Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 23 tháng 6, 2025

Một tóm tắt về các chế độ hậu Cộng sản (kỳ 4)

Tác gi: Magyar Bálint – Madlovics Bálint

Bản tiếng Việt: Nguyễn Quang A

Nhà xuất bản Dân Khí – 2025

 

42. TÍNH CHÍNH DANH DÂN SỰ LÀ CƠ SỞ của các nhà nước hiện đại mà đã phát triển những sự diễn giải khác nhau của nó hợp với bản chất cai trị của chúng. Tính chính danh của nhà nước đã dựa vào quan niệm chủ quyền nhân dân kể từ Thời Khai sáng. Sớm hơn, các nhà lãnh đạo đã có thể dựa vào cái gọi là tính chính danh thiêng liêng (quyền uy thần thánh) mà không ngụ ý quan niệm nhân dân nào: nhà nước đã không được hợp pháp hóa trên cơ sở nó phục vụ hoặc ý chí nhân dân hay lợi ích chung nhưng sự thống trị đó suy ra từ tính thần thánh. Trong thời hiện đại, các nhà nước dựa vào tính chính danh dân sự, có nghĩa là elite chính trị lãnh đạo luôn luôn cho là nó là một đại diện của ý chí nhân dân và/hoặc (vì thế) nó phục vụ ý chí chung, tức là, lợi ích của nhân dân.

Tính chính danh dân sự thịnh hành trong tất cả ba chế độ kiểu cực—hơn nữa, cả ba đều gọi mình là loại “nền dân chủ” nào đó, nhắc đến sự thực rằng chúng quả thực thực hiện một dạng của sự cai trị của nhân dân. Nền dân chủ tự do hoặc được gọi như thế hay như một “nền dân chủ hiến định;” nền chuyên quyền bảo trợ được gọi là “nền dân chủ tối cao (sovereign)” hay “nền dân chủ phi-tự do;” và chế độ độc tài cộng sản được gọi là một “nền dân chủ nhân dân.” Tuy vậy, như các sự khác biệt của các thuật ngữ này ngụ ý rồi, trong ba chế độ kiểu cực thì tính chính danh dân sự được diễn giải theo những cách khác nhau, với các bộ chuyện kể khác nhau và trong ngữ cảnh của các khung khổ ý thức hệ khác nhau. Và những chuyện kể khác nhau hợp pháp hóa các hình thức ra quyết định nhà nước khác nhau. Bảng 12 tóm tắt ba chuyện kể: chủ nghĩa hiến pháp, chủ nghĩa dân túy, và chủ nghĩa Marx-Lenin, mà cung cấp khung khổ của tính chính danh dân sự trong nền dân chủ tự do, nền chuyên quyền bảo trợ, và chế độ độc tài cộng sản, một cách tương ứng.

Sự khác biệt chung giữa ba khung khổ tính chính danh nằm ở việc chúng ủy thác quyền diễn giải lợi ích chung cho diễn viên hay  quá trình nào. Mặc dù đôi khi có thể có vẻ hiển nhiên, “lợi ích chung” có thể khó để xác định một cách khách quan.

Đúng hơn, mỗi khung khổ tính chính danh chỉ ra những người (hay một người) nào đó mà sẽ có quyền để xác định lợi ích chung, tức là, lợi ích nhân dân, và nhà nước được hợp pháp hóa bởi sự thực rằng các mục tiêu của các hành động của nó được người diễn giải hợp pháp đặt ra trực tiếp hay gián tiếp.

Bảng 12: Các ý thức hệ của tính chính danh dân sự trong ba chế độ kiểu cực (các chủ nghĩa hiến pháp, dân túy, Marx-Lenin).

Chủ nghĩa hiến pháp (trong nền dân chủ tự do)

Chủ nghĩa dân túy (trong nền chuyên quyền bảo trợ)

Chủ nghĩa Marx-Lenin (trong chế độ độc tài cộng sản)

sự bảo vệ phổ quát nhân phẩm con người được các công dân đại diện

sự bảo vệ đặc biệt của quốc gia được gia tộc chính trị nhận con nuôi đại diện

sự bảo vệ đặc biệt của giai cấp lao động được đảng đại diện

cá nhân chủ nghĩa

tập thể chủ nghĩa

tập thể chủ nghĩa

phổ quát chủ nghĩa trên cơ sở nhân văn

dân tộc chủ nghĩa trên cơ sở thị tộc (chủ nghĩa gia đình vô đạo đức)

quốc tế chủ nghĩa trên cơ sở giai cấp

nghĩa vụ đạo đức vô-hạn

nghĩa vụ đạo đức hạn chế

nghĩa vụ đạo đức hạn chế

chủ nghĩa đa nguyên

chống-chủ nghĩa đa nguyên (chủ nghĩa đa số)

chống-chủ nghĩa đa nguyên

SỰ THẢO LUẬN CÂN NHẮC CÔNG KHAI của sự diễn giải về lợi ích chung: bảo đảm sự đa dạng của các quá trình cạnh tranh và các kênh cho sự bày tỏ và sự thực hiện các lợi ích và các giá trị (nhân dân là các công dân)

SỰ CHIẾM HỮU BẢO TRỢ của sự diễn giải về lợi ích chung: bảo đảm thẩm quyền tói cao của gia tộc chính trị nhận con nuôi trong việc ra quyết định nhà nước mà không có đối lập hợp pháp hay sự phê bình (nhân dân là các đầy tớ)

SỰ CHIẾM HỮU QUAN LIÊU của sự diễn giải về lợi ích chung: bảo đảm thẩm quyền tối cao của đảng trong việc ra quyết định nhà nước mà không có đối lập hợp pháp hay sự phê bình (nhân dân là các thần dân)

43. TRONG MỘT NỀN DÂN CHỦ TỰ DO, TÍNH CHÍNH DANH DÂN SỰ ĐƯỢC DIỄN GIẢI trong khung khổ của chủ nghĩa hiến pháp, mà hợp pháp hóa sự thảo luận cân nhắc công khai về sự diễn giải lợi ích chung. Dựa vào triết lý chính trị tự do, điểm xuất phát của chủ nghĩa hiến pháp là cá nhân công dân và sự tôn trọng nhân phẩm, mà ngụ ý rằng họ phải được đối xử như những người tự do, có tiếng nói về đời họ diễn ra thế nào. Do đó, một nhà nước hiến định (Mệnh đề 28) bắt buộc phải tôn trọng nhân phẩm của mỗi người, vì mọi người trưởng thành mà thành nhà nước giao thiệp với—thường là những người ở trong lãnh thổ của nó —là những người xứng đáng sự tôn trọng nhân phẩm của họ (phổ quát chủ nghĩa trên cơ sở nhân văn); để bảo vệ các quyền của mỗi người, có nghĩa là nhà nước không nên loại trừ những người hay các nhóm nào đó mà đối xử với mỗi người ngang nhau (nghĩa vụ đạo đức vô hạn); và đảm bảo một lĩnh vực công nơi lợi ích hay ý kiến của không ai bị đàn áp cả, vì nếu mọi cá nhân trưởng thành được tôn trọng ngang nhau, thì có nghĩa là các quan điểm, giá trị và lợi ích của của mỗi người là chính đáng và có thể được trình bày ngang nhau (chủ nghĩa đa nguyên).

Loại thể chế đặt khung khổ này là sự thảo luận cân nhắc công khai: câu hỏi về quyền lực chính trị sẽ được dùng thế nào được quyết định trong sự đối thoại và cạnh tranh của sự đa dạng về giá trị và lợi ích của mọi người như những lựa chọn thay thế hợp pháp. Quá trình thảo luận cân nhắc công khai có năm pha liên tiếp nhưng chồng gối nhau: (1) thảo luận, nơi mọi công dân có một cơ hội để bày tỏ quan điểm của họ về các vấn đề chính trịđối chất chúng với các quan điểm của các công dân khác trong tranh luận hòa bình, nơi các ý kiến khác được coi như hợp pháp và vì thế có thể được trình bày tự do; (2) liên kết, nơi các công dân tự nguyện quyết định để hình thành các hiệp hội tự trị và tương đối độc lập và các tổ chức như các nhóm lợi ích và các đảng, đại diện các lợi ích của họ trong sự cạnh tranh với các công dân khác; (3) bầu cử, nơi các giá trị và các lợi ích được trình bày giữa các nhà ra quyết định như một kết quả của một cuộc thi yên bình, được tiến hành một cách công bằng; (4) làm luật, nơi các luật và các quy định được các đại diện được bàu làm trên cơ sở quy tắc đa số, quyết định về sự dùng quyền lực chính trị; (5) thi hành, nơi quyền lực chính trị được dùng thực sự, và các luật và các quy định được thực hiện nhà nước khiến mọi người theo chúng.

Quá trình thảo luận cân nhắc công khai cũng có tính chu kỳ để bảo đảm trách nhiệm giải trình của các nhà cai trị, mà không được bảo vệ trong vị trí của họ nhờ sự đương nhiệm. Như Adam Przeworski diễn đạt, nền dân chủ tự do được đặc trưng bởi tính không chắc chắn được thể chế hóa: các định chế giúp ý chí thay đổi của mọi người thể hiện trong thành phần của các nhà cai trị.

44. TRONG MỘT NỀN CHUYÊN QUYỀN BẢO TRỢ, TÍNH CHÍNH DANH DÂN SỰ ĐƯỢC DIỄN GIẢI trong khung khổ của chủ nghĩa dân túy, mà hợp pháp hóa sự chiếm đoạt bảo trợ của sự diễn giải về lợi ích chung. Không giống chủ nghĩa dân túy ở phương Tây, chủ nghĩa dân túy trong các chế độ chuyên quyền bảo trợ hậu-cộng sản không phải là một hiện tượng từ dưới lên thách thức giới quyền thế và nâng nhà lãnh đạo dân túy lên quyền lực mà nó được dùng theo một cách từ trên-xuống, từ một vị trí cai trị để hợp pháp hóa sự cai trị của nhà bảo trợ chóp bu. Điểm xuất phát của chủ nghĩa dân túy không phải là cá thể mà là một tập thể: các nhà dân túy nói họ đại diện “nhân dân,” “quốc gia,” và “lợi ích quốc gia.” Suy ra từ điều này trong chuyện kể dân túy là, bất cứ ai, mà chống lại nhà dân túy, cũng chống lại nhân dân và quốc gia, và vì thế không đơn giản là đáng khinh về mặt đạo đức mà là bất hợp pháp.

Tự tuyên bố là sự đại diện chính đáng duy nhất của nhân dân, chủ nghĩa dân túy phá tan logic của thảo luận cân nhắc công khai: vì nhà lãnh đạo dân túy gạt bỏ mọi sự phê phán và ý tưởng không giống với ý của riêng họ như “chống-quốc gia,” việc thảo luận sự dùng quyền lực chính trị trở nên là không thể vì các giá trị và các lợi ích khác nhau không thể được trình bày một cách hợp pháp. Thật quan trọng để thấy rằng đối lập nói chung bị tuyên bố là bất hợp pháp, cả bây giờ và trong tương lai. Vì thế, khi mọi người trở nên bất mãn với các lãnh đạo của họ và muốn ủng hộ ai đó khác, họ cũng tự động trở thành bất hợp pháp. Chủ nghĩa dân túy, thực ra, tước đoạt cơ hội của bản thân nhân dân để thay đổi ý kiến của mình một cách hợp pháp, chống lại nhà dân túy. Quá trình thảo luận cân nhắc công khai, cho dù về mặt hình thức vẫn có tính chu kỳ, về cơ bản bị đóng băng: nhân dân, bất luận khôn ngoan đến đâu và đã chọn đúng các nhà lãnh đạo để ủng hộ các lợi ích của họ thế nào, sẽ không có lựa chọn nào khác trừ chấp nhận cách các nhà lãnh đạo dân túy sử dụng quyền lực chính trị. Việc ra quyết định nhà nước trên thực tế bị dời khỏi tay của nhân dân, và nhà dân túy trở thành người diễn giải hợp pháp duy nhất về lợi ích chung.

Chủ nghĩa dân túy không phải là một ý thức hệ mà là một dụng cụ ý thức hệ: một công cụ tranh luận mà bất cứ ai có hay không có một ý thức hệ ban đầu có thể dùng để biện minh các hành động của họ. Điều này là cái biến nó thành sự diễn giải về tính chính danh dân sự mà hợp với một nền chuyên quyền bảo trợ. Quyền lực không bị giới hạn mà nhà bảo trợ chóp bu có cả bên trong gia tộc chính trị nhận con nuôi và quốc gia không thể được hợp pháp hóa bằng chủ nghĩa hiến pháp nơi quyền lực bị hạn chế bởi sự thảo luận cân nhắc công khai, các phe phái cạnh tranh,hiến pháp. Nhưng trong chủ nghĩa dân túy, không thách thức nào là hợp pháp đối với nhà bảo trợ chóp bu, người diễn giải hợp pháp duy nhất về lợi ích chung mà, đến lượt, có thể coi thường một cách hợp pháp các quy tắc chính thức, hợp hiến mà lẽ ra kiềm chế sự thực hiện “lợi ích chung” mà ông ta xác định. Chủ nghĩa dân túy có nghĩa là sự hợp pháp hóa sự vô-trách nhiệm giải trình: thay cho thảo luận cân nhắc công khai, là sự chiếm đoạt bảo trợ của sự diễn giải về lợi ích chung của nhà bảo trợ chóp bugia tộc chính trị nhận con nuôi.

45. CHỦ NGHĨA DÂN TÚY LÀ MỘT SỰ THÁCH THỨC TÍNH CHÍNH DANH, biện hộ một sự chuyển từ tính chính danh duy lý-hợp pháp sang tính chính danh duy lý-thực chất.

Max Weber phân biệt ba “kiểu thuần túy” của sự thống trị hợp pháp: luật định, truyền thống, và có sức thu hút (charismatic), mà khác nhau về lý do mọi người chấp nhận sự thống trị như hợp pháp. Trong tính chính danh luật định, mọi người cho rằng “bởi vì nó là luật”; trong tính chính danh truyền thống, lý lẽ là “bởi vì nó là phong tục.” Trong tính chính danh có sức thuyết phục, lý lẽ là “bởi vì ông ta là người đặc biệt nhất.” Để ý vai trò đặc biệt của nhà bảo trợ chóp bu trong tính chính danh, là bình thường để nói về tính chính danh có sức thuyết phục của các chế độ bảo trợ. Nhưng một phân tích sâu hơn về chủ nghĩa dân túy gợi ý một hình mẫu khác biệt, hình mẫu vượt xa hơn bộ ba Weberian.

Bản chất của tính chính danh luật định (duy lý) là mọi người thấy sự dàn xếp pháp lý của các thứ như một mục đích tự nó. Các nhà lãnh đạo được bàu được chính danh hóa không phải bởi con người của họ hay các hành động của họ, mà bởi sự thực rằng họ đã đươc bàu: rằng họ đã lên nắm quyền bằng việc leo các bậc của các định chế chính thức, hợp pháp. Bản chất chủ nghĩa dân túy, tuy vậy, việc duy trì luật các định chế chính thức không phải là một mục đích tự nó, nhưng có thể được xem là hợp pháp nếu và chỉ nếu chúng phục vụ sự thực hiện “lợi ích chung.” “Lợi ích quốc gia,” như nhà dân túy định nghĩa nó, là nền tảng của tính chính danh; bất cứ gì đứng cản đường thực hiện nó đầu có thể bị coi thường, dù nó là một luật hay một nhóm xã hội, một tổ chức, hay một diễn viên chính trị.

Điều này có nghĩa sự thay thế tính chính danh luật định-duy lý bằng tính chính danh thực chất-duy lý (Bảng 13). Trong trường hợp trước, cái mang tính chính danh là trật tự thể chế phi-cá nhân; trong trường hợp sau, nó là một người nào đó, nhà dân túy. Tính chính danh luật định-duy lý có nghĩa rằng lợi ích của mỗi người có thể là hợp pháp; tính chính danh thực chất-duy lý có nghĩa rằng lợi ích hợp pháp duy nhất là cái nhà dân túy tuyên bố là lợi ích chung, và mọi người phản đối nó và ông ta eo ipso (đương nhiên) bất hợp pháp. Như thế, dưới tính chính danh luật định-duy lý, các nhà lãnh đạo có thể phải chịu ở dưới cái gì đó như luật trị (nhà nước pháp quyền), còn dưới tính chính danh thực chất-duy lý, luật có thể là một đầy tớ của nhà lãnh đạo dân túy mà đã chiếm đoạt sự diễn giải về lợi ích chung. Trong ngữ cảnh của tính chính danh luật định-duy lý, một quá trình thảo luận cân nhắc về sự hòa giải lợi ích của nhiều diễn viên được coi là lý tưởng; trong ngữ cảnh của tính chính danh thực chất-duy lý, một quá trình tuyên bố, mà khẳng định các lợi ích của nhà lãnh đạo và ức chế các lợi ích khác, trở nên lý tưởng.

Bảng 13: Tính chính danh luật định-duy lýtính chính danh thực chất-duy lý.

 

Tính chính danh luật định-duy lý (chủ nghĩa hiến pháp)

Tính chính danh thực chất-duy lý (chủ nghĩa dân túy)

Cái mang tính chính danh

các định chế phi-cá nhân (thể hiện trong các quy tắc chính thức)

cá nhân các diễn viên (thể hiện trong một tổ chức phi-chính thức)

Địa vị của elite cai trị

lệ thuộc vào luật

được luật phục vụ

Thủ tục kết quả

thảo luận cân nhắc: hòa giải lợi ích của nhiều diễn viên (tính đến các lợi ích khác nhau)

tuyên bố: thực thi lợi ích của một diễn viên duy nhất (ức chế các lợi ích khác)


46. MỘT CHẾ ĐỘ CHUYÊN QUYỀN BẢO TRỢ VỀ MẶT CHÍNH THỨC DUY TRÌ các định chế thảo luận cân nhắc công khai nhưng vô hiệu hóa chúng, đặt chúng lên một cơ sở tính chính danh mới. Trong chế độ độc tài cộng sản, các định chế thảo luận cân nhắc công khai bị đàn áp và kiểm soát giáo điều. Sự cai trị của đảng nhà nước là toàn trị: tất cả các diễn viên trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội buộc phải phù hợp với đường lối đảng và do đó những người phủ nhận ý chí trung ương bị trừng phạt.
Ngược lại, các định chế thảo luận cân nhắc công khai trong một nền chuyên quyền bảo trợ trên thực tế bị vô hiệu hóa và được dùng. Gia tộc chính trị nhận con nuôi đàn áp chỉ những gì gây ra một mối đe dọa đối với sự ổn định của độc quyền về quyền lực chính trị của nó, không phải mọi thứ phản đối nó. Nó không phải là giáo điều: mọi người bị bỏ lại một mình, có nghĩa là họ có thể thực hiện các quyền của họ và có thể tham gia vào các hoạt động liên quan đến dân chủ thảo luận cân nhắc công khai (tự do ngôn luận, chay đua trong các cuộc bầu cử vân vân) chừng nào nó không đe dọa sự cai trị chuyên quyền. Hơn nữa, các quá trình như vậy trở thành một phần của hoạt động lành mạnh của hệ thống. Điều này đã được nhận ra bởi các nhà lai học (các Mệnh đề 2-3) mà nói về một “façade (mặt tiền trang trí)” dân chủ, một hệ thống thể chế Potemkin đã bị làm trống rỗng chức năng của nó về trao cho các công dân một tiếng nói về điều khiển cuộc sống của họ thế nào. Ngoài ra, họ nói thêm rằng façade dân chủ làm cho việc tách xa khỏi chế độ khó khăn hơn, và cho phép các nhà cai trị tránh sự áp bức công khai mà sẽ rất tốn kém, cả về mặt sự ủng hộ dân chúng tiềm năng và sự phát triển kinh tế.
Mặt khác, cần nhận ra rằng façade thể chế thậm chí không là dân chủ danh nghĩa: nó được đặt trên một cơ sở tính chính danh mới, thay đổi từ tính chính danh luật định-duy lý (mà là sơ sở cho việc thiết lập môi trường thể chế kiểu-Tây phương) sang tính chính danh thực chất-duy lý. Trong một chế độ độc tài cộng sản, sự đàn áp thảo luận cân nhắc công khai bởi đảng cộng sản có thể bắt nguồn từ một ý thức hệ, chủ nghĩa Marx-Lenin. Việc vô hiệu hóa các hành động của nhà bảo trợ chóp bu không thể bắt nguồn từ chủ nghĩa dân túy, vì thế nó không phải là “ý thức hệ” về sự trung hòa (vô hiệu) hóa. Nhà bảo trợ chóp bu dân túy không phải được ý thức hệ-dẫn dắt mà áp dụng-ý thức hệ (Mệnh đề 98), và như thế mối quan hệ bị đảo ngược: sự vô hiệu hóa (neutralization) không thể được dẫn ra từ chủ nghĩa dân túy, mà được biện minh bởi nó.
Nhà bảo trợ chóp bu dùng chủ nghĩa dân túy như một dụng cụ; với nó, ông luôn luôn có thể tranh luận về status quo thể chế rằng chính vì lợi ích quốc gia để thay đổi nó, còn cách thay đổi nó—về hình thức duy trì các định chế nhưng loại bỏ tiềm năng phá vỡ chế độ của chúng—được một mình nhà bảo trợ chóp bu quyết định trên cơ sở thực dụng (Mệnh đề 99). Đấy là nơi “sự chống-chủ nghĩa tinh hoa” thường được để ý của chủ nghĩa dân túy bước vào: cuộc tấn công của nhà dân túy chống lại các định chế thảo luận cân nhắc công khai được hợp pháp hóa bằng việc dùng sự căm thù chống-giới quyền thế (antiestablishment) của nhân dân. Trong khi nó có vẻ chống-giới tinh hoa ở bên cầu, nó quả thực là “chống-chủ nghĩa thảo luận cân nhắc (anti-deliberationism)” ở bên cung (Mệnh đề 103). Nhà dân túy thách thức tính chính danh của các định chế luật định-duy lý để phá vỡ chúng, theo ý thích của ông, trên một cơ sở thực chất.

47. TRONG PHA THẢO LUẬN CỦA THẢO LUẬN CÂN NHẮC CÔNG KHAI, nhà nước mafia tạo ra một lĩnh vực truyền thông bị chế ngự với các quyền media bị vô hiệu hóa. Trong một nền dân chủ tự do, bản chất của việc thảo luận là mọi công dân có một cơ hội để bày tỏ các quan điểm của mình về các vấn đề chính trị và tranh cãi yên bình với các quan điểm của các công dân khác. Điều này có nghĩa là sự giữ vững bốn quyền media, như được Haraszti Miklós (“Illiberal State Censorship,” 2019) chỉ rõ: quyền để biết, mà là quyền để nhận thông tin về các vấn đề chính trị (nhất là thông tin về hoạt động nhà nước, lợi ích công); quyền để nói, mà là quyền để chia sẻ thông tin và ý kiến của người ta; quyền để chọn, mà là quyền để tiếp cận đến phong cảnh media đa dạng và đa nguyên; và quyền để kết nối, mà là quyền để tham gia vào truyền thông tự do và chia sẻ thông tin với những người ở trong nước và nước ngoài qua internet (Bảng 14).

Trong một nền chuyên quyền bảo trợ, quyền để biết bị cản trở bởi việc phân loại thông tin mật hay bởi việc tạo ra các quy tắc làm cho hoạt động nhà nước ít minh bạch hơn. Về quyền để nói, một chế độ chuyên quyền bảo trợ hạn chế không phải nội dung mà hạn chế tầm với. Trong một quá trình có thể được gọi là “ghetto hóa,” gia tộc chính trị nhận con nuôi đặt bẫy các tiếng nói phê phán vào các giới nhỏ nơi những người từng là các nhà phản biện kiên cường của chính phủ chỉ nói chuyện giữa họ với nhau, để lại một khả năng tồn tại hạn chế cho một sự thay đổi về tỷ lệ của các tiếng nói trung thành versus phê phán trong công chúng lớn hơn. Điều này lại lần nữa là một ví dụ về nhà nước mafia không giáo điều: trong khi văn hóa tự kiểm duyệt có thể tiến hóa, không có sự kiểm duyệt từ trên xuống như trong một chế độ độc tài cộng sản. Chế độ không sợ các từ, nó có thể xử lý sự chỉ trích—chừng nào sự chỉ trích không có tầm với.

Quyền để chọn bị media bảo trợ hạn chế: media nhà nước thì thiên vị, media tư nhân hoặc bị gia tộc chính trị nhận con nuôi mua đứt hay bị đẩy ra, bị tiếp quản, hay bị ghetto hóa. Cuối cùng, trong khi các chế độ chuyên quyền bảo trợ như Nga cố gắng hạn chế quyền để kết nối, khó khăn chung để điều chỉnh không gian online đã dẫn đến sự áp dụng gây nhiễu loạn: làm rối ren truyền thông bằng việc phát vô số chuyện kể mâu thuẫn, kết hợp tin tức thật và giả như nhau.

Một mặt, việc gây nhiễu loạn tạo ra một bầu không khí mơ hồ và ngờ vực chung. Việc sử dụng các đội quân troll được tổ chức tập trung và được công nghiệp hóa để lan truyền các chuyện kể này trong media xã hội phá vỡ sự thảo luận và làm bẩn nó với tin giả (Mệnh đề 104). Mặt khác, nó cũng có nghĩa rằng nhiều quan điểm khác nhau được đưa vào thảo luận công khai với mục đích duy nhất để gây nhiễu loạn. Điều này làm cho thảo luận cân nhắc công khai trên thực tế là không thể vì các chuyện kể đối lập trộn vào tiếng ồn của lĩnh vực truyền thông hỗn loạn, mà trong đó mọi người không thể quyết định giữa tạp âm của những câu chuyện phải được coi là nghiêm túc.

Bảng 14: Các lĩnh vực truyền thông mở, đóng,bị thống trị.

 

Quyn để biết (nhn thông tin)

Quyn để nói (chia s thông tin)

Quyn để chn (các ngun thông tin đa dng)

Quyn để kết ni (thông tin online)

Truyn thông m (nn dân chủ tự do: giữ vững các quyền media)

Cho phép truy cập thông tin lợi ích công

T do ngôn luận (nhà nước làm cho nội dung ôn hòa)

Media nhà nước vô tư, media tư nhân (đối lập) tự do

T do truy cập internet

Truyn thông đóng (chế đ độc tài cộng sản: các quyền media bị đàn áp)

Từ chối truy cập thông tin lợi ích công

Ngôn luận bị kiểm duyệt (nhà nước hạn chế nội dung)

Media nhà nước bị chỉ đạo, media tư nhân (đối lập) bị cấm

Truy cập internet bị hạn chế

Truyn thông b thng tr (nền chuyên quyền bo trợ, các quyền media bị vô hiệu hóa

Cản trở sự truy cập thông tin lợi ích công

Ngôn luận tự do (nhà nước hạn chế tầm với)

Media nhà nước thiên vị, media tư nhân (đối lập) bị chèn ép và bị ghetto hóa

Truy cập internet bị điều tiết


48. T
RONG PHA LIÊN KẾT CỦA THẢO LUẬN CÂN NHẮC CÔNG KHAI, đầu tiên, nhà nước mafia vô hiệu hóa các đảng đối lập thật và tạo ra các đảng đối lập giả. Các đảng đối lập là các trụ cột quan trọng nhất của một nền dân chủ tự do, đảm bảo sự thay đổi của các chính quyền. Trong một nền chuyên quyền bảo trợ, nhà nước mafia cố gắng vô hiệu hóa chúng: cho phép chúng tồn tại và được phiếu và ghế nhưng từ chối cho chúng chiến thắng (Bảng 15).

Thứ nhất, chúng ta có thể nói về các đảng bị gạt sang bên lề. Loại này không phải phụ tuộc vào nhà bảo trợ chóp bu, nhưng bị buộc vào một vị trí bị gạt sang bên lề mà không có triển vọng nào bởi bị bất lực về tài chính và qua sự tập trung quyền lực, sự truy cập media hạn chế, sự kỳ thị chống lại các nhà hoạt động, sự hình sự hóa, và sự thực thi pháp luật chọn lọc về mặt chính trị.

Thứ hai, đảng bị thuần hóa là một đảng mà về mặt chính thức trong đối lập nhưng một cách phi-chính thức, trong cái bẫy của các giao dịch và sự tống tiền, nó đóng vai của một đảng đối lập chẳng bao giờ có khả năng thắng chống lại đảng thống trị. Tuy nhiên, các cán bộ lãnh đạo của nó rất có thể được điều này phục vụ tốt dưới dạng của một số cơ hội tài chính và sự nghiệp chính trị.

Thứ ba, đảng bị hấp thu bị thâu nạp, có lẽ trong khi trong đối lập, và đã lập một liên minh hay thậm chí là một đối tác liên minh với đảng (dây curoa) cai trị (Mệnh đề 19). Nhưng sự thâu nạp trong trường hợp này là một “sự bế tắc hẳn” vì chế độ cuối cùng vô hiệu hóa đảng bằng việc làm trống rỗng nó về mặt sự ủng hộ dân chúng.

Thứ tư, đảng bị thanh lý là một đảng đối lập mà đã đe dọa nhà nước mafia và bị cấm hay bị thanh lý qua sự bỏ tù hay có lẽ sự sát hại các nhà lãnh đạo của nó, sau những cố gắng không thành công để buộc nó vào vị trí bị thuần hóa. Một loại đặc biệt của đảng bị thanh lý là đảng không được phép hình thành ngay từ đầu: đảng này có thể được gọi là một “đảng bị sẩy thai” (như đảng nước Nga của Tương lai, đảng đối lập không có đăng ký của Alexei Navalny).

Loại cuối cùng của đảng đối lập de jure không thể được nói là “bị vô hiệu hóa” vì nó chưa bao giờ là đối lập thực sự. Các đảng giả thực hiện một chức năng kép. Một mặt, trong các chế độ nơi việc khử bỏ các đảng đối lập khỏi cấu trúc đảng đã quá thành công, bản thân quyền lực trung tâm đưa ra các đảng và các ứng viên “đối lập” dưới sự kiểm soát của nó, khớp khéo vào phông cảnh dân chủ. Điều này đã thế ở Turkmenistan kể từ 2007, nơi một đối lập giả xuất hiện dưới dạng các đảng giả cũng như các ứng viên tổng thống giả, tất cả đều là những người ủng hộ to tiếng của nhà bảo trợ chóp bu Gurbanguly Berdimuhamedow.

Mặt khác, một nhà bảo trợ chóp bu có thể quyết định đưa ra các đảng giả, một cách trực tiếp hay gián tiếp, để chia rẽ và vì thế giảm các cơ hội chiến thắng của đối lập. Sự xuất hiện của các đảng này có thể đánh lạc hướng các cử tri và phân mảnh các phiếu chỉ trích-chính phủ; ở Hungary, đấy đã là công cụ trong việc giữ siêu đa số của đảng Fidesz trong các cuộc bầu cử 2014. Sự ổn định của một phong cảnh chính trị của các đảng bị vô hiệu hóa và đảng giả không phải là một sự cho trước: các đảng trước kia bị thuần hóa hay bị gạt sang bên lề có thể cố gắng để thoát ra khỏi vị trí của chúng (như đảng cộng sản ở Nga), và tình cảm phản đối chống lại cả chính phủ và đối lập có thể làm tăng những sự hình thành chống-giới quyền thế. Nếu các phong trào như vậy là nghiêm túc, có thể kỳ vọng nhà nước mafia can thiệp, và đưa ra các biện pháp thêm để bảo đảm tình trạng bị vô hiệu hóa của sân chơi chính trị.


Bảng 15: Các đảng đối lập với địa vị chính thức và de facto

khác nhau trong một nền chuyên quyền bảo trợ.

 

 

Địa vị chính thức

Địa vị de facto

Chức năng

Đảng bị gạt sang bên lề

Đối lập

Đối lập bị vô hiệu hóa (không có cơ hội thắng)

Giả vờ cạnh tranh (với sự giám sát và lợi ích tối thiểu)

Đảng bị thuần hóa

Đối lập

Đối lập bị vô hiệu hóa (lệ thuộc vào nhà bảo trợ chóp bu)

Giả vờ cạnh tranh

 

Đảng bị hấp thu

Đối lập (đối tác liên minh trước kia)

Đối lập bị vô hiệu hóa (bị nhà bảo trợ chóp bu làm trống rỗng)

 

Giả vờ cạnh tranh

Đảng bị thanh lý

Đối lập

Đối lập bị vô hiệu hóa (bị nhà bảo trợ chóp bu thanh lý)

n.a.

Đảng giả

Đối lập

Đối lập ảo (do nhà bảo trợ chóp bu lập ra)

Giả vờ cạnh tranh


 49. TRONG PHA LIÊN KẾT CỦA THẢO LUẬN CÂN NHẮC CÔNG KHAI, thứ hai, nhà nước mafia giữ vững một hệ thống đảng thống trị với đối lập cạnh tranh ven rìa hay giả. Với vài ngoại lệ như Trung Quốc, hầu hết các nước hậu-cộng sản đã phát triển các hệ thống đa-đảng. Câu hỏi quan trọng nhất về các thứ này là liệu chúng gồm các đảng bảo trợ hay không-bảo trợ: tức là, liệu sự cạnh tranh của các đảng quả thực có là một sự cạnh tranh của các mạng lưới patron-client. Trong một nền dân chủ bảo trợ, một số đảng của nhà bảo trợ, với các mạng lưới phi-chính thức, có kích thước tương đối ngang nhau, cạnh tranh; trong một nền chuyên quyền bảo trợ, hệ thống đảng có một đảng của nhà bảo trợ chi phối với các đảng đối lập bị giới hạn trong một rìa cạnh tranh.

“Rìa cạnh tranh” là một thuật ngữ được vay từ kinh tế học: trong mô hình của hãng thống trị với rìa cạnh tranh, khái niệm được dùng để mô tả một số đông hãng tương đối nhỏ, mỗi có một phân số nhỏ của thị trường so với thị trường của hãng dẫn đầu kiểm soát ngành và với nó rìa cạnh tranh điều chỉnh. Tương tự, đảng của nhà bảo trợ chi phối đối mặt với nhiều đảng tương đối nhỏ, và đảng thống trị trên thực tế xác định các quy tắc và nội dung cạnh tranh.

Một sự tương tự thứ hai với mô hình kinh tế đến từ sự thực rằng hãng thống trị không phải là một hãng độc quyền: nó có lợi thế cạnh tranh nhưng phải làm việc để duy trì nó, ngăn chặn hãng vào từ rìa cạnh tranh để tiếp quản. Đảng thống trị, như một client của gia tộc chính trị nhận con nuôi, có nhiều nguồn lực (chính thức và phi-chính thức) hơn đối lập nhiều, nhưng nó vẫn cần tính đến những gì đối lập làm. Gia tộc chính trị nhận con nuôi có thể cần làm yếu đối lập thật thêm nữa, và/hoặc điều chỉnh các quyết định chính sách của nó để đối lập không thể lợi dụng chúng (Mệnh đề 115).

Sự tương tự thứ ba là thường có cạnh tranh giữa các hãng rìa-cạnh tranh,cạnh tranh ở đó có thể dữ dội hơn đối với hãng thống trị. Trong một hệ thống đảng-thống trị với rìa-cạnh tranh, trong khi một số đảng đối lập có thể vẫn cố gắng chiến đấu thực sự với elite chính trị hàng đầu, chúng chắc nhận ra rằng chiến thắng không phải là một lựa chọn—nhưng tối đa hóa số ghế và phiếu, và như thế, là sự tiếp cận đến các nguồn lực nhà nước với chi phí của nhau. Như một kết quả, các đảng đối lập “chạy vì huy chương bạc thay cho huy chương vàng” khi chúng đặt tay của chúng lên sự tiếp cận càng nhiều nguồn lực công càng tốt. Tuy vậy, một hệ thống đảng-thống trị cũng có thể đi kèm với một đối lập giả hoàn toàn. Trong trường hợp đó, đối lập thật đã bị loại trừ và “các đối địch” còn lại của đảng thống trị thực sự là các tác phẩm của gia tộc chính trị nhận con nuôi.

50. TRONG PHA LIÊN KẾT CỦA THẢO LUẬN CÂN NHẮC CÔNG KHAI, thứ ba, nhà nước mafia dùng các GONGO và các TRANSBO trong lĩnh vực cộng đồng trong khi đàn áp các NGO. Các diễn viên tập thể chính của lĩnh vực hoạt động cộng đồng là các tổ chức phi-lợi nhuận (các NGO), mà là một loại đặc biệt của hiệp hội. Một NGO, lý tưởng một cách điển hình, là “single issue (tập trung vào một chủ đề duy nhất)”: nó hoạt động cho một mục tiêu hay đại diện một quan điểm trong một vấn đề nào đó, không quan tâm đến những khó khăn tài chính hay chính trị nó có thể đối mặt. Đồng thời, các NGO là các tổ chức từ dưới lên, hoạt động de jure và de facto độc lập với nhà nước.

Thuật ngữ “GONGO” (NGO được chính phủ-tổ chức), mặt khác, cố gắng để thâu tóm một contradictio in adjecto (mâu thuẫn về từ ngữ): rằng các tổ chức này chính thức định vị mình như các NGO trong khi chúng thực sự là các tổ chức nhà nước, được thành lập và nuôi dưỡng (một cách phi-chính thức) bởi elite cai trị và nó phục vụ quyền lực hiện hành. Vì các nhà nước mafia là thực dụng và không cấm (tất cả) các nhóm đối lập, các NGO mà không thách thức quyền lực và áp dụng ý thức hệ của elite cai trị có thể tồn tại trong một nền chuyên quyền bảo trợ. Các NGO mà có đặt ra một thách thức, đặc biệt các watchdog (tổ chức theo dõi) nhân quyền và chống-tham nhũng, chịu sự vô hiệu hóa của các nhà chức trách, còn các GONGO được hưởng địa vị đặc quyền về mặt các quy định và tài trợ. Nhà nước mafia áp dụng một phương pháp luận thuần hóa nhiều bước. Đầu tiên, nó tập trung sự tài trợ và sự kiểm soát của nó; thứ hai, nó, nó triển khai media bằng việc tiến hành các chiến dịch bôi nhọ chống lại các NGO định hướng-đối lập, hay vận động ủng hộ đặc tính kiềm chế sự thống trị của nhà nước nói chung. Như bước cuối cùng, nó có thể áp dụng các phương tiện bức chế nhằm để thực thi ý chí của nhà bảo trợ chóp bu (Mệnh đề 82).

Ngoài các NGO và các GONGO ra, chúng ta cần nhắc đến các TRANSBO, hay TRANSsion-Belt Organizations (các tổ chức dây curoa) mà được nhà nước thành lập de jure. Khởi nguồn trong chế độ độc tài cộng sản, các TRANSBO như các công đoàn, các tổ chức giống mặt trận nhân dân, các tổ chức thanh niên cộng sản, các hiệp hội văn hóa, tổ chức phụ nữ, và vân vân được tài trợ bởi và kết nạp vào nomenklatura của đảng nhà nước để truyền đạt ý chí của nó và đề xuất phong cách sống cộng đồng cho các thần dân của các chế độ độc tài. Trong một nền chuyên quyền bảo trợ, bản thân đảng trở thành một tổ chức dây curoa (Mệnh đề 19), trong khi các TRANSBO trong các lĩnh vực văn hóa, khoa học, thể thao vân vân được nhà nước thành lập để thực hiện ba vai trò chính: các cơ quan thanh toán tham nhũng, các nguồn của tiền công cộng và chức ngồi không ăn lương cho những người hưởng lợi của gia tộc chính trị nhận con nuôi; các chỗ chiêu mộ, hay nhận con nuôi cho gia tộc chính trị; và các pháo đài của chính trị biểu tượng, cung cấp và công khai ủng hộ sự chính danh hóa ý thức hệ của chế độ (Mệnh đề 99).

51. TRONG PHA LIÊN KẾT CỦA THẢO LUẬN CÂN NHẮC CÔNG KHAI, thứ tư, nhà nước mafia tổ chức các cuộc rally (mít tinh lớn) ủng hộ-chính phủ, chứng minh lòng trung thành, trong khi giải tán các cuộc biểu tình phản kháng. Trong một nền dân chủ tự do nơi thảo luận cân nhắc công khai chứa ngang nhau các tiếng nói cả ủng hộ lẫn chỉ trích, nhà nước coi các cuộc biểu tình phản kháng theo cùng cách như các rally ủng hộ: tức là, như các sự kiện hiệp hội. Khi chúng ta di chuyển tới các hệ thống đàn áp hơn, một chỗ trống xuất hiện giữa hai loại này. Các cuộc biểu tình phản kháng được dung thứ ngày càng giảm, trong khi các cuộc rally (ủng hộ) trở nên ngày càng nổi bật.

Trên đầu áp bức của thước chia độ, các chế độ độc tài cộng sản không dung thứ các cuộc biểu tình phản kháng, trong khi các cuộc rally ủng hộ chính phủ có hình thức của các cuộc diễu hành, các lễ kỷ niệm nhà nước lòe loẹt nơi mọi người buộc phải tràn xuống đường phố và hoan hô hệ thống và các nhà lãnh đạo của nó. Một nền chuyên quyền bảo trợ ở giữa của thước chia độ, với cả các cuộc biểu tình và các rally ủng hộ-chính phủ đều nổi bật. Muộn hơn, như các cuộc rally ủng hộ-chính phủ của (tổ chức đoàn thanh niên) Nashi ở Nga và cái gọi là các cuộc Diễu hành Hòa bình ở Hungary, là khác với các cuộc diễu hành cộng sản, mà chủ yếu đã là các hoạt động nghi lễ cưỡng bức. Chúng hoạt động như một sự kiện nơi nhà bảo trợ chóp bu có thể chứng tỏ sự ủng hộ nhân dân (cho mình) và những người diễu hành có thể chứng tỏ lòng trung thành của họ. Mặt khác, các sự kiện như vậy thường có thể tiếp cận đến nhiều nguồn lực tài chính hơn và đối mặt với một bộ máy nhà nước nhân từ hơn các cuộc biểu tình (chống-chính phủ), mà chỉ có thể tiếp cận đến ít nguồn lực hơn, nhưng cũng đấu tranh với sự đàn áp của nhà nước.

Nhà nước mafia tận dụng vấn đề của các quyền mâu thuẫn nhau, như sự thực rằng việc thực hiện quyền tự do tụ họp có thể đòi hỏi ngừng giao thông—hạn chế quyền tự do đi lại—hoặc nó có thể quấy rầy những người sống trong các phố mà những người biểu tình chiếm—tạo ra nguy hiểm cho trật tự công cộng. Trong khi một nhà nước hiến định tiến hành việc cân bằng các quyền, cố gắng tạo ra một hệ thống nơi không quyền cơ bản nào bị quyền khác chặn hoàn toàn, nhà nước mafia thì “không-cân bằng các quyền:” nhà nước dùng quyền ít đe dọa hơn như một cái cớ để đàn áp quyền đe dọa hơn. Mặt khác, nhà nước mafia có thể dùng một loạt kỹ thuật để giải tán những người biểu tình từ việc đơn giản phớt lờ qua “mua chuộc” các nhóm xã hội biểu tình đến việc báo hiệu tiêu cực, mà có nghĩa là khiến mọi người tin họ có thể mất việc làm của họ hay mất sự tiếp cận tương tự đến các nguồn lực nếu họ biểu tình.

Nói chung, có thể phân biệt hai loại phản kháng: các phản kháng chất vấn-chính sách và chất vấn-tính chính danh. Trong trường hợp trước, các nhóm nào đó (sinh viên, giáo viên, người về hưu vân vân) bày tỏ sự phàn nàn của họ một cách riêng biệt, chú tâm chỉ vào các chính sách nào đó liên quan đến nhóm riêng của họ. Các phản kháng này có thể bị nhà nước mafia triệt phá bằng các lời hứa một phần hay đơn giản phớt lờ, chờ cho chúng hết hơi. Tuy vậy, các cuộc phản kháng chất vấn tính chính danh vượt xa hơn sự chỉ trích chuyên nghiệp về một lĩnh vực cá biệt cũng như logic chính trị của bản thân chế độ: chúng thể hiện paradigm phê phán-chế độ thay vì paradigm phê phán chính phủ (Mệnh đề 74).

52.  TRONG PHA BẦU CỬ CỦA THẢO LUẬN CÂN NHẮC CÔNG KHAI, thứ nhất, nhà nước mafia tổ chức các chiến dịch xây dựng lòng trung thành và độc chiếm-diễn đàn. Tại các nền dân chủ tự do, các cuộc bầu cử là một tình huống tự do lựa chọn (Bảng 16). Các chiến dịch tiếp thị gồm sự cạnh tranh giống-thị trường, theo sự thịnh hành của cung tự do—các công dân tự do để thành lập, gia nhập, và ủng hộ các đảng xung đột nhau—và cầu tự do—các công dân tự do để biết về các lựa chọn thay thế sẵn có qua sự tiếp cận đến các nguồn thông tin thay thế. Đồng thời, sự tổ chức ad hoc (của đảng), mà chỉ huy một chiến dịch, là độc lập với các cơ quan hành pháp và tư pháp nhà nước, ngay cả—hay đặc biệt—trong trường hợp chiến dịch của đảng cầm quyền. Đây là là một đảm bảo thể chế về quyền tự do lựa chọn của các công dân cũng như các chiến dịch đó, ngay cả các chiến dịch với các mục tiêu xung đột, có thể cạnh tranh tự do trên chính trường.

Ngược lại hoàn toàn, nhà nước mafia tổ chức các chiến dịch xây dựng lòng trung thành, độc chiếm-diễn đàn mà trong đó bao gồm không chỉ media bảo trợ mà cả các cơ quan nhà nước. Trong khi sân chơi không bằng phẳng thường được lưu ý, vai trò của Viện công tố trong việc hình sự hóa các đối thủ trong các cuộc bầu cử bị bao phủ trong sự im lặng đáng xấu hổ ngay cả với các nhà quan sát quốc tế. Viện công tố để rò rỉ thông tin phỉ báng các đối thủ cho media bảo trợ một cách thận trọng phù hợp với lịch trình chiến dịch, trong khi đôi khi coi các vụ như bí mật nhà nước nên những người bị cáo buộc không được pháp ngay cả bảo vệ chính mình công khai. Trong những vụ nào đó, công luận được chuẩn bị trước với một sự bắt bớ, sự quản thúc tại gia hay một bức ảnh về người bị cáo buộc bị dẫn qua tòa án. Những tin riêng được cung cấp đúng lúc: sự đưa ra công khai của chúng theo thời gian biểu của các chiến dịch đa dạng nhất. Cuối cùng, Viện công tố cũng có thể làm mất tư cách các đối thủ chính trị, loại họ khỏi sự cạnh tranh hoàn toàn.

Sự thực thi pháp luật chọn lọc được điều chỉnh với các mục tiêu chiến dịch cũng xuất hiện trong các chế độ độc tài cộng sản, nhưng chiến dịch có một ý nghĩa khác trong một môi trường cộng sản. Tại đó, các chiến dịch đình chỉ-các quyền tồn tại như một cơ chế cưỡng bức, đại diện không lựa chọn nào, được các thành viên cấp cao của nomenklatura chuyển bộ máy nhà nước vào “phương thức hoạt động phong trào.” Điều này có nghĩa rằng các thành viên cấp thấp hơn của nomenklatura và/hoặc những nhóm dân cư nào đó được phân công thực hiện một mục tiêu do trung ương xác định, không thể được yêu cầu một cách hợp pháp hoặc việc hoàn thành nó không thể được bảo đảm bằng hoạt động hợp pháp thường nhật của bộ máy. Những chiến dịch như vậy có thể là kinh tế cũng như chính trị; trong trường hợp sau, chúng thường gồm các phiên tòa dàn dựng và các chiến dịch cảnh giác (Mệnh đề 62). Sự không-tuân thủ các chiến dịch mang lại sự trừng phạt trực tiếp, mà có thể là ngoài luật pháp hay “xã hội” (sỉ nhục công khai) cũng như pháp lý. Điều này đương nhiên ngược lại với các nền dân chủ tự do, còn trong các chế độ chuyên quyền bảo trợ sự trừng phạt về không bỏ phiếu cho đảng cai trị xuất hiện chủ yếu đối với các nhóm xã hội nào đó hết sức phụ thuộc vào nhà nước và các trợ cấp bảo trợ.

Bảng 16: Các chiến dịch (vận động) trong ba loại chế độ.

Chiến dịch tiếp thị (trong nền dân chủ tự do)

Chiến dịch xây dựng lòng trung thành (trong nền chuyên quyền bảo trợ)

Chiến dịch đình chỉ-các quyền (trong chế độ độc tài cộng sản)

lựa chọn tự do

lựa chọn không-tự do

không có sự lựa chọn

từ dưới lên (không-nhà nước tiến hành)

từ trên xuống (nhà nước mafia tiến hành)

từ trên xuống (đảng nhà nước tiến hành)

định kỳ

thỉnh thoảng/thường xuyên

thỉnh thoảng/định kỳ

chiến dịch cạnh tranh (cho việc thuyết phục nhân dân)

chiến dịch độc chiếm-diễn đàn (chèn ép những người khác)

chiến dịch quản lý (cho việc ép buộc một mục tiêu nhà nước)

không trừng phạt vì sự từ chối

không trừng phạt hay trừng phạt gián tiếp vì sự từ chối

trừng phạt trực tiếp sự từ chối

 53. TRONG PHA BẦU CỬ CỦA THẢO LUẬN CÂN NHẮC CÔNG KHAI, thứ hai, nhà nước mafia tổ chức các cuộc bầu cử bị thao túng. Vì không trong nước nào chính phủ và đối lập có các điều kiện ngang nhau hoàn hảo về mặt các nguồn lực và sự tiếp cận media của các đối thủ bầu cử, sẽ là khó để vạch ranh giới rõ ràng giữa một sân chơi “tương đối bằng phẳng” và một sân chơi “không bằng phẳng nghiêm trọng hay phi-dân chủ.” Nhưng có hai khía cạnh mà cho phép một loại hình học rõ ràng của các cuộc bầu cử trong các chế độ hậu-cộng sản (Bảng 17). Thứ nhất, tính hợp pháp của sự tài trợ chiến dịch: trong các cuộc bầu cử công bằng, đảng cai trị sử dụng tiền một cách hợp pháp được phân bổ cho họ vì mục đích chiến dịch vận động, trong khi các cuộc bầu cử không-công bằng tận dụng các kênh tài trợ đảng bất hợp pháp. Tại Nga, hàng chục triệu dollar trái phiếu chính phủ được chuyển hướng tới chiến dịch tái-cử 1996 của Yeltsin, làm cho cuộc bầu cử không công bằng. Tuy vậy, mặc dù những sự thay đổi nhỏ trong luật bầu cử được tiến hành vài tháng trước bầu cử, sự chấp nhận hệ thống bầu cử khi đó đã là đồng thuận. Đây là khía cạnh phân biệt các cuộc bầu cử không-công bằng và các cuộc bị thao túng nơi luật bầu cử bị thay đổi và được những người đương nhiệm đơn phương thông qua. Trong các chế độ Putin và Orbán, việc dùng media nhà nước và các kênh lợi ích công của chính phủ cho chiến dịch vận động là yếu tố bất hợp pháp của tài trợ chiến dịch, trong khi luật bầu cử được một mình những người đương nhiệm xét lại đáng kể, gồm gerrymandering (vạch lại các ranh giới khu vực bầu cử có lợi cho mình) và sự đưa vào nhiều yếu tố đa số để tăng cường vị trí hiện tại của đảng cai trị (là sự thao túng bầu cử). 

Dựa vào nghiên cứu của Henry E. Hale trong cuốn Patronal Politics (2015) có ảnh hưởng lớn của ông, các chức năng của các cuộc bầu cử bị thao túng có thể được nhóm như sau. Thứ nhất, trong trường hợp các cuộc bầu cử bị thao túng, một hành động bầu cử, thô tục trở thành một sự chứng minh thiêng liêng về lòng trung thành. “Các cuộc bầu cử” là một sự phô trương sự lệ thuộc về phần các mạng lưới bảo trợ và các thành viên của chúng, một cơ hội cho các nhà lãnh đạo để hay động những người ủng hộ.

Thứ hai, các cuộc bầu cử cung cấp một cơ chế hữu ích của việc đổi mới có kiểm soát các vị trí chính thức, chính trị của mạng lưới bảo trợ. Việc này gồm sự thâu nạp các mạng lưới khác, phân phối tiền, hay cả tạo thuận lợi cho sự chia sẻ quyền lực giữa các nhóm elite quan trọng nữa.

Thứ ba, các chế độ, mà không cho phép các cuộc bầu cử đều đặn, đói mặt với các khủng hoảng và các cuộc cách mạng, nhưng các thứ này thường hết sức khó đoán cho nhà cai trị. Rủi ro này cho các nhà lãnh đạo một sự quan tâm đến việc chuyển các các thách thức xã hội qua các cơ chế có thể dự đoán được hơn, tức là, các cuộc bầu cử (bị thao túng). Trong việc làm thế, các nhà bảo trợ chóp bu cấu trúc cuộc đấu tranh chính trị theo các quy tắc cơ bản mà bản thân họ thiết kế, cho phép họ chuẩn bị lâu từ trước, và làm giảm khả năng mất quyền lực.

Cuối cùng, các nhà bảo trợ chóp bu nhận được tính chính danh ngay cả từ các cuộc bầu cử bị thao túng. Vấn đề không đơn giản là nhà dân túy có thể nói một cách hữu hiệu hơn nhân danh quốc gia sau một chiến thắng bầu cử; các chiến thắng như vậy nói với mọi người rằng nhà bảo trợ chóp bu thắng chính thức thực ra không sở hữu quyền lực thô để thao túng các cuộc bầu cử và sắp đặt một chiến thắng. Điều này tạo ra các khuyến khích cho các diễn viên xã hội để hợp tác xung quanh các mạng lưới của những người thắng, củng cố sự dàn xếp một kim tự tháp duy nhất.


Bảng 17: Loại các cuộc bầu cử.

 

 

Chấp nhận hệ thống bầu cử

Tính hợp pháp của sự tài trợ chiến dịch của các nhà lãnh đạo

Sự tiếp cận đến các TV toàn quốc cho đối lập thật

Tính trung lập của các định chế công

Các cuộc bầu cử công bằng

Đồng thuận

Hợp pháp

Mở

 

Bị hạn chế

Đóng

Trung lập

 

Thiên vị

Điều khiển bằng tay

Các cuộc bầu cử không-công bằng

Đồng thuận

Hợp pháp + bất hợp pháp

Các cuộc bầu cử bị thao túng

Đơn-phương

Hợp pháp + bất hợp pháp

Các cuộc bầu cử không tranh giành

Đơn-phương

Hợp pháp + bất hợp pháp

54. SỰ ĐẶT CƯỢC BẦU CỬ ĐỐI VỚI NHÀ BẢO TRỢ CHÓP BU không chỉ là còn nắm quyền không, mà là có tránh được sự mất quyền tự do cá nhân không. Trong một nền dân chủ tự do, việc thua một cuộc bầu cử có nghĩa là mất quyền cai quản và khả năng để thực hiện các chính sách. Nhưng một đảng, sau khi bị loại khỏi quyền lực, không bị loại trừ khỏi đấu trường chính trị. Các nhà cai trị trước kia đi sang đối lập, nơi họ có thể tiếp tục tham gia vào quá trình thảo luận cân nhắc công khai trong chu kỳ tiếp của nó. Các nhà cai trị dân chủ không vi phạm gì bất hợp pháp khi cầm quyền, hay ít chất họ không có krysha (Mệnh đề 38) loại bỏ bất kể khả năng truy tố nào chống lại họ vì thời gian cai trị của họ. Nói ngắn gọn, họ không cần đối mặt với một sự truy tố được kích hoạt lại một khi họ bị hất cẳng khỏi quyền lực.

Trong một nền chuyên quyền bảo trợ, các nhà cai trị phạm các tội theo luật hình sự hiện hành do chính bản chất của hệ thống, đứng đầu một mạng lưới bảo trợ phi-chính thức tích tụ sự giàu có cá nhân với các cơ chế kiểm soát ngưng hoạt động. Vận hành nhà nước như một tổ chức tội phạm, nhà bảo trợ chóp bu có nguy cơ bị truy tố và vào tù nếu ông ta thua (bầu cử).

Trong nghiên cứu của ông có tiêu đề “Accountable for What (Chịu trách nhiệm về cái Gì)?” (2013), nhà khoa học chính trị Tây Ban nha Abel Escribà-Folch thấy rằng trong cái gọi là các chế độ nhân vị [personalist] (mà chế độ chuyên quyền bảo trợ là một kiểu phụ) sự nghiệp chính trị của các nhà chuyên quyền hậu-Chiến tranh Thế giới II đã kết thúc trong sự lưu đày, nhà tù, hay cái chết trong 63% thời gian—nhiều hơn các nhà độc tài quân sự (51%) và thường gần gấp đôi như các quốc vương (37%). Chúng ta có thể nhắc đến ba ví dụ nổi bật từ khu vực hậu-cộng sản: Viktor Yanukovich, nhà bảo trợ chóp bu Ukrain mà đã bị cách mạng euromaidan lật đổ và đã lưu vong ở Nga kể từ đó, trong khi một tòa án Ukrain đã kết án vắng mặt ông mười ba năm tù giam vì tội phản quốc; Nikola Gruevski, nhà bảo trợ chóp bu Macedoni trước kia mà bị buộc phải từ chức và bị kết án hai năm tù về các cáo buộc tham nhũng, mặc dù ông đã tìm được cách trốn thoát với sự giúp đỡ của mật vụ Macedoni và Hungari; và Vladimir Plahotniuc, nhà bảo trợ chóp bu Moldova trước kia mà đã chạy khỏi đất nước với triều đình bảo trợ của ông khi đối mặt với áp lực quốc tế mạnh.

Điểm chính của các trường hợp này là, chiến thắng bầu cử là một vấn đề “sống hay chết” đối với nhà bảo trợ chóp bu, không phải là một vấn đề giữ quyền lực hay tạm thời mất ảnh hưởng đối với chính sách công (như trong nền dân chủ tự do). Đây là một lý do quan trọng vì sao các nhà bảo trợ chóp bu thao túng các cuộc bầu cử và cố gắng đảm bảo họ giữ quyền lực, không phải chỉ để thực hiện các mục tiêu chính sách bảo trợ của họ nói chung.