăng? LHQ chăng? Chắc là không phải rồi. Vậy là ai?

Trong thời chiến tranh lạnh, nhiều người cứ tưởng rằng hai nước có nền khoa học kỹ thuật và công nghiệp quốc phòng đứng đầu thế giới là Liên Xô và Mỹ. Nhưng chỉ mấy năm sau chiến tranh Việt – Mỹ, sự thật phơi bày khá rõ: Tập hợp cưỡng bức Liên Xô mới chỉ có nền công nghiệp quốc phòng phát triển, còn khoa học, kỹ thuật thì phát triển không đồng bộ, kinh tế hủ bại, văn hoá nghèo nàn lạc hâu. Liên Xô tự giải thể để mỗi thành viên tự cứu lấy mình. Có thể nói, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến tận ngày nay, chỉ có Mỹ là quốc gia có đầy đủ các tiêu chí mà ông Bùi Tín đã nêu. Và như thế ý đầy đủ của ông Bùi Tín ở đoạn văn trên là:

“Không như ngày xưa, mà một nước Trung Quốc có thể tự tung tự tác lấn hiếp các láng giềng. Ngày nay đã có Mỹ là nước có nền khoa học kỹ thuật và công nghệ quốc phòng phát triển cao bao che, đã có một cơ quan quyền lực quốc tế như Liên Hiệp Quốc bảo vệ, trong tình hình thế giới toàn cầu hóa, các giá trị của thời đại nhất định được thực hiện. Việt Nam còn sợ gì? chỉ có đảng Cộng Sản dại dột làm chư hầu cho Trung quốc mà thôi”

Từ những nhận định và những xu hướng phát triển tâm thức của ông Bùi Tín qua đoạn văn trên, người đọc báo (Talawas) có thể vẽ nên một tình thế Việt Nam mới trong một thế giới vận động theo tư tưởng chiến lược của Bùi Tín như thế này

“Đảng và chính quyền Công Sản bị lật đổ bởi những người cùng chí hướng với Bùi Tín. Chính quyền mới Dân chủ - Tự do với sự chỉ dẫn của Bùi Tín được nhân dân Việt Nam và nước Mỹ ủng hộ. Sau lưng Mỹ là tổ chức LHQ. Hậu thuẫn cho LHQ là nhân loại đang phấn khởi toàn cầu hoá”

Thưa ông Bùi Tín,

Với một kịch bản có hậu như trên, tôi liên tưởng đến những toan tính của cô Bê Rết (Berrêtte và nhớ lại tâm tình của những người Quốc Gia ở miền Nam sau Genève: một bộ phận người Việt ở miền Nam đặt niềm tin và hy vọng vào Mỹ - một quốc gia giàu có, dân chủ, hào hiệp, văn minh, đặc biệt là sức mạnh quân sự thì vô địch. Hợp tác với Mỹ, nương nhờ Mỹ chắc chắn chỉ trong một thời gian ngắn là đánh bại được Cộng Sản miền Bắc vô thần, độc tài, tay sai (Nga - Hoa) và xâm lược.

Nhưng rồi cũng chỉ trong một thời gian ngắn, cái nước Mỹ là niềm tin và hy vọng cho một bộ phận người Việt Nam ấy từng bước nhận ra rằng mình ở trong một tình thế khó khăn, lúng túng và sa lầy giữa cuộc chiến tranh mà từ lúc bắt đầu họ tin mười mươi rằng đối phương nhất định phải đầu hàng. Chính họ, người Mỹ, vào cái thời điểm khó khăn, lúng túng và sa lầy ấy, đã vứt bỏ một cách tàn tệ các đồng minh mà họ đã một thời thề non hẹn biển (qua các hiệp ước, các kế hoạch chung), từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu, như vất bỏ mấy viên sỏi trong giày, như vất bỏ mớ hành trang nặng nề, dư thừa và trở ngại để tiếp tục cuộc hành trình đã lỡ, và cuối cùng là để chạy thoát lấy thân. Choáng váng và sững sờ do thua đau trước một đối phương yếu kém, nghèo đói và lạc hậu, nhưng người Mỹ vẫn chưa nhận ra rằng: khoa học kỹ thuật và công nghiệp quốc phòng phát triển cao (nhất thế giới) mới chỉ là những yếu tố cần, chứ chưa đủ để bảo đảm mọi thắng lợi. Họ, người Mỹ, đưa quân vào Afghanistan, đánh phá tan tành Iraq và đô hộ quốc gia này, Mỹ cùng NATO can thiệp vào Nam Tư bằng sức mạnh của bom đạn.

Đề nghị ông Bùi Tín trả lời giùm: chính phủ Mỹ đã sử dụng khoa học kỹ thuật và công nghiệp quốc phòng cao vì những giá trị của thời đại hay vì ích lợi kinh tế và nền an ninh (từ xa) của Mỹ?

Thưa ông Bùi Tín,

Là một người Việt Nam bình thường, tôi không có một lợi ích, một nhu cầu tinh thần nào để đồng tình với một chính quyền quị luỵ và tay sai ngoại nhân. Cũng là người Việt Nam bình thường, tôi nhận biết rằng chẳng có chút lương thức nào khi ủng hộ sách lược “cứng với láng giềng gần – mềm với đồng minh xa” do ông đề xuất.

Trung Quốc hay Mỹ, đối với những người Việt Nam bình thường như chúng tôi, đến thời điểm này, trên đại thể cũng hành xử trong mọi quan hệ quốc tế: vì lợi ích của quốc gia dân tộc họ.

Kẻ thù hay đồng minh, qua trải nghiệm cũng như qua nhận thức bình thường của người Việt Nam là những từ tương đối. Không nên xác quyết một chọn lựa tuyệt đối (cứng với phía này mềm với bên nọ) để rồi phó thác vận mệnh của dân tộc đất nước cho một đồng minh mà vì ích lợi của quốc gia họ, họ sẵn sàng xem ta khi thì như một quân cờ, khi thì như một miếng giẻ rách.

Thưa ông Bùi Tín,

Tôi không phải là người theo chủ nghĩa hoài nghi. Trước bối cảnh của tình hình thế giới tranh chấp, cấu xé, cá đớp cá, người trói người, người giết người mãi tự bao giờ đến bây giờ, là công dân (cho dù là loại ba) của một nước nghèo nàn lạc hậu, có địa lí chính trị như Việt Nam, tôi nhận thấy rất cần một tổ chức quốc tế có đủ khả năng, quyền lực và thiện chí để giải quyết các xung đột, hòa giải và hòa hợp các mâu thuẫn, khác biệt dân tộc, kiến lập hoà bình và thịnh vượng cho toàn nhân loại. Một tổ chức quốc tế như thế phải có điều kiện, thời gian cần và đủ để nó ra đời, lớn lên và trưởng thành. Tôi hình dung nó giống như nhà nước của một quốc gia, Việt Nam chẳng hạn. Nó tất yếu phải kinh qua nhiều giai đoạn thăng trầm: Văn Lang, Âu Lạc, lệ thuộc và tự chủ. Để có được một nhà nước tự chủ và khập khiểng như ngày nay, bằng tất cả sức lực của mình, dân tộc Việt Nam đã vượt qua những chặng đường khổ nạn và vinh quang đến mấy ngàn năm. Cũng như thế, để có một nhà nước thế giới (sau thế chiến lần thứ nhất gọi là Hội Quốc Liên, sau thế chiến lần thứ hai gọi là Liên Hiệp Quốc) có năng lực thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ của mình và tượng trưng đầy đủ các giá trị của thời đại, nhân loại trong đó có Việt Nam, cần phải phấn đấu nhiều hơn nữa để tiếp tục tiến về phía trước.

Tôi đánh giá cao các đóng góp tích cực của tổ chức Liên Hiệp Quốc trong các lãnh vực hoạt động như văn hoá, khoa học, giáo dục, y tế, lương nông, cứu nạn…Tuy nhiên trên lãnh vực chính trị kinh tế, thực tế đã nói với chúng ta rằng chưa có gì đáng phấn khởi. Trật tự thế giới vẫn nằm trong tay các cường quốc. Năm nước là thành viên sáng lập và hiện đang ngồi trên ghế thường trực Hội đồng Bảo An LHQ là Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Trung Quốc – tuỳ theo sức mạnh của mỗi nước mà trắng trợn chà đạp hay vi phạm các nguyên tắc của hiến chương do chính mình tham gia soạn thảo. Bằng chứng là:

–  Song song với việc hình thành LHQ, Pháp (một thành viên sáng lập) có sự tiếp tay giúp đỡ của Anh (một thành viên sáng lập khác) với sự hùn hạp góp vốn góp công sức của Mỹ (thành viên sáng lập hàng đầu) quay trở lại thống trị Đông Dương. Hành vi này là tiền đề cho hai cuộc chiến tranh phi lí và tàn khốc Việt – Pháp, Việt – Mỹ.

–  Trung Cộng vừa nỗ lực để thay Trung Hoa Quốc Gia ở ghế thường trực Hội đồng Bảo An LHQ, vừa bảo lưu ách đô hộ lên nhân dân đất nước Tây Tạng, cưỡng bức dân tộc có nền văn hoá lâu đời này thành một bộ phận của Trung Quốc

–  Sau khi hết chiến tranh lạnh và phe XHCN giải tán, Mỹ cấu kết với Anh và một số nước cùng quĩ đạo tuyên chiến với khối Hồi Giáo, hoành hành ngang ngược nơi này nơi nọ trên thế giới. Gây gổ ở vùng Vịnh, oanh tạc Nam Tư, đánh chiếm Afganistan, tàn phá xâm lược Iraq, trừng phạt, hăm he Triều Tiên, Iran…

–  Nga từ khi bỏ ngôi bá chủ Liên Bang Xô Viết và phe XHCN, quay lại tự cứu lấy mình nhưng còn đủ sức đè bẹp Chesnia.

– Một số nước nhỏ hoặc nương dựa vào nước lớn (Israel nương dựa Mỹ) hoặc chống lại sự áp chế của nước lớn (như Triều Tiên, Iran chống Mỹ) mà bất chấp các nghị quyết, trừng phạt của LHQ vì cho rằng tổ chức này bị các nước lớn lợi dụng và Mỹ lũng đoạn.

Tóm lại, một nhà nước thế giới (LHQ) là mơ ước của cả nhân loại, đặc biệt là phần nhân loại nghèo đói, lạc hậu và bị áp bức. Nhưng trớ trêu, LHQ là sản phẩm của ngũ cường: Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Trung Quốc. Trong ngũ cường, Mỹ là nước giàu mạnh nhất với khoa học kỹ thuật và công nghiệp quốc phòng phát triển cao nhất, và đồng thời là nước đóng góp nhiều nhất vào quĩ hoạt động của LHQ. Do vậy mà đương nhiên LHQ cũng bị chi phối nhiều nhất bởi siêu cường này. Mỹ đang cố lèo lái LHQ đi vào quĩ đạo của mình. Và xu thế toàn cầu hoá cũng có nhiều dấu hiệu phát triển theo ý chí của Mỹ.

Thế giới đã rã cực, tan tuyến sau chiến tranh lạnh và phe XHCN giải tán. Việt Nam đồng thời thoát khỏi sự trói buộc khắc nghiệt của cả hai phía. Mỹ thua chạy, Trung Quốc không còn có nhiều cơ hội, điều kiện để áp đặt các đòi hỏi của một đồng minh tình thế vốn là kẻ cựu thù hàng ngàn năm đô hộ, bành trướng và bá quyền.

Tuy nhiên trước tình hình thừa thắng xông lên của Mỹ, phải chăng phản ứng tất yếu của thế giới là hình thành một đối trọng ngang sức ngang tầm? Phải chăng Trung Quốc là đối thủ đang hình thành của Mỹ? Giả định rằng cục diện thế giới sẽ diễn biến như thế thì đề nghị của ông Bùi Tín là Việt Nam nên xếp hàng với Mỹ để đương cự với Trung Quốc là bội phần nguy hiểm: Việt Nam sẽ là bãi chiến trường để Mỹ và Trung Quốc thử sức trong cuộc tranh giành ngôi bá chủ toàn cầu. Kinh nghiệm xương máu mà nhân dân Việt Nam đã trải nghiệm không cho phép các nhà cai trị có bất cứ một chọn lựa đơn giản dễ dãi nào.

Thưa ông Bùi Tín,

Đầu hè 1975, khi những sinh viên năm cuối của trường Đại hoc Y khoa Huế chúng tôi chuẩn bị thi tốt nghiệp thì cuộc chiến tranh Việt – Mỹ cũng kết thúc. Mỹ cút – Nguỵ nhào, Hòa bình – Độc lập – Thống nhất, đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối, cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên XHCN… là những khẩu hiệu chúng tôi nghe, đọc, thấy mỗi ngày hằng trăm bận trong các buổi học tập chính trị, trên những phương tiện truyền thông, đài đóm, báo chí. Báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân mà Bùi Tín, Thành Tín là một trong vài ba tên tuổi lớn đến với chúng tôi qua các cán bộ tuyên huấn. Bùi Tín, một người đi hết hai cuộc chiến tranh Việt – Pháp rồi Việt – Mỹ, tay súng tay viết chiến đấu trên cả hai mặt trận quân sự và chính trị để rồi trở thành một ông lớn (đối với chúng tôi lúc bây giờ) như ông chắc chắn phải là thành phần ưu tú của đảng Cộng Sản. Cái thành phần ưu tú ấy tiếp tục sự nghiệp và chia phần công lao cách mạng theo các tiêu chí, tiêu chuẩn của một xã hội không có giai cấp mà có quá nhiều đẳng cấp cho đến khi đất nước tan hoang khánh kiệt (một phần do chiến tranh, một phần do cuộc cách mạng XHCN) chẳng còn gì để các chức sắc ở đình làng tranh nhau một mép chiếu, giành nhau từng nắm xôi miếng thịt, và bới móc nhau từng lời ăn tiếng nói đến tận ba đời.

Trước bối cảnh đó, trong đảng có người ray rứt giằng xé lương tâm, có người hoang mang dao động, có người bất mãn thất vọng, có kẻ trở cờ lật lọng và không ít tên lợi dụng quá khứ của cha ông để chễm chệ ăn gian nói dối.

Thưa ông Bùi Tín,

Ông thuộc thành phần nào trong số họ?

Chắc chắn là ông không thuộc một trong ba thành phần đầu. Bằng cớ là cho mãi đến tháng 9 năm 1990 cựu đại tá Bùi Tín được đảng Cộng Sản trao cho ân huệ thay mặt Đảng đi dự hội nghị hàng năm của báo Nhân Đạo – cơ quan ngôn luận của đảng Cộng Sản Pháp. Ông đã ở lại tị nạn tại Pháp trong dịp này. Mấy tháng sau qua làn sóng của đài BBC, ông tuyên bố: Vẫn trong tư cách đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam, ông bày tỏ ý kiến tranh đấu góp phần xây dựng Đảng. Và ông sẽ trở lại Việt Nam. Như thế từ 1945 (hay mấy năm sau đó) đến 1991, ông vẫn là một đảng viên ưu tú, một chiến sĩ Cộng Sản kiên cường chiến đấu trên hai mặt trận. Và ông đã kinh qua Rèn cán Chỉnh quân, Cải cách ruộng đất, Cải tạo Văn hoá Tư tưởng, Cải tạo Nguỵ quân Nguỵ quyền, Cải tạo Công Thương nghiệp, Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa… Và như thế, với tay viết tay súng ông đã tham dự vào tất cả những sự kiện mà ngày nay ông gay gắt tố cáo là tội ác, là tay sai, là chư hầu. Có điều rất lạ là lời lẽ và cách thế ông bày tỏ na ná một thanh niên mới lớn nạn nhân của chế độ, hoặc na ná một cán bộ thông tin chiêu hồi ở các địa phương thời đệ nhất hay đệ nhị Cộng Hoà. Ông tố cáo, ông chửi bới, ông bêu riếu đảng Cộng Sản làm như ông chưa bao giờ dính líu tới.

Làm cách mạng, hay làm bất cứ điều gì dù lớn, dù nhỏ, là làm với. Cụ Hồ Chí Minh không làm cách mạng một mình. Ông Trường Chinh, ông Tố Hữu không Cải Cách Ruộng Đất, Cải tạo Trí thức Văn nghệ sĩ một mình. Ông Võ Nguyên Giáp không đánh giặc một mình.

Năm 1946 cụ Bùi Bằng Đoàn (thân phụ ông Bùi Tín) lên chiến khu được ngủ với cụ Hồ một đêm trên sàn nứa ở Bắc Bó. Từ đó về sau trong một thời gian dài Cụ Bùi Bằng Đoàn làm thường trực Quốc Hội. Cụ Bùi Bằng Đoàn lên chiến khu không để trực tiếp cầm súng kháng chiến. Lúc đó và ngay cả sau này, Quốc hội cũng chỉ là một tổ chức để tuyên truyền. Do vậy mà vai trò của cụ Bùi Bằng Đoàn ở chiến khu cũng như ở Hà Nội cũng chỉ là vai trò của người hiệu triệu. Hiệu triệu ai? Xin thưa: Hiệu triệu những nhân sĩ trí thức trong cả nước. Thái độ, sự chọn lựa và hành động dấn thân của cụ Bùi Bằng Đoàn là một biểu trưng, đóng góp không nhỏ cho kháng chiến, kể cả cho Cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa. Nếu công hoặc tội (đánh giá của một Bùi Tín trước và sau khi tị nạn) của cụ Hồ trăm phần thì của cụ Bùi Bằng Đoàn là một hai. Cũng lập luận như thế: Công hoặc tội của Bùi Tín (trưởng, phó ban biên tập báo Nhân Dân, Quân đội Nhân Dân, Đại tá Quân đội nhân dân) là ba bốn chứ đâu phải Bùi Tín chẳng làm nên công tội gì? Dù ông Bùi Tín có phủi, chưa hẳn tay ông đã sạch. Trách mình trước, trách người sau, đâu phải chỉ là cung cách ứng xử của người thiện trí thức thuở xưa?

Thưa ông Bùi Tín,

Bức xúc dân tộc và bức xúc cách mạng của những người thuộc tầng lớp trên thông thường trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt không sâu sắc, mãnh liệt bằng những người thuộc tầng lớp dưới. Ông Bùi Tín và những người thuộc tầng lớp trên tự nguyện đi theo kháng chiến, nếu tôi không lầm là bởi lý tưởng, bởi lương tri của kẻ sĩ. Người trí thức ấy đã trở thành đảng viên cao cấp của đảng Cộng Sản, đã tham dự, đã đi gần hết cả một đời với những chặng đường sáng – tối, đúng – sai, công – tội, anh hùng – tiểu nhân… của đảng. Thế mà, để thấy được bản chất đích thực của đảng (tay sai và dại dột như nhận định của ông) ông phải mất gần trọn 50 năm, và phải nhân một vận hội (được đảng cử đi Tây) ông mới từng bước thấy được vấn đề và phơi bày được bụng dạ của mình. Quả là chậm so với những Trần Dần, Lê Đạt, Hữu Đang, Phùng Quán, Quang Dũng, Hữu Loan, và những tên tuổi lớn hơn như Văn Cao, Phan Khôi, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường…, và càng chậm hơn nữa so với hai sinh viên y khoa khoá đàn em của tôi ở Đại học Y khoa Huế. Hai anh đã nhảy lầu, uống thuốc độc tự tử bởi lí tưởng Cộng sản (mà các anh mơ về) và thực tế Cộng Sản (mà các anh trải nghiệm) chỉ chưa đầy hai tháng sau khi miền Nam giải phóng (giải phóng là chữ của Bùi Tín trên báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân).

Sự chuyển đổi (có người gọi là trở cờ, cơ hội) của một Bùi Tín mà trì trệ như thế, huống hồ gì những người như Võ Nguyên Giáp. Đỗ Mười, Lê Đức Anh và những người khác trong đảng Cộng Sản? (Họ đã gắn bó với đảng Cộng Sản gấp nhiều lần hơn Bùi Tín). Mà đảng Công Sản Việt Nam còn có gì khác ngoài sự bó gộp các vị ấy lại? Cái gì khác tôi muốn nói lên là cái chất dân tộc (cả mặt tốt lẫn mặt xấu của nó) thâm căn cố đế nơi mỗi người chúng ta. Đặc biệt nơi đảng Cộng Sản.

Là công dân hạng ba của chế độ đương quyền, trong rất nhiều mặt của cuộc sống hàng ngày tôi còn bị hạn chế, trói buộc lắm thứ do sách lược cai trị của Đảng. Do vậy, cũng như hàng mấy chục triệu người Việt Nam khác, chúng tôi có nhu cầu dân chủ hơn bất cứ đồng bào nào ở ngoài nước. Nhưng dân chủ của một quốc gia luôn đi liền với những tiến bộ khác của cuộc sống. Nói như cụ Phan Châu Trinh mấy chục năm trước là dân sinh, dân trí, dân khí phải được phát triển ở một tầm mức nào đó. Mà dân chủ của một nước cũng như sức khoẻ của một con người là do chính đương sự quyết định là chủ yếu, chứ không phải hoàn toàn do tác động từ bên ngoài, cho dù sự tác động đó phát xuất từ thiện chí và khả năng ngoại tại. Nói như thế tôi không có ý bảo rằng con người hay quốc gia có thể tồn tại đơn độc, đặc biệt trong thời buổi toàn cầu hoá.

Thưa ông Bùi Tín,

Đất nước phải trải qua hơn một trăm năm lệ thuộc, chiến tranh. Đất nước cũng đã trải qua một cuộc cách mạng mà tác hại của nó không kém phần huỷ hoại của chiến tranh. Nợ nần đã và đang được trả. Nhưng di chứng, di luỵ vẫn còn nặng nề nơi mỗi người, mỗi nhà, mỗi cộng đồng trong và ngoài nước, kể cả nơi các mối quan hệ đồng minh hay xâm lược, hay là láng giềng hay đối tác.

Thực tế nhìn lại, đất nước độc lập, thống nhất và đổi thay (cho dù rất chậm) là điều có thật. Mặc dù độc lập chưa được vẹn toàn, thống nhất chưa căn bản và hoàn chỉnh, đổi thay chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống (nhân dân và cả thế giới). Để có những thành tựu này, chúng ta đã trả một giá rất đắt. Cho dù đắt hay quá đắt thì cái giá mà dân tộc, đất nước cũng phải trả. Chẳng lẽ vì nó quá đắt mà đập phá, phủ nhận lung tung cho hả giận? Cách nhìn cách đánh giá lịch sử và cách bày tỏ khuynh hướng của ông Bùi Tín chẳng rõ do vô tình hay cố ý gây cho người đọc bình thường như chúng tôi rất nhiều cảm nhận tiêu cực.

         Tôi là người thầy thuốc, một người mẹ, một người theo đạo Phật, do vậy có thể nói tôi bị méo mó nghề nghiệp, tôi thiên trọng về giải pháp yêu thương và hoà bình.

          Là một thầy thuốc, trong rất nhiều trường hợp, nếu còn một mảy may hy vọng là tham dự vào cuộc chuyển hoá sức khoẻ nơi bệnh nhân của mình, y học và người thầy thuốc luôn cố gắng bảo tồn các bộ phận của cơ thể đến mức có thể được, trong trường hợp bất đắc dĩ mới sử dụng biện pháp cắt bỏ hay thay thế.

Là một người mẹ nên tôi không mệt mỏi hoà hợp, hoà giải trong yêu thương mọi mâu thuẫn xung đột trong gia đình.

Là người theo đạo Phật nên tôi tập chú trước hết, và nhiều hơn, vào sự chuyển hóa hiện thực cuộc sống: chuyển hóa các mâu thuẫn tranh chấp vật chất hay tinh thần (nhóm từ này chưa phản ảnh đầy đủ tinh tuý Phật giáo) giữa cá nhân, cộng đồng, quốc gia, khu vực và quốc tế.

Nói như thế, tôi không hề khẳng định rằng giải pháp này là duy nhất đúng. Đạo Phật dạy chúng tôi có vô lượng pháp môn chứ không chỉ có một.

Thưa ông Bùi Tín,

Trước khi chấm dứt cuộc trao đổi dài, tôi mạo muội đưa thêm (các nhà chuyên môn đã đưa nhiều) một nhận xét về đặt tính dân tộc:

Bao lần, do những điều kiện lịch sử và địa lí, dân tộc Việt Nam đã phải chấp nhận những cuộc đối kháng chẳng đặng đừng, đã chiến đấu ngoan cường, đã liều chết để bảo vệ nền Độc Lập, Tự Chủ và Thống Nhất cho tổ quốc. Các đoàn quân xâm lược đã gây biết bao đau thương và tội ác. Nhưng sau những lần “Sát Thát” thắng lợi, sau những trận thề “đường vinh quang xây xác quân thù”, nhân dân Việt Nam đã buông bỏ những căm hờn thù hận, đã tiếp đón các “chú Khách” đến từ phương bắc để tị nạn hay làm ăn, đã che chở hay bảo vệ cho “mấy thằng Tây” mới hôm qua dày xéo cướp bóc dân – nước mình (trước sự truy bức hung hãn của quân Nhật), đã không nuôi thù người Nhật (vì bọn Phát Xít đã đè đầu cưỡi cổ và đẩy gần hai triệu đồng bào vào cảnh chết đói), đã đối xử phải chăng với “bọn giặc lái” sa cơ, và vẫy tay chào các cựu chiến binh Hoa kỳ trở lại (để thoả mãn óc tò mò hay bày tỏ nỗi giằng xé tâm hồn).

Người Việt Nam là như thế đó. Người Việt Nam không nuôi thù. Người Việt Nam buông bỏ. Người Việt Nam hoà bình. Người Việt Nam chuyển hoá. Người Việt Nam đang trở thành.

Trước khi tạm dừng tôi xin chép tặng bạn đọc của tôi hai câu thơ của thi sĩ Bùi Giáng để làm quà nhân dịp Tết đến, xuân về:

Xin chào nhau giữa con đường

Mùa xuân phía trước miên trường phía sau.