Danh ngôn
Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.
We need, in every community, a group of angelic troublemakers.
(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)
Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.
It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.
(James Baldwin - No Name in the Street 1972)
Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.
While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.
(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)
Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.
There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.
(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)
Ban Biên tập
Địa chỉ liên lạc:
1. Thơ
tho.vanviet.vd@gmail.com
2. Văn
vanviet.van14@gmail.com
3. Nghiên cứu Phê Bình
vanviet.ncpb@gmail.com
4. Vấn đề hôm nay
vanviet.vdhn1@gmail.com
5. Thư bạn đọc
vanviet.tbd14@gmail.com
6. Tư liệu
vanviet.tulieu@gmail.com
7. Văn học Miền Nam 54-75
vanhocmiennam5475@gmail.com
Tra cứu theo tên tác giả
- A. A. Fadeev
- A. Puskin
- A. T.
- Abdulrazak Gurnah
- Abraham F. Lowenthal
- Ace Le
- Ace Lê
- Adam Gopnik
- Adonis
- Adrian Horton
- Agi Mishol
- Ajar
- Akiko Miki
- Alain Guillemin
- Alan Phan
- Alăng Văn Gáo
- Alăng Văn Giáo
- Albert Camus
- Aldous Huxley
- Aleksandr Griboedov
- Alesandr Blok
- Alex Marshall
- Alex Smith
- Alex Thai
- Alex-Thái Đình Võ
- Alexander Fadeev
- Alexander Solzhenitsyn
- Alexandra Alter
- Alexandre FERON
- Alice Munro
- Alina Lesik
- Alison Flood
- Allen Ginsberg
- Amanda Gorman
- Amartya Sen
- Amelia Glaser
- Amos Oz
- An Nam
- Anatole France
- Anatoly Gavrilov
- Anders Olsson
- André Breton
- André Menras
- André Menras – Hồ Cương Quyết
- André Menras Hồ Cương Quyết
- Andrea Hoa Pham
- Andrea Kendall-Taylor
- Andreas Fulda
- Andreas Wimmer
- Andrew Postman
- Andy Cao
- Anh Anh
- Anh Hồng
- Anh Hồng (nhà thơ)
- Ánh Liên
- Anh Nhi
- Anh Văn
- Anika Zeller
- Anna Akhmatova
- Anna Maria Bracale Ceruti
- Anna Mitchell
- Anna Schmid
- Anne Carson
- Anne Cazaubon
- Anne Hébert
- Anne Henochowicz
- Anne Nguyễn
- Annie Ernaux
- António Jacinto
- Antôn Nguyễn Trường Thăng
- Archimedes L.A. Patti
- Arlette Quỳnh Anh Trần
- Arnold Schwarzenegger
- Artem Sakharov
- Arthur Koestler
- Arty Abel
- Arvind Subramanian
- Augustina
- Aurélie Coulon
- Aurelien Breeden
- Ba Sàm
- Bá Thụ Đàm
- Bạch Cúc
- Bạch Hoàn
- Bách Mỵ
- Bách Thân
- Bạch X. Phẻ
- Bạch Xuân Phẻ
- Bakhtin
- Ban Mai
- Bàn Văn Thòn
- Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
- Bảo Chân
- Bảo Huân
- Bảo La
- Bảo Nhi Lê
- Bảo Ninh
- Bảo Phác
- Bảo Tích
- Bão Vũ
- Barbara Demick
- Bashô
- Batrioldman
- Bauxite Việt Nam
- Bắc Đảo
- Bắc Phong
- Bằng Việt
- BB Ngô
- Bei Dao
- Benjamin Péret
- Benjamin Ramm
- Bertolt Brecht
- Bertrand Russell
- Bettina Rheims
- Bích Ngân
- Biếm họa
- Biên Cương
- Biệt Hiệu
- Bilahari Kausikan
- Bill Hayton
- Billy Collins
- Bình Nguyên Lộc
- Brahma Chellaney
- Branko Milanovic
- Brett Reilly
- Brian Pascus
- Brian Wu
- Brice Pedroletti
- Brodsky
- Bryan
- Bùi An
- Bùi Bảo Trúc
- Bùi Bích Hà
- Bùi Chát
- Bùi Chí Trung
- Bùi Chí Vinh
- Bùi Công Thuấn
- Bùi Công Trực
- Bùi Đức Lại
- Bùi Giáng
- Bùi Hải Quảng
- Bùi Hoàng Tám
- Bùi Hoằng Vị
- Bùi Huệ Chi
- Bui Huy Hoi Bui
- Bùi Mai Hạnh
- Bùi Mạnh Hùng
- Bùi Mẫn Hân
- Bùi Minh Quốc
- Bùi Ngọc Tấn
- Bùi Quang Thắng
- Bùi Suối Hoa
- Bùi Thanh Hiếu
- Bùi Thanh Phương
- Bùi Thanh Tuấn
- Bùi Thụy Băng
- Bùi Tiến An
- Bùi Trân Phượng
- Bùi Trọng Hiền
- Bùi Văn Kha
- Bùi Văn Nam Sơn
- Bùi Việt Sỹ
- Bùi Vĩnh Phúc
- Bùi Xuân Bách
- Bùi Xuân Đính
- Bùi-Viết Văn Đức
- Bulgakov
- Bửu Chỉ
- C.D.
- Cái Lư Hương
- Cái Trọng Ty
- Cam Ly
- Cảnh Chánh
- Cao Bảo Vân
- Cao Bình Minh
- Cao Chi
- Cao Gia An
- Cao Hành Kiện
- Cao Huy Thuần
- Cao Kim Ánh
- Cao La
- Cao Quang Nghiệp
- Cao Tần
- Cao Thị Hồng
- Cao Thu Cúc
- Cao Việt Dũng
- Cao Xuân Hạo
- Cao Xuân Huy
- Carl Bildt
- Carl O. Schuster
- Carlos Assunção
- Carolyn Mary Kleefeld
- Cát Linh
- Cẩm Tú
- Cấn Thị Thêu
- Chan Phuong
- Chanh Tam
- Charles Bo
- Charles Bukowski
- Charles S. Kraszewski
- Charles Simic
- Chau Doan
- Chân Minh
- Chân Pháp Xa
- Chân Phương
- Chân Xuân Tản Viên
- Châu Diên
- Châu Hải Đường
- Châu Hồng Thủy
- Châu Hữu Quang
- Chenn
- Chế Diễm Trâm
- Chế Lan Viên
- Chi Mai
- Chi Phương
- Chiêu Dương
- Chiêu Khiêm
- Chiharu Shiota
- Chim Hải
- Chim Trắng
- Chinh Ba
- Chính Tâm
- Chính Vĩ
- Chinua Achebe
- Chơn Không Cao Ngọc Phượng
- Christian Gampert
- Christian Welzel
- Christina Mary Hjortlund
- Christoph Giesen
- Christoph Sator
- Christopher Balding
- Christopher Goscha
- Christy Wampole
- Chu Dương
- Chu Hảo
- Chu Hoạch
- Chu Kim
- Chu Mộng Long
- Chu Quang Tiềm
- Chu Tử
- Chu Văn Lễ
- Chu Văn Sơn
- Chu Vĩnh Hải
- Chu Vương Miện
- Chu Xuân Diên
- Chung Le
- Claire Simon
- Clay Phạm
- Concepcion de Leon
- Connie Hoàng
- Cora Engelbrecht
- Costica Bradatan
- Cổ Ngư
- Cù An Hưng
- Cù Huy Hà Vũ
- Cù Mai Công
- Cù Tuấn
- Cung Minh Huân
- Cung Tích Biền
- Cung Trầm Tưởng
- Cư sĩ Minh Đạt
- D. S. Likhachev
- Da Màu
- Dạ Ngân
- Dạ Thảo Phương
- Dã Tượng
- DAD
- Dadolin Murak
- Damien Keown
- Dan Bilefsky
- Dan Slater
- Dana Gioia
- Danh ngôn
- Dani Rodrik
- Daniel Halpern
- Daniel Hautzinger
- Daron Accemoglu
- David Brown
- David Gascoyne
- David Marchese
- David Weinberger
- Ðặng Thơ Thơ
- Demetrio Paparoni
- DEUTSCHE WELLE
- Di
- Di Li
- Diêm Liên Khoa
- Diễm Thi
- Diễm Tường
- Diễn đàn Thế kỷ
- Diệp Duy Liêm
- Diệp Huy
- Ðinh Cường
- Dino Buzatti
- Dipanjan Roy Chaudhury
- Dmitri Prokofyev
- Dmitry Burago
- Dmitry Muratov
- Doãn Cẩm Liên
- Doãn Mạnh Dũng
- Doãn Mẫn
- Doãn Quốc Sỹ
- Dominique Lemieux
- Donald Inglehart
- Donna Ashworth
- Ðỗ Quang Nghĩa
- Ðỗ Quyên
- Du Tử Lê
- Dung Nguyễn
- Dũng Phan
- Dũng Trung Kqd
- Dũng Vũ
- Duy Lam
- Duy Tân
- Duy Thanh
- Duy Thông
- duyên
- Duyên Anh
- Duyên Khánh
- Dư Hoa
- Dư Kiệt
- Dư Thị Hoàn
- Dư Thu Vũ
- Dương Đại Triều Lâm
- Dương Đình Giao
- Dương Khánh Phương
- Dương Kiền
- Dương Ngạn
- Dương Nghiễm Mậu
- Dương Ngọc Thái
- Dương Như Nguyện
- Dương Phương Vinh
- Dương Thắng
- Dương Thiệu Tước
- Dương Thu Hương
- Dương Thuấn
- Dương Tú
- Dương Tường
- Dương Văn Ba
- Dylan Suher
- Đà Văn
- Đàm Hà Phú
- Đàm Hách Thành
- Đào An Khánh
- Đào Anh Kha
- Đào Công Tiến
- Đào Duy Anh
- Đào Hiếu
- Đào Lê Na
- Đào Ngọc Chương
- Đào Nguyên
- Đào Nguyễn
- Đào Nguyên Phương Thảo
- Đào Như
- Đào Phương Liên
- Đào Quang Toản
- Đào Tấn Phần
- Đào Thái Tôn
- Đào Thị Hương
- Đào Tiến Thi
- Đào Trung Đạo
- Đào Trường Phúc
- Đào Tuấn
- Đào Tuấn Ảnh
- Đào Văn Thuỵ
- Đào Văn Tiến
- Đào Vũ Anh Hùng
- Đặng Anh Đào
- Đặng Bích Phượng
- Đặng Chương Ngạn
- Đặng Đình Cung
- Đặng Đình Mạnh
- Đặng Hà
- Đặng Hải Sơn
- Đặng Hoàng Giang
- Đặng Hồng Nam
- Đặng Hùng Võ
- Đặng Hương Giang
- Đặng Hữu
- Đặng Mai Lan
- Đặng Mậu Tựu
- Đăng Nguyên
- Đặng Phùng Quân
- Đặng Quốc Thông
- Đặng Sơn Duân
- Đặng Thái
- Đăng Thành
- Đặng Thân
- Đặng Thị Hảo
- Đặng Thơ Thơ
- Đặng Tiến
- Đặng Tiến (Thái Nguyên)
- Đặng Trung Nghĩa
- Đặng Túy
- Đặng Văn Dũng
- Đặng Văn Hùng
- Đặng Văn Ngữ
- Đặng Văn Sinh
- Đặng Vũ Vương
- Đặng Xuân Thảo
- Đặng Xuân Xuyến
- Đằng-Giao
- Điểm Thọ
- Đinh Bá Anh
- Đinh Cường
- Đinh Hoàng Thắng
- Đinh Hùng
- Đình Kính
- Đinh Lê Vũ
- Đinh Linh
- Đinh Ngọc Thu
- Đinh Phương
- Đinh Phương Thảo
- Đinh Quang Anh Thái
- Đinh Thanh Huyền
- Đinh Thị Như Thúy
- Đinh Trường Chinh
- Đinh Từ Bích Thuý
- Đinh Từ Bích Thúy
- Đinh Văn Đức
- Đinh Vũ Hoàng Nguyên
- Đinh Ý Nhi
- Đinh Yên Thảo
- Đoàn Ánh Thuận
- Đoàn Bảo Châu
- Đoàn Cầm Thi
- Đoàn Công Lê Huy
- Đoàn Hồng Lê
- Đoàn Huy Giao
- Đoàn Huyền
- Đoàn Khắc Xuyên
- Đoàn Lê Giang
- Đoàn Nhã Văn
- Đoàn Thanh Liêm
- Đoan Trang
- Đoàn Tùng Nguyễn
- Đoàn Tử Huyến
- Đoàn Việt Hùng
- Đoàn Xuân Kiên
- Đỗ Anh Hoa
- Đỗ Anh Tuấn
- Đỗ Bích Thuý
- Đỗ Cao Bảo
- Đỗ Duy Ngọc
- Đỗ Đức
- Đỗ Đức Đông Ngàn
- Đỗ Đức Hiểu
- Đỗ Hòa
- Đỗ Hoàng Diệu
- Đỗ Hồng Ngọc
- Đỗ Hồng Nhung
- Đỗ Hữu Chí
- Đỗ Kh
- Đỗ Kh.
- Đỗ Khiêm
- Đỗ Kim Thêm
- Đỗ Lai Thuý
- Đỗ Lai Thúy
- Đỗ Lê Anh Đào
- Đỗ Mạnh Hoàng
- Đỗ Minh Tuấn
- Đỗ Nghê
- Đỗ Ngọc
- Đỗ Ngọc Thống
- Đỗ Quang Nghĩa
- Đỗ Quang Vinh
- Đỗ Quý Toàn
- Đỗ Quyên
- Đỗ Quỳnh Dao
- Đỗ Thắng Cảnh
- Đỗ Thị Thu Trà
- Đỗ Thiên Anh Tuấn
- Đỗ Trí Vương
- Đỗ Trọng Khơi
- Đỗ Trung Quân
- Đỗ Trường
- Đỗ Tuyết Khanh
- Đồng Chuông Tử
- Đông Hoài
- Đông Hồ
- Đông Kha
- Đông Ngàn Đỗ Đức
- Đông Nghi
- Đức Ban
- Đức Đàm
- Đức Flying Bay
- Đức Hoàng
- Đức Lê
- Đức Phổ
- Đức Tâm
- Đức Tiến
- E. M. Forster
- E.E. Cummings
- E.M. Chernoivanenko
- Eamonn Butler
- Eckart Kleßmann
- Eduardo Galeano
- Edward Hirsch
- Elena Pucillo Truong
- Elias Canetti
- Ellen Bass
- Eloisa Amezcua
- Emiel Roothooft
- Emmanuelle Jardonnet
- Eric Henry
- Eric Weiner
- Erica Frantz
- Erik Harms
- Erik Korling
- Euan Ward
- Evgheni Dobrenko
- F.N.
- Federico García Lorca
- Feliks Kuznesov
- Filip Lech
- Flanny O’Connor
- Florence Noiville
- Florian Altenhöner
- Francis Fukuyama
- Francis Fukuyma
- Frank Dikötter
- Frank O'Hara
- Frankfurt
- Fred Hiatt
- Friedrich Dürrenmatt
- Friedrich Nietzsche
- Fritz J. Raddatz
- Gabriel García Márquez
- Gaither Stewart
- Gaiutra Bahadur
- Gary Leupp
- Gặp gỡ và trò chuyện
- Georg Bönisch
- Georg Trakl
- George Burchett
- George Orwell
- George Perreault
- George Siemens
- Georges Condominas
- Gerhard Will
- Germain Droogenbroodt
- Giang Dang
- Giang Lại Đức
- Giang Nam
- Giáng Vân
- Giáp Văn Dương
- Gideon Rachman
- Giuse Lê Công Đức
- Goethe
- Gonçalo Fernandes
- Gottfried Benn
- Graham Allison
- Grigory Yudin
- Günter Kunert
- Gyảng Anh Iên
- Hà Duy Phương
- Hà Dương Tuấn
- Hà Dương Tường
- Hà Đình Nguyên
- Hạ Đình Nguyên
- Hà Huy Sơn
- Hà Hương
- Hà Lệ Minh
- Hà Ngọc Hòa
- Hạ Nguyên
- Hà Nguyên Du
- Hà Nhân
- Hà Nhật
- Hà Phạm Phú
- Hà Quang Vinh
- Hà Sĩ Phu
- Hà Thanh Vân
- Hà Thế
- Hà Thị Minh Đạo
- Hà Thúc Sinh
- Hà Thủy Nguyên
- Hà Tùng Long
- Hà Tùng Sơn
- Hà Văn Thịnh
- Hà Văn Thùy
- Hà Vũ Trọng
- Hagi Kenaan
- Hai An Vu
- Hải Hạc
- Hải Ngọc
- Hai Thanh
- Han Dang
- Hàn Giang
- Han Kang
- Hàn Vĩnh Diệp
- Hạnh Diễm
- Hạnh Nguyên
- Hạnh Phước
- Hạnh Viên
- Hannah Beech
- Hào Thiện Nhân
- Haruki Murakami
- Hân Hương
- Heiko Buschke
- Heinrich Heine
- Henri Michaux
- Henry David Thoreau
- Henry Wadsworth Longfellow
- Heriberto Araújo
- Hermann Hesse
- Hiền Trang
- Hiệp Ikaria
- Hiệu Minh
- Hiếu Tân
- Ho Lai-Ming
- Hòa Bình Lê
- Hoa Níp
- Hoài Hương
- Hoài Nam
- Hoài Phương
- Hoài Thanh
- Hoài Việt
- Hoài Ziang Duy
- Hoan Doan
- Hoàn Nguyễn
- Hoàng Ánh
- Hoàng Anh Tuấn
- Hoàng Cát
- Hoàng Cầm
- Hoàng Chí Hiếu
- Hoàng Chính
- Hoàng Cường Long
- Hoàng Dũng
- Hoàng Dương Tuấn
- Hoàng Đăng Khoa
- Hoàng Đỗ
- Hoàng Đông
- Hoàng Đức Truật
- Hoàng Hà
- Hoàng Hải Thủy
- Hoàng Hải Vân
- Hoảng Hãn
- Hoàng Hưng
- Hoàng Khởi Phong
- Hoàng Kim Oanh
- Hoàng Lại Giang
- Hoàng Lan
- Hoàng Lan Anh
- Hoàng Lan Chi
- Hoàng Lê
- Hoàng Lệ
- Hoàng Linh
- Hoàng Long
- Hoàng Mai Ðạt
- Hoàng Mạnh Hải
- Hoàng Minh Trí
- Hoàng Minh Tường
- Hoàng Nam
- Hoàng Nga
- Hoàng Ngọc Biên
- Hoàng Ngọc Hiến
- Hoàng Ngọc Nguyên
- Hoàng Ngọc Tuấn
- Hoàng Nguyễn
- Hoàng Nguyên Vũ
- Hoàng Nhơn
- Hoàng Nhuận Cầm
- Hoàng Phong Tuấn
- Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Hoàng Quân
- Hoàng Quốc Hải
- Hoàng Thị Hường
- Hoàng Thị Thu Thủy
- Hoàng Thu Phố
- Hoàng Thúy
- Hoàng Thuỵ Anh
- Hoàng Tiến
- Hoàng Trung Thông
- Hoàng Tuấn Công
- Hoàng Tuấn Phổ
- Hoàng Tùng
- Hoàng Tuỵ
- Hoàng Văn Sơn
- Hoàng Việt
- Hoàng Vũ Sơn
- Hoàng Vũ Thuật
- Hoàng Xuân Phú
- Hoàng Xuân Sơn
- Hoàng Xuân Tuyền
- Hoàng Yến
- Horst Bienek
- Howard Gardner
- Hồ Anh Thái
- Hồ Bạch Thảo
- Hồ Bất Khuất
- Hồ Diệu Vân
- Hồ Dzếnh
- Hồ Đắc Vũ
- Hồ Đình Nghiêm
- Hồ Hải Thụy
- Hồ Hữu Tường
- Hồ Minh Tâm
- Hồ Ngọc Đại
- Hồ Như
- Hồ Phú Bông
- Hồ Tịnh Tình
- Hồ Trường An
- Hồ Tú Bảo
- Hội những người ủng hộ GS. Chu Hảo
- Hồng Anh
- Hồng Hoang
- Hồng Lê Thọ
- Hồng Phú
- Huệ Hương Hoàng
- Huguette Bertrand
- Huong Nguyen
- Huy Bảo
- Huy Cận
- Huy Đức
- Huy Tưởng
- Huyền Thương
- Huỳnh Duy Lộc
- Huỳnh Hoa
- Huỳnh Hữu Uỷ
- Huỳnh Hữu Ủy
- Huỳnh Kim Báu
- Huỳnh Kim Quang
- Huỳnh Lê Nhật Tấn
- Huỳnh Liễu Ngạn
- Huỳnh Ngọc Chênh
- Huỳnh Như Phương
- Huỳnh Sơn Phước
- Huỳnh Tấn Mẫm
- Huỳnh Thế Du
- Huỳnh Thục Vy
- Huỳnh Trọng Khang
- Huỳnh Tuấn Anh
- Hứa Chương Nhuận
- Hứa Lập Chí
- Hương Lan
- Hường Thanh
- Hương Thủy
- Hữu Danh
- Hữu Đông
- Hữu Loan
- Hữu Mai
- Hữu Phương
- Ian Bui
- Ian Johnson
- Igor Poglazov
- Ilza Burchett
- Inrasara
- Iris Radisch
- Isabella Kwai
- Issa
- Issac Bashevis Singer
- Italo Calvino
- Iya Kiva
- J. M. Lotman
- J.B Nguyễn Hữu Vinh
- Jacques Attali
- Jacques Prévert
- Jake Johnson
- James Borton
- James Daniel Spears
- James G. Zumwalt
- James Grossman
- James Joyce
- James Poniewozik
- James Stavridis
- James WrightJuan Felipe Herrera
- Janos Kornai
- Jared Carters
- Jason Lopata
- Jason Morris-Jung
- Jay Nordlinger
- Jaya K.
- Jean Chesnaux
- Jean d'Ormesson
- Jean Piaget
- Jean Przyluski
- Jean Toomer
- Jean-Jacques Brochier
- Jean-Jacques Roth
- Jean-Louis Rocca
- Jean-Luc Chalumeau
- Jean-Marc Roberts
- Jean-Patrick Géraud
- Jean-Paul Sartre
- Jefferson Cowie
- Jeffrey Hanfover
- Jeffrey Nall
- Jessica Swoboda
- Jessie Yeung
- Jiayang Fan
- Jimmy Carter
- Joan Hua
- João Guimarães Rosa
- Joaquin Nguyễn Hòa
- John Barrow
- John Cheever
- John Freeman
- John Keane
- John McCain
- Jon Fosse
- Jonathan Dee
- Jonathan London
- Jörg Wischermann
- Jorge Amado
- Jorge Luis Borges
- Joschka Fischer
- Josée Lapointe
- Joseph Wong
- Joseph Wright
- Josh Rogin
- Joshua Rothman
- Juan Pablo Cardenal
- Juan Pablo Cardenal & Heriberto Araújo
- Julia Cagé
- Julio Cortázar
- Jun’ichiro Tanizaki
- Kahil Gibral
- Kai Hoàng
- Kale
- Kalynh Ngô
- Kamel Daoud
- Kao Phú
- Kap Seol
- Karel Appel
- Karen Tongson
- Kate Chopin
- Kazuo Shiraga
- Kenneth Nguyen
- Keorapetse Kgositsile
- Kerstin Holm
- Kều Jang
- Kha Lương Ngãi
- Kha Tiệm Ly
- Khải Đơn
- Khái Hưng
- Khaly Chàm
- Khang Quốc Ngọc
- Khánh
- Khánh Bình
- Khánh Duy
- Khánh Ly
- Khánh Mai
- Khanh Nguyen
- Khanh Pham
- Khánh Phương
- Khánh Trâm
- Khánh Trường
- Khét
- Khế Iêm
- Khiêm Nhu
- Khổng Đức Thiêm
- Khuất Đẩu
- Khuất Thu Hồng
- Khuê Phạm
- Khuyết Thư
- Kiệm Hoàng
- Kiến Văn
- Kiệt Anh Hùng
- Kiệt Tấn
- Kiều Duy Vĩnh
- Kiều Loan
- Kiều Mai Sơn
- Kiều Maily
- Kiều Phong
- Kiều Thị An Giang
- Kim Ân
- Kim Chi
- Kim Dung
- Kim Hạnh
- Kim Thúy
- Kim Trần
- Kinh Bắc
- Kính Hòa
- Klaus Wiegerefe
- Kúm
- Kurt-Martin Mayer
- Kỳ Duyên
- Kyoko Numano
- L. N. Tolstoy
- L. V. H.
- La Khắc Hoà
- La Khắc Hòa
- Lã Nguyên
- Lại Nguyên Ân
- Lam Điền
- Lam Hạnh
- Lam Ngọc
- Lam Thái Hòa
- Lan Nguyên
- Lang Anh
- Langston Hughes
- LAP
- Larry Diamond
- Lars Vargö
- Laura Cappelle
- Laurent Sagalovitsch
- Lawrence Ferlinghetti
- Lâm Chương
- Lâm Duyên
- Lâm Hạnh
- Lâm Lê
- Lâm Ngân Mai
- Lâm Quang Mỹ
- Lâm Thị Mỹ Dạ
- Lenin
- Leon Trotsky
- Leonard Cohen
- Lê An Thế
- Lê Anh Hoài
- Lê Anh Hùng
- Lê Ân
- Lê Bá Đảng
- Lê Bích Vượng
- Lê Chiều Giang
- Lê Công Định
- Lê Công Giàu
- Lê Công Tư
- Lê Ðình Nhất Lang
- Lê Dũng
- Lê Duy Nam
- Lê Đạt
- Lê Đăng Doanh
- Lê Đình Cai
- Lê Đình Khẩn
- Lê Đình Thắng
- Lê Đỗ Huy
- Lê Đức Dục
- Lê Đức Thôn
- Lê Giang Trần
- Lê Hải
- Lệ Hằng
- Lê Hiệp
- Lê Hoài Nguyên
- Lê Hoàng Diễm Trang
- Lê Hoàng Lân
- Lê Học Lãnh Vân
- Lê Hồ Quang
- Lê Hồng Hà
- Lê Hồng Hiệp
- Lê Hồng Lâm
- Lê Hùng
- Lê Hùng Vọng
- Lê Huyền Ái Mỹ
- Lê Huỳnh Lâm
- Lê Hữu
- Lê Hữu Khoá
- Lê Hữu Khóa
- Lê Hữu Nam
- Lê Kế Lâm
- Lê Khải
- Lê Kim Duy
- Lê Ký Thương
- Lê Lạc Giao
- Lê Luân
- Lê Mã Lương
- Lê Mai
- Lê Mai Lĩnh
- Lê Mạnh Chiến
- Lê Mạnh Đức
- Lê Minh Chánh
- Lê Minh Hà
- Lê Minh Hiền
- Lê Minh Khuê
- Lê Minh Phong
- Lê Ngân Hằng
- Lê Ngọc Luân
- Lê Ngọc Sơn
- Lê Nguyễn
- Lê Nguyễn Duy Hậu
- Lê Nguyễn Hương Trà
- Lê Nguyên Long
- Lê Nguyên Vỹ
- Lê Như Bình
- Lê Oa Đằng
- Lê Phan
- Lê Phú Khải
- Lê Quang
- Lê Quang Đức
- Lê Quảng Hà
- Lê Quang Hợp
- Lê Quang Thành
- Lê Quân
- Lê Quốc Anh
- Lê Quỳnh
- Lê Quỳnh Mai
- Lê Sa Long
- Lê Si Na
- Lê Sơn
- Lê Tất Đạt
- Lê Tất Điều
- Lê Thanh Dũng
- Lê Thanh Hải
- Lê Thanh Phong
- Lê Thanh Trường
- Lê Thân
- lê thi diem thuý
- Lê Thị Hồng Minh
- Lê Thị Huệ
- Lê Thị Hường
- Lê Thị Oanh
- Lê Thị Thấm Vân
- Lê Thiết Cương
- Lê Thiếu Nhơn
- Lê Thọ Bình
- Lê Thời Tân
- Lê Thời Thôi
- Lê Thu Hiền
- Lê Thúy Bảo Liên
- Lê Tiên Long
- Lê Trí Tuệ
- Lê Trinh
- Lê Trọng Nghĩa
- Lê Trọng Nguyễn
- Lê Trung Tĩnh
- Lê Trường Thanh
- Lê Tuấn Huy
- Lê Tuyết Hạnh
- Lê Văn Bỉnh
- Lê Văn Hảo
- Lê Văn Hiếu
- Lê Văn Hòa
- Lê Văn Luân
- Lê Văn Sơn
- Lê Văn Trung
- Lê Văn Tùng
- Lê Vĩnh Tài
- Lê Vĩnh Triển
- Lê Vũ Trường Giang
- Lê Xuân Khoa
- Lê Xuyên
- Li Edelkoort
- Li Zhongqin
- Liêu Diệc Vũ
- Liêu Thái
- Liễu Trương
- Linh Nguyên
- Linh Văn
- Linh Vân
- Linh-Chân Brown
- LKH
- Lorca
- Louis Aragon
- Louise Glück
- Lộc Vàng
- Lợi Phan Mai
- Luân Hoán
- Ludwig von Mises
- Luke Hunt
- Luke Turner
- Lữ Kiều
- Lữ Quỳnh
- Lương Đào
- Lương Thiệu Quân
- Lương Thư Trung
- Lưu Á Châu
- Lưu Bình Nhưỡng
- Lưu Diệu Vân
- Lưu Đức Trung
- Lưu Hà
- Lưu Hiểu Ba
- Lưu Khánh Thơ
- Lưu Mê Lan
- Lưu Minh Hải
- Lưu Na
- Lưu Nhi Dũ
- Lưu Quang Vũ
- Lưu Thuỷ Hương
- Lưu Thủy Hương
- Lưu Trọng Văn
- Lưu Uyên Khôi
- Lý Đợi
- Lý Gia Trung
- Ly Hoàng Ly
- Lý Ngang
- Ly Phạm
- Lý Quang Hoàn
- Lý Thanh
- Lý Tiến Dũng
- Lý Toàn Thắng
- Lý Trực Dũng
- Lý Xuân Hải
- Lydia Davis
- Lynh Bacardi
- LysP
- M. Gorky
- M.L. Gasparov
- Mạc Phong Tuyền
- Mạc Văn Trang
- Mạc Việt Hồng
- Mạch Nha
- Mạch Quang Thắng
- Madeleine Riffaud
- Madlovics Bálint
- Magyar Bálint
- Mai An Nguyễn Anh Tuấn
- Mai Anh Tuấn
- Mai Bá Ấn
- Mai Bá Kiếm
- Mai Chanh
- Mai Hiền
- Mai Khôi
- Mai Kim Ngọc
- Mai Nhật
- Mai Ninh
- Mai Quốc Ấn
- Mai Quỳnh
- Mai Quỳnh Nam
- Mai Sơn
- Mai Thái Lĩnh
- Mai Thanh Sơn
- Mai Thảo
- Mai Tú Ân
- Mai Văn Hoan
- Mai Văn Phấn
- Mai Văn Tính
- Maki Starfield
- Mamleev
- Mạnh Kim
- Manuel Casimiro
- Mão Xuyên
- Marc Andrus
- Marcel Reich-Ranicki
- Marci Shore
- Marco Ferrarese
- Margarita Lyutova
- Maria Donovan
- Maria Ressa
- Mario Vargas Llosa
- Marion Hennebert
- Mark B. Hamilton
- Mark Binelli
- Mark Frankland
- Mark Osaki
- Mark Strand
- Marta Hillers
- Martin Jankowski
- Martin Kulldorff
- Marty Robbins
- Mary Morose
- Mary Walsh
- Mathias Mayer
- Matthew Clayfield
- Matthew Crawford
- Maurice Blanchot
- Maximilian Steinbeis
- May
- Maya Angelou
- Mặc Đỗ
- Mặc Lâm
- Mân Côi
- McAmmond Nguyễn Thị Tư
- Media Văn Việt
- Michael Burawoy
- Michael Scammell
- Miêng
- Mike Ives
- Mikhail Shishkin
- Mikhail Viktorovich Zygar
- Milan Kundera
- Mimmi Diệu Hường Bergström
- MInh Anh
- Minh Huệ
- Minh Hùng
- Minh Luật
- Minh Quang – Lê Chiên
- Minh Quang Ho
- Minh Tâm
- Minh Thùy
- Minh Thư
- Minh Toàn
- Minh Tuấn
- Monica Berlin
- Mỹ Hằng
- Mỹ Lan
- N. S. Khrushchev
- Nam Dao
- Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng
- Nam Đan
- Nam Đông
- Nam Nguyên
- Nam Sơn
- Naowarat Pongpaiboon
- Natalia lacovelli
- Nataliya Zhynkina
- Natsume Sōseki
- Nay Aung
- ng. anhanh
- Ng.Uyển Nicole Dương
- Ngải Vị VỊ
- Ngân Xuyên
- Nghệ thuật
- Nghĩa Đặng
- Nghiêm Lương Thành
- Nghiêm Phương Mai
- Nghiêm Xuân Hồng
- Nghiên Cứu Phê Bình
- Ngo Thu
- Ngọc Anh
- Ngọc Duy Phan
- Ngoc Hien Bui
- Ngọc Linh
- Ngô Anh Tuấn
- Ngô Bảo Châu
- Ngô Đình Thẩm
- Ngô Đồng
- Ngô Hương Giang
- Ngô Khắc Tài
- Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
- Ngô Kim-Khôi
- Ngô Liêm Khoan
- Ngô Mai Phong
- Ngô Minh
- Ngô Minh Khôi
- Ngô Ngọc Loan
- Ngô Ngọc Trai
- Ngô Nguyên Dũng
- Ngô Nhật Đăng
- Ngô Quốc Phương
- Ngô Quốc Thịnh
- Ngô Thế Vinh
- Ngô Thị Kim Cúc
- Ngô Thị Thanh Lịch
- Ngô Tùng Phong
- Ngô Tự Lập
- Ngô Văn
- Ngô Văn Giá
- Ngô Viết Nam Sơn
- Ngô Viết Trọng
- Ngô Việt Trung
- Ngô Vĩnh Long
- Ngô Xuân Hội
- Ngô Xuân Phúc
- Ngô Xuân Thảo
- Ngu Yên
- Nguyen Duc Thanh
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Anh Dũng
- Nguyễn Anh Tuấn
- Nguyễn Anh Tuấn - đạo diễn
- Nguyễn Bá Chung
- Nguyễn Bách Việt
- Nguyễn Bảo Chân
- Nguyễn Bắc Sơn
- Nguyên Bình
- Nguyễn Bính
- Nguyên Cầm
- Nguyên Cẩn
- Nguyên Chánh
- Nguyễn Chí Hoan
- Nguyễn Chí Thuật
- Nguyễn Chí Trung
- Nguyễn Chí Tuyến
- Nguyễn Chinh Trung
- Nguyễn Cung Thông
- Nguyễn Cường
- Nguyễn Danh Bằng
- Nguyễn Danh Huế
- Nguyễn Danh Lam
- Nguyễn Ðăng Thường
- Nguyễn Duy
- Nguyễn Dương Quang
- Nguyễn Đạt
- Nguyễn Đắc Kiên
- Nguyễn Đắc Xuân
- Nguyễn Đăng Điệp
- Nguyễn Đăng Hưng
- Nguyễn Đăng Khoa
- Nguyễn Đăng Mạnh
- Nguyễn Đăng Na
- Nguyễn Đăng Quang
- Nguyễn Đăng Thường
- Nguyễn Đình Ấm
- Nguyễn Đình Bin
- Nguyễn Đình Bổn
- Nguyễn Đình Chú
- Nguyễn Đình Cống
- Nguyễn Đình Đăng
- Nguyễn Đình Huỳnh
- Nguyễn Đình Thắng
- Nguyễn Đình Thi
- Nguyễn Đình Toàn
- Nguyễn Đổng Chi
- Nguyễn Đông Thức
- Nguyễn Đức
- Nguyễn Đức Dương
- Nguyễn Đức Hiệp
- Nguyễn Đức Mậu
- Nguyễn Đức Sơn
- Nguyễn Đức Thắng
- Nguyễn Đức Tiến
- Nguyễn Đức Tùng
- Nguyễn Đức Tường
- Nguyễn Gia Trí
- Nguyên Giác
- Nguyên Giác Phan Tấn Hải
- Nguyễn Hà Luân
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Hải Yến
- Nguyễn Hàn Chung
- Nguyễn Hiến Lê
- Nguyễn Hoa Lư
- Nguyễn Hoài Nam
- Nguyễn Hoài Văn
- Nguyễn Hoài Vân
- Nguyễn Hoàn
- Nguyễn Hoàn Nguyên
- Nguyễn Hoàng Ánh
- Nguyễn Hoàng Anh Thư
- Nguyễn Hoàng Diệu Thủy
- Nguyễn Hoàng Diệu Thúy
- Nguyễn Hoàng Giao
- Nguyễn Hoàng Linh
- Nguyễn Hoàng Trung
- Nguyễn Hoàng Văn
- Nguyễn Hồng Anh
- Nguyễn Hồng Giao
- Nguyễn Hồng Hưng
- Nguyễn Hồng Lam
- Nguyễn Hồng Nhung
- Nguyễn Hồng Thục
- Nguyễn Huệ Chi
- Nguyễn Hùng
- Nguyễn Huy Hoàng
- Nguyễn Huy Thiệp
- Nguyễn Huy Vũ
- Nguyên Hưng
- Nguyễn Hưng Quốc
- Nguyễn Hương
- Nguyễn Hữu Đễ
- Nguyễn Hữu Hồng Minh
- Nguyễn Hữu Liêm
- Nguyễn Hữu Nhật
- Nguyễn Hữu Sơn
- Nguyễn Hữu Thiết
- Nguyễn Hữu Việt Hưng
- Nguyễn Hữu Vinh
- Nguyễn kc Hậu
- Nguyễn Khải
- Nguyễn Khánh Duy
- Nguyễn Khánh Trường
- Nguyễn Khắc An
- Nguyễn Khắc Bình
- Nguyễn Khắc Mai
- Nguyễn Khắc Ngân Vi
- Nguyễn Khắc Phê
- Nguyễn Khắc Phi
- Nguyễn Khắc Phục
- Nguyễn Khiêm
- Nguyễn Khôi
- Nguyễn Kiến Phước
- Nguyễn Kiều Dung
- Nguyễn Kiều Hưng
- Nguyễn Kim Hưng
- Nguyên Lạc
- Nguyễn Lãm Thắng
- Nguyễn Lan Phương
- Nguyễn Lân Bình
- Nguyễn Lân Thắng
- Nguyễn Lê Hồng Hưng
- Nguyễn Lệ Uyên
- Nguyễn Linh Giang
- Nguyễn Linh Quang
- Nguyễn Lộ Trạch
- Nguyễn Luận
- Nguyễn Lương Hải Khôi
- Nguyễn Lương Ngọc
- Nguyễn Lương Thịnh
- Nguyễn Lương Vỵ
- Nguyễn Mai
- Nguyễn Man Nhiên
- Nguyễn Mạnh An Dân
- Nguyễn Mạnh Côn
- Nguyễn Mạnh Đẩu
- Nguyễn Mạnh Tiến
- Nguyễn Manh Trinh
- Nguyễn Mạnh Trinh
- Nguyễn Mạnh Tuấn
- Nguyễn Mạnh Tường
- Nguyễn Minh Anh
- Nguyễn Minh Hòa
- Nguyễn Minh Kính
- Nguyễn Minh Nhị
- Nguyễn Minh Nhựt
- Nguyễn Minh Thuyết
- Nguyễn Mộng Giác
- Nguyên Ngọc
- Nguyễn Ngọc Chu
- Nguyễn Ngọc Đức
- Nguyễn Ngọc Giao
- Nguyễn Ngọc Hoa
- Nguyễn Ngọc Lanh
- Nguyễn Ngọc Liễm
- Nguyễn Ngọc Lung
- Nguyễn Ngọc Phương
- Nguyễn Ngọc Tâm
- Nguyễn Ngọc Thiện
- Nguyễn Ngọc Tú Anh
- Nguyễn Ngọc Tư
- Nguyên Nguyên
- Nguyễn Nguyên
- Nguyễn Nguyên Bình
- Nguyễn Nhật Lệ
- Nguyễn Nhật Tín
- Nguyên Nhi
- Nguyễn Như Huy
- Nguyễn Như Mây
- Nguyễn Phạm Hùng
- Nguyễn Phan Quế Mai
- Nguyễn Phú Yên
- Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
- Nguyễn Phượng
- Nguyễn Phương Đình
- Nguyễn Phương Mai
- Nguyễn Phương Mạnh
- Nguyễn Quang
- Nguyễn Quang A
- Nguyễn Quang Bình
- Nguyễn Quang Duy
- Nguyễn Quang Dy
- Nguyễn Quang Đồng
- Nguyễn Quang Hồng
- Nguyễn Quang Hưng
- Nguyễn Quang Lập
- Nguyễn Quang Thạch
- Nguyễn Quang Thân
- Nguyễn Quang Thiều
- Nguyễn Quang VInh
- Nguyễn Quân
- Nguyễn Quốc Lâm
- Nguyễn Quốc Thái
- Nguyễn Quốc Toàn
- Nguyễn Quốc Trụ
- Nguyễn Quốc Tuấn
- Nguyễn Quốc Vương
- Nguyên Sa
- Nguyễn Sĩ Dũng
- Nguyễn Sơn Lâm
- Nguyễn Sỹ Phương
- Nguyễn Sỹ Tế
- Nguyễn Tà Cúc
- Nguyễn Tài Cẩn
- Nguyễn Tấn Cứ
- Nguyễn Tất Nhiên
- Nguyễn Thạch Giang
- Nguyễn Thái Hòa
- Nguyễn Thái Hợp
- Nguyễn Thái Sơn
- Nguyễn Thái Tuấn
- Nguyễn Thanh Bình
- Nguyễn Thanh Châu
- Nguyễn Thanh Giang
- Nguyễn Thanh Hiện
- Nguyễn Thanh Hùng
- Nguyễn Thanh Huy
- Nguyễn Thanh Huyền
- Nguyễn Thanh Mỹ
- Nguyễn Thành Nam
- Nguyễn Thanh Nghị
- Nguyễn Thanh Nguyệt
- Nguyễn Thành Phong
- Nguyễn Thanh Sơn
- Nguyễn Thành Sơn
- Nguyễn Thanh Tâm
- Nguyễn Thành Thi
- Nguyễn Thanh Tuyền
- Nguyễn Thanh Văn
- Nguyễn Thanh Việt
- Nguyễn Thế Hùng
- Nguyễn Thế Thanh
- Nguyễn Thị Ái Tiên
- Nguyễn Thị Bích Hậu
- Nguyễn Thị Bích Ngà
- Nguyễn Thị Bình
- Nguyễn thị Cỏ May
- Nguyễn Thị Dư Khánh
- Nguyễn Thị Hải
- Nguyễn Thị Hậu
- Nguyễn Thị Hiền
- Nguyễn Thị Hoàng
- Nguyễn Thị Hoàng Bắc
- Nguyễn Thị Hồng
- Nguyễn Thị Khánh Minh
- Nguyễn Thị Khánh Trâm
- Nguyễn Thị Kim Chi
- Nguyễn Thị Kim Phụng
- Nguyễn Thị Kim Thoa
- Nguyễn Thị Minh Ngọc
- Nguyễn Thị Minh Thương
- Nguyễn Thị Ngọc Hải
- Nguyễn Thị Ngọc Nhung
- Nguyễn Thị Oanh
- Nguyễn Thị Phước
- Nguyễn Thị Thanh Bình
- Nguyễn Thị Thanh Hải
- Nguyễn Thị Thanh Lưu
- Nguyễn Thị Thanh Xuân
- Nguyễn Thị Thanh Yến
- Nguyễn Thị Thảo An
- Nguyễn Thị Thúy Hạnh
- Nguyễn Thị Thùy Linh
- Nguyễn Thị Thụy Vũ
- Nguyễn Thị Thuyền
- Nguyễn Thị Tịnh Thy
- Nguyễn Thị Từ Huy
- Nguyễn Thị Vinh
- Nguyễn Thiện Tống
- Nguyễn Thiện Tơ
- Nguyễn Thói Đời
- Nguyễn Thông
- Nguyễn Thu Quỳnh
- Nguyễn Thu Trang
- Nguyễn Thụy Anh
- Nguyễn Thùy Dương
- Nguyễn Thúy Hạnh
- Nguyễn Thụy Long
- Nguyễn Thuỵ Phương
- Nguyễn Thùy Song Thanh
- Nguyễn Thỵ
- Nguyễn Thy Anh
- Nguyễn Tiến Dũng
- Nguyễn Tiến Lập
- Nguyễn Tiến Trung
- Nguyễn Tiến Văn
- Nguyễn Trần Bạt
- Nguyễn Tri Phương Đông
- Nguyễn Triệu Nam
- Nguyễn Trọng Bình
- Nguyễn Trọng Chức
- Nguyễn Trọng Huân
- Nguyễn Trọng Khôi
- Nguyễn Trọng Tạo
- Nguyễn Trung
- Nguyễn Trung Bảo
- Nguyễn Trung Dân
- Nguyễn Trung Hiếu
- Nguyễn Trung Kiên
- Nguyễn Trung Thuần
- Nguyễn Trường Giang
- Nguyễn Trường Huy
- Nguyễn Trường Uy
- Nguyễn Tuấn
- Nguyễn Tuấn Anh
- Nguyễn Tuấn Khoa
- Nguyễn Tùng
- Nguyễn Tùng Linh
- Nguyễn Tuyết Lan
- Nguyễn Tuyết Lộc
- Nguyễn Tư Nghiêm
- Nguyễn Tử Siêm
- Nguyễn Tường Bách
- Nguyễn Tường Thiết
- Nguyễn Tường Thụy
- Nguyễn Ước
- Nguyễn Vạn An
- Nguyễn Vạn Phú
- Nguyễn Văn
- Nguyễn Văn Ba
- Nguyễn Văn Chính
- Nguyễn Văn Ðậu
- Nguyễn Văn Dũng
- Nguyễn Văn Đài
- Nguyễn Văn Gia
- Nguyễn Văn Hạnh
- Nguyễn Văn Hiệp
- Nguyễn Văn Hòa
- Nguyễn Văn Hùng
- Nguyễn Văn Huyên
- Nguyễn Văn Lợi
- Nguyễn Văn Lục
- Nguyễn Văn Miếng
- Nguyễn Văn Nghệ
- Nguyễn Văn Nho
- Nguyễn Văn Phong
- Nguyễn Văn Phú
- Nguyễn Văn Phước
- Nguyễn Văn Sâm
- Nguyễn Văn Sơn
- Nguyễn Văn Tao
- Nguyễn Văn Thiệu
- Nguyễn Văn Thọ
- Nguyễn Văn Trọng
- Nguyễn Văn Trung
- Nguyễn Văn Tuấn
- Nguyễn Văn Vĩnh
- Nguyễn Văn Xuân
- Nguyễn Vi Khải
- Nguyễn Vi Yên
- Nguyễn Viện
- Nguyên Việt
- Nguyễn Việt Anh
- Nguyễn Việt Chiến
- Nguyễn Viết Dũng
- Nguyễn Viết Lãm
- Nguyễn Vĩnh Nguyên
- Nguyễn Vũ Hiệp
- Nguyễn Vũ Tiềm
- Nguyễn Vỹ
- Nguyễn Vy Khanh
- Nguyễn Xuân Diện
- Nguyễn Xuân Hằng
- Nguyễn Xuân Hoàng
- Nguyễn Xuân Hưng
- Nguyễn Xuân Khánh
- Nguyễn Xuân Khoát
- Nguyễn Xuân Nghĩa
- Nguyễn Xuân Nha
- Nguyễn Xuân Quang
- Nguyễn Xuân Thiệp
- Nguyễn Xuân Thọ
- Nguyễn Xuân Tiệp
- Nguyễn Xuân Tường Vy
- Nguyễn Xuân Vượng
- Nguyễn Xuân Xanh
- Nguyễn Ý Thuần
- Nguyên Yên
- Nguyễn-Chương Mt
- Nguyễn-hòa-Trước
- Nguyệt Chu
- Nguyệt Quỳnh
- Nguyệt Vi
- Ngự Thuyết
- Người Buôn Gió
- Ngyễn Trung Bảo
- Nh. Tay Ngàn
- Nhã
- Nhã Ca
- Nhã Duy
- Nhã Thuyên
- Nhan Do Thanh
- Nhân Hồng
- Nhật Chiêu
- Nhật Lệ
- Nhất Linh
- Nhật Tiến
- Nhật Tuấn
- Nhất Uyên
- Nhị Linh
- Nhị Ngã
- Nhóm Vì một Hà Nội xanh
- Như Huy
- Như Không
- Như Quỳnh
- Như Quỳnh de Prelle
- Như Ý
- Nhược Thủy
- Niall Ferguson
- Nick Hilden
- Nicolas Casey
- Nikulin
- Nina McPherson
- Ninh Dương
- Ninh Kiều
- Nobert Hummelt
- Nông Hồng Diệu
- NP Phan
- Obama
- Ocean Vương
- Octavio Paz
- Ogden Nash
- Oksana Zabuzhko
- Oleg Kashin
- Ondrej Slowik
- onggiaolang
- Orlando Figes
- Orwell
- Oscar Salemink
- Oscar Wilde
- Pablo Neruda
- Pablo Picasso
- Palmer
- Patrick Frater
- Patrick Lodge
- Paul Auster
- Paul Celan
- Paul Éluard
- Paul Hoover
- Paul Mendez
- Paul Mozur
- Paul Theroux
- Paul-François Paoli
- Paulus Lê Sơn
- Pavel Basinsky
- Pavlo Vyshebaba
- Paweł Kubiak
- Pawel Kuczynski
- Paweł Łepkowski
- Percy Mabandu
- Pervez Hoodbhoy
- Peter B. Zinoman
- Peter Hansen
- Peter Harvey
- Peter Kleiner
- Peter Singer
- Phạm Anh Tuấn
- Phạm Biểu Tâm
- Phạm Cao Hoàng
- Phạm Châu
- Phạm Chí Dũng
- Phạm Chi Lan
- Phạm Chu Sa
- Phạm Công Luận
- Phạm Công Thiện
- Phạm Công Trứ
- Phạm Công Út
- Phạm Duy
- Phạm Duy Nghĩa
- Phạm Đình Chương
- Phạm Đình Trọng
- Phạm Đình Vy
- Phạm Đoan Trang
- Phạm Hải Anh
- Phạm Hải Âu
- Phạm Hiền Mây
- Phạm Hoàng Quân
- Phạm Hồng Sơn
- Phạm Hùng Việt
- Phạm Huy Thông
- Phạm Khiêm Ích
- Phạm Kiều Tùng
- Phạm Kỳ Đăng
- Phạm Lệ Quyên
- Phạm Lê Vương Các
- Phạm Linh
- Phạm Lưu Vũ
- Phạm Minh Hoàng
- Phạm Minh Ngọc
- Phạm Minh Quân
- Phạm Minh Trung
- Phạm Ngọc Lư
- Phạm Ngọc Thái
- Phạm Ngọc Tiến
- Phạm Nguyên Trường
- Phạm Ngữ
- Phạm Phan Long
- Phạm Phú Cường
- Phạm Phú Hải
- Phạm Phú Minh
- Phạm Phú Phong
- Phạm Phú Thứ
- Phạm Phú Viết
- Phạm Phúc Thịnh
- Phạm Phương
- Phạm Quang Ái
- Phạm Quang Long
- Phạm Quang Trung
- Phạm Quang Tuấn
- Phạm Sỹ Sáu
- Phạm Tăng
- Phạm Thành
- Phạm Thành Hưng
- Phạm Thanh Nghiên
- Phạm Thảo Nguyên
- Phạm Thế Cường
- Phạm Thị
- Phạm Thị Anh Nga
- Phạm Thị Hoài
- Phạm Thị Kiều Ly
- Phạm Thị Ngọc
- Phạm Thị Phương
- Phạm Thiên Ân
- Phạm Thiên Thư
- Phạm Tín An Ninh
- Phạm Toàn
- Phạm Trần
- Phạm Trọng Chánh
- Phạm Trung Nghĩa
- Phạm Tuấn
- Phạm Tư Thanh Thiện
- Phạm Tường Vân
- Phạm Văn
- Phạm Văn Khoái
- Phạm Văn Quang
- Phạm Văn Tình
- Phạm Văn Vũ
- Pham Viem Phuong
- Phạm Viêm Phương
- Phạm Viết Đào
- Phạm Việt Hưng
- Phạm Vũ Lửa Hạ
- Phạm Xuân Đài
- Phạm Xuân Hùng
- Phạm Xuân Nguyên
- Phạm Xuân Trường
- Phan An Sa
- Phan Ba
- Phan Bội Châu
- Phan Cẩm Thượng
- Phan Châu Thành
- Phan Cự Đệ
- Phan Dương Hiệu
- Phan Đạo
- Phan Đắc Lữ
- Phan Đình Diệu
- Phan Độc Lập
- Phan Hải-Đăng
- Phan Hồng Giang
- Phan Huy Chú
- Phan Huy Dũng
- Phan Huy Đường
- Phan Huy Lê
- Phan Huyền Thư
- Phan Kế Toại
- Phan Khôi
- Phan Lặng Yên
- Phan Mạnh Quỳnh
- Phan Nam Sinh
- Phan Ngọc
- Phan Nguyên
- Phan Nhật Nam
- Phan Nhiên Hạo
- Phan Ni Tấn
- Phan Phương Đạt
- Phan Quang
- Phan Quỳnh Trâm
- Phan Tấn Hải
- Phan Tấn Uẩn
- Phan Thanh Bình
- Phan Thắng
- Phan Thế Hải
- Phan Thị Hà Dương
- Phan Thị Kim Phúc
- Phan Thị Trọng Tuyển
- Phan Thị Vàng Anh
- Phan Thu Vân
- Phan Thúy Hà
- Phan Trang Hy
- Phan Trí Đỉnh
- Phan Trọng Hoàng Linh
- Phan Văn Giưỡng
- Phan Văn Song
- Phan Văn Thắng
- Phan Vũ
- Phan Xine
- Phan Xuân Sinh
- Phannguyên Psg
- Phanxipăng
- Phaolô VI
- phap
- Pháp Hoan
- Pháp Vân
- Phapxa Chan
- Phát biểu nhận giải Văn Việt
- Phil Caputo
- Philip Larkin
- Philip Roth
- Phong Âm
- Phong Linh
- Phong Nguyen
- Phong Quang
- Phố Văn
- Phú Quang
- Phù Sa
- Phúc Lai GB
- Phúc Tiến
- Phunchok Stobdan
- Phùng Anh Kiệt
- Phùng Hi
- Phùng Hoài Ngọc
- Phùng Học Vinh
- Phùng Ngọc Kiên
- Phùng Nguyễn
- Phùng Quán
- Phùng Thành Chủng
- Phùng Thị Hạ Nguyên
- Phùng Thị Như Hà
- Phuong Ta
- Phương Hương
- Phương Phương
- Phương Thảo
- Phương Thuý
- Phương Uy
- Phương Xích Lô
- Pierre Darriulat
- Pierre Lemieux
- Prashanth Parameswaran
- Qladimir Pyljow
- Quách Hạo Nhiên
- Quách Tấn
- Quách Thoại
- Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
- Quang Dũng
- Quang Đức
- Quang Minh
- Quang Phan
- Quảng Tánh Trần Cầm
- Quậy Nguyễn
- Quế Hương
- Quốc Dũng
- Quốc Phương
- Quốc Toản
- Quyên Di
- Quyên Hoàng
- Quỳnh Dao
- Quỳnh Hợp
- Quỳnh Iris de Prelle
- Quỳnh Vi
- Rabindranath Tagore
- Rachel Adams
- Rainer Maria Rilke
- Ralph Chaplin
- Rebecca Mead
- Rebecca Solnit
- Reiner Traub
- Remo Verdickt
- Riccardo Gazzaniga
- Richard C. Paddock
- Richard Millet
- Richard Serra
- Robert Desnos
- Robert McCrump
- Roger Vu
- Roland Barthes
- Romain Rolland
- Ronald F. Inglehart
- Ruben David Gonzalez Gallego
- Russell Edson
- Ruth Ingram
- Ryszard Legutko
- Salman Rushdie
- Salvatore Babones
- Sam Dresser
- Sạn chữ
- San Phi
- Sandra Kerschbaumer
- Sara Teasdale
- Sarah Pulliam Bailey
- Sarah Thornton
- Sáu Nghệ
- Sergio Bitar
- Shakespeare
- Shannon Van Sant
- Sheikha A
- Sheila Fischman
- Sheila Ngoc Pham
- Sheri Berman
- Shigeeda Yutaka
- Shirin Ebadi
- Shukshin
- Simon Johnson
- Sire Apm Lukwesa
- Slavoj Žižek
- Sohaniim
- Son Kieu Mai
- Song Chi
- Song Hà
- Song Nguyễn
- Song Phạm
- Song Phan
- Song Thao
- Số đặc biệt
- Sơn Ca
- Sơn Hoàng Liên
- Sơn Kiều Mai
- Sơn Nam
- Stalin
- Stefan Dege
- Stefano Harney
- Stephan Koester
- Stephen B. Young
- Steve Earle
- Susan Sontag
- Suzuki Katsuhiko
- Sương Nguyệt Minh
- Sương Quỳnh
- Svetlana Alexievich
- Svetlana Alexievitch
- Svetlana Alexiévitch
- Sylvia Plath
- T. Đ.
- T.Vấn
- Tạ Anh Thư
- Tạ Chí Đại Trường
- Tạ Duy Anh
- Tạ Tỵ
- Tạ Văn Tài
- Tạ Văn Thông
- Tạ Xuân Hải
- Tadeusz Rósewicz
- Tam Ích
- Tamarchenko
- Tàn Tuyết
- Tanaami Keiichi
- Taras Shevchenko
- Tarik Khaldi
- Tawada Yoko
- Tăng Quang
- Tâm An
- Tâm Bình
- Tâm Chánh
- Tâm Don
- Tâm Thường Định
- Tâm Việt
- Tấn An
- Teolinda Gersão
- Teresa Mỹ Chúc
- Thạch Đạt Lang
- Thạch Quỳ
- Thạch Thảo
- Thái Bá Tân
- Thái Bá Vân
- Thái Bảo
- Thái Hà
- Thái Hạo
- Thái Kế Toại
- Thái Kim Lan
- Thái Ngọc San
- Thái Phan Vàng Anh
- Thái Sinh
- Thái Thanh
- Thái Thăng Long
- Thái Tuấn
- Thái Văn
- Thái Văn Đào
- Thái Vũ
- Thạnh Đà
- Thanh Hằng - Anh Khoa
- Thành Lộc
- Thanh Nam
- Thanh Ngọc
- Thanh Phương
- Thanh Tâm Tuyền
- Thanh Thảo
- Thanh Thuỷ
- Thanh Trúc
- Thanh Tùng
- Thanh Xuân
- Thanhhà Lại
- Thảo Dân
- Thao Dinh
- Thảo luận
- Thảo Nguyên
- Thảo Trường
- Thảo Vy
- Thẩm Đống
- Thẩm Hoàng Long
- Thận Nhiên
- Thân Trọng Mẫn
- Thân Trọng Sơn
- Thế Dũng
- Thế Giang
- Thế Quân
- THẾ THANH
- Thế Uyên
- Thi Hoàng
- Thi Nguyên
- Thi sỹ ỦA
- Thi Vũ
- Thích Nhất Hạnh
- Thích Nữ Chân Không
- Thích Phước An
- Thích Quảng Độ
- Thierry Leclère
- Thierry Lentz
- Thiên Di
- Thiên Điểu
- Thiền Lâm
- Thiền Nguyễn
- Thiên Thai
- Thiện Tùng
- Thiện Ý
- Thiền Zen Paul Vân Thuyết
- Thiết Thạch
- Thiếu Khanh
- Thiều Mai Lâm
- Tho Nguyen
- Thomas A. Bass
- Thomas Bo Pedersen
- Thomas Mahler
- Thomas S. Mullaney
- Thông Đặng
- Thơ
- Thu Phong
- Thu Vàng
- Thuận
- Thuần Ngô
- Thuận Paris
- Thuận Thiên
- Thục Quyên
- Thụy An
- Thùy Dung
- Thụy Khuê
- Thùy Linh
- Thụy My
- Thủy Tiên
- Thư Bạn Đọc
- Thường Quán
- Thy An
- Tịch Ru
- Tiet Hung Thai
- Tiêu Dao Bảo Cự
- Tiêu Kiện Sinh
- Tiểu Tử
- Tillman Miller
- Timothy Brennan
- Timothy Garton Ash
- Timothy Snyder
- Tina Hà Giang
- Tom Fawthrop
- Tomas Tranströmer
- Tô Đăng Khoa
- Tô Hải
- Tô Hoàng
- Tố Hữu
- Tô Lan Hương
- Tô Ngọc Vân
- Tô Thẩm Huy
- Tô Thùy Yên
- Tô Văn Trường
- Tôi Đây
- Tôn Thất Thông
- Tống Văn Công
- Trà Bình
- Trà Đóa
- Trà Nhiên
- Tracy K. Smith
- Tran Dinh Dung
- Tran Nam Dung
- Trang Châu
- Trang Hạ
- Trang Thanh
- Trang Thế Hy
- Trangđài Glassey Trầnguyễn
- Trangđài Glasssey-Trầnguyễn
- Trao đổi
- Trầm Tử Thiêng
- Trần Anh Hùng
- Trần Bá Đại Dương
- Trần Bang
- Trần Bình Nam
- Trần C. Trí
- Trần Cao Lĩnh
- Trần Cao Tường
- Trần Công Tâm
- Trần Công Tín
- Trần Dạ Từ
- Trần Dần
- Trần Doãn Nho
- Trần Dũng Thanh Huy
- Trần Duy
- Trần Duy Phiên
- Trần Duy Trung
- Trần Đăng Khoa
- Trần Đăng Tuấn
- Trần Đĩnh
- Trần Đình Bút
- Trần Đình Hoành
- Trần Đình Lương
- Trần Đình Sơn Cước
- Trần Đình Sử
- Trần Đình Thắng
- Trần Đình Triển
- Trần Đình Trợ
- Trần Độ
- Trần Đồng Minh
- Trần Đức Anh Sơn
- Trần Đức Nguyên
- Trần Đức Thảo
- Trần Đức Tiến
- Trần Đức Tín
- Trần Đức Toản
- Trần Gia Huấn
- Trần Gia Ninh
- Trần Hà Linh
- Trần Hạ Tháp
- Trần Hạ Vi
- Trần Hải
- Trần Hạnh
- Trần Hậu
- Trần Hoài Anh
- Trần Hoài Thư
- Trần Hoàng Phố
- Trần Hoàng Trúc
- Trần Hoàng Vy
- Trần Hùng
- Trần Huy Bích
- Trần Huy Minh Phương
- Trần Huy Quang
- Trần Huỳnh Duy Thức
- Trần Hữu Dũng
- Trần Hữu Khánh
- Trần Hữu Quang
- Trần Hữu Tá
- Trần Hữu Thục
- Trần Khánh Triệu
- Trần Kiêm Đoàn
- Trần Kiêm Trinh Tiên
- Trần Kim Trắc
- Trần Kỳ Trung
- Trần Lam
- Trần Lê Hoa Tranh
- Trần Lê Sơn Ý
- Trần Lương
- Trần Lý Trí Tân
- Trần Mạnh Hảo
- Trần Mạnh Tuấn
- Trần Minh Phi
- Trần Minh Quốc
- Trần Mộng Tú
- Trần Nam Bình
- Trần Ngân Hà
- Trần Nghi Hoàng
- Trần Ngọc Cư
- Trần Ngọc Hiếu
- Trần Ngọc Tuấn
- Trần Ngọc Vương
- Trần Nguyên Đán
- Trần Nhã Thụy
- Trần Nhương
- Trần Phong Giao
- Trần Phong Vũ
- Trần Quang Đức
- Trần Quang Lộc
- Trần Quốc Nam
- Trần Quốc Thuận
- Trần Quốc Toàn
- Trần Quốc Trọng
- Trần Quốc Vượng
- Trần Quyết Thắng
- Trân Sa
- Trần Song Hào
- Trần Thành
- Trần Thanh Ái
- Trần Thanh Cảnh
- Trần Thanh Huy
- Trần Thanh Vân
- Trần Thắng
- Trần Thế Vĩnh
- Trần Thị Băng Thanh
- Trần Thị Diệu Tâm
- Trần Thị Lai Hồng
- Trần Thị Lam
- Trần Thị NgH.
- Trần Thị Nguyệt Mai
- Trần Thị Phương Phương
- Trần Thị Thanh Thoả
- Trần Thị Trường
- Trần Thiện Đạo
- Trần Thùy Mai
- Trần Tiến
- Trần Tiễn Cao Đăng
- Trần Tiến Dũng
- Trần Tiễn Khanh
- Trần Tố Nga
- Trần Trọng Dương
- Trần Trọng Thức
- Trần Trọng Vũ
- Trần Trung Chính
- Trần Trung Đạo
- Trần Tuấn
- Trần Từ Mai
- Trần Vàng Sao
- Trần Văn Chánh
- Trần Văn Chung
- Trần Văn Đỉnh
- Trần Văn Khê
- Trần Văn Minh
- Trần Văn Nam
- Trần Văn Thọ
- Trần Văn Thủy
- Trần Văn Tý
- Trần Vấn Lệ
- Trần Việt Hà
- Trần Viết Ngạc
- Trần Vinh Dự
- Trần Vũ
- Trần Vũ Hải
- Trần Vương Thuấn
- Trần Vương Thuận
- Trần Wũ Khang
- Trần Xuân Hoài
- Trần Xuân Kiêm
- Trần Xuân Linh
- Trần Xuân Lĩnh
- Trần Xuân Thảo
- Trần Yên Hòa
- Trần Yên Nguyên
- Trên
- Trên Facebook
- Trên Facebook/Minds
- Trên kệ sách
- Trên trang diaCRITICS
- Trí Hiệu Dân
- Triều Anh
- Triều Hoa Đại
- Triêu Nhan
- Triều Sơn
- Triệu Tử Dương
- Trịnh Anh Tuấn
- Trịnh Bá Phương
- Trịnh Bách
- Trịnh Cao Hòa Thanh
- Trịnh Chu
- Trịnh Công Sơn
- Trịnh Cung
- Trịnh Duy Kỳ
- Trịnh Hữu Long
- Trịnh Kim Tiến
- Trịnh Lữ
- Trịnh Minh Tuấn
- Trịnh Sơn
- Trịnh Thanh Thủy
- Trịnh Thu Tuyết
- Trịnh Vĩnh Phúc
- Trịnh Xuân Thuận
- Trịnh Xuân Thủy
- Trịnh Y Thư
- Trọng Anh
- Trọng Phú
- Trọng Thành
- Tru Sa
- Trúc Giang
- Trúc Thông
- Trúc Ty
- Trump
- Trung Bảo
- Trung Dũng Kqd
- Trung Dũng Kqđ
- Trùng Dương
- Trung Trung Đỉnh
- Trư Sa
- Trường An
- Trương Anh Ngọc
- Trương Anh Thụy
- Trương Chính
- Trương Duy Nhất
- Trương Đăng Dung
- Trương Điện Thắng
- Trương Đình Phượng
- Trương Hồng Quang
- Trương Huy San
- Trường Minh
- Trương Ngọc Chương
- Trương Nguyên
- Trương Nguyện Thành
- Trương Nhân Tuấn
- Trương Phượng
- Trương Quang
- Trương Quang Đệ
- Trương Quang Nhuệ
- Trương Quang Vĩnh
- Trương Thanh Thuận
- Trương Thị Ngọc Hân
- Trương Thiên Phàm
- Trương Thu Hiền
- Trương Tố Hoa
- Trương Trọng Nghĩa
- Trương Tửu
- Trương Văn Dân
- Trương Văn Vĩnh
- Trương Vũ
- Trương Xuân Thiên
- Tú Mỡ
- Tù Quốc Hoài
- Tù Sâm
- Tú Trung Hồ
- Tuấn Duy
- Tuấn Khanh
- Tuân Nguyễn
- Tuấn Thảo
- Tuệ Anh
- Tuệ Đăng
- Tuệ Nguyên
- Tuệ Nhân
- Tuệ Nhật
- Tuệ Sĩ
- Tuệ Sỹ
- Tùng Dương Cola
- Tung Nguyen
- Turner
- Túy Hồng
- Tuyết Nghi
- Tư
- Từ Dung
- Tư liệu
- Tử Linh
- Từ Mai Trần Huy Bích
- Từ Quốc Hoài
- Từ Sâm
- Từ Thức
- Tưởng
- Tương Lai
- Umberto Eco
- Uông Tăng Kỳ
- Uông Triều
- Uyển Ca
- Uyên Nguyên
- Uyên Nguyễn
- Uyên Thao
- Uyên Vũ
- V. Erofiev
- Vàng A Giang
- Varlam Shalamov
- Vasco Gargalo
- Vasily Makarovich
- Văn
- Văn Biển
- Văn Cao
- Văn Chinh
- Văn Công Hùng
- Văn Giá
- Văn học
- Văn học Miền Nam 54-75
- Văn Như Cương
- Văn Quang
- Văn Tâm
- Văn Việt
- Văn.
- Vấn đề hôm nay
- Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016
- Vân Hạ
- Vân Phi
- Velcrow Ripper
- Veronica Melkozerova
- Vi Lãng
- Vi Trần
- Vi Yên
- Viet Thanh Nguyen
- Viên Linh
- Việt Bách
- Việt Bình
- Việt Dzũng
- Việt Khang
- Việt Lang
- Việt Phương
- Viktor Astafyev
- Viktor Maslov
- Vinh Anh
- Vĩnh Hảo
- Vĩnh Quyền
- Virginia Heffernan
- Virginia Woolf
- Vladimir Nabokov
- Vladimir Voronov
- Võ An Đôn
- Võ Anh Minh
- Võ Anh Thơ
- Võ Bá Cường
- Võ Đắc Danh
- Võ Định Hình
- Võ Đức Phúc
- Võ Hồng
- Võ Huy Tâm
- Võ Hương Quỳnh
- Võ Kỳ Điền
- Võ Ngàn Sông
- Võ Phiến
- Võ Thị Hảo
- Võ Thị Thu Hằng
- Võ Tiến Cường
- Võ Tòng Xuân
- Võ Trí Hảo
- Võ Văn Quản
- Võ Văn Tạo
- Võ Văn Thôn
- Võ Xuân Quế
- Võ Xuân Sơn
- Volker Weidermann
- Volodymyr Vynnychenko
- Volodymyr Zelenskyy
- Vũ Bằng
- Vũ Biện Điền
- Vũ Cao Đàm
- Vũ Cát Tường
- Vũ Đình Hòe
- Vũ Đình Huỳnh
- Vũ Đình Liên
- Vũ Đình Phòng
- Vũ Đức Khanh
- Vũ Đức Phúc
- Vũ Đức Sao Biển
- Vu Gia
- Vũ Hà Văn
- Vũ Hạnh
- Vũ Hoàng Chương
- Vũ Hoàng Thư
- Vũ Hồng Ánh
- Vũ Huy Ngọc
- Vũ Huy Quang
- Vũ Khắc Hoè
- Vũ Khắc Khoan
- Vũ Kim Hạnh
- Vũ Kim Thu
- Vũ Lâm
- Vũ Lập Nhật
- Vũ My Lan
- Vũ Ngọc Giao
- Vũ Ngọc Hoàng
- Vũ Ngọc Tâm
- Vũ Ngọc Tiến
- Vũ Nho
- Vũ Oanh
- Vũ Quang Việt
- Vũ Quí Hạo Nhiên
- Vũ Quốc Ngữ
- Vũ Quỳnh Hương
- Vũ Quỳnh Nh.
- Vũ Thành Sơn
- Vũ Thanh Tâm
- Vũ Thanh Tùng
- Vũ Thành Tự Anh
- Vũ Thế Khôi
- Vũ Thị Hải
- Vũ Thị Nhuận
- Vũ Thị Phương Anh
- Vũ Thị Phương Lan
- Vũ Thị Thanh
- Vũ Thị Thanh Mai
- Vũ Thư Hiên
- Vũ Tiến Lập
- Vũ Trọng Khải
- Vũ Trọng Phụng
- Vũ Tuấn Hoàng
- Vũ Từ Trang
- Vũ Tường
- Vũ Viết Tuân
- Vũ Xuân Tửu
- Vương Bích Ngọc
- Vương Đan
- Vương Hỗ Ninh
- Vương Huy
- Vương Ngọc Minh
- Vương Tiểu Nhị
- Vương Trí Nhàn
- Vương Trọng
- Vương Trùng Dương
- Vương Trung Hiếu
- Vy Thảo
- W. H. Auden
- Wa Praong
- Walt Whitman
- Walter Isaacson
- Wayne Karlin
- Wells
- Wendy Barker
- Wiesiek Powaga
- Wilhelm Schmid
- Will Nguyen
- William Carlos Williams
- William Nee
- William Stafford
- William Stanley Merwin
- Winston Phan Đào Nguyên
- Wislawa Szymborska
- Władysław Reymont
- Wolf Biermann
- Wolfgang Borchert
- Wynn Gadkar Wilcox
- Xie Tao
- Xuân Ba
- Xuân Diệu
- Xuân Dương
- Xuân Đài
- Xuân Minh
- Xuân Phượng
- Xuân Sách
- Xuân Thọ
- Xuân Vũ
- Xương Văn
- Y Chan
- Ỷ Lan
- Ý Nhi
- Y Uyên
- Yanis Varoufakis
- Yevgeny Yevtushenko
- Yên Ba
- Yên Khắc Chính
- Yến Năng
- Yên San
- Yên San Thụy Miên
- Yên Thao
- Yiyun Li
- Yoko Ogawa
- Yōko Ogawa
- Yoko Tawada
- Young Sang Lee
- Yuliya Ilchuk
- Yuno Bigboi
- Yves Sintomer
- Yvette Tan
- Zac Herman
Tư liệu: Toàn văn báo cáo của N. S. Khrushchev về tệ sùng bái cá nhân J. Stalin, đọc tại Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô
Ngày 5 tháng Ba năm 1953 J. Stalin qua đời. Đấy là cái tin chấn động. Ở Việt Nam, ngay trên chiến khu Việt Bắc, tạp chí VĂN NGHỆ của Hội Văn nghệ Việt Nam đã ra số đặc biệt (s. 40, tháng Ba 1953) để tỏ lòng thương tiếc J. Stalin, trong đó có bài của Hồ Chí Minh, thơ của Chế Lan Viên, Huy Cận, Tố Hữu, Bàn Tài Đoàn, Nông Quốc Chấn, Xuân Diệu, Lê Thái, văn của Nguyên Hồng, Phan Khôi, Lê Đạt, Hoàng Trung Thông, Minh Tranh[1]. Chế Lan Viên khóc: Stalin mất rồi! Đồng chí Stalin đã mất! Thế giới không cha nặng tiếng thở dài! Xuân Diệu khóc: Đại Nguyên soái Sta-lin đã mất Tin rụng rời đến với chúng tôi Cả thế gian như bỗng mất mặt trời Ba trăm người chúng tôi trào nước mắt Đứng lên, ngực nghẹn ngào tiếng nấc Sta-lin, cha vĩ đại của loài người! Huy Cận khóc: Tên Người hoa nở bốn mùa Tên Người ríu rít giọng đùa trẻ con Tên Người khắp nước khắp non Sta-lin bất diệt, Người còn sống đây Tố Hữu khóc: Ông Stalin ơi, Ông Stalin ơi! Hỡi ơi, Ông mất! Đất trời còn không? Thương cha, thương mẹ, thương chồng Thương mình thương một, thương Ông thương mười! Nhưng chỉ ba năm sau, ngày 25 tháng 2 năm 1956 trong Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, Bí thư thứ nhất N. S. Khrushchev đọc bản báo cáo vạch rõ tội ác của J. Stalin. Chấn động lần này còn mạnh hơn trước: Stalin từ địa vị thần thánh bị lột truồng thành tên sát nhân máu lạnh. Alexander Fadeev, Tổng thư ký Hội Nhà văn Liên Xô, tác giả các tiểu thuyết Đội cận vệ thanh niên và Chiến bại, không chịu nổi cú sốc, đã tự sát bằng súng[2]. Bản báo cáo này bị rò rỉ từ các nước Đông Âu, góp phần quan trọng trong việc phi Stalin hóa (de-Stalinization). Từ Liên Xô, qua Trung Quốc, lan tới Việt Nam, đâu đâu trong thế giới các nước cộng sản, cũng vang lên lời kêu gọi “chống sùng bái cá nhân”. N. S. Khrushchev, người kế tục J. Stalin, đảm nhận vị trí lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô, không dùng danh xưng Tổng bí thư như J. Stalin, mà chọn cách gọi "khiêm tốn" hơn: Bí thư thứ nhất, chính là do "chống sùng bái cá nhân". Ở Việt Nam cũng tương tự, sau Tổng bí thư Trường Chinh, là Bí thư thứ nhất Lê Duẩn! Tuy thế, ngay tại Liên Xô, mãi cho đến năm 1989, bản báo cáo này mới được chính thức công khai. Ở Việt Nam, đây là lần đầu tiên bản báo cáo này mới có bản dịch tiếng Việt. Văn Việt |
VỀ TỆ SÙNG BÁI CÁ NHÂN VÀ NHỮNG HẬU QUẢ CỦA NÓ
Báo cáo của Đồng chí N. S. Khrushchev, Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tại Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô
Thưa các đồng chí!
Trong Báo cáo Tổng kết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội XX, trong các bài phát biểu của các đại biểu tại đại hội, cũng như trước đó tại các phiên họp toàn thể của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đã có không ít ý kiến đề cập đến hiện tượng sùng bái cá nhân và những hậu quả tai hại của nó.
Sau khi Stalin qua đời, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nghiêm túc và nhất quán thực hiện đường lối làm rõ sự không thể chấp nhận được việc tôn vinh một cá nhân, xa lạ với tinh thần của chủ nghĩa Marx-Lenin, biến cá nhân đó thành một siêu nhân, sở hữu những phẩm chất siêu nhiên, giống như một vị thần. Người này dường như biết tất cả, thấy tất cả, nghĩ thay cho tất cả, có thể làm được mọi thứ; không bao giờ có thể hành động sai lầm.
Quan niệm như vậy về con người, và cụ thể là về Stalin, đã được nuôi dưỡng trong chúng ta suốt nhiều năm.
Báo cáo này không đặt mục tiêu đánh giá toàn diện về cuộc đời và hoạt động của Stalin. Về công lao của Stalin, ngay khi ông còn sống, đã có rất nhiều sách báo tài liệu và nghiên cứu viết rồi. Vai trò của Stalin trong việc chuẩn bị và thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong cuộc nội chiến, trong cuộc đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là điều được biết rộng rãi. Hiện nay, vấn đề được đặt ra là một vấn đề có ý nghĩa to lớn đối với hiện tại và tương lai của Đảng – đó là cách thức hình thành và phát triển hiện tượng sùng bái cá nhân của Stalin, và đến một giai đoạn nhất định, đã trở thành nguồn gốc của hàng loạt những sai lệch nghiêm trọng và nặng nề đối với các nguyên tắc của Đảng, nền dân chủ trong Đảng, và tính hợp pháp cách mạng.
Vì trên thực tế không phải ai cũng hiểu được tệ sùng bái cá nhân dẫn đến hậu quả nghiêm trọng như thế nào, khi quyền lực vô hạn tập trung vào tay một cá nhân, vi phạm nguyên tắc lãnh đạo tập thể, dẫn đến tổn thất vô cùng to lớn, Ban Chấp hành Trung ương Đảng thấy cần phải trình các tài liệu về vấn đề này với Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô.
Trước tiên, cho phép tôi nhắc lại rằng các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx-Lenin đã nghiêm khắc lên án mọi biểu hiện của sùng bái cá nhân. Trong một lá thư gửi cho chính trị gia người Đức Wilhelm Blos, Marx đã tuyên bố:
“…Vì sự ghê tởm với mọi hình thức sùng bái cá nhân, trong thời gian tồn tại của Quốc tế, tôi không bao giờ cho phép công khai vô số những lời ca ngợi công lao của tôi, và cũng làm phiền tôi, từ nhiều quốc gia khác nhau – thậm chí tôi không bao giờ trả lời, ngoại trừ đôi khi đáp lời để khiển trách. Khi Engels và tôi lần đầu tham gia vào tổ chức bí mật của những người cộng sản, chúng tôi đã đặt điều kiện rằng mọi thứ khuyến khích sự sùng bái mù quáng trước các quyền uy phải bị loại bỏ (sau này Lassalle đã làm ngược lại).”
Một thời gian sau, Engels viết:
“Cả Marx và tôi đều luôn phản đối mọi sự biểu dương công khai đối với cá nhân, trừ khi điều đó phục vụ một mục đích quan trọng; và trên hết, chúng tôi phản đối mạnh mẽ nhất những biểu dương liên quan đến cá nhân chúng tôi trong suốt cuộc đời mình.”
Sự khiêm tốn tuyệt vời của thiên tài cách mạng Vladimir Ilyich Lenin là điều ai cũng biết. Lenin luôn nhấn mạnh vai trò của nhân dân như những người tạo nên lịch sử, vai trò lãnh đạo và tổ chức của Đảng như một cơ thể sống động, độc lập, và vai trò của Ban Chấp hành Trung ương.
Chủ nghĩa Marx không phủ nhận vai trò của các lãnh tụ giai cấp công nhân trong việc lãnh đạo phong trào giải phóng cách mạng.Trong khi đề cao vai trò của các lãnh tụ và những người tổ chức quần chúng, Lenin đồng thời mạnh mẽ lên án mọi biểu hiện của lối sùng bái cá nhân, đấu tranh không khoan nhượng chống lại những quan điểm “anh hùng” và “đám đông” xa lạ với chủ nghĩa Marx của những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng, chống lại những nỗ lực đối lập “anh hùng” với quần chúng, với nhân dân.
Lenin dạy rằng sức mạnh của Đảng nằm ở mối liên hệ không thể tách rời với quần chúng, ở việc nhân dân – công nhân, nông dân, trí thức – đi theo Đảng. Lenin nói: “Chỉ những ai tin vào nhân dân, những ai hòa mình vào nguồn sáng tạo sống động của nhân dân mới có thể chiến thắng và giữ được chính quyền.”
Lenin tự hào nói về Đảng Cộng sản Bolshevik như người lãnh đạo và người thầy của nhân dân, ông kêu gọi đưa mọi vấn đề quan trọng nhất ra để những người công nhân có ý thức và Đảng phán xét; ông tuyên bố: “Chúng ta tin vào Đảng, trong Đảng chúng ta thấy trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta.”
Lenin kiên quyết chống lại mọi nỗ lực làm suy yếu hoặc giảm bớt vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống nhà nước Xô viết. Ông đã xây dựng các nguyên tắc Bolshevik về lãnh đạo Đảng và các chuẩn mực của đời sống Đảng, nhấn mạnh rằng nguyên tắc cao nhất của lãnh đạo Đảng là tính tập thể. Ngay từ những năm trước cách mạng, Lenin gọi Ban Chấp hành Trung ương Đảng là một tập thể lãnh đạo, là người bảo vệ và diễn giải các nguyên tắc của Đảng. Lenin chỉ rõ: “Các nguyên tắc của Đảng được tuân thủ từ đại hội này đến đại hội khác và được Ban Chấp hành Trung ương làm sáng tỏ.”
Nhấn mạnh vai trò và uy tín của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Vladimir Ilyich chỉ ra: “Ban Chấp hành Trung ương của chúng ta đã hình thành một nhóm lãnh đạo tập trung chặt chẽ và có uy tín cao…”
Vào thời Lenin, Ban Chấp hành Trung ương Đảng thực sự là biểu hiện của sự lãnh đạo tập thể của Đảng và đất nước. Là một chiến sĩ Marxist cách mạng, luôn kiên định trong các vấn đề nguyên tắc, Lenin không bao giờ áp đặt quan điểm của mình lên đồng chí bằng sức mạnh. Ông thuyết phục, kiên nhẫn giải thích ý kiến của mình cho người khác. Lenin luôn nghiêm túc giám sát việc thực hiện các chuẩn mực của đời sống Đảng, việc tuân thủ Điều lệ Đảng, việc tổ chức đúng thời hạn các đại hội Đảng và các phiên họp toàn thể của Ban Chấp hành Trung ương.
Ngoài tất cả những điều vĩ đại mà V.I. Lenin đã làm cho chiến thắng của giai cấp công nhân và nông dân lao động, cho chiến thắng của Đảng chúng ta và việc hiện thực hóa các ý tưởng của chủ nghĩa cộng sản khoa học, sự sáng suốt của ông còn thể hiện ở việc ông kịp thời nhận ra những phẩm chất tiêu cực ở Stalin, những điều sau này dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Lo ngại về số phận tương lai của Đảng và Nhà nước Xô viết, V.I. Lenin đã đưa ra một đánh giá hoàn toàn chính xác về Stalin, chỉ ra rằng cần xem xét việc thuyên chuyển Stalin khỏi vị trí Tổng Bí thư vì Stalin quá thô bạo, thiếu quan tâm đến đồng chí, tùy hứng và lạm dụng quyền lực.
Tháng 12 năm 1922, trong lá thư gửi đại hội Đảng tiếp theo, Vladimir Ilyich viết:
“Đồng chí Stalin, khi trở thành Tổng Bí thư, đã tập trung vào tay mình quyền lực to lớn, và tôi không chắc liệu ông ấy có luôn đủ thận trọng để sử dụng quyền lực này hay không.”
Lá thư này – một tài liệu chính trị quan trọng, được biết đến trong lịch sử Đảng như “di chúc” của Lenin – đã được gửi đến các đại biểu của Đại hội XX của Đảng. Các đồng chí đã đọc nó và có lẽ sẽ đọc lại nhiều lần. Hãy suy ngẫm về những lời giản dị của Lenin, trong đó thể hiện sự quan tâm của Vladimir Ilyich đối với Đảng, nhân dân, nhà nước, và định hướng tương lai của chính sách Đảng.
Vladimir Ilyich nói:
“Stalin quá thô bạo, và khuyết điểm này, dù có thể chấp nhận được trong môi trường giao tiếp giữa chúng ta, những người cộng sản, lại trở nên không thể chấp nhận được ở cương vị Tổng Bí thư. Vì vậy, tôi đề nghị các đồng chí cân nhắc cách thuyên chuyển Stalin khỏi vị trí này và bổ nhiệm một người khác, người mà mọi mặt chỉ cần vượt trội đồng chí Stalin ở điểm, là kiên nhẫn hơn, khoan dung hơn, lịch sự hơn và quan tâm đến đồng chí hơn, ít tùy hứng hơn, v.v.”
Tài liệu này của Lenin đã được công bố tại các đoàn đại biểu của Đại hội Đảng lần XIII, nơi thảo luận về việc thuyên chuyển Stalin khỏi vị trí Tổng Bí thư. Các đoàn đại biểu đã bỏ phiếu để giữ Stalin ở vị trí này, lưu ý rằng ông sẽ xem xét những phê bình của Vladimir Ilyich và có thể sửa chữa những khuyết điểm khiến Lenin hết sức lo ngại.
Thưa các đồng chí! Cần báo cáo với đại hội Đảng hai tài liệu mới, bổ sung nhận định của Lênin về tính cách của Stalin mà Vladimir Ilyich đã nêu trong “di chúc” của mình.
Đó là một lá thư của Nadezhda Konstantinovna Krupskaya gửi Kamenev, người đứng đầu Bộ Chính trị lúc đó, và một lá thư cá nhân Vladimir Ilyich Lenin gửi Stalin.
Tôi xin đọc các tài liệu này:
- Thư của N.K. Krupskaya:“Lev Borisovich, liên quan đến bức thư ngắn mà tôi viết theo khẩu truyền của Vladimir Ilyich với sự cho phép của các bác sĩ, hôm qua Stalin dám có hành vi cực kỳ thô lỗ với tôi. Tôi không phải là người mới trong Đảng. Trong suốt 30 năm, tôi chưa từng nghe một lời thô lỗ nào từ bất kỳ đồng chí nào, lợi ích của Đảng và của Ilyich đối với tôi không kém quan trọng hơn đối với Stalin. Hiện tại, tôi cần tối đa sự tự chủ. Tôi biết rõ hơn bất kỳ bác sĩ nào về những gì có thể và không thể nói với Ilyich, vì tôi biết điều gì làm ông ấy lo lắng và điều gì không, và trong mọi trường hợp, tôi biết rõ hơn Stalin. Tôi gửi tới đồng chí và Grirory, những người thân cận nhất với V.I., lời yêu cầu bảo vệ tôi trước sự can thiệp thô bạo vào đời sống cá nhân, trước những lời lăng mạ không đáng có và những mối đe dọa. Tôi không nghi ngờ về quyết định nhất trí của Ủy ban Kiểm tra đã cho phép Stalin đe dọa, nhưng tôi không có sức lực hay thời gian để lãng phí vào cuộc cãi vã ngu ngốc này. Tôi cũng là con người, và thần kinh của tôi đang căng thẳng đến cực độ.Krupskaya.”
Lá thư này được Nadezhda Konstantinovna viết ngày 23 tháng 12 năm 1922. Hai tháng rưỡi sau, tháng 3 năm 1923, Vladimir Ilyich Lenin đã gửi cho Stalin lá thư sau:
- Thư của V.I. Lenin:
“Gửi đồng chí Stalin. Bản sao gửi: Kamenev và Zinoviev.
Kính thưa đồng chí Stalin, đồng chí đã thô lỗ gọi điện cho vợ tôi và lăng mạ cô ấy. Mặc dù cô ấy đã bày tỏ ý muốn quên đi những lời đã nói, nhưng sự việc này vẫn được Zinoviev và Kamenev biết qua cô ấy. Tôi không có ý định dễ dàng quên đi những gì đã chống lại tôi, và không cần phải nói, những gì chống lại vợ tôi, tôi coi là chống lại chính tôi. Vì vậy, tôi yêu cầu đồng chí cân nhắc xem đồng chí có đồng ý rút lại những lời mình đã nói và xin lỗi, hay là đồng chí muốn cắt đứt quan hệ giữa chúng ta. (Có sự xôn xao trong hội trường.)
Trân trọng: Lenin.
Ngày 5 tháng 3 năm 1923.”
Thưa các đồng chí! Tôi sẽ không bình luận về các tài liệu này. Chúng tự nói lên tất cả. Nếu Stalin có thể cư xử như vậy khi Lenin còn sống, nếu ông ta có thể đối xử với Nadezhda Konstantinovna Krupskaya – người mà Đảng biết rõ và đánh giá cao như một người bạn trung thành của Lenin và một chiến sĩ tích cực vì sự nghiệp của Đảng ta ngay từ khi thành lập – thì có thể tưởng tượng được Stalin đã đối xử với những người khác như thế nào. Những phẩm chất tiêu cực này của ông ngày càng phát triển và trong những năm cuối cùng đã trở nên hoàn toàn không thể chấp nhận được.
Như các sự kiện sau đó cho thấy, sự lo lắng của Lenin không phải là vô căn cứ: Stalin ban đầu sau khi Lenin qua đời vẫn còn chú ý đến những chỉ dẫn của ông, nhưng sau đó bắt đầu phớt lờ những cảnh báo nghiêm trọng của Vladimir Ilyich.
Khi phân tích thực tiễn lãnh đạo Đảng và đất nước của Stalin, khi suy ngẫm về tất cả những gì Stalin đã gây ra, chúng ta thấy rõ sự đúng đắn trong những lo ngại của Lenin. Những đặc điểm tiêu cực của Stalin, vốn chỉ manh nha khi Lenin còn sống, đã phát triển trong những năm cuối đời thành sự lạm dụng quyền lực nghiêm trọng, gây ra thiệt hại không thể đo lường được cho Đảng chúng ta.
Chúng ta phải nghiêm túc xem xét và phân tích đúng đắn vấn đề này để loại bỏ mọi khả năng lặp lại, dù chỉ một phần, những gì đã xảy ra trong thời Stalin còn sống. Ông ta hoàn toàn không khoan dung với tính tập thể trong lãnh đạo, cho phép sử dụng bạo lực thô bạo đối với mọi thứ không chỉ mâu thuẫn với ông, mà còn bị ông coi là mâu thuẫn với nguyên tắc của mình, xuất phát từ tính tùy hứng và độc đoán.
Ông hành động không phải bằng cách thuyết phục, giải thích, làm việc kiên nhẫn với con người, mà bằng cách áp đặt quan điểm của mình, đòi hỏi sự phục tùng vô điều kiện trước ý kiến của ông. Những ai chống lại điều này hoặc cố gắng chứng minh quan điểm của mình, sự đúng đắn của mình, đều bị loại khỏi tập thể lãnh đạo, sau đó bị hủy hoại về tinh thần và thể xác. Điều này đặc biệt rõ rệt sau Đại hội XVII của Đảng, khi nhiều nhà hoạt động trung thực, tận tụy với sự nghiệp cộng sản, những nhà lãnh đạo xuất sắc và các đảng viên bình thường của Đảng trở thành nạn nhân của sự độc đoán của Stalin.
Cần nói rằng Đảng đã tiến hành một cuộc đấu tranh lớn chống lại những người theo chủ nghĩa Trotsky, phe hữu khuynh, những người dân tộc chủ nghĩa tư sản, và đã đánh bại về mặt tư tưởng tất cả kẻ thù của chủ nghĩa Lenin. Cuộc đấu tranh tư tưởng này đã được tiến hành thành công, qua đó Đảng càng trở nên mạnh mẽ và kiên cường hơn. Và ở đây, Stalin đã đóng một vai trò tích cực.
Đảng đã tiến hành một cuộc đấu tranh chính trị tư tưởng to lớn chống lại những người trong hàng ngũ của mình có lập trường chống Lenin, có đường lối chính trị thù địch với Đảng và sự nghiệp xã hội chủ nghĩa. Đó là một cuộc đấu tranh cam go, nặng nề nhưng cần thiết, bởi vì đường lối chính trị của khối Trotsky-Zinoviev và phe Bukharin thực chất đã dẫn đến việc phục hồi chủ nghĩa tư bản, đầu hàng trước giai cấp tư sản thế giới. Hãy tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu vào năm 1928-1929, đường lối chính trị của phe hữu khuynh thắng thế, với việc đặt cược vào “công nghiệp hóa vải sợi”, vào nông dân giàu có (kulak), v.v. Khi đó chúng ta sẽ không có một nền công nghiệp nặng hùng mạnh, không có các hợp tác xã nông nghiệp (kolkhoz), và chúng ta sẽ không có vũ khí và sẽ bất lực trước sự bao vây của chủ nghĩa tư bản.
Đó là lí do tại sao Đảng tiến hành một cuộc đấu tranh không khoan nhượng xuất phát từ lập trường tư tưởng, giải thích cho toàn thể đảng viên và quần chúng ngoài Đảng về tác hại và mối nguy hiểm của các luận điệu chống Lenin của phe đối lập Trotsky và các kẻ cơ hội chủ nghĩa hữu khuynh. Công việc to lớn này nhằm giải thích đường lối của Đảng đã mang lại kết quả: cả những người theo Trotsky và cơ hội chủ nghĩa hữu khuynh đều bị cô lập về mặt chính trị, đại đa số Đảng viên ủng hộ đường lối Lenin, và Đảng đã truyền cảm hứng và tổ chức được quần chúng lao động thực hiện đường lối của Lenin, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Điều đáng chú ý là ngay cả trong thời kỳ cao điểm của cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt chống lại những người theo Trotsky, Zinoviev, Bukharin và những người khác, các biện pháp đàn áp cực đoan không bị áp dụng với họ. Cuộc đấu tranh được tiến hành trên cơ sở tư tưởng. Nhưng vài năm sau, khi chủ nghĩa xã hội đã cơ bản được xây dựng ở nước ta, khi các giai cấp bóc lột đã cơ bản bị xóa bỏ, khi cơ cấu xã hội của xã hội Xô viết đã thay đổi triệt để, khi cơ sở xã hội cho các đảng phái, phong trào và nhóm thù địch đã giảm mạnh, khi các đối thủ tư tưởng của Đảng đã bị đánh bại về mặt chính trị từ lâu, thì các cuộc đàn áp lại bắt đầu chống lại họ.
Chính trong giai đoạn này (1935-1937-1938), một thực tiễn đàn áp hàng loạt theo đường lối nhà nước đã hình thành, trước tiên là chống lại những đối thủ của chủ nghĩa Lenin – những người theo Trotsky, Zinoviev, Bukharin, những người đã bị Đảng đánh bại về mặt chính trị từ lâu, và sau đó là chống lại nhiều đảng viên cộng sản trung thực, chống lại những cán bộ Đảng đã gánh vác cuộc nội chiến, chịu đựng những năm đầu khó khăn nhất của công nghiệp hóa và tập thể hóa, những người đã tích cực đấu tranh chống lại phe Trotsky và phe hữu khuynh, bảo vệ đường lối Lenin của Đảng.
Stalin đã đưa ra khái niệm “kẻ thù của nhân dân”. Thuật ngữ này ngay lập tức loại bỏ nhu cầu phải chứng minh sự sai lầm về tư tưởng của một cá nhân hay nhóm người mà bạn đang tranh luận: nó cho phép bất kỳ ai bất đồng điều gì đó với Stalin, bất kỳ ai chỉ bị nghi ngờ có ý định thù địch, bất kỳ ai chỉ bị vu khống, phải chịu những cuộc đàn áp khắc nghiệt nhất, vi phạm mọi chuẩn mực của tính hợp pháp cách mạng. Khái niệm “kẻ thù của nhân dân” thực chất đã loại bỏ khả năng tiến hành bất kỳ cuộc đấu tranh tư tưởng nào hoặc bày tỏ ý kiến về bất kỳ vấn đề nào, kể cả những vấn đề có ý nghĩa thực tiễn. Bằng chứng chính và thực chất là duy nhất về tội trạng, trái với mọi chuẩn mực của khoa học pháp lý hiện đại, là “lời thú tội” của chính người bị buộc tội, và như các cuộc kiểm tra sau này cho thấy, “lời thú tội” này thường được thu thập thông qua các biện pháp tác động vật lý lên người bị buộc tội.
Điều này dẫn đến những vi phạm trắng trợn tính hợp pháp cách mạng, khiến nhiều người hoàn toàn vô tội, những người trong quá khứ đã ủng hộ đường lối của Đảng, phải chịu đau khổ.
Cần nói rằng ngay cả đối với những người từng chống lại đường lối của Đảng, thường không có đủ căn cứ nghiêm túc để hủy diệt họ về mặt thể xác. Công thức “kẻ thù của nhân dân” được đưa ra để biện minh cho việc hủy diệt về mặt thể xác những con người này.
Nhiều người mà sau này bị tiêu diệt với danh nghĩa kẻ thù của Đảng và nhân dân, đã từng làm việc cùng Lenin khi ông còn sống. Một số người trong số họ đã phạm sai lầm khi Lenin còn sống, nhưng bất chấp điều đó, Lenin vẫn để họ làm việc, chỉnh đốn họ, cố gắng giữ họ trong khuôn khổ của Đảng, dẫn dắt họ theo mình.
Liên quan đến vấn đề này, cần giới thiệu với các đại biểu đại hội một ghi chú chưa được công bố của V.I. Lenin gửi Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương vào tháng 10 năm 1920. Khi xác định nhiệm vụ của Ủy ban Kiểm tra, Lenin viết rằng Ủy ban này nhất thiết thật sự trở thành “cơ quan của lương tâm Đảng và giai cấp vô sản.”
“Như một nhiệm vụ đặc biệt của Ủy ban Kiểm tra, cần khuyến nghị một thái độ cá nhân hóa cẩn thận, thậm chí đôi khi là một hình thức điều trị đối với các đại diện của cái gọi là phe đối lập, những người đang trải qua khủng hoảng tâm lý liên quan đến những thất bại trong sự nghiệp Đảng hoặc Xô viết của họ. Cần cố gắng trấn an họ, giải thích vấn đề một cách thân tình, tìm cho họ (mà không có vẻ như đang chỉ định) công việc phù hợp với đặc điểm tâm lý của họ, đưa ra lời khuyên và hướng dẫn cho Ban Tổ chức Trung ương, v.v.”
Mọi người đều biết Lenin không khoan nhượng như thế nào với các đối thủ tư tưởng của chủ nghĩa Marx, những người đi chệch khỏi đường lối đúng đắn của Đảng. Đồng thời, như có thể thấy từ tài liệu vừa đọc và từ toàn bộ thực tiễn lãnh đạo Đảng của ông, Lenin yêu cầu một cách tiếp cận Đảng cẩn thận nhất đối với những người dao động, có những sai lệch khỏi đường lối Đảng, nhưng có thể được đưa trở lại con đường của Đảng. Lenin khuyên nên kiên nhẫn giáo dục những người này, không sử dụng các biện pháp cực đoan.
Điều này chứng tỏ sự khôn ngoan của Lenin trong cách tiếp cận con người, trong công tác cán bộ.
Cách tiếp cận của Stalin hoàn toàn khác. Stalin hoàn toàn xa lạ với những phẩm chất của Lenin – làm việc kiên nhẫn với con người, giáo dục họ một cách bền bỉ và tỉ mỉ, biết cách dẫn dắt con người không bằng cưỡng chế mà bằng cách tác động đến họ từ lập trường tư tưởng của tập thể. Ông vứt bỏ phương pháp thuyết phục và giáo dục của Lenin, chuyển từ lập trường đấu tranh tư tưởng sang con đường đàn áp hành chính, đàn áp quần chúng, khủng bố. Ông hành động ngày càng mở rộng hơn và quyết liệt hơn thông qua các cơ quan trừng phạt, thường vi phạm mọi chuẩn mực đạo đức hiện hành và luật pháp Xô viết.
Sự độc đoán của một cá nhân khuyến khích và dung túng sự độc đoán của những người khác. Các vụ bắt giữ hàng loạt và trục xuất hàng ngàn người, các vụ hành quyết không qua xét xử và điều tra thông thường đã gây ra sự bất an trong dân chúng, tạo ra nỗi sợ hãi và thậm chí là sự phẫn nộ.
Điều này, tất nhiên, không góp phần củng cố hàng ngũ của Đảng, của mọi tầng lớp nhân dân lao động, mà ngược lại, dẫn đến việc tiêu diệt, loại bỏ khỏi Đảng những đảng viên trung thực nhưng không được lòng Stalin.
Đảng ta đã đấu tranh để thực hiện các kế hoạch của Lenin trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là một cuộc đấu tranh tư tưởng. Trong cuộc đấu tranh này, nếu áp dụng cách tiếp cận của Lenin – kết hợp khéo léo giữa sự kiên định về nguyên tắc của Đảng với thái độ nhạy cảm và cẩn trọng đối với con người, mong muốn không đẩy họ ra xa, không làm mất họ, mà kéo họ về phía mình – thì có lẽ chúng ta đã không có những vi phạm thô bạo tính hợp pháp cách mạng, không áp dụng các phương pháp khủng bố đối với hàng ngàn người. Các biện pháp đặc biệt chỉ nên áp dụng đối với những người thực sự phạm tội chống lại chế độ Xô viết.
Hãy xem xét một số sự kiện lịch sử.
Trong những ngày trước Cách mạng Tháng Mười, hai thành viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Bolshevik – Kamenev và Zinoviev – đã lên tiếng phản đối kế hoạch khởi nghĩa vũ trang của Lenin. Hơn nữa, vào ngày 18 tháng 10, trên tờ báo “Novaia Zhizn” (Đời sống mới) của đảng Menshevik, họ đăng tuyên bố về việc chuẩn bị khởi nghĩa của những người Bolshevik và cho rằng cuộc khởi nghĩa này là một mạo hiểm. Kamenev và Zinoviev qua đó đã tiết lộ cho kẻ thù biết quyết định của Ủy ban Trung ương về cuộc khởi nghĩa và tổ chức cuộc khởi nghĩa trong thời gian sắp tới.
Đây là sự phản bội đối với sự nghiệp của Đảng, sự nghiệp cách mạng. V.I. Lenin đã viết về việc này: “Kamenev và Zinoviev đã tiết lộ cho Rodzyanko và Kerensky quyết định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về cuộc khởi nghĩa vũ trang…” Ông đã đặt ra trước Ban Chấp hành Trung ương vấn đề khai trừ Zinoviev và Kamenev khỏi Đảng.
Nhưng sau khi Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại thành công, như đã biết, Zinoviev và Kamenev được giao những cương vị lãnh đạo. Lenin đã lôi kéo họ vào thực hiện những nhiệm vụ quan trọng nhất của Đảng, vào hoạt động tích cực trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Xô viết. Ai cũng biết rằng Zinoviev và Kamenev đã phạm nhiều sai lầm lớn khác khi Lenin còn sống. Trong “di chúc” của mình, Lenin cảnh báo rằng “biến cố tháng Mười của Zinoviev và Kamenev, tất nhiên, không phải là một sự ngẫu nhiên.” Nhưng Lenin không đặt vấn đề bắt giữ họ, và càng không nói đến việc xử bắn họ.
Hoặc lấy ví dụ về những người theo Trotsky. Bây giờ, khi một khoảng thời gian lịch sử đủ dài đã trôi qua, chúng ta có thể nói về cuộc đấu tranh với những người theo Trotsky một cách bình tĩnh và phân tích vấn đề này khá khách quan. Không phải tất cả những ai bên Trotsky đều xuất thân từ giai cấp tư sản. Một số trong họ là trí thức của Đảng, một số khác xuất thân từ giai cấp công nhân. Có thể kể ra một loạt người, trong một thời gian nào đó, từng đi theo Trotsky, nhưng họ cũng đã tích cực tham gia phong trào công nhân trước cách mạng, trong suốt Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa Tháng Mười, và trong quá trình củng cố những thành quả của cuộc cách mạng vĩ đại này. Nhiều người trong số họ đã từ bỏ chủ nghĩa Trotsky và chuyển sang đứng trên lập trường của Lenin. Liệu có cần thiết phải tiêu diệt những người này không? Chúng ta tin chắc rằng nếu Lenin còn sống, ông sẽ không áp dụng những biện pháp cực đoan như vậy đối với nhiều người trong số họ.
Đây chỉ là một số sự thật lịch sử. Nhưng liệu có thể nói rằng Lenin không dám áp dụng những biện pháp nghiêm khắc nhất đối với kẻ thù của cách mạng khi điều đó thực sự cần thiết không? Không, không ai có thể nói như vậy. Vladimir Ilyich yêu cầu trả thù tàn bạo đối với kẻ thù của cách mạng và giai cấp công nhân và khi cần thiết, ông đã sử dụng những biện pháp này một cách hết sức tàn nhẫn.
Hãy nhớ lại cuộc đấu tranh của V.I. Lenin chống lại những người tổ chức các cuộc nổi dậy chống Xô viết của phe xã hội chủ nghĩa không tưởng, chống lại tầng lớp kulak phản cách mạng vào năm 1918 và những kẻ khác, khi đó Lenin không chút do dự áp dụng những biện pháp quyết liệt nhất đối với kẻ thù. Nhưng Lenin chỉ sử dụng những biện pháp này đối với những kẻ thù giai cấp thực sự, chứ không phải đối với những người mắc sai lầm, những người lầm lạc, những người ấy có thể được dẫn dắt tư tưởng trở lại và thậm chí được giữ lại làm lãnh đạo.
Lenin chỉ áp dụng các biện pháp cứng rắn trong những trường hợp cần thiết nhất, khi các giai cấp bóc lột còn tồn tại, điên cuồng chống phá cách mạng, khi cuộc đấu tranh theo nguyên tắc “ai thắng ai” tất dẫn đến những hình thức gay gắt nhất, thậm chí là nội chiến. Còn Stalin lại áp dụng các biện pháp cực đoan nhất, đàn áp hàng loạt, khi mà cách mạng đã thắng lợi, khi mà nhà nước Xô viết đã được củng cố, khi mà các giai cấp bóc lột đã bị xóa bỏ và các quan hệ xã hội chủ nghĩa đã được thiết lập trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, khi mà Đảng ta đã mạnh mẽ về mặt chính trị và được tôi luyện cả về số lượng lẫn tư tưởng. Rõ ràng, ở đây Stalin đã thể hiện, trong nhiều trường hợp, sự thiếu khoan dung, thô bạo, và lạm dụng quyền lực. Thay vì chứng minh sự đúng đắn về chính trị và huy động quần chúng, ông thường đi theo con đường đàn áp và tiêu diệt không chỉ những kẻ thù thực sự, mà cả những người không phạm tội gì chống Đảng và chính quyền Xô viết. Không có bất kỳ sự khôn ngoan nào ở đây, ngoại trừ biểu hiện sức mạnh thô bạo, điều mà khiến V.I. Lenin từng rất lo lắng.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong thời gian gần đây, đặc biệt sau khi lật tẩy băng nhóm Beria, đã xem xét một loạt vụ án do băng nhóm này dựng lên. Cùng với việc đó, một bức tranh rất không đẹp đẽ về sự độc đoán thô bạo liên quan đến những hành động sai trái của Stalin đã lộ ra. Sự thật đã cho thấy, Stalin, lợi dụng quyền lực vô hạn của mình, đã nhiều lần lạm quyền, hành động nhân danh Ban Chấp hành Trung ương mà không tham khảo ý kiến các thành viên Ban Chấp hành Trung ương, thậm chí cả các ủy viên Bộ Chính trị, thường xuyên không thông báo cho họ về những quyết định mà ông tự đưa ra liên quan đến các vấn đề rất quan trọng của Đảng và nhà nước.
Khi xem xét vấn đề sùng bái cá nhân, trước tiên cần làm rõ thiệt hại mà nó đã gây ra cho lợi ích của Đảng ta.
Vladimir Ilyich Lenin luôn nhấn mạnh vai trò và ý nghĩa của Đảng trong việc lãnh đạo nhà nước xã hội chủ nghĩa của công nhân và nông dân, coi đó là điều kiện chính để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chỉ rõ trách nhiệm to lớn của Đảng Bolshevik với tư cách là đảng cầm quyền của nhà nước Xô viết, Lenin kêu gọi tuân thủ nghiêm ngặt mọi chuẩn mực của đời sống Đảng, thực hiện các nguyên tắc lãnh đạo tập thể của Đảng và đất nước.
Tính tập thể của ban lãnh đạo bắt nguồn từ bản chất của Đảng ta, được xây dựng trên các nguyên tắc tập trung dân chủ. Lenin nói: “Điều này có nghĩa là mọi công việc của Đảng được tiến hành, trực tiếp hoặc thông qua các đại diện, bởi tất cả các đảng viên, trên cơ sở bình đẳng và không có bất kỳ ngoại lệ nào; hơn nữa, mọi chức vụ, mọi cơ quan lãnh đạo, mọi tổ chức của Đảng đều là do bầu cử, chịu trách nhiệm và có thể thay thế.”
Ai cũng biết rằng chính Lenin đã làm gương trong việc tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc này. Không có vấn đề quan trọng nào mà Lenin tự mình quyết định mà không tham khảo ý kiến và nhận được sự đồng ý của đa số thành viên Ban Chấp hành Trung ương hoặc các ủy viên Bộ Chính trị.
Trong những giai đoạn khó khăn nhất đối với Đảng và đất nước, Lenin coi việc tổ chức thường xuyên các đại hội, hội nghị Đảng, các phiên họp toàn thể của Ban Chấp hành Trung ương là cần thiết, tại đó tất cả các vấn đề quan trọng được thảo luận và các quyết định được tập thể lãnh đạo xây dựng kỹ lưỡng được thông qua.
Hãy nhớ lại, chẳng hạn, năm 1918, khi đất nước đối mặt với mối đe dọa từ cuộc xâm lược của các thế lực đế quốc. Trong hoàn cảnh đó, Đại hội Đảng lần VII được triệu tập để thảo luận về vấn đề cấp bách và sống còn – vấn đề hòa bình. Năm 1919, trong lúc cao điểm của nội chiến, Đại hội Đảng lần VIII được triệu tập, tại đó thông qua chương trình mới của Đảng, giải quyết các vấn đề quan trọng như thái độ đối với khối nông dân cơ bản, xây dựng Hồng quân, vai trò lãnh đạo của Đảng trong công việc của các Xô viết, cải thiện thành phần xã hội của Đảng, và các vấn đề khác. Năm 1920, Đại hội Đảng lần IX được triệu tập, xác định nhiệm vụ của Đảng và đất nước trong lĩnh vực xây dựng kinh tế. Năm 1921, tại Đại hội Đảng lần X, chính sách kinh tế mới do Lenin xây dựng và quyết định lịch sử “Về sự đoàn kết của Đảng” được thông qua.
Khi Lenin còn sống, các đại hội Đảng được tổ chức thường xuyên, ở mỗi bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của Đảng và đất nước, Lenin trước tiên coi việc thảo luận rộng rãi trong Đảng về các vấn đề cốt lõi của chính sách đối nội và đối ngoại, xây dựng Đảng và nhà nước là cần thiết.
Điều rất đáng chú ý là những bài viết, thư từ và ghi chú cuối cùng của mình được Lenin gửi đích danh đến đại hội Đảng, với tư cách là cơ quan cao nhất của Đảng. Từ đại hội này đến đại hội khác, Ban Chấp hành Trung ương Đảng hoạt động như một tập thể lãnh đạo có uy tín cao, nghiêm túc tuân thủ các nguyên tắc của Đảng và thực hiện chính sách của Đảng.
Đó là khi Lenin còn sống.
Liệu những nguyên tắc thiêng liêng của Đảng ta theo tinh thần Lenin có được tuân thủ sau khi Vladimir Ilyich qua đời không?
Nếu như trong những năm đầu sau khi Lenin qua đời, các đại hội Đảng và các phiên họp toàn thể của Ban Chấp hành Trung ương được tổ chức tương đối đều đặn, thì sau đó, khi Stalin ngày càng lạm dụng quyền lực, những nguyên tắc này bắt đầu bị vi phạm nghiêm trọng. Điều này đặc biệt rõ rệt trong một thập kỷ rưỡi cuối đời của ông. Liệu có thể coi là bình thường khi giữa Đại hội Đảng lần XVIII và lần XIX đã trôi qua hơn mười ba năm, trong khi Đảng và đất nước trải qua biết bao sự kiện? Những sự kiện này đòi hỏi Đảng phải đưa ra các quyết định về các vấn đề quốc phòng thủ đất nước trong điều kiện của Chiến tranh Vệ quốc và các vấn đề xây dựng hòa bình trong những năm hậu chiến. Ngay cả sau khi chiến tranh kết thúc, hơn bảy năm đại hội Đảng vẫn không được triệu tập họp.
Các phiên họp toàn thể của Ban Chấp hành Trung ương hầu như không được tổ chức. Chỉ cần nói rằng trong suốt những năm Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, thực tế không có một phiên họp toàn thể nào của Ban Chấp hành Trung ương. Đúng là đã có một nỗ lực triệu tập phiên họp toàn thể vào tháng 10 năm 1941, các thành viên Ban Chấp hành Trung ương từ khắp cả nước được đặc biệt gọi đến Moskva. Họ đợi trong hai ngày nhưng phiên họp khai mạc đã không diễn ra. Stalin thậm chí không muốn gặp gỡ và nói chuyện với các thành viên Ban Chấp hành Trung ương. Sự kiện này cho thấy Stalin suy giảm như thế nào trong những tháng đầu của chiến tranh và ông đã đối xử với các thành viên Ban Chấp hành Trung ương một cách kiêu ngạo và khinh miệt ra sao.
Thực tế này phản ảnh sự coi thường của Stalin đối với các chuẩn mực của đời sống Đảng, sự chà đạp lên nguyên tắc lãnh đạo tập thể của Lenin trong lãnh đạo Đảng.
Sự độc đoán của Stalin đối với Đảng, đối với Ban Chấp hành Trung ương của Đảng trở nên đặc biệt rõ rệt sau Đại hội Đảng XVII diễn ra vào năm 1934.
Ban Chấp hành Trung ương, với nhiều bằng chứng về sự độc đoán thô bạo đối với các cán bộ Đảng, đã thành lập một ủy ban Đảng thuộc Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương, được giao nhiệm vụ điều tra kỹ lưỡng nguyên nhân đàn áp hàng loạt đối với đa số thành viên và ứng viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, những người được bầu tại Đại hội XVII của Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik)
Ủy ban đã xem xét một lượng lớn tài liệu trong kho lưu trữ của Bộ Dân ủy Nội vụ (НКВД, sau này gọi là Bộ Nội vụ – Văn Việt chú thích) cùng với các tài liệu khác và đã xác định được nhiều sự thật về những vụ án bịa đặt nhằm vào các đảng viên cộng sản, những cáo buộc sai sự thật, vi phạm nghiêm trọng luật pháp xã hội chủ nghĩa, dẫn đến cái chết của những người vô tội. Người ta phát hiện ra rằng nhiều cán bộ đảng, cán bộ Xô viết, cán bộ kinh tế bị tuyên bố là "kẻ thù" trong các năm 1937-1938 thực chất chưa bao giờ là kẻ thù, gián điệp, kẻ phá hoại v.v. Họ, về bản chất, luôn là những người cộng sản trung thực, nhưng bị vu khống, và đôi khi, không chịu nổi sự tra tấn dã man, tự buộc tội mình (theo sự chỉ đạo của các điều tra viên ngụy tạo) với những cáo buộc nghiêm trọng và khó thể tin nổi. Ủy ban đã trình lên Ban Chấp hành Trung ương một lượng lớn tài liệu về các vụ đàn áp hàng loạt đối với các đại biểu Đại hội Đảng lần thứ XVII và các thành viên Ban Chấp hành Trung ương được đại hội này bầu ra. Những tài liệu ấy đã được Ban Chấp hành Trung ương xem xét.
Đã xác định rằng trong số 139 thành viên và ứng viên vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội Đảng lần XVII, có 98 người, tức là 70%, bị bắt và bị bắn (chủ yếu trong các năm 1937-1938). (Tiếng xôn xao phẫn nộ trong hội trường.)
Thành phần đại biểu của Đại hội XVII là những ai? Được biết, 80% đại biểu có quyền biểu quyết tại Đại hội XVII đã gia nhập Đảng từ những năm hoạt động bí mật cách mạng và Nội chiến, tức là trước năm 1920. Về thành phần xã hội, phần lớn đại biểu của đại hội là công nhân (60% đại biểu có quyền biểu quyết).
Người ta đã xác định rằng trong số 139 thành viên và ứng cử viên vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội Đảng lần XVII, có 98 người, tức 70 phần trăm, đã bị bắt và xử bắn (chủ yếu vào năm 1937-1938). (Tiếng xôn xao phẫn nộ trong hội trường.)
Thành phần đại biểu tham dự Đại hội lần thứ 17 gồm những ai? Người ta biết rằng 80 phần trăm số người tham gia Đại hội XVII có quyền bỏ phiếu đã gia nhập đảng trong những năm cách mạng bí mật và nội chiến, tức là cho đến hết năm 1920. Về mặt địa vị xã hội, phần lớn đại biểu đại hội là công nhân (60 phần trăm đại biểu có quyền bỏ phiếu).
Do đó, hoàn toàn không thể tưởng tượng được rằng một đại hội với thành phần như vậy lại bầu ra một Ban Chấp hành Trung ương mà phần lớn là kẻ thù của Đảng. Chỉ vì những người cộng sản trung thực bị vu khống, các cáo buộc đối với họ bị ngụy tạo, vì những vi phạm khủng khiếp về luật pháp cách mạng đã xảy ra, 70% thành viên và ứng viên Ban Chấp hành Trung ương được bầu tại Đại hội XVII bị tuyên bố là kẻ thù của Đảng và nhân dân.
Số phận này không chỉ xảy ra với các thành viên Ban Chấp hành Trung ương mà còn với phần lớn các đại biểu của Đại hội Đảng XVII. Trong số 1.966 đại biểu của đại hội có quyền biểu quyết quyết định và biểu quyết tư vấn, hơn một nửa – 1.108 người – bị bắt vì cáo buộc phản cách mạng. Chỉ riêng sự thật này đã cho thấy các cáo buộc về tội phản cách mạng đối với phần lớn đại biểu Đại hội XVII là ngớ ngẩn, điên rồ và mâu thuẫn với lẽ thường. (Tiếng xôn xao phẫn nộ trong hội trường.)
Cần nhắc lại rằng Đại hội Đảng lần XVII đã đi vào lịch sử như là đại hội của những người chiến thắng. Các đại biểu của đại hội là những người tích cực tham gia xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta, nhiều người trong số họ đã đấu tranh không mệt mỏi vì sự nghiệp của Đảng từ những năm trước cách mạng, hoạt động bí mật và trên các mặt trận thời Nội chiến, họ đã chiến đấu dũng cảm với kẻ thù, không ít lần đối mặt với cái chết mà không hề nao núng. Làm sao có thể tin rằng những con người như vậy, trong giai đoạn sau khi đã đánh bại về mặt chính trị những người theo Zinoviev, Trotsky và phe cánh hữu, sau những thắng lợi lớn lao của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, lại trở thành "kẻ hai mang" và chuyển sang phe kẻ thù của chủ nghĩa xã hội?
Điều này xảy ra do Stalin lạm dụng quyền lực, bắt đầu sử dụng biện pháp khủng bố hàng loạt đối với các cán bộ của Đảng.
Tại sao các cuộc đàn áp hàng loạt đối với các nhà hoạt động lại ngày càng gia tăng sau Đại hội Đảng lần XVII? Bởi vì vào thời điểm đó, Stalin đã tự đặt mình cao hơn Đảng và nhân dân đến mức ông ta hoàn toàn không còn coi trọng Ban Chấp hành Trung ương hay Đảng. Nếu trước Đại hội XVII, ông ta còn thừa nhận ý kiến của tập thể, thì sau thất bại chính trị hoàn toàn của các phe Trotsky, Zinoviev, Bukharin, và khi Đảng và nhân dân đã đoàn kết nhờ những thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, Stalin ngày càng ít coi trọng các thành viên Ban Chấp hành Trung ương và thậm chí cả các ủy viên Bộ Chính trị. Stalin cho rằng mình giờ đây có thể tự quyết định mọi việc, còn những người khác chỉ là những kẻ phụ họa, chỉ cần nghe và ca tụng ông ta.
Sau vụ ám sát tàn độc S.M. Kirov, các cuộc đàn áp hàng loạt và những vi phạm nghiêm trọng luật pháp xã hội chủ nghĩa đã bắt đầu. Tối ngày 1 tháng 12 năm 1934, theo sáng kiến của Stalin (mà không có quyết định của Bộ Chính trị – điều này chỉ được hợp thức hóa bằng một cuộc bỏ phiếu hai ngày sau đó), thư ký Ban Chấp hành Trung ương Enukidze đã ký một Nghị định với nội dung sau:
"1) Các cơ quan điều tra - tiến hành các vụ án liên quan đến những người bị cáo buộc chuẩn bị hoặc thực hiện các hành động khủng bố theo quy trình rút gọn; 2) Các cơ quan tư pháp - không trì hoãn việc thi hành các bản án tử hình vì các đơn xin ân xá của những tội phạm thuộc loại này, vì Ban Chấp hành Trung ương Liên Xô không xem xét việc chấp nhận các đơn xin ân xá như vậy; 3) Các cơ quan của Bộ Nội vụ - thi hành ngay lập tức bản án tử hình đối với các tội phạm thuộc các loại nêu trên ngay sau khi bản án được tuyên."
Nghị định này là cơ sở cho các vi phạm hàng loạt luật pháp xã hội chủ nghĩa. Trong nhiều vụ án điều tra bịa đặt, các bị cáo bị quy kết "chuẩn bị" các hành động khủng bố, điều này tước đi mọi cơ hội xác minh vụ án của họ ngay cả khi họ từ chối các "lời thú tội" bị ép buộc tại tòa và phản bác một cách thuyết phục các cáo buộc được đưa ra.
Cần lưu ý rằng các tình tiết liên quan đến vụ ám sát đồng chí Kirov đến giờ vẫn còn nhiều điều khó hiểu và bí ẩn, đòi hỏi phải được điều tra kỹ lưỡng nhất. Có cơ sở để cho rằng kẻ ám sát Kirov – Nikolaev – đã được ai đó trong số những người có nhiệm vụ bảo vệ Kirov giúp đỡ. Một tháng rưỡi trước vụ ám sát, Nikolaev đã bị bắt vì hành vi đáng ngờ, nhưng được thả và thậm chí không bị lục soát. Đặc biệt đáng ngờ là việc một nhân viên an ninh (Chekist) được giao bảo vệ Kirov, khi được đưa đi thẩm vấn vào ngày 2 tháng 12 năm 1934, đã bị giết trong một "tai nạn" ô tô, trong khi không ai trong số những người đi cùng bị thương. Sau vụ ám sát Kirov, các lãnh đạo của Bộ Dân ủy Nội vụ Leningrad đã bị cách chức và bị trừng phạt rất nhẹ, nhưng đến năm 1937, họ bị bắn. Có thể nghĩ rằng họ bị bắn để xóa dấu vết của những kẻ tổ chức vụ ám sát Kirov. (Tiếng xôn xao trong hội trường.)
Các cuộc đàn áp hàng loạt tăng mạnh từ cuối năm 1936 sau bức điện của Stalin và Zhdanov từ Sochi ngày 25 tháng 9 năm 1936 gửi đến Kaganovich, Molotov và các thành viên khác của Bộ Chính trị, trong đó nêu rõ: "Chúng tôi cho rằng việc bổ nhiệm đồng chí Yezhov làm Bộ trưởng Bộ Dân ủy Nội vụ là hoàn toàn cần thiết và cấp bách. Yagoda rõ ràng không đủ năng lực trong việc vạch trần khối Trotsky-Zinoviev. Tổng cục Chính trị Nhà nước (OGPU) đã chậm trễ trong việc này tới 4 năm. Tất cả các cán bộ đảng và phần lớn đại diện các khu vực của Bộ Dân ủy Nội vụ đều nói về điều này." Cần lưu ý rằng Stalin không gặp gỡ các cán bộ đảng và do đó không thể biết ý kiến của họ.
Chỉ thị của Stalin rằng "Bộ Dân ủy Nội vụ đã chậm trễ 4 năm" trong việc áp dụng các cuộc đàn áp hàng loạt, rằng cần nhanh chóng "bù đắp" thời gian đã mất, đã trực tiếp đẩy các nhân viên Bộ Dân ủy Nội vụ vào việc bắt giữ và xử bắn hàng loạt.
Cần lưu ý rằng chỉ thị này cũng được áp đặt lên Hội nghị Toàn thể Trung ương tháng Hai-tháng Ba năm 1937. Trong nghị quyết của Hội nghị về báo cáo của Yezhov “Bài học từ những hành động phá hoại, gián điệp và khủng bố của các đặc vụ Nhật-Đức-Trotsky," có nêu: "Hội nghị Toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) cho rằng tất cả các sự kiện được phát hiện trong quá trình điều tra các vụ án liên quan đến trung tâm Trotsky phản Xô viết và các đồng minh của họ tại các địa phương cho thấy Bộ Dân ủy Nội vụ đã chậm trễ ít nhất 4 năm trong việc vạch trần những kẻ thù nguy hiểm nhất này của nhân dân."
Các cuộc đàn áp hàng loạt lúc đó được tiến hành dưới danh nghĩa chống lại những người theo Trotsky. Liệu những người theo Trotsky vào thời điểm đó có thực sự gây nguy hiểm cho Đảng ta và nhà nước Xô viết? Cần nhắc lại rằng vào năm 1927, trước thềm Đại hội Đảng lần XV, chỉ có 4.000 người bỏ phiếu ủng hộ phe đối lập Trotsky-Zinoviev, trong khi có 724.000 người ủng hộ đường lối của Đảng. Trong 10 năm từ Đại hội XV đến Hội nghị Toàn thể Trung ương tháng Hai-tháng Ba, chủ nghĩa Trotsky đã bị đánh bại hoàn toàn, nhiều người trước đó theo Trotsky đã từ bỏ quan điểm cũ và làm việc tại các lĩnh vực khác nhau của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Rõ ràng, không có cơ sở nào cho việc áp dụng khủng bố hàng loạt trong đất nước trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội đã chiến thắng.
Trong báo cáo của Stalin tại Hội nghị Toàn thể Trung ương tháng Hai-tháng Ba năm 1937 “Về những thiếu sót trong công tác Đảng và các biện pháp triệt tiêu những kẻ hai mang theo Trotsky và các loại khác,” đã có một nỗ lực lý thuyết hóa chính sách đàn áp hàng loạt với lý do rằng khi chúng ta càng tiến gần đến chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giai cấp dường như càng trở nên gay gắt hơn. Stalin khẳng định rằng lịch sử dạy như vậy, Lenin dạy như vậy.
Nhưng thực tế, Lenin chỉ ra rằng việc áp dụng bạo lực cách mạng là cần thiết để đàn áp sự kháng cự của các giai cấp bóc lột, và những chỉ thị này của Lenin liên quan đến giai đoạn khi các giai cấp bóc lột còn tồn tại và mạnh mẽ. Ngay khi tình hình chính trị trong nước được cải thiện, ngay khi vào tháng 1 năm 1920, Hồng quân chiếm được Rostov và giành được chiến thắng lớn trước Denikin, Lenin đã chỉ thị cho Dzerzhinsky bãi bỏ khủng bố hàng loạt và bãi bỏ án tử hình. Lenin đã biện minh cho biện pháp chính trị quan trọng này của chính quyền Xô viết trong báo cáo của mình tại phiên họp của Ủy ban Chấp hành Trung ương Toàn Nga ngày 2 tháng 2 năm 1920 như sau:
“Khủng bố đã bị áp đặt lên chúng ta bởi chủ nghĩa khủng bố của phe Hiệp ước, khi các cường quốc hùng mạnh trên thế giới tấn công chúng ta bằng các đạo quân hùng hậu, không dừng lại trước bất kỳ điều gì. Chúng ta không thể cầm cự nổi hai ngày nếu không đáp trả các hành động của các sĩ quan và bạch vệ một cách không khoan nhượng, và điều này có nghĩa là khủng bố, nhưng điều này đã bị áp đặt lên chúng ta bởi các phương pháp khủng bố của phe Hiệp ước. Và ngay khi chúng ta giành được chiến thắng quyết định, thậm chí trước khi chiến tranh kết thúc, ngay sau khi chiếm được Rostov, chúng ta đã bãi bỏ việc áp dụng án tử hình và qua đó cho thấy rằng chúng ta ứng xử với chương trình của mình đúng như những gì đã hứa. Chúng ta nói rằng việc sử dụng bạo lực được thúc đẩy bởi nhiệm vụ đàn áp những kẻ bóc lột, đàn áp địa chủ và tư bản; khi nhiệm vụ này được hoàn thành, chúng ta từ bỏ mọi biện pháp đặc biệt. Chúng ta đã chứng minh điều này bằng thực tế” (Tuyển tập, tập 30, trang 303-304).
Stalin đã đi ngược lại những chỉ dẫn rõ ràng và trực tiếp này của Lenin. Sau khi mọi các giai cấp bóc lột ở nước ta đã bị xóa bỏ và không còn bất kỳ cơ sở nào đáng kể cho việc áp dụng các biện pháp đặc biệt, cho khủng bố hàng loạt, Stalin đã định hướng Đảng, định hướng các cơ quan Bộ Dân ủy Nội vụ theo hướng khủng bố hàng loạt.
Khủng bố này thực chất không nhắm vào những tàn dư của giai cấp bóc lột đã bị đánh bại, mà nhắm vào các cán bộ trung thực của Đảng và nhà nước Xô viết, những người bị cáo buộc một cách sai trái, vu khống, vô căn cứ là có “hành vi hai mang,” “gián điệp,” “phá hoại,” hay chuẩn bị những “âm mưu ám sát” bịa đặt v.v.
Tại Hội nghị Toàn thể Trung ương tháng Hai-tháng Ba (1937), trong phát biểu của một số thành viên Ban Chấp hành Trung ương, về cơ bản đã bày tỏ nghi ngờ về tính đúng đắn của đường lối đàn áp hàng loạt dưới danh nghĩa chống lại “những kẻ hai mang.”
Những nghi ngờ này được thể hiện rõ nhất trong bài phát biểu của đồng chí Postyshev. Ông nói: “Tôi suy ngẫm: chúng ta đã trải qua những năm tháng đấu tranh quyết liệt như vậy, những đảng viên hư hỏng đã gục ngã hoặc chuyển sang phe địch, còn những người cứng cỏi đã chiến đấu vì sự nghiệp của Đảng. Đó là những năm công nghiệp hóa, tập thể hóa. Tôi không bao giờ nghĩ rằng, sau khi trải qua giai đoạn khó khăn này, Karpov và những người như ông lại về với phe địch. (Karpov là một cán bộ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Ukraine, người mà Postyshev biết rõ). Nhưng theo các lời khai, dường như Karpov được cho là đã bị phe Trotsky tuyển mộ từ năm 1934. Cá nhân tôi cho rằng vào năm 1934, một đảng viên cứng cỏi, người đã trải qua chặng đường đấu tranh cam go với kẻ thù vì sự nghiệp của Đảng, vì chủ nghĩa xã hội, lại rơi vào hàng ngũ kẻ thù là điều không thể tin được. Tôi không tin điều đó… Tôi không thể tưởng tượng nổi làm thế nào một người có thể trải qua những năm tháng khó khăn cùng với Đảng và sau đó đến năm 1934 lại đi theo Trotsky. Điều đó thật kỳ lạ…” (Tiếng xôn xao trong hội trường.)
Sử dụng chỉ thị của Stalin cho rằng càng gần đến chủ nghĩa xã hội, càng có nhiều kẻ thù hơn, sử dụng nghị quyết của Hội nghị Toàn thể Trung ương tháng Hai-tháng Ba theo báo cáo của Yezhov, những kẻ khiêu khích len lỏi vào các cơ quan an ninh nhà nước, cùng với những kẻ cơ hội vô lương tâm, núp dưới danh nghĩa của Đảng để thực hiện khủng bố hàng loạt các cán bộ của Đảng và nhà nước Xô viết, cũng như đối các công dân Xô viết bình thường. Chỉ cần nói rằng con số bị bắt vì cáo buộc phản cách mạng trong năm 1937 đã tăng gấp hơn mười lần so với năm 1936!
Rõ ràng là sự tùy tiện trắng trợn nào cũng được áp dụng đối với các cán bộ lãnh đạo của Đảng. Điều lệ Đảng, được thông qua tại Đại hội XVII, dựa trên các chỉ dẫn của Lenin từ thời Đại hội X, quy định rằng điều kiện để áp dụng biện pháp cực đoan như khai trừ khỏi Đảng đối với các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, ứng viên Ban Chấp hành Trung ương, và các thành viên Ủy ban Kiểm tra Đảng “phải là triệu tập một Hội nghị Toàn thể Trung ương với sự tham gia của tất cả các ứng viên Ban Chấp hành Trung ương và tất cả các thành viên Ủy ban Kiểm tra Đảng”, và chỉ khi cuộc họp chung của các lãnh đạo Đảng có trách nhiệm thông qua quyết định này bằng hai phần ba số phiếu, thì thì mới có thể tiến hành khai trừ một ủy viên hoặc ứng viên Ban Chấp hành Trung ương ra khỏi Đảng.
Phần lớn các thành viên và ứng viên Ban Chấp hành Trung ương được bầu tại Đại hội XVII và bị bắt trong các năm 1937-1938 đã bị khai trừ khỏi Đảng một cách bất hợp pháp, vi phạm nghiêm trọng Điều lệ Đảng, vì vấn đề khai trừ họ không được đưa ra thảo luận tại Hội nghị Toàn thể Trung ương.
Bây giờ, khi các vụ án liên quan đến một số “gián điệp” và “kẻ phá hoại” được điều tra, đã xác định rằng những vụ án này là bịa đặt. Lời thú tội của nhiều người bị bắt, bị cáo buộc về hoạt động thù địch, được thu thập thông qua những tra tấn tàn bạo, vô nhân đạo.
Đồng thời, như các thành viên Bộ Chính trị thời đó báo cáo, Stalin không gửi cho họ các tuyên bố của một số nhà hoạt động chính trị bị vu khống, khi họ từ chối lời khai của mình tại tòa án của Hội đồng Quân sự và yêu cầu điều tra khách quan vụ án của họ. Có rất nhiều tuyên bố như vậy, và chắc chắn Stalin biết về chúng.
Ban Chấp hành Trung ương cho rằng cần báo cáo với Đại hội về một số “vụ án” bịa đặt đối với các thành viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội XVII.
Một ví dụ về sự khiêu khích hèn hạ, ngụy tạo ác ý và vi phạm tội lỗi luật pháp cách mạng là vụ án của đồng chí Eikhe, cựu ứng viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương, một trong những nhà hoạt động nổi bật của Đảng và nhà nước Xô viết, thành viên Đảng từ năm 1905. (Tiếng xôn xao trong hội trường.)
Đồng chí Eikhe bị bắt vào ngày 29 tháng 4 năm 1938 dựa trên các tài liệu vu khống mà không có sự phê chuẩn của công tố viên Liên Xô, và sự phê chuẩn này chỉ được lấy sau 15 tháng kể từ khi bị bắt.
Cuộc điều tra vụ án của Eikhe được tiến hành trong bối cảnh vi phạm nghiêm trọng nhất luật pháp Xô viết, tùy tiện và ngụy tạo.
Dưới sự tra tấn, Eikhe bị ép buộc ký vào các biên bản thẩm vấn được các điều tra viên chuẩn bị trước, trong đó cáo buộc ông và một số cán bộ Đảng tội hoạt động chống Liên Xô.
Ngày 1 tháng 10 năm 1939, Eikhe gửi một tuyên bố tới Stalin, trong đó ông kiên quyết phủ nhận tội trạng của mình và yêu cầu xem xét lại vụ án của mình. Trong tuyên bố, ông viết: “Không có nỗi đau nào lớn hơn việc ngồi tù của chế độ mà mình luôn vì nó đấu tranh.”
Một tuyên bố thứ hai của Eikhe, gửi tới Stalin vào ngày 27 tháng 10 năm 1939, vẫn còn được lưu giữ, trong đó dựa trên các sự kiện, ông bác bỏ đầy thuyết phục các cáo buộc vu khống được đưa ra đối với ông, chỉ ra rằng các cáo buộc khiêu khích này, một mặt, là việc của những người theo Trotsky thực sự, những người mà ông, với tư cách là Bí thư thứ nhất Ủy ban Đảng Khu vực Tây Siberia, đã ra lệnh bắt giữ, và họ đã âm mưu trả thù ông, và mặt khác, là kết quả của sự ngụy tạo bẩn thỉu các tài liệu giả mạo của các điều tra viên.
Eikhe viết trong tuyên bố của mình: “Ngày 25 tháng 10 năm nay, tôi được thông báo rằng cuộc điều tra vụ án của tôi đã kết thúc và tôi được phép xem xét các tài liệu điều tra. Nếu tôi có tội, dù chỉ một phần trăm trong bất kỳ tội nào được cáo buộc, tôi sẽ không dám gửi tới Ngài tuyên bố trước khi chết này, nhưng tôi không phạm bất kỳ tội nào được gán cho tôi, và trong tâm hồn tôi không bao giờ có dù chỉ một chút hèn hạ. Tôi chưa bao giờ nói với Ngài dù chỉ nửa lời dối trá trong đời, và giờ đây, khi cả hai chân đã đứng trong mồ, tôi cũng không nói dối Ngài. Toàn bộ vụ án của tôi là một hình mẫu tiêu biểu về sự khiêu khích, vu khống và vi phạm những nguyên tắc cơ bản của luật pháp cách mạng…
…Các bằng chứng buộc tội tôi trong hồ sơ điều tra không chỉ vô căn cứ mà còn chứa đựng sự vu khống đối với Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) và Hội đồng Dân ủy, vì các quyết định đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương và Hội đồng Dân ủy, được thông qua không phải do sáng kiến của tôi và không có sự tham gia của tôi, lại bị mô tả như những hành động phá hoại của một tổ chức phản cách mạng, được thực hiện theo đề xuất của tôi…
Bây giờ tôi chuyển sang trang đáng hổ thẹn nhất trong cuộc đời mình và tội lỗi thực sự nặng nề của tôi trước Đảng và trước Ngài. Đó là về những lời thú tội của tôi về hoạt động phản cách mạng… Sự việc diễn ra là thế này: không chịu nổi những tra tấn của Ushakov và Nikolaev, đặc biệt là người đầu tiên, người đã lợi dụng khéo léo việc cột sống của tôi bị gãy vẫn chưa lành và gây ra cho tôi những cơn đau không thể chịu nổi, đã buộc tôi vu khống chính mình và những người khác.
Phần lớn lời khai của tôi được Ushakov gợi ý hoặc đọc cho tôi chép, và phần còn lại tôi chép lại từ trí nhớ các tài liệu của Bộ Dân ủy Nội vụ về Tây Siberia, quy kết tất cả các sự kiện được nêu trong tài liệu Bộ Dân ủy Nội vụ cho bản thân mình. Nếu có gì trong huyền thoại do Ushakov sáng tác và tôi ký không khớp, thì họ sẽ buộc tôi phải ký một phiên bản khác. Đó là trường hợp của Rukhimovich, người ban đầu được ghi vào trung tâm dự bị, nhưng sau đó, thậm chí không nói gì với tôi, bị xóa tên; điều tương tự với chủ tịch trung tâm dự bị, được cho là do Bukharin thành lập vào năm 1935. Ban đầu tôi ghi tên mình, nhưng sau đó họ đề nghị tôi ghi tên Mezhlauk, và nhiều trường hợp khác…
…Tôi cầu xin và van nài Ngài ra lệnh điều tra lại vụ án của tôi, không phải để tôi được tha thứ, mà để vạch trần sự khiêu khích hèn hạ, thứ đã như một con rắn quấn lấy nhiều người, một phần cũng vì sự hèn nhát và vu khống tội lỗi của tôi. Tôi chưa bao giờ phản bội Ngài và Đảng. Tôi biết mình đang chết vì việc làm bẩn thỉu, đê tiện của kẻ thù của Đảng và nhân dân, những kẻ đã khiêu khích chống lại tôi.” (Hồ sơ Eikhe, tập 1, tệp lưu trữ.)
Đáng lý ra một tuyên bố quan trọng như vậy phải được thảo luận tại Ban Chấp hành Trung ương. Nhưng điều đó không xảy ra, tuyên bố được gửi đến Beria, và cuộc đàn áp tàn nhẫn vẫn tiếp diễn với đối với ứng viên Bộ Chính trị bị vu khống, đồng chí Eikhe.
Ngày 2 tháng 2 năm 1940, Eikhe bị đưa ra xét xử. Tại tòa, Eikhe không nhận tội và tuyên bố như sau: “Trong tất cả các lời khai được cho là của tôi, không có một chữ nào do tôi tự viết, ngoại trừ các chữ ký ở cuối các biên bản, mà tôi bị buộc phải ký. Những lời khai này được đưa ra dưới áp lực của điều tra viên, người đã đánh đập tôi ngay từ khi tôi bị bắt. Sau đó, tôi bắt đầu viết đủ thứ vô nghĩa… Điều quan trọng nhất đối với tôi là nói với tòa án, Đảng và Stalin rằng tôi vô tội. Tôi chưa bao giờ tham gia vào bất kỳ âm mưu nào. Tôi sẽ chết với niềm tin vào sự đúng đắn của chính sách Đảng, như tôi đã tin trong suốt quá trình làm việc của mình.” (Hồ sơ Eikhe, tập 1.)
Ngày 4 tháng 2, Eikhe bị bắn. (Tiếng xôn xao phẫn nộ trong hội trường.) Hiện nay, đã xác minh rõ ràng rằng vụ án của Eikhe là bịa đặt, và ông đã được minh oan sau khi qua đời.
Ứng viên Bộ Chính trị, đồng chí Rudzutak, một đảng viên từ năm 1905, từng chịu 10 năm tù khổ sai dưới chế độ Sa hoàng, cũng hoàn toàn bác bỏ các lời khai bị ép buộc tại tòa. Trong biên bản phiên tòa của Hội đồng Quân sự Tòa án Tối cao ghi lại tuyên bố sau của Rudzutak:
“…Yêu cầu duy nhất của ông đối với tòa án là báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) rằng trong các cơ quan của Bộ Dân ủy Nội vụ vẫn còn một ổ bệnh chưa được loại bỏ, thứ đang tạo ra các vụ án một cách giả tạo, ép buộc những người vô tội phải nhận tội. Việc kiểm tra các tình tiết của cáo buộc không được thực hiện, và không có cơ hội nào để chứng minh sự vô tội của mình đối với các tội danh được đưa ra bởi lời khai của những người khác nhau. Các phương pháp điều tra buộc phải bịa đặt và vu khống những người vô tội, chưa kể đến bản thân bị cáo. Ông yêu cầu tòa cho phép ông viết tất cả điều này cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik). Ông khẳng định với tòa rằng cá nhân ông không bao giờ có bất kỳ ý nghĩ xấu nào chống lại chính sách của Đảng ta, vì ông luôn hoàn toàn ủng hộ mọi chính sách của Đảng được thực hiện trong mọi lĩnh vực xây dựng kinh tế và văn hóa.”
Tuyên bố này của Rudzutak bị bỏ qua, mặc dù, như đã biết, Rudzutak từng là chủ tịch Ủy ban Kiểm tra Trung ương, được thành lập theo ý tưởng của Lenin để đấu tranh cho sự thống nhất của Đảng. Chủ tịch cơ quan đảng có uy tín cao này đã trở thành nạn nhân của sự tùy tiện thô bạo: ông thậm chí không được triệu tập đến Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương, Stalin không muốn nói chuyện với ông. Ông bị kết án trong vòng 20 phút và bị xử bắn. (Tiếng xôn xao phẫn nộ trong hội trường.)
Việc kiểm tra kỹ lưỡng được tiến hành vào năm 1955 đã xác định rằng vụ án buộc tội Rudzutak là bịa đặt và ông bị kết án dựa trên các tài liệu vu khống. Rudzutak đã được minh oan sau khi qua đời.
Cách thức mà nhiều “trung tâm phản Xô viết” và “khối” khác nhau được tạo ra một cách ngụy tạo bởi các cựu nhân viên Bộ Dân ủy Nội vụ có thể thấy qua lời khai của đồng chí Rozenblum, một viên Đảng từ năm 1906, bị Bộ Dân ủy Nội vụ Leningrad bắt năm 1937.
Khi kiểm tra vụ án của Komarov vào năm 1955, Rozenblum báo cáo sự kiện sau: khi ông bị bắt vào năm 1937, ông bị tra tấn tàn bạo, trong đó người ta ép ông đưa ra lời khai sai sự thật về bản thân và những người khác. Sau đó, ông được đưa đến văn phòng của Zakovsky, người đã đề nghị thả ông với điều kiện ông phải đưa ra lời khai man tại tòa trong “vụ án về trung tâm phá hoại, gián điệp, khủng bố ở Leningrad” do Bộ Dân ủy Nội vụ dựng lên năm 1937. (Tiếng xôn xao trong hội trường.) Với sự trơ trẽn đáng kinh ngạc, Zakovsky đã tiết lộ “cơ chế” hèn hạ của việc tạo ra các “âm mưu phản Xô viết” giả mạo.
“Để minh họa,” Rozenblum nói, “Zakovsky đã trải ra trước mặt tôi một vài phiên bản sơ đồ trung tâm này và các chi nhánh của nó… Sau khi cho tôi xem các sơ đồ này, Zakovsky nói rằng Bộ Dân ủy Nội vụ đang chuẩn bị vụ án về trung tâm này, và phiên tòa sẽ là công khai. Những người đứng đầu trung tâm sẽ bị đưa ra xét xử, đó là 4-5 người: Chudov, Ugarov, Smorodin, Pozern, Shaposhnikova (vợ của Chudov) và những người khác, và 2-3 người từ mỗi chi nhánh…
… Vụ án trung tâm Leningrad phải được xây dựng một cách chắc chắn. Và ở đây, nhân chứng có tầm quan trọng quyết định. Vị trí xã hội (trong quá khứ, tất nhiên) và thâm niên đảng của nhân chứng đóng vai trò không nhỏ. ‘Bản thân cậu không cần phải tự bịa ra gì cả,’ Zakovsky nói, ‘Bộ Dân ủy Nội vụ sẽ chuẩn bị cho cậu một bản tóm tắt sẵn sàng cho từng nhánh riêng biệt, việc của cậu là học thuộc lòng, nhớ kỹ tất cả các câu hỏi và câu trả lời có thể được hỏi tại tòa. Vụ án này sẽ được chuẩn bị trong 4-5 tháng, hoặc thậm chí nửa năm. Trong suốt thời gian đó, cậu sẽ chuẩn bị để không làm hỏng cuộc điều tra và hại chính mình. Kết quả của phiên tòa sẽ quyết định số phận tiếp theo của cậu. Nếu cậu lúng túng và hát sai điệu, thì tự chịu trách nhiệm. Nếu vượt qua, cậu sẽ giữ được cái đầu, và sẽ được nuôi ăn nuôi mặc cho đến chết bằng chi phí nhà nước.’” Những việc làm bẩn thỉu như vậy đã diễn ra vào thời điểm đó! (Tiếng xôn xao trong hội trường.)
Việc ngụy tạo các vụ án điều tra được thực hiện rộng rãi hơn ở các tỉnh thành. Cơ quan Bộ Dân ủy Nội vụ khu vực Sverdlovsk đã “phát hiện” cái gọi là “Tổng hành dinh nổi dậy Ural – cơ quan của khối cánh hữu, Trotsky, xã hội cách mạng, giáo sĩ,” được cho là do Bí thư Ủy ban Đảng khu vực Sverdlovsk và thành viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) Kabakov, thành viên Đảng từ năm 1914, lãnh đạo. Theo các tài liệu điều tra thời đó, dường như hầu như ở tất cả các khu vực, tỉnh và nước cộng hòa đều tồn tại các “tổ chức và trung tâm gián điệp, khủng bố, phá hoại cánh hữu-Trotsky” được cho là có mạng lưới rộng lớn, và thường thì các “tổ chức” và “trung tâm” này do các bí thư thứ nhất của các ủy ban khu vực, ủy ban tỉnh hoặc ủy ban trung ương các đảng cộng sản dân tộc đứng đầu. (Tiếng xôn xao trong hội trường.)
Hậu quả của sự ngụy tạo quái dị những “vụ án” như vậy, hậu quả tin vào các “lời khai” vu khống và những lời tự buộc tội do bị cưỡng bức đối với bản thân và người khác, hàng ngàn người cộng sản trung thực, vô tội đã thiệt mạng. Tương tự vậy, các “vụ án” đã được bịa ra chống lại các cán bộ quan trọng của Đảng và nhà nước – Kosior, Chubar, Postyshev, Kosarev và những người khác.
Trong những năm đó, các cuộc đàn áp vô căn cứ diễn ra trên quy mô lớn, dẫn đến việc Đảng chịu tổn thất nặng nề về nhân sự.
Một thực tiễn sai trái đã hình thành, khi Bộ Dân ủy Nội vụ lập danh sách những cá nhân dính án sẽ được Hội đồng Quân sự xem xét và xác định trước hình phạt cho họ. Những danh sách này được Yezhov gửi trực tiếp cho Stalin để xin phê chuẩn và đề xuất các biện pháp trừng phạt. Trong các năm 1937-1938, 383 danh sách như vậy gồm hàng ngàn cán bộ Đảng, Đoàn viên Thanh niên Cộng sản, công nhân viên quân sự và kinh tế đã được gửi đến Stalin và nhận được sự phê chuẩn của ông ta.
Một phần đáng kể các vụ án này hiện đang được xem xét lại, và phần lớn trong số đó đã bị hủy bỏ vì không có cơ sở và bị ngụy tạo. Chỉ cần nói rằng từ năm 1954 đến nay, Hội đồng Quân sự Tòa án Tối cao đã minh oan cho 7.679 người, trong đó nhiều người được minh oan sau khi đã qua đời.
Các vụ bắt giữ hàng loạt các cán bộ Đảng, công nhân viên kinh tế, quân sự đã gây thiệt hại to lớn cho đất nước ta, cho sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Các cuộc đàn áp hàng loạt đã ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng đạo đức-chính trị của Đảng, gây ra sự bất an, thúc đẩy sự nghi ngờ bệnh hoạn, gieo rắc sự thiếu tin tưởng lẫn nhau giữa các đảng viên cộng sản. Các loại vu khống và cơ hội chủ nghĩa tích cực phát triển.
Các quyết định của Hội nghị Toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) tháng 1 năm 1938 đã mang lại sự cải thiện nhất định trong tổ chức Đảng. Nhưng các cuộc đàn áp rộng khắp vẫn tiếp diễn trong năm 1938.
Và chỉ nhờ Đảng ta có sức mạnh đạo đức – chính trị to lớn nên mới có thể đương đầu với những biến cố khó khăn các năm 1937-1938, sống sót qua những sự kiện này và đào tạo được các cán bộ mới. Nhưng không nghi ngờ gì, việc chúng ta tiến tới chủ nghĩa xã hội và chuẩn bị cho quốc phòng sẽ thành công hơn nhiều nếu không có những tổn thất to lớn về cán bộ mà chúng ta phải chịu do các cuộc đàn áp hàng loạt, vô lý và bất công trong các năm 1937-1938.
Chúng ta buộc tội Yezhov vì những sai lệch trong năm 1937, và điều đó là đúng. Nhưng cần trả lời những câu hỏi như: liệu Yezhov có thể tự mình, mà không có sự đồng ý của Stalin, bắt giữ, chẳng hạn, Kosior? Có cuộc trao đổi ý kiến hay quyết định của Bộ Chính trị về vấn đề này không? Không, không có, cũng như không có trong các vụ án tương tự khác. Liệu Yezhov có thể quyết định những vấn đề quan trọng như số phận của các nhà hoạt động Đảng quan trọng? Không, sẽ là ngây thơ khi cho rằng đây chỉ là việc làm của Yezhov. Rõ ràng, những vụ việc như vậy do Stalin quyết định, không có chỉ thị, không có sự phê chuẩn của ông, Yezhov không thể làm gì.
Chúng ta đã xem xét lại và minh oan cho Kosior, Rudzutak, Postyshev, Kosarev và những người khác. Họ bị bắt và kết án vì lí do gì? Việc nghiên cứu các tài liệu cho thấy không có bất kỳ cơ sở nào cho việc này. Cũng như nhiều người khác, họ bị bắt giữ mà không có sự phê chuẩn của công tố viên. Thì đó, trong những điều kiện đó không cần bất kỳ sự phê chuẩn nào; còn cần sự phê chuẩn nào nữa khi mọi thứ đều do Stalin cho phép. Ông là công tố viên chính trong những vấn đề này. Stalin không chỉ cho phép mà còn đưa ra chỉ thị bắt giữ theo sáng kiến của mình. Điều này cần được nói ra để các đại biểu Đại hội hiểu rõ hoàn toàn, để các bạn có thể đánh giá đúng và đưa ra những kết luận phù hợp.
Sự thật cho thấy nhiều hành vi lạm dụng đã được thực hiện theo lệnh của Stalin, không quan tâm đến bất kỳ chuẩn mực nào về tính hợp pháp của Đảng và Nhà nước Liên Xô. Stalin là một người rất đa nghi, với sự nghi ngờ bệnh hoạn, chúng tôi đã tin như vậy khi làm việc với ông. Ông có thể nhìn người ai đó và nói: "Sao hôm nay mắt anh cứ đảo quanh thế?" hoặc "Sao hôm nay anh cứ nhìn lảng đi chỗ khác thế, không nhìn thẳng vào tôi". Sự nghi ngờ bệnh hoạn đã khiến ông mất hết lòng tin, kể cả đối với những nhà hoạt động Đảng nổi tiếng mà ông quen biết nhiều năm. Ở khắp mọi nơi, ông đều nhìn thấy "kẻ thù", "kẻ hai mang", "gián điệp".
Có quyền lực vô hạn, ông cho phép tùy tiện tàn nhẫn, đàn áp con người cả về tinh thần lẫn thể xác; tạo nên một bầu không khí mà trong đó con người không thể bày tỏ ý chí của mình.
Khi Stalin nói rằng cần bắt ai đó, người ta phải tin rằng đó là “kẻ thù của nhân dân.” Còn băng nhóm của Beria, hoành hành trong các cơ quan an ninh nhà nước, đã làm mọi cách để chứng minh tội trạng của những người bị bắt, tính đúng đắn của các tài liệu bịa đặt của họ. Và những bằng chứng nào được sử dụng? Lời thú tội của những người bị bắt. Và các điều tra viên đã thu thập những “lời thú tội” này. Nhưng làm thế nào để có được lời thú tội từ ai đó về những tội mà anh ta không bao giờ phạm phải? Chỉ có một cách – sử dụng các phương pháp tác động thể xác, bằng tra tấn, làm mất ý thức, làm mất lý trí, tước đoạt phẩm giá con người. Đó là cách mà những “lời thú tội” giả mạo được thu thập.
Khi làn sóng đàn áp hàng loạt bắt đầu giảm bớt vào năm 1939, khi các lãnh đạo của các tổ chức Đảng địa phương bắt đầu chỉ trích các nhân viên Bộ Dân ủy Nội vụ vì sử dụng vũ lực đối với những người bị bắt, Stalin đã gửi một bức điện mã hóa vào ngày 10 tháng 1 năm 1939 tới các bí thư ủy ban khu vực, ủy ban tỉnh, ủy ban trung ương các đảng cộng sản dân tộc, các bộ trưởng nội vụ, và các trưởng cơ quan Bộ Dân ủy Nội vụ. Bức điện nêu rõ: “Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) giải thích rằng việc sử dụng vũ lực lên thể xác trong thực tiễn của Bộ Dân ủy Nội vụ đã được phép từ năm 1937 với sự phê chuẩn của Ban Chấp hành Trung ương… Được biết rằng tất cả các cơ quan tình báo tư sản đều sử dụng tác động thể xác đối với đại diện của giai cấp vô sản xã hội chủ nghĩa và sử dụng nó dưới những hình thức xấu xa nhất. Câu hỏi đặt ra là tại sao cơ quan tình báo xã hội chủ nghĩa lại phải nhân đạo hơn đối với các đặc vụ ngoan cố của giai cấp tư sản, những kẻ thù không đội trời chung của giai cấp công nhân và nông dân tập thể. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) cho rằng phương pháp tác động thể xác phải tiếp tục được áp dụng, như một ngoại lệ, đối với những kẻ thù đích thực của nhân dân và không chịu đầu hàng, như một phương pháp hoàn toàn đúng đắn và phù hợp.”
Như vậy, những vi phạm nghiêm trọng nhất của luật pháp xã hội chủ nghĩa, tra tấn và hành hạ, dẫn đến những lời vu khống và tự buộc tội của những người vô tội, đã được Stalin phê chuẩn nhân danh Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik).
Gần đây, chỉ vài ngày trước Đại hội này, chúng tôi đã triệu tập điều tra viên Rodos đến phiên họp của Ban Chấp hành Trung ương và thẩm vấn ông ta, người từng điều tra và thẩm vấn Kosior, Chubar và Kosarev. Đây là một kẻ vô dụng, tầm nhìn hạn hẹp, về đạo đức là một kẻ thực sự suy đồi. Và chính một người như vậy đã quyết định số phận của các nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng, cũng như quyết định chính sách trong những vấn đề này, bởi vì, bằng cách chứng minh “tội trạng” của họ, ông ta đã cung cấp tài liệu cho các kết luận chính trị quan trọng.
Câu hỏi đặt ra là liệu một người như vậy có thể tự mình, bằng trí óc của mình, tiến hành điều tra để chứng minh tội trạng của những người như Kosior và những người khác. Không, ông ta không thể làm nhiều nếu không có những chỉ thị thích hợp. Tại phiên họp của Ban Chấp hành Trung ương, ông ta nói với chúng tôi như sau: “Tôi được cho biết Kosior và Chubar là kẻ thù của nhân dân, vì vậy tôi, với tư cách là điều tra viên, phải ép họ thú nhận rằng họ là kẻ thù.” (Tiếng xôn xao phẫn nộ trong hội trường.)
Ông ta chỉ có thể đạt được điều này thông qua những tra tấn kéo dài, điều mà ông ta đã làm, nhận hướng dẫn chi tiết từ Beria. Cần nói rằng tại phiên họp của Ban Chấp hành Trung ương, Rodos đã tuyên bố một cách trơ trẽn: “Tôi nghĩ rằng tôi đang thực hiện nhiệm vụ của Đảng.” Đây chính là thực tế cách thực hiện chỉ thị của Stalin sử dụng vũ lực đối với tù nhân.
Những sự kiện này và nhiều sự kiện tương tự khác cho thấy rằng mọi quy tắc ra quyết định đúng đắn trong Đảng đã bị xóa bỏ, mọi thứ đều phụ thuộc vào sự tùy tiện của một cá nhân.
Sự chuyên quyền của Stalin đã dẫn đến những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng trong suốt cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại.
Nếu xem xét nhiều tiểu thuyết, phim ảnh và các “nghiên cứu” lịch sử của chúng ta, vai trò của Stalin trong Chiến tranh Vệ quốc thường được mô tả theo cách hoàn toàn không thực tế. Thường là một công thức như sau: Stalin dự đoán tất cả mọi thứ. Quân đội Xô viết gần như theo các kế hoạch chiến lược được Stalin vạch sẵn trước, thực hiện cái gọi là “phòng thủ tích cực,” tức là chiến thuật mà như ta đã biết, cho phép quân Đức tiến đến Moskva và Stalingrad. Chỉ nhờ thiên tài của Stalin, Quân đội Xô viết mới chuyển sang tấn công và đánh bại kẻ thù. Chiến thắng lịch sử thế giới đạt được của Lực lượng Vũ trang Xô viết, nhân dân anh hùng chúng ta trong các tiểu thuyết, phim ảnh và “nghiên cứu” như vậy đều được ghi nhận là nhờ thiên tài quân sự của Stalin
Cần phân tích kỹ lưỡng vấn đề này, vì nó có ý nghĩa to lớn, không chỉ về mặt lịch sử mà còn về mặt chính trị, giáo dục và thực tiễn.
Sự thật trong vấn đề này là gì?
Trước chiến tranh, trong báo chí và công tác giáo dục của chúng ta, giọng điệu khoe khoang chiếm ưu thế: nếu kẻ thù tấn công vào mảnh đất Xô viết thiêng liêng, chúng ta sẽ đáp trả bằng đòn gấp ba lần, chúng ta sẽ tiến hành chiến tranh trên lãnh thổ kẻ thù và giành chiến thắng với ít tổn thất. Tuy nhiên, những tuyên bố này không được củng cố đầy đủ bằng các hành động thực tế để đảm bảo sự bất khả xâm phạm thực sự của biên giới chúng ta.
Trong và sau chiến tranh, Stalin đưa ra luận điểm rằng bi kịch mà nhân dân chúng ta trải qua trong giai đoạn đầu của chiến tranh là do cuộc tấn công “bất ngờ” của Đức vào Liên Xô. Nhưng điều đó, thưa các đồng chí, hoàn toàn không đúng sự thật. Ngay khi Hitler lên nắm quyền ở Đức, ông ta ngay lập tức đặt mục tiêu tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản. Bọn phát xít đã nói điều này một cách công khai, không che giấu kế hoạch của họ. Để thực hiện những kế hoạch xâm lược này, các hiệp ước, khối liên minh, trục đã được kí kết, như trục Berlin - Rome - Tokyo. Nhiều sự kiện trước chiến tranh chứng minh một cách rõ ràng rằng Hitler đã dồn mọi nỗ lực phát động chiến tranh chống lại nhà nước Xô viết và tập trung các lực lượng quân đội lớn, bao gồm cả các đơn vị thiết giáp, gần biên giới Xô viết.
Từ các tài liệu được công bố hiện nay, có thể thấy rằng ngày 3 tháng 4 năm 1941, Churchill, thông qua Đại sứ Anh tại Liên Xô là Cripps, đã gửi một cảnh báo cá nhân đến Stalin rằng quân đội Đức đã bắt đầu tái triển khai, chuẩn bị tấn công Liên Xô. Không cần phải nói cũng biết Churchill làm như vậy không phải vì mối thiện cảm với nhân dân Liên Xô. Ông ta theo đuổi lợi ích đế quốc của mình – kích động Đức và Liên Xô chống lại nhau trong một cuộc chiến đẫm máu và củng cố vị thế của Đế quốc Anh. Tuy nhiên, Churchill đã chỉ ra trong thông điệp của mình rằng ông yêu cầu “cảnh báo Stalin để thu hút sự chú ý của ông đến nguy cơ đang đe dọa ông.” Churchill nhấn mạnh điều này một cách kiên quyết trong các bức điện vào ngày 18 tháng 4 và những ngày sau đó. Tuy nhiên, những cảnh báo này không được Stalin coi trọng. Hơn nữa, Stalin còn ra chỉ thị không nên tin vào thông tin loại này để tránh “khiêu khích” các hành động quân sự.
Cần nói rằng loại thông tin như thế về mối đe dọa xâm lược của quân Đức vào lãnh thổ Liên Xô cũng đến từ các nguồn quân sự và ngoại giao của chúng ta, nhưng do thái độ định kiến đối với thông tin loại này trong giới lãnh đạo, nên mỗi lần thông tin được gửi đi đều kèm theo sự thận trọng và các điều khoản bảo lưu.
Chẳng hạn, trong báo cáo từ Berlin ngày 6 tháng 5 năm 1941, tùy viên hải quân tại Berlin, Đại tá Vorontsov, báo cáo: “Công dân Xô viết Bozer… thông báo với trợ lý tùy viên hải quân ta rằng, theo lời một sĩ quan Đức từ bộ chỉ huy của Hitler, quân Đức đang chuẩn bị xâm lược Liên Xô thông qua ngả Phần Lan, các nước Baltic và Latvia vào ngày 14 tháng 5. Đồng thời là các cuộc không kích lớn vào Moskva và Leningrad và việc đổ bộ dù tại các trung tâm biên giới cũng được lên kế hoạch…”
Trong báo cáo ngày 22 tháng 5 năm 1941, trợ lý tùy viên quân sự tại Berlin, Khlopov, báo cáo rằng “…cuộc tấn công của quân Đức được cho là bắt đầu vào ngày 15 tháng 6, hoặc có thể vào những ngày đầu tháng 6…”.
Trong một bức điện từ đại sứ quán của ta ở London ngày 18 tháng 6 năm 1941, có báo cáo: “Vào thời điểm hiện tại, Cripps hoàn toàn tin tưởng vào sự không thể tránh khỏi của xung đột quân sự giữa Đức và Liên Xô, và điều này sẽ xảy ra không muộn hơn giữa tháng 6. Theo Cripps, hiện nay quân Đức đã tập trung 147 sư đoàn tại biên giới Xô viết (bao gồm lực lượng không quân và các đơn vị phụ trợ)…”
Bất chấp tất cả những tín hiệu cực kỳ quan trọng này, vẫn chưa có đủ biện pháp được thực hiện để chuẩn bị tốt cho đất nước phòng thủ và loại trừ khả năng bị tấn công bất ngờ.
Chúng ta có thời gian và cơ hội để chuẩn bị như vậy không? Có, cả thời gian và cơ hội đều có. Công nghiệp của chúng ta đã ở mức phát triển có thể hoàn toàn cung cấp cho Quân đội Xô viết mọi thứ cần thiết. Điều này được chứng minh bởi thực tế rằng, trong chiến tranh khi chúng ta mất gần một nửa công nghiệp do kẻ thù chiếm đóng Ukraine, Bắc Caucasus, các khu vực phía tây của đất nước, các khu vực công nghiệp và lương thực quan trọng, nhân dân Xô viết đã tổ chức sản xuất vật liệu quân sự ở các khu vực phía đông đất nước, đưa vào sử dụng các thiết bị được di chuyển từ các khu vực công nghiệp phía tây và cung cấp cho Lực lượng Vũ trang của chúng ta mọi thứ cần thiết để đánh bại kẻ thù.
Nếu ngành công nghiệp của chúng ta được huy động kịp thời và đúng cách để cung cấp vũ khí và trang thiết bị cần thiết cho quân đội, chúng ta đã có thể chịu ít tổn thất hơn nhiều trong cuộc chiến tranh khó khăn này. Tuy nhiên, việc huy động như vậy đã không được thực hiện kịp thời. Và ngay từ những ngày đầu chiến tranh, đã rõ rằng quân đội ta được trang bị kém, chúng ta không có đủ pháo binh, xe tăng và máy bay để đẩy lùi kẻ thù.
Trước chiến tranh, khoa học và công nghệ Liên Xô đã tạo ra những mẫu xe tăng và pháo binh tuyệt vời. Nhưng việc sản xuất hàng loạt những thứ này không được tổ chức, và chúng ta chỉ thực chất bắt đầu tái trang bị quân đội ngay trước thềm chiến tranh. Kết quả là, vào thời điểm kẻ thù tấn công lãnh thổ Liên Xô, chúng ta không có đủ số lượng cả thiết bị cũ cần loại bỏ, cả thiết bị mới sắp đưa vào sử dụng. Tình hình với pháo phòng không rất tệ, việc sản xuất đạn xuyên giáp để chống lại xe tăng không được thực hiện. Nhiều khu vực kiên cố hóa ra bất lực vào thời điểm bị tấn công, vì vũ khí cũ đã bị tháo bỏ, còn vũ khí mới chưa được đưa vào.
Thật không may, vấn đề không chỉ là xe tăng, pháo binh và máy bay. Vào thời điểm chiến tranh, chúng ta thậm chí không có đủ súng trường để trang bị cho những người được gọi nhập ngũ. Tôi nhớ, hồi đó tôi gọi điện từ Kyiv cho đồng chí Malenkov và nói với ông ấy: “Người dân đã gia nhập quân đội và yêu cầu vũ khí. Hãy gửi vũ khí cho chúng tôi.” Malenkov trả lời tôi: “Chúng tôi không thể gửi vũ khí. Tất cả súng trường được chuyển đến Leningrad, còn các anh tự trang bị đi.” (Tiếng xôn xao trong hội trường.)
Đó là tình trạng vũ khí.
Liên quan đến vấn đề này, không thể không nhắc đến một sự kiện như sau. Ngay trước cuộc tấn công của quân đội Hitler vào Liên Xô, Kirponos, khi đó là tư lệnh Quân khu Đặc biệt Kyiv (sau này hy sinh trên chiến trường), đã viết thư cho Stalin, báo cáo rằng quân đội Đức đã tiến đến sông Bug, đang ráo riết chuẩn bị mọi thứ cho cuộc tấn công và có thể sẽ sớm tấn công. Xét đến tất cả những điều này, Kirponos đề xuất xây dựng một hệ thống phòng thủ đáng tin cậy, di tản khoảng 300.000 dân chúng khỏi các khu vực biên giới và thiết lập một số tuyến phòng thủ kiên cố: đào hào chống tăng, xây dựng nơi trú ẩn cho binh lính, v.v.
Phản ứng trước những đề xuất này, từ Moskva đã nhận được câu trả lời rằng đó là hành động khiêu khích, rằng không nên thực hiện bất kỳ công việc chuẩn bị nào ở biên giới, rằng không nên tạo cớ cho quân Đức mở các hành động quân sự chống lại chúng ta. Và biên giới của ta đã không thực sự được chuẩn bị đầy đủ để đẩy lùi kẻ thù.
Khi quân đội phát xít đã xâm lược lãnh thổ Xô viết và bắt đầu các hoạt động quân sự, một mệnh lệnh từ Moskva – không được bắn trả. Tại sao? Thì bởi vì Stalin, bất chấp sự thật hiển nhiên, cho rằng đó chưa phải là chiến tranh, mà chỉ là hành động khiêu khích của một số đơn vị quân Đức thiếu kỷ luật, và rằng nếu chúng ta đáp trả quân Đức, điều đó sẽ tạo cớ để bắt đầu chiến tranh.
Có một sự kiện sau đây cũng được biết đến. Ngay trước khi quân đội Hitler xâm lược lãnh thổ Liên Xô, một người Đức đã vượt sang biên giới ta và báo rằng quân Đức đã nhận lệnh – ngày 22 tháng 6, lúc 3 giờ sáng, sẽ bắt đầu cuộc tấn công vào Liên Xô. Thông tin này ngay lập tức được báo cáo cho Stalin, nhưng tín hiệu này cũng bị bỏ qua.
Như các đồng chí thấy, mọi thứ đều bị bỏ qua: cả những cảnh báo của một số tướng lĩnh, cả lời khai của những kẻ đào tẩu, và thậm chí cả những hành động rõ ràng của kẻ thù. Làm sao có thể gọi đó là sự sáng suốt của người lãnh đạo Đảng và đất nước trong một thời điểm quan trọng như vậy của lịch sử?
Và sự bất cẩn này, sự phớt lờ các sự thật hiển nhiên đã dẫn đến điều gì? Dẫn đến việc ngay trong những giờ và ngày đầu tiên, kẻ thù đã tiêu diệt một lượng lớn máy bay, pháo binh, và các thiết bị quân sự khác ở các khu vực biên giới của chúng ta, tiêu diệt một số lượng lớn cán bộ quân sự, làm rối loạn việc chỉ huy quân đội, và chúng ta không thể ngăn chặn kẻ thù tiến sâu vào nội đia đất nước.
Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, nhất là trong giai đoạn đầu của chiến tranh, là thực tế trong suốt các năm 1937-1941, do sự nghi ngờ của Stalin, dựa trên những cáo buộc vu khống, nhiều cán bộ chỉ huy và chính trị viên quân đội đã bị tiêu diệt. Trong suốt những năm này, nhiều lớp cán bộ chỉ huy đã bị đàn áp, từ cấp đại đội, tiểu đoàn cho đến các trung tâm quân sự cao cấp, bao gồm gần như toàn bộ các cán bộ chỉ huy đã từng có kinh nghiệm chiến đấu ở Tây Ban Nha và Viễn Đông.
Chính sách đàn áp rộng khắp đối với các cán bộ quân đội còn dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng khác, đó là làm suy yếu nền tảng của kỷ luật quân đội, bởi vì trong nhiều năm, các chỉ huy ở mọi cấp độ và thậm chí cả binh lính trong các chi bộ Đảng và Đoàn Thanh niên Cộng sản được huấn luyện để “vạch mặt” các chỉ huy cấp trên của họ như những kẻ thù trá hình. (Tiếng xôn xao trong hội trường.) Tất nhiên, điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng kỷ luật quân đội trong giai đoạn đầu của chiến tranh.
Và trước chiến tranh, chúng ta đã có những cán bộ quân sự xuất sắc, vô cùng trung thành với Đảng và Tổ quốc. Chỉ cần nói rằng những người trong số họ còn sống sót, ý tôi là những đồng chí như Rokossovsky (người từng ngồi trong đại hội), Gorbatov, Meretskov (người có mặt tại đại hội này), Podlas (một chỉ huy xuất sắc, đã hy sinh trên chiến trường) và nhiều, nhiều người khác, mặc dù phải chịu những đau khổ nặng nề trong các nhà tù, ngay từ những ngày đầu của chiến tranh đã thể hiện mình là những người yêu nước thực sự và chiến đấu hết mình vì vinh quang của Tổ quốc. Nhưng chính những chỉ huy như vậy đã chết trong các trại giam và nhà tù, và quân đội không còn được thấy họ.
Tất cả những điều này cộng lại đã dẫn đến tình trạng xảy ra vào đầu chiến tranh đối với đất nước chúng ta, một tình trạng đe dọa nguy hiểm lớn nhất đối với số phận của Tổ quốc chúng ta.
Sẽ là sai lầm nếu không nói rằng sau những thất bại và tổn thất nặng nề ban đầu trên các mặt trận, Stalin đã nghĩ rằng mọi thứ đã chấm dứt. Trong một cuộc trò chuyện vào những ngày đó, ông ta tuyên bố: “Những gì Lenin đã tạo ra, chúng ta đã đánh mất vĩnh viễn.”
Sau đó, trong một thời gian dài, ông ta thực tế không chỉ đạo các hoạt động quân sự và thậm chí không đảm nhiệm việc gì, chỉ trở lại lãnh đạo khi một số thành viên Bộ Chính trị đến gặp ông và nói rằng cần khẩn trương thực hiện các biện pháp để cải thiện tình hình trên các mặt trận.
Như vậy, mối nguy hiểm nghiêm trọng treo lơ lửng trên Tổ quốc chúng ta trong giai đoạn đầu của chiến tranh phần lớn là kết quả của những phương pháp lãnh đạo đất nước và Đảng sai lầm của chính Stalin.
Nhưng vấn đề không chỉ nằm ở thời điểm bắt đầu chiến tranh, thời điểm gây rối loạn nghiêm trọng cho quân đội và gây thiệt hại nặng nề. Ngay cả sau khi chiến tranh bắt đầu, sự căng thẳng và hoảng loạn mà Stalin thể hiện trong quá trình can thiệp vào tiến trình hoạt động quân sự đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho quân đội của chúng ta.
Stalin không hề hiểu rõ tình hình thực tế trên các mặt trận. Và điều này là tự nhiên, bởi vì trong suốt cuộc Chiến tranh Vệ quốc, ông ta không đến bất kỳ khu vực mặt trận nào, không đến bất kỳ thành phố được giải phóng nào, ngoại trừ một chuyến đi ngắn ngủi đến xa lộ Mozhaisk khi mặt trận đã ổn định, điều đã được viết trong rất nhiều tác phẩm văn học với đủ loại bịa đặt và rất nhiều bức tranh đầy màu sắc. Cùng với đó, Stalin trực tiếp can thiệp vào tiến trình các hoạt động và đưa ra những mệnh lệnh thường không tính đến tình hình thực tế tại một khu vực mặt trận cụ thể, và điều này không thể không dẫn đến những tổn thất nhân mạng to lớn.
Liên quan đến vấn đề này, tôi xin phép đưa ra một sự kiện điển hình, cho thấy Stalin đã chỉ đạo các mặt trận như thế nào. Tại đại hội này có mặt Nguyên soái Bagramyan, người từng là trưởng phòng tác chiến của bộ tham mưu Mặt trận Tây Nam, và ông có thể xác nhận những gì tôi sẽ kể bây giờ.
Vào năm 1942, tại khu vực Kharkov, khi quân đội của ta rơi vào tình thế cực kỳ khó khăn, chúng tôi đã đưa ra quyết định đúng đắn về việc ngừng chiến dịch bao vây Kharkov, vì trong tình hình thực tế lúc đó, việc tiếp tục chiến dịch như vậy có nguy cơ dẫn đến hậu quả thảm khốc cho quân đội của chúng ta.
Chúng tôi đã báo cáo điều này với Stalin, tuyên bố rằng tình hình đòi hỏi phải thay đổi kế hoạch hành động để ngăn chặn kẻ thù tiêu diệt các đoàn quân lớn của chúng ta.
Bất chấp với lẽ thường, Stalin đã bác bỏ đề xuất của chúng tôi và ra lệnh tiếp tục thực hiện chiến dịch bao vây Kharkov, mặc dù lúc đó nhiều tập đoàn quân lớn của chúng ta đang phải đối mặt với mối đe dọa thực sự bị bao vây và tiêu diệt.
Tôi gọi điện cho Vasilevsky và cầu xin ông: “Xin hãy lấy bản đồ ra, Alexander Mikhailovich (đồng chí Vasilevsky đang có mặt tại đây), và chỉ cho đồng chí Stalin tình hình thực tế. Phải nói rằng Stalin lập kế hoạch cho các chiến dịch trên quả địa cầu. (Tiếng xôn xao trong hội trường.) Vâng, các đồng chí, ông ta lấy quả địa cầu và chỉ trên đó các tuyến mặt trận. Vì vậy, tôi nói với đồng chí Vasilevsky, hãy chỉ ra tình hình trên bản đồ, vì trong những điều kiện này không thể tiếp tục chiến dịch đã định trước. Cần thay đổi quyết định cũ vì lợi ích.”
Vasilevsky trả lời tôi rằng Stalin đã xem xét vấn đề này rồi và ông, Vasilevsky, sẽ không báo cáo gì với Stalin nữa, vì Stalin không muốn nghe bất kỳ lập luận nào của ông về chiến dịch này.
Sau cuộc nói chuyện với Vasilevsky, tôi gọi điện cho Stalin tại nhà nghỉ dưỡng của ông ta. Nhưng Stalin không nhấc máy, mà nhấc máy là Malenkov. Tôi nói với đồng chí Malenkov rằng tôi gọi từ mặt trận và muốn đích thân nói chuyện với đồng chí Stalin. Stalin truyền qua Malenkov rằng tôi cứ nói với Malenkov. Tôi lặp lại rằng tôi muốn báo cáo trực tiếp với Stalin về tình hình nghiêm trọng xảy ra trên mặt trận của chúng tôi. Nhưng Stalin thấy không cần phải cầm máy, và một lần nữa xác nhận rằng tôi nên nói qua Malenkov, mặc dù ông chỉ cần vài bước để đến chỗ điện thoại.
Sau khi “lắng nghe” yêu cầu của chúng tôi, Stalin nói: “Giữ nguyên mọi thứ như cũ!”
Kết quả là gì? Kết quả là điều tồi tệ nhất mà chúng tôi đã dự đoán. Quân Đức đã bao vây các tập đoàn quân của chúng ta, dẫn đến việc chúng ta mất hàng trăm ngàn quân. Đó là “thiên tài” quân sự của Stalin, đó là cái giá mà ông ta khiến chúng ta phải trả. (Tiếng xôn xao trong hội trường.)
Một lần sau chiến tranh, trong cuộc gặp gỡ với các ủy viên Bộ Chính trị, Anastas Ivanovich Mikoyan đã nói rằng Khrushchev đã đúng khi gọi điện về chiến dịch Kharkov, rằng thật đáng tiếc khi họ không ủng hộ ông ta lúc đó.
Phải thấy Stalin đã tức giận như thế nào! Làm sao có thể thừa nhận rằng ông, Stalin, đã sai! Ông là “thiên tài,” mà thiên tài thì không thể sai. Bất kỳ ai cũng có thể sai, nhưng Stalin cho rằng ông không bao giờ sai, rằng ông luôn đúng. Và ông không bao giờ thừa nhận bất kỳ sai lầm lớn hay nhỏ nào của mình với bất kỳ ai, mặc dù ông đã phạm không ít sai lầm cả trong lý thuyết lẫn trong hoạt động thực tiễn. Sau đại hội Đảng, chúng ta có lẽ sẽ cần xem xét lại việc đánh giá nhiều chiến dịch quân sự và đưa ra lời giải thích đúng đắn cho chúng.
Chiến thuật mà Stalin khăng khăng áp dụng, không hiểu bản chất của việc tiến hành các hoạt động chiến đấu, sau khi đã chặn được kẻ thù và chuyển sang tấn công, cũng khiến chúng ta phải trả giá bằng nhiều xương máu.
Các nhà quân sự biết rằng từ cuối năm 1941, thay vì tiến hành các chiến dịch cơ động lớn bằng việc đánh vòng qua sườn của kẻ thù, tiến vào hậu phương của chúng, Stalin yêu cầu thực hiện liên tục các cuộc tấn công trực diện để chiếm từng ngôi làng một. Và chúng ta đã chịu tổn thất to lớn cho đến khi các tướng lĩnh của chúng ta, những người đã gánh vác toàn bộ gánh nặng của cuộc chiến, xoay chuyển được tình thế và tiến hành chiến dịch cơ động linh hoạt, điều ngay lập tức mang lại sự thay đổi đáng kể trên các mặt trận có lợi cho chúng ta.
Một thực tế càng đáng hổ thẹn và không thể tôn trọng là, sau chiến thắng vĩ đại của chúng ta trước kẻ thù, một chiến thắng mà chúng ta phải trả giá rất đắt, Stalin bắt đầu đàn áp nhiều nhà chỉ huy quân sự đã đóng góp không nhỏ vào chiến thắng kẻ thù, vì Stalin loại trừ mọi khả năng những công trạng đạt được trên các mặt trận có thể được ghi nhận cho bất kỳ ai khác ngoài chính ông ta. Stalin rất quan tâm đến việc đánh giá đồng chí Zhukov như một nhà chỉ huy quân sự. Ông ta nhiều lần hỏi ý kiến tôi về Zhukov, và tôi nói với ông ta: “Tôi biết Zhukov từ lâu, ông ấy là một tướng giỏi, một chỉ huy xuất sắc.”
Sau chiến tranh, Stalin bắt đầu kể đủ thứ truyện bịa đặt về Zhukov, có lần, ông ta nói với tôi: “Anh từng khen ngợi Zhukov, nhưng ông ta không xứng đáng với điều đó. Người ta nói rằng Zhukov, trước bất kỳ chiến dịch nào trên mặt trận, đều làm như sau: lấy một nắm đất, ngửi nó và sau đó nói: có thể bắt đầu tấn công, hoặc ngược lại, không thể tiến hành chiến dịch đã định.”
Tôi đáp lại lúc đó: “Tôi không biết, đồng chí Stalin, ai đã nghĩ ra chuyện này, nhưng đó không phải sự thật.”
Có lẽ chính Stalin đã nghĩ ra những chuyện như vậy để hạ thấp vai trò và khả năng quân sự của Nguyên soái Zhukov.
Liên quan đến điều này, tự Stalin rất tích cực quảng bá bản thân như một nhà chỉ huy vĩ đại, bằng mọi cách cố gắng gieo vào nhận thức mọi người một phiên bản rằng tất cả các chiến thắng đạt được bởi nhân dân Xô viết trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại là kết quả của lòng dũng cảm, sự thiện chiến và thiên tài của Stalin, chứ không phải ai khác. Giống như Kuzma Kryuchkov – một mình đâm bảy kẻ thù bằng ngọn giáo. (Tiếng xôn xao trong hội trường.)
Thật vậy, hãy nhìn vào các bộ phim lịch sử và quân sự của chúng ta hoặc một số tác phẩm văn học mà đọc thấy ghê tởm. Tất cả chúng được tạo ra để tuyên truyền chính phiên bản này, nhằm tôn vinh Stalin như một nhà chỉ huy thiên tài. Chỉ cần nhớ một phân cảnh trong “Sự sụp đổ của Berlin.” Trong đó chỉ có một mình Stalin hành động: ông ta ra chỉ thị trong một căn phòng chỉ toàn ghế trống, và chỉ có một người đến báo cáo gì đó với ông – đó là Poskrebyshev, người cận vệ trung thành của ông. (Tiếng cười trong hội trường.)
Vậy ban lãnh đạo quân sự đâu? Bộ Chính trị đâu? Chính phủ đâu? Họ đang làm gì và đang nghiên cứu cái gì? Điều đó không có trong phim. Một mình Stalin hành động thay cho tất cả, không quan tâm bất kì ai và không tham khảo ý kiến nào. Mọi thứ được trình bày với người dân theo cách méo mó như vậy. Để làm gì? Để tôn vinh Stalin, và tất cả điều này – bất chấp thực tế, bất chấp sự thật lịch sử.
Câu hỏi đặt ra là, các nhà quân sự của chúng ta, những người đã gánh vác toàn bộ gánh nặng của chiến tranh, ở đâu? Họ không có trong phim, không còn chỗ cho họ sau Stalin.
Không phải Stalin, mà toàn thể Đảng, Chính phủ Xô viết, quân đội anh hùng của chúng ta, các nhà chỉ huy tài năng và những chiến binh dũng cảm, toàn thể nhân dân Xô viết – đó là những người đảm bảo chiến thắng trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. (Vỗ tay nồng nhiệt, kéo dài.)
Các thành viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, các bộ trưởng, các nhà kinh tế, các nhà hoạt động văn hóa Xô viết, các lãnh đạo của các tổ chức Đảng và Xô viết địa phương, các kỹ sư và kỹ thuật viên – mỗi người ở vị trí của mình đã hết mình cống hiến sức lực và kiến thức để đảm bảo chiến thắng trước kẻ thù.
Hậu phương của chúng ta – giai cấp công nhân vinh quang, nông dân tập thể, trí thức Xô viết - đã thể hiện sự anh hùng đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, vượt qua những khó khăn và thiếu thốn không thể tưởng tượng nổi của thời chiến, cống hiến tất cả sức lực của mình cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Phụ nữ Xô viết của chúng ta đã thực hiện một kỳ tích vĩ đại trong chiến tranh, gánh vác gánh nặng khổng lồ của công việc sản xuất tại các nhà máy và nông trường tập thể, tại các lĩnh vực kinh tế và văn hóa khác nhau, nhiều phụ nữ trực tiếp tham gia trên các mặt trận Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, thanh niên dũng cảm của chúng ta, đã đóng góp vô giá vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Xô viết, vào sự nghiệp đánh bại kẻ thù trên mọi lĩnh vực của mặt trận và hậu phương.
Công lao của các chiến sĩ Xô viết, các chỉ huy quân sự và chính trị viên ở mọi cấp độ là bất tử, những người trong những tháng đầu của chiến tranh, dù mất một phần đáng kể của quân đội, không hoảng loạn mà đã kịp thời tổ chức lại, đào tạo và rèn giũa trong chiến tranh một đội quân hùng mạnh và anh hùng, không chỉ đẩy lùi được kẻ thù mạnh mẽ và xảo quyệt mà còn đánh bại chúng.
Kỳ tích vĩ đại nhất của nhân dân Xô viết trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại là đã cứu hàng trăm triệu người ở phương Đông và phương Tây khỏi mối đe dọa của ách nô lệ phát xít, sẽ sống mãi trong ký ức của nhân loại biết ơn qua hàng thế kỷ và thiên niên kỷ. (Vỗ tay nồng nhiệt.)
Vai trò chính và công lao chính trong việc hoàn thành chiến thắng thuộc về Đảng Cộng sản của chúng ta, Lực lượng Vũ trang Liên Xô, hàng triệu và hàng triệu người Xô viết được Đảng nuôi dưỡng. (Vỗ tay nồng nhiệt, kéo dài.)
Thưa các đồng chí! Hãy chuyển sang một số sự kiện khác. Liên Xô được coi là hình mẫu của một nhà nước đa dân tộc, bởi vì trên thực tế, chúng ta đã đảm bảo sự bình đẳng và tình hữu nghị của tất cả các dân tộc sinh sống trên Tổ quốc vĩ đại của chúng ta.
Do đó, những hành động mà Stalin khởi xướng, đại diện cho sự vi phạm thô bạo các nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc của Lenin trong nhà nước Xô viết, càng trở nên đáng phẫn nộ. Chúng ta đang nói về việc trục xuất hàng loạt toàn bộ các dân tộc khỏi quê hương của họ, bao gồm tất cả các đảng viên cộng sản và đoàn viên thanh niên cộng sản mà không có bất kỳ ngoại lệ nào. Hơn nữa, việc trục xuất như vậy không hề được biện minh bởi các lý do quân sự.
Chẳng hạn, cuối năm 1943, khi tình hình trên các mặt trận của Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại đã có bước ngoặt vững chắc có lợi cho Liên Xô, một quyết định đã được đưa ra và thực hiện để trục xuất tất cả người Karachay khỏi lãnh thổ họ đang sinh sống. Cùng thời điểm đó, vào cuối tháng 12 năm 1943, số phận tương tự đã xảy đến với toàn bộ dân chúng của Cộng hòa Tự trị Kalmyk. Tháng 3 năm 1944, tất cả người Chechen và Ingush bị trục xuất khỏi quê hương của họ, và Cộng hòa Tự trị Chechen-Ingush bị giải thể. Vào tháng 4 năm 1944, tất cả người Balkar bị trục xuất khỏi lãnh thổ Cộng hòa Tự trị Kabardino-Balkaria đến các vùng xa xôi, và chính nước cộng hòa này bị đổi tên thành Cộng hòa Tự trị Kabardian. Người Ukraine đã tránh được số phận này vì họ quá đông và không có nơi nào để trục xuất họ đến. Nếu không, ông ta cũng sẽ trục xuất họ. (Tiếng cười, xôn xao trong hội trường.)
Trong ý thức không chỉ của người Marxist-Leninist mà của bất kỳ người nào có suy nghĩ lành mạnh, không thể chấp nhận được tình trạng như vậy – làm sao có thể quy trách nhiệm về những hành động thù địch của một vài cá nhân hoặc nhóm người lên toàn bộ dân tộc, bao gồm phụ nữ, trẻ em, người già, đảng viên cộng sản và đoàn viên thanh niên, và bắt họ chịu đàn áp hàng loạt, bị thiếu thốn và đau khổ.
Sau khi Chiến tranh Vệ quốc kết thúc, nhân dân Xô viết tự hào kỷ niệm những chiến thắng vẻ vang đạt được bằng những hy sinh lớn lao và những nỗ lực đáng kinh ngạc. Đất nước đang trải qua sự thay đổi lớn về chính trị. Đảng đã ra khỏi chiến tranh và đoàn kết hơn nữa; trong ngọn lửa chiến tranh các cán bộ Đảng đã được tôi luyện. Trong những điều kiện này, không ai có thể nghĩ đến khả năng có bất kỳ âm mưu nào trong Đảng.
Và trong giai đoạn này, cái gọi là “vụ án Leningrad” đột nhiên xuất hiện. Như giờ đây đã được chứng minh, vụ án này là bịa đặt. Các đồng chí Voznesensky, Kuznetsov, Rodionov, Popkov và những người khác đã chết một cách vô tội.
Được biết, Voznesensky và Kuznetsov là những cán bộ nổi bật và tài năng. Vào thời điểm đó, họ từng thân cận với Stalin. Chỉ cần nói thế này là đủ biết, Stalin từng đề cử Voznesensky làm Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng, còn Kuznetsov được bầu làm Bí thư Ban Chấp hành Trung ương. Chỉ riêng việc Stalin giao cho Kuznetsov nhiệm vụ giám sát các cơ quan an ninh nhà nước đã cho thấy mức độ tin tưởng mà ông ta dành cho Kuznetsov.
Vậy làm sao những người này lại bị tuyên bố là kẻ thù của nhân dân và bị tiêu diệt?
Các sự kiện cho thấy “vụ án Leningrad” cũng là kết quả của sự tùy tiện mà Stalin đã thực hiện đối với các cán bộ của Đảng.
Nếu trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương, có một bầu không khí bình thường, nơi các vấn đề như vậy được thảo luận như quy định trong Đảng, và tất cả các sự kiện được cân nhắc, thì vụ án này cũng như các vụ án tương tự khác đã không xảy ra.
Cần nói rằng trong thời hậu chiến, tình hình thậm chí phức còn tạp hơn. Stalin trở nên thất thường, cáu kỉnh, thô bạo hơn, đặc biệt là sự nghi ngờ của ông ta ngày càng gia tăng. Cơn cuồng tín đàn áp đã phát triển đến mức không thể tin nổi. Nhiều cán bộ trở thành kẻ thù trong mắt ông ta. Sau chiến tranh, Stalin càng tách mình khỏi tập thể, hành động hoàn toàn độc lập, không thèm đếm xỉa đến bất kỳ ai hay bất kỳ điều gì.
Sự đa nghi không thể tưởng tượng được của Stalin đã bị tên kích động hèn hạ, kẻ thù đê tiện Beria lợi dụng một cách khéo léo, kẻ đã tiêu diệt hàng ngàn đảng viên cộng sản và những người Xô viết trung thực. Việc đề bạt Voznesensky và Kuznetsov khiến Beria sợ hãi. Như giờ đã được xác minh, chính Beria đã “tung” cho Stalin các tài liệu ngụy tạo do ông ta và tay sai soạn thảo dưới dạng các tuyên bố, thư nặc danh, tin đồn và các cuộc trò chuyện khác nhau.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xem xét cái gọi là “vụ án Leningrad,” những người bị hại vô tội giờ đây đã được minh oan, danh dự của tổ chức Đảng Leningrad vẻ vang đã được khôi phục. Những kẻ ngụy tạo vụ án này – Abakumov và những người khác – đã bị đưa ra xét xử, họ bị xét xử ở Leningrad và nhận hình phạt thích đáng.
Câu hỏi đặt ra: tại sao bây giờ chúng ta có thể làm sáng tỏ vụ án này, nhưng trước đó, khi Stalin còn sống, chúng ta không làm được, để ngăn chặn cái chết của những người vô tội? Bởi vì chính Stalin đã định hướng “vụ án Leningrad” và phần lớn các thành viên Bộ Chính trị thời kỳ đó không biết hết các tình tiết của vụ án, và tất nhiên, không thể can thiệp.
Ngay khi Stalin nhận được một số tài liệu từ Beria và Abakumov, ông ta, không xem xét bản chất của những tài liệu giả mạo này, đã ra lệnh điều tra “vụ án” của Voznesensky và Kuznetsov. Và điều đó đã định đoạt số phận của họ.
Một trường hợp mang tính giáo dưỡng khác là vụ án về cái gọi là tổ chức dân tộc chủ nghĩa Mingrelian ở Gruzia. Như đã biết, tháng 11 năm 1951 và tháng 3 năm 1952, các quyết định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã được thông qua liên quan đến vấn đề này. Các quyết định này được đưa ra mà không có thảo luận trong Bộ Chính trị, Stalin tự mình đọc cho ghi các quyết định này. Trong đó, đưa ra các cáo buộc nghiêm trọng chống lại nhiều đảng viên cộng sản trung thực. Dựa trên các tài liệu giả mạo, người ta khẳng định rằng ở Gruzia dường như tồn tại một tổ chức dân tộc chủ nghĩa nhằm lật đổ chính quyền Xô viết ở nước cộng hòa này với sự hỗ trợ của các quốc gia đế quốc.
Liên quan đến vụ việc này, một số cán bộ Đảng và và công nhân Xô viết có trách nhiệm tại Gruzia đã bị bắt giữ. Như sau này đã xác minh, đây là sự vu khống chống lại tổ chức Đảng Gruzia.
Chúng ta biết rằng ở Gruzia, cũng như ở một số nước cộng hòa khác, đã có thời điểm có biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc tư sản địa phương. Câu hỏi đặt ra là, liệu vào thời điểm các quyết định trên được đưa ra, các xu hướng dân tộc chủ nghĩa có thực sự phát triển đến mức có nguy cơ Gruzia rời khỏi Liên Xô và gia nhập nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ? (Tiếng xôn xao, cười trong hội trường.)
Tất nhiên, đó là điều vô lý. Thật khó để tưởng tượng làm sao những giả định như vậy có thể xuất hiện trong đầu. Mọi người đều biết Gruzia đã tiến bộ như thế nào về kinh tế và văn hóa trong những năm dưới chính quyền Xô viết.
Sản lượng công nghiệp của Cộng hòa Gruzia cao gấp 27 lần so với Gruzia trước cách mạng. Nhiều ngành công nghiệp vốn không tồn tại trước cách mạng đã được hình thành: luyện kim đen, công nghiệp dầu mỏ, chế tạo máy móc và những ngành khác. Tình trạng mù chữ của dân chúng đã được xóa bỏ từ lâu, trong khi ở Gruzia trước cách mạng, có tới 78% dân số mù chữ.
So sánh tình hình trong nước của mình với tình trạng khó khăn của người lao động ở Thổ Nhĩ Kỳ, liệu người Gruzia có thể muốn gia nhập Thổ Nhĩ Kỳ? Năm 1955, sản lượng thép bình quân đầu người ở Thổ Nhĩ Kỳ thấp hơn 18 lần so với ở Gruzia. Gruzia sản xuất lượng điện bình quân đầu người cao gấp 9 lần so với Thổ Nhĩ Kỳ. Theo điều tra dân số năm 1950, 65% dân số Thổ Nhĩ Kỳ mù chữ, và ở nữ giới, con số này là khoảng 80%. Ở Gruzia, có 19 cơ sở giáo dục đại học với khoảng 39.000 sinh viên, nhiều gấp 8 lần so với Thổ Nhĩ Kỳ (tính trên mỗi nghìn dân). Trong những năm dưới chính quyền Xô viết, mức sống vật chất của người lao động ở Gruzia đã được nâng cao không thể đo lường.
Rõ ràng là ở Gruzia, khi nền kinh tế và văn hóa phát triển, khi ý thức xã hội chủ nghĩa của người lao động càng tăng, thì nguồn nuôi dưỡng chủ nghĩa dân tộc tư sản đang ngày càng biến mất.
Và như đã được xác định, thực tế không có tổ chức dân tộc chủ nghĩa nào ở Gruzia. Hàng ngàn người Xô viết vô tội đã trở thành nạn nhân của sự tùy tiện và vô luật pháp. Và tất cả điều này được thực hiện dưới sự lãnh đạo “thiên tài” của Stalin – “người con vĩ đại của dân tộc Gruzia,” như người Gruzia thường gọi người đồng hương của họ. (Tiếng xôn xao trong hội trường.)
Sự tùy tiện của Stalin không chỉ thể hiện trong việc giải quyết các vấn đề nội bộ đất nước, mà còn trong lĩnh vực quan hệ quốc tế của Liên Xô.
Tại Hội nghị Toàn thể Trung ương tháng Bảy, những nguyên nhân dẫn đến xung đột với Nam Tư được thảo luận chi tiết. Đồng thời, vai trò không mấy chính trực của Stalin đã được lưu ý. Bởi vì trong “vụ án Nam Tư,” không có vấn đề nào mà không thể giải quyết thông qua thảo luận thân thiện trong Đảng. Không có căn cứ nghiêm trọng nào cho sự xuất hiện của “vụ án” này; hoàn toàn có thể tránh được sự rạn nứt với quốc gia này. Tuy nhiên, không có nghĩa là các lãnh đạo Nam Tư không có sai lầm hay thiếu sót. Nhưng những sai lầm và thiếu sót này đã bị Stalin phóng đại một cách thái quá, dẫn đến sự đổ vỡ quan hệ với một quốc gia thân thiện với chúng ta.
Tôi nhớ lại những ngày đầu khi xung đột giữa Liên Xô và Nam Tư bắt đầu được thổi phồng một cách giả tạo. Một lần, khi tôi từ Kyiv đến Moskva, Stalin mời tôi đến và, chỉ vào bản sao của một lá thư vừa gửi cho Tito, hỏi: “Đã đọc chưa?”
Và không đợi câu trả lời, ông ta nói: “Chỉ cần tôi ngoắc ngón tay út – và Tito sẽ biến mất. Ông ta sẽ ngã…”
Cái “ngoắc ngón tay út” này đã khiến chúng ta phải trả giá đắt. Tuyên bố này phản ánh nỗi ám ảnh về sự vĩ đại của Stalin, bởi vì ông ta hành động như vậy: ngoắc ngón tay út – và Kosior biến mất, ngoắc thêm lần nữa – và Postyshev, Chubar biến mất, ngoắc lần nữa – và Voznesensky, Kuznetsov và nhiều người khác biến mất.
Nhưng với Tito thì không như vậy. Dù Stalin ngoắc không chỉ ngón tay út mà cả mọi thứ có thể, Tito vẫn không ngã ngựa. Tại sao? Bởi vì trong cuộc tranh cãi với các đồng chí Nam Tư, Tito có cả một nhà nước đứng sau, một dân tộc đã trải qua trường đấu tranh khắc nghiệt vì tự do và độc lập của mình, một dân tộc ủng hộ các lãnh đạo của họ.
Đó là kết quả của chứng hoang tưởng tự đại của Stalin. Ông ta hoàn toàn mất đi cảm giác về thực tế, thể hiện sự đa nghi và kiêu ngạo không chỉ đối với các cá nhân trong nước mà còn trong mối quan hệ với hàng loạt đảng và quốc gia.
Giờ đây, chúng ta đã xem xét kỹ lưỡng vấn đề với Nam Tư và tìm ra giải pháp đúng đắn, được nhân dân Liên Xô, Nam Tư, mọi người lao động các nước dân chủ nhân dân và toàn thể nhân loại tiến bộ tán thành. Việc xóa bỏ mối quan hệ bất thường với Nam Tư được thực hiện vì lợi ích của toàn bộ phe xã hội chủ nghĩa, vì lợi ích củng cố hòa bình trên toàn thế giới.
Cũng cần nhắc đến “vụ án bác sĩ phá hoại.” (Tiếng xôn xao trong hội trường.) Thực ra, không có “vụ án” nào, ngoài tuyên bố của bác sĩ Timashuk, người có lẽ chịu sự chi phối của ai đó hoặc theo chỉ thị (vì bà ta là một cộng tác viên bí mật của các cơ quan an ninh nhà nước), đã viết thư gửi Stalin, tuyên bố rằng các bác sĩ dường như đang áp dụng các phương pháp điều trị sai trái.
Chỉ cần một lá thư như vậy gửi đến Stalin là đã đủ, ông ta ngay lập tức kết luận rằng ở Liên Xô có những bác sĩ phá hoại, và ra lệnh bắt giữ một nhóm chuyên gia y tế hàng đầu của Liên Xô. Ông ta tự mình đưa ra chỉ thị về cách tiến hành điều tra, cách thẩm vấn những người bị bắt. Ông ta nói: hãy cùm tay viện sĩ Vinogradov, hãy đánh người này người nọ. Có mặt tại đại hội này là đồng chí Ignatyev, cựu Bộ trưởng An ninh Nhà nước. Stalin đã nói thẳng với ông ấy: “Nếu anh không lấy được lời thú tội của các bác sĩ, anh sẽ mất đầu.” (Tiếng xôn xao phẫn nộ trong hội trường.)
Stalin đích thân triệu tập điều tra viên, hướng dẫn, chỉ định các phương pháp điều tra, và phương pháp duy nhất chỉ có một – đánh, đánh và đánh.
Một thời gian sau khi các bác sĩ bị bắt, chúng tôi, các thành viên Bộ Chính trị, nhận được các biên bản với lời thú tội của các bác sĩ. Sau khi gửi các biên bản này, Stalin nói với chúng tôi: “Các anh là những kẻ mù lòa, là lũ mèo con, điều gì sẽ xảy ra nếu không có tôi – đất nước sẽ diệt vong, vì các anh không thể nhận ra kẻ thù.”
Vụ án được dàn dựng sao cho không ai có thể xác minh các sự kiện làm cơ sở cho cuộc điều tra. Không có cách nào có thể kiểm tra sự thật bằng cách liên lạc với những người đã đưa ra những lời thú tội này.
Nhưng chúng tôi cảm thấy rằng vụ án bắt giữ các bác sĩ là một vụ việc không sạch sẽ. Chúng tôi biết đích danh nhiều người trong số họ, họ đã chữa trị cho chúng tôi. Và khi sau cái chết của Stalin, xem xét cách thức “vụ án” này được ngụy tạo, chúng tôi thấy rằng nó hoàn toàn là giả từ đầu đến cuối.
Vụ án đáng hổ thẹn này do Stalin tạo dựng, nhưng ông ta không kịp hoàn thành nó (theo ý của ông ta), và vì vậy các bác sĩ vẫn còn sống. Giờ đây, tất cả họ đã được minh oan, làm việc ở những vị trí như trước, chữa trị cho các lãnh đạo, bao gồm cả các thành viên Chính phủ. Chúng tôi hoàn toàn tin tưởng họ, và họ đang thực hiện nhiệm vụ của mình một cách tận tâm, như trước đây.
Trong việc tổ chức nhiều vụ án bẩn thỉu và đáng hổ thẹn, kẻ thù nguy hiểm của Đảng ta, đặc vụ của tình báo nước ngoài Beria, người chiếm được lòng tin của Stalin, đã đóng một vai trò đê tiện. Làm thế nào tên khiêu khích này có thể đạt được vị trí như vậy trong Đảng và nhà nước, trở thành Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô và Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương? Giờ đây đã xác định rằng tên khốn này đã leo lên nấc thang quyền lực của nhà nước qua vô số xác người trên mỗi bậc thang.
Có tín hiệu nào cho thấy Beria là kẻ thù của Đảng không? Có, có tín hiệu. Trở lại năm 1937, tại Hội nghị Toàn thể Trung ương, cựu Bộ trưởng Y tế Kaminsky đã nói rằng Beria làm việc cho tình báo Mussavat. Hội nghị Toàn thể Trung ương chưa kết thúc, Kaminsky đã bị bắt và sau đó bị xử bắn. Stalin có kiểm tra lời tuyên bố của Kaminsky không? Không, bởi vì Stalin tin Beria, và điều đó đủ đối với ông ta. Và nếu Stalin tin, thì không ai có thể nói điều gì trái với ý kiến của ông ta; bất kỳ ai dám phản đối sẽ chịu số phận như Kaminsky.
Cũng có những tín hiệu khác. Tuyên bố của đồng chí Snegov gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng (nhân tiện, ông ta mới được minh oan sau 17 năm trong các trại giam) rất đáng chú ý. Trong tuyên bố của mình, ông viết: “Liên quan đến vấn đề minh oan cho cựu thành viên Ban Chấp hành Trung ương Kartvelishvili-Lavrentiev, tôi đã cung cấp cho đại diện Ủy ban An ninh Quốc gia (KGB) những lời khai chi tiết về vai trò của Beria trong việc đàn áp Kartvelishvili và những động cơ dẫn dắt Beria phạm tội.
Tôi cho rằng cần khôi phục một sự kiện quan trọng liên quan đến vấn đề này và báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương, vì tôi thấy không tiện đưa nó vào các tài liệu điều tra.
Ngày 30 tháng 10 năm 1931, tại cuộc họp của Ban Tổ chức Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Bí thư Ủy ban Khu vực Ngoại Kavkaz Kartvelishvili đã trình bày báo cáo. Tất cả các thành viên của văn phòng ủy ban khu vực đều có mặt, trong số đó tôi là người duy nhất còn sống sót. Tại cuộc họp này, khi kết thúc bài phát biểu của mình, I.V. Stalin đã đề xuất thành lập ban thư ký Ủy ban Khu vực Ngoại Kavkaz gồm: Bí thư thứ nhất là Kartvelishvili, Bí thư thứ hai là Beria (đây là lần đầu tiên trong lịch sử Đảng, cái tên Beria được đề cử cho một chức vụ trong Đảng), ngay lập tức Kartvelishvili đã phản đối mạnh mẽ, nói rằng ông biết rõ Beria và do đó kiên quyết từ chối làm việc với ông ta. Sau đó, I.V. Stalin đề nghị để ngỏ vấn đề này và sẽ giải quyết theo trình tự làm việc. Hai ngày sau, có quyết định đề bạt Beria vào công tác Đảng và chuyển Kartvelishvili ra khỏi Khu vục Ngoại Kavkaz.
Điều này có thể được xác nhận bởi các đồng chí A.I. Mikoyan và L.M. Kaganovich, những người có mặt tại cuộc họp đó.
Mối quan hệ thù địch lâu dài giữa Kartvelishvili và Beria được nhiều người biết; nguồn gốc của nó bắt đầu từ thời đồng chí Sergo làm việc ở Khu vục Ngoại Kavkaz, vì Kartvelishvili là trợ lý thân cận của Sergo. Chính điều này đã tạo cơ sở cho Beria ngụy tạo “vụ án” chống lại Kartvelishvili.
Đặc biệt, trong “vụ án” này, Kartvelishvili bị cáo buộc về hành động khủng bố chống lại Beria.”
Trong bản cáo trạng về vụ án của Beria, các tội ác của ông ta đã được trình bày chi tiết. Nhưng có một số điều đáng nhắc lại, đặc biệt vì có thể không phải tất cả các đại biểu đại hội đã đọc tài liệu này. Ở đây, tôi muốn nhắc lại việc Beria đã đàn áp dã man Kedrov, Golubev và mẹ nuôi của Golubev – bà Baturina, những người đã cố gắng báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương về hoạt động phản động của Beria. Họ bị bắn mà không qua xét xử, và bản án được hợp thức hóa sau khi đã xử bắn. Dưới đây là những gì đồng chí Kedrov, một đảng viên Bolshevik kỳ cựu, đã viết trong thư gửi đồng chí Andreyev (đồng chí Andreyev lúc đó là Bí thư Ban Chấp hành Trung ương): “Từ phòng giam tối tăm của nhà tù Lefortovo, tôi kêu gọi sự giúp đỡ. Hãy lắng nghe tiếng kêu kinh hoàng này, đừng bỏ qua, hãy đứng ra bảo vệ, hãy giúp xóa tan cơn ác mộng của các cuộc thẩm vấn, hãy vạch trần sai lầm.
Tôi đang chịu đau khổ oan ức. Hãy tin tôi. Thời gian sẽ chứng minh. Tôi không phải là đặc vụ-khiêu khích của cảnh sát mật Sa hoàng, không phải gián điệp, không phải thành viên của một tổ chức phản Xô viết, như tôi bị cáo buộc dựa trên những lời vu khống. Và tôi chưa bao giờ phạm bất kỳ tội ác nào chống lại Đảng và Tổ quốc. Tôi là một Bolshevik kỳ cựu trong sạch, đã chiến đấu trung thực gần 40 năm trong hàng ngũ của Đảng vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân…
…Giờ đây, tôi, một ông già 62 tuổi, bị các điều tra viên đang đe dọa tra tấn thể xác nặng nề, tàn nhẫn và nhục nhã hơn nữa. Họ không còn khả năng nhận ra sai lầm của mình và thừa nhận tính bất hợp pháp và không thể chấp nhận được của hành vi đối với tôi. Họ tìm cách biện minh điều này bằng cách miêu tả tôi như một kẻ thù nguy hiểm nhất, không chịu đầu hàng, và đòi gia tăng đàn áp. Nhưng hãy để Đảng biết rằng tôi vô tội và không biện pháp nào có thể biến một người con trung thành của Đảng, tận tụy với Đảng đến cuối đời, thành kẻ thù.
Nhưng tôi không có lối thoát. Tôi bất lực, không thể chống lại những đòn giáng nặng nề mới sắp đến.
Tuy nhiên, mọi thứ đều có giới hạn. Tôi đã kiệt sức hoàn toàn. Sức khỏe suy sụp, sức lực và năng lượng cạn kiệt, kết cục đang đến gần. Chết trong nhà tù Xô viết với nhãn hiệu của một kẻ phản bội khốn nạn và phản quốc – còn gì khủng khiếp hơn đối với một người trung thực. Thật kinh hoàng! Nỗi đau và sự cay đắng vô hạn bóp nghẹt trái tim tôi. Không, không! Điều này sẽ không xảy ra, không được phép xảy ra, tôi kêu thét lên. Cả Đảng, Chính phủ Xô viết và Bộ trưởng L.P. Beria sẽ không để xảy ra sự bất công tàn nhẫn, không thể sửa chữa này.
Tôi tin chắc rằng với một cuộc điều tra bình tĩnh, khách quan, không có những lời chửi bới kinh tởm, không có sự giận dữ, không có những hành vi tra tấn khủng khiếp, sự vô căn cứ của các cáo buộc sẽ dễ dàng được xác định. Tôi tin sâu sắc rằng sự thật và công lý sẽ chiến thắng. Tôi tin, tôi tin.”
Đồng chí Kedrov, một Bolshevik lão thành, đã được Hội đồng Quân sự tuyên vô tội. Nhưng, bất chấp điều này, ông đã bị bắn theo lệnh của Beria. (Tiếng xôn xao phẫn nộ trong hội trường.)
Beria cũng đã thực hiện hành vi trả thù tàn bạo đối với gia đình đồng chí Ordzhonikidze. Tại sao? Bởi vì Ordzhonikidze cản trở Beria thực hiện những âm mưu xảo quyệt của hắn. Beria dọn đường cho mình bằng cách loại bỏ tất cả những người có thể ngáng đường hắn. Ordzhonikidze luôn chống đối Beria, ông nói điều này với Stalin. Thay vì xem xét và thực hiện các biện pháp cần thiết, Stalin đã cho phép giết anh trai Ordzhonikidze, và đẩy chính Ordzhonikidze vào tình trạng tồi tệ đến mức ông buộc phải tự sát. (Tiếng xôn xao phẫn nộ trong hội trường.) Đó là con người thật của Beria.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã vạch trần Beria ngay sau cái chết của Stalin. Qua quá trình xét xử kỹ lưỡng, những tội ác khủng khiếp của Beria đã được xác định, và hắn đã bị bắn.
Câu hỏi đặt ra là, tại sao Beria, kẻ đã tiêu diệt hàng chục ngàn cán bộ Đảng và Xô viết, không bị vạch trần khi Stalin còn sống? Hắn không bị vạch trần trước đó bởi vì hắn đã khéo léo lợi dụng những điểm yếu của Stalin, kích động sự đa nghi của ông ta, làm hài lòng Stalin trong mọi việc, hành động với sự hỗ trợ của ông ta.
Thưa các đồng chí! Sự sùng bái cá nhân đã đạt đến những quy mô khủng khiếp chủ yếu bởi vì chính Stalin đã khuyến khích và ủng hộ việc tôn vinh cá nhân ông ta. Nhiều sự kiện chứng minh điều này. Một trong những biểu hiện đặc trưng nhất của sự tự ca ngợi và thiếu khiêm tốn cơ bản ở Stalin là việc xuất bản “Tiểu sử ngắn” của ông, được phát hành vào năm 1948.
Cuốn sách này là biểu hiện của sự tâng bốc không giới hạn, một ví dụ về việc thần thánh hóa một con người, biến ông ta thành một nhà hiền triết không bao giờ sai lầm, “lãnh tụ vĩ đại nhất” và “nhà chỉ huy vô song của mọi thời đại và mọi dân tộc.” Không còn từ ngữ nào hơn để ca ngợi vai trò của Stalin.
Không cần phải trích dẫn những đặc điểm nịnh hót đến phát nôn được chất đống trong cuốn sách này. Chỉ cần nhấn mạnh rằng tất cả chúng đều được Stalin đích thân phê duyệt và biên tập, và một số đoạn được chính ông viết tay vào bản thảo cuốn sách.
Vậy Stalin thấy cần phải viết gì vào cuốn sách này? Ông có cố gắng kiềm chế sự nhiệt tình nịnh hót của những người biên soạn “Tiểu sử ngắn” của ông không? Không. Ông đã nhấn nhá chính những đoạn mà việc ca ngợi công trạng của ông dường như với ông là chưa đủ.
Dưới đây là một số đặc điểm về hoạt động của Stalin, được chính tay Stalin viết:
“Trong cuộc đấu tranh với những kẻ thiếu niềm tin và những kẻ đầu hàng, những kẻ theo chủ nghĩa Trotsky, Zinoviev, Bukharin và Kamenev, sau khi Lenin, một hạt nhân lãnh đạo của Đảng ta đã được hình thành… hạt nhân này đã bảo vệ ngọn cờ vĩ đại của Lenin, đoàn kết Đảng xung quanh những di huấn của Lenin và dẫn dắt nhân dân Liên Xô trên con đường rộng lớn của công nghiệp hóa đất nước và tập thể hóa nông nghiệp. Người lãnh đạo của hạt nhân này và là lực lượng dẫn dắt của Đảng và Nhà nước là đồng chí Stalin.”
Là chính Stalin đã viết điều này! Ông ta còn bổ sung:
“Hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ của lãnh tụ Đảng và nhân dân, được toàn thể nhân dân Liên Xô hoàn toàn ủng hộ, tuy nhiên, Stalin không cho phép trong hoạt động của mình, dù một chút, biểu hiện tự cao, kiêu ngạo hay tự mãn”.
Ở đâu và khi nào một nhân vật có thể tự tôn vinh mình như vậy? Liệu điều này có xứng đáng với một nhà hoạt động theo kiểu Marx-Lenin không? Không. Đây chính là điều mà Marx và Engels đã kiên quyết phản đối. Đây cũng là điều mà Vladimir Ilyich Lenin luôn mạnh mẽ lên án.
Trong bản thảo của cuốn sách có câu: “Stalin là Lenin ngày nay.” Câu này dường như chưa đủ mạnh đối với ông ta, và Stalin đã tự tay chỉnh sửa thành: “Stalin là người tiếp nối xứng đáng sự nghiệp của Lenin, hoặc như cách nói trong Đảng ta, Stalin là Lenin ngày nay.”
Thật là một lối nói mạnh mẽ, nhưng không phải nhân dân nói, mà do chính Stalin tự nói về mình.
Có thể đưa ra vô số ví dụ về những lời tự ca ngợi tương tự được Stalin thêm vào bản thảo cuốn sách. Đặc biệt, ông ta không tiếc lời tự ca ngợi thiên tài quân sự và tài năng chỉ huy của mình.
Cho phép tôi trích dẫn thêm một đoạn do Stalin chèn vào liên quan đến thiên tài quân sự của ông ta:
Ông ta viết: “Đồng chí Stalin đã tiếp tục phát triển hơn nữa khoa học quân sự tiên tiến của Liên Xô. Đồng chí Stalin đã xây dựng lý luận về các yếu tố quyết định số phận của chiến tranh, về phòng thủ tích cực và các quy luật phản công, tấn công, về sự phối hợp giữa các binh chủng và kỹ thuật chiến đấu trong điều kiện chiến tranh hiện đại, về vai trò của khối lượng lớn xe tăng và máy bay trong chiến tranh hiện đại, về pháo binh – binh chủng mạnh nhất của lực lượng vũ trang. Trong các giai đoạn khác nhau của chiến tranh, thiên tài của Stalin đã tìm ra những giải pháp đúng đắn, hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của tình hình.” (Tiếng xôn xao trong hội trường.)
Tiếp theo, chính Stalin viết:
“Nghệ thuật quân sự của Stalin được thể hiện cả trong phòng thủ lẫn tấn công. Với sự sáng suốt thiên tài, đồng chí Stalin đã giải mã kế hoạch của kẻ thù và đánh bại chúng. Trong những trận đánh mà đồng chí Stalin chỉ huy các lực lượng Liên Xô, những mẫu mực xuất sắc của nghệ thuật tác chiến quân sự đã được thể hiện.”
Đó là cách Stalin được ca ngợi như một nhà chỉ huy quân sự. Nhưng bởi ai? Bởi chính Stalin, nhưng không phải với vai trò một nhà chỉ huy, mà với vai trò một tác giả – biên tập viên, một trong những người chủ chốt soạn thảo cuốn tiểu sử tự ca ngợi mình.
Đó là những sự thật, thưa các đồng chí. Phải thẳng thắn nói rằng đây là những sự thật đáng xấu hổ.
Và còn một sự thật nữa từ “Tiểu sử ngắn” của Stalin. Ai cũng biết rằng “Khóa học ngắn về lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik)” được một ủy ban của Ủy ban Trung ương Đảng soạn thảo. Tác phẩm này, nhân tiện, cũng thấm đẫm sự sùng bái cá nhân, được một nhóm tác giả thực hiện. Điều này được phản ánh trong bản thảo “Tiểu sử ngắn” của Stalin với câu sau:
“Ủy ban của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik), dưới sự lãnh đạo của đồng chí Stalin, với sự tham gia tích cực nhất của ông, đã tạo ra ‘Khóa học ngắn về lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik)’.”
Tuy nhiên, cách diễn đạt này vẫn chưa làm Stalin hài lòng, và trong “Tiểu sử tóm tắt” đã xuất bản, chỗ này đã được thay thế bằng:
“Vào năm 1938, cuốn sách ‘Khóa học ngắn về lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik’ là do đồng chí Stalin viết và được Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) phê duyệt đã được xuất bản.”
Còn gì để nói thêm nữa! (Tiếng xôn xao trong hội trường.)
Như các đồng chí thấy, một tác phẩm do tập thể tạo ra đã được biến thành một cuốn sách do Stalin viết. Không cần phải nói về cách thức và lý do xảy ra sự biến đổi này.
Câu hỏi chính đáng đặt ra là: nếu Stalin là tác giả của cuốn sách này, tại sao ông ta lại cần phải ca ngợi cá nhân Stalin đến vậy, và trên thực tế, biến toàn bộ giai đoạn lịch sử sau Cách mạng Tháng Mười của Đảng Cộng sản vinh quang của chúng ta chỉ thành bối cảnh cho những hành động của “thiên tài Stalin”?
Liệu cuốn sách này có phản ánh một cách xứng đáng những nỗ lực của Đảng trong việc cải tạo đất nước xã hội chủ nghĩa, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa và tập thể hóa đất nước, cũng như những biện pháp khác được Đảng thực hiện, kiên định đi theo con đường mà Lenin đã vạch ra? Trong đó chủ yếu nói về Stalin, các bài phát biểu và báo cáo của ông ta. Tất cả, không có ngoại lệ, đều gắn liền với tên của ông ta.
Và khi chính Stalin tuyên bố rằng ông ta là người viết “Khóa học ngắn về lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik)”, điều này ít nhất cũng gây ra sự ngạc nhiên và khó hiểu. Liệu một người Marxist-Leninist có thể viết về bản thân mình như vậy, nâng cao sự sùng bái cá nhân của mình lên đến tận trời?
Hoặc hãy xét đến vấn đề về các giải thưởng Stalin. (Tiếng xôn xao trong hội trường.) Ngay cả các sa hoàng cũng không lập ra những giải thưởng mang tên mình.
Chính Stalin đã công nhận phiên bản bài quốc ca Liên Xô là tốt nhất, trong đó không có một lời nào về Đảng Cộng sản, nhưng lại có những lời ca ngợi chưa từng có dành cho Stalin:
“Stalin đã nuôi dưỡng chúng ta – trung thành với nhân dân, truyền cảm hứng cho chúng ta trong lao động và những chiến công.”
Trong những dòng này của quốc ca, toàn bộ hoạt động giáo dục, lãnh đạo và truyền cảm hứng to lớn của Đảng Lenin vĩ đại đều được quy cho một mình Stalin. Đây rõ ràng là một sự lệch lạc khỏi chủ nghĩa Marx-Lenin, một sự hạ thấp và coi thường vai trò của Đảng. Xin báo để các đồng chí biết, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định soạn thảo một phiên bản mới của quốc ca, phản ánh vai trò của nhân dân và Đảng. (Tràng pháo tay nồng nhiệt, kéo dài.)
Và liệu có phải Stalin không biết rằng tên của ông ta được đặt cho nhiều doanh nghiệp và thành phố lớn nhất, rằng các tượng đài của Stalin – những “tượng đài khi còn sống” – được dựng lên trên khắp đất nước? Đây là sự thật rằng chính Stalin, vào ngày 2 tháng 7 năm 1951, đã ký nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô quy định việc xây dựng một bức tượng hoành tráng của Stalin trên kênh đào Volga-Don, và ngày 4 tháng 9 cùng năm, đã ban hành lệnh cấp 33 tấn đồng để xây dựng bức tượng này. Những ai từng ở gần Stalingrad đều thấy bức tượng đó cao chót vót ở một nơi ít người qua lại. Nhiều nguồn lực đã được chi cho việc xây dựng nó, trong khi người dân ở những khu vực này sau chiến tranh vẫn còn sống trong những căn hầm. Hãy tự đánh giá xem, liệu Stalin có đúng khi viết trong tiểu sử của mình rằng ông ta “không cho phép trong hoạt động của mình, dù một chút, biểu hiện tự cao, kiêu ngạo hay tự mãn”?
Đồng thời, Stalin đã tỏ ra thiếu tôn trọng đối với ký ức về Lenin. Không phải ngẫu nhiên mà Cung điện Xô Viết, một tượng đài tưởng niệm Vladimir Ilyich, được quyết định xây dựng cách đây hơn 30 năm, vẫn chưa được thực hiện, và công việc này liên tục bị trì hoãn và lãng quên. Chúng ta cần sửa chữa điều này và xây dựng tượng đài cho Vladimir Ilyich Lenin. (Tràng pháo tay nồng nhiệt, kéo dài.)
Cũng không thể không nhắc đến nghị quyết của Chính phủ Liên Xô ngày 14 tháng 8 năm 1925 về việc “Thành lập các giải thưởng V.I. Lenin cho các công trình khoa học”. Nghị quyết này đã được công bố trên báo chí, nhưng cho đến nay các giải thưởng Lenin vẫn chưa hiện hữu. Điều này cũng cần được sửa chữa. (Tràng pháo tay nồng nhiệt, kéo dài.)
Trong thời gian Stalin còn sống, nhờ những phương thức mà tôi đã đề cập, khi đưa ra các sự kiện, như cách viết “Tiểu sử ngắn của Stalin”, tất cả các sự kiện đều được trình bày như thể Lenin chỉ đóng vai trò thứ yếu, ngay cả trong Cách mạng Xã hội chủ nghĩa Tháng Mười. Trong nhiều bộ phim và tác phẩm văn học, hình tượng Lenin được thể hiện sai lệch, bị hạ thấp một cách không thể chấp nhận được.
Stalin rất thích xem bộ phim “Năm 1919 không thể quên”, trong phim ông ta được miêu tả đang đứng trên bục của một đoàn tàu bọc thép, gần như dùng một thanh kiếm tấn công kẻ thù. Hãy để đồng chí Kliment Efremovich, người bạn thân mến của chúng ta, lấy hết can đảm và viết sự thật về Stalin, vì ông ấy biết Stalin đã chiến đấu như thế nào. Tất nhiên, việc này không dễ với đồng chí Voroshilov, nhưng nếu ông ấy làm được, điều đó sẽ được toàn thể nhân dân và Đảng hoan nghênh. Và các thế hệ sau sẽ cảm ơn ông ấy vì điều này. (Tràng pháo tay kéo dài.)
Khi mô tả các sự kiện liên quan đến Cách mạng Tháng Mười và Nội chiến, trong nhiều trường hợp, mọi việc được trình bày như thể vai trò chính thuộc về Stalin, rằng ông ta luôn hướng dẫn Lenin phải làm gì và như thế nào. Nhưng đó là sự vu khống đối với Lenin! (Tràng pháo tay kéo dài.)
Tôi có lẽ không sai khi nói rằng 99% những người có mặt ở đây gần như không biết gì về Stalin trước năm 1924, trong khi cả đất nước biết đến Lenin; toàn đảng biết, toàn dân biết, từ trẻ nhỏ đến người già. (Tràng pháo tay nồng nhiệt, kéo dài.)
Tất cả những điều này cần được xem xét lại một cách kiên quyết, để vai trò của V.I. Lenin, những chiến công vĩ đại của Đảng Cộng sản và nhân dân Liên Xô – nhân dân sáng tạo, nhân dân xây dựng – được phản ánh đúng đắn trong lịch sử, văn học và các tác phẩm nghệ thuật. (Pháo tay.)
Thưa các đồng chí! Tệ sùng bái cá nhân đã góp phần phổ biến rộng các phương thức đồi bại trong công tác xây dựng Đảng và hoạt động kinh tế, vi phạm nghiêm trọng tính dân chủ trong nội bộ Đảng và Nhà nước Liên Xô, hiện trạng quản lý hành chính thuần túy, che đậy khuyết điểm và tô vẽ thực tế. Phát sinh không ít kẻ nịnh hót, thích tung hô và thích làm màu.
Không thể không thấy rằng, do hậu quả của nhiều vụ bắt bớ, nhiều cán bộ chúng ta trở nên thiếu tự tin khi làm việc, sợ hãi cái mới, e dè cả cái bóng của mình, và ít thể hiện sáng kiến hơn trong công việc.
Hãy xem các quyết định của các cơ quan Đảng và nhà nước. Chúng bắt đầu được soạn thảo theo khuôn mẫu, thường không tính đến tình hình cụ thể. Đến mức các bài phát biểu của cán bộ Đảng và các nhân viên khác, ngay cả trong những cuộc họp nhỏ nhất, đều được đọc theo giấy viết sẵn. Tất cả những điều này dẫn đến nguy cơ làm cho công tác Đảng và Nhà nước trở nên hình thức, quan liêu hóa bộ máy.
Sự xa rời cuộc sống của Stalin sự thiếu hiểu biết tình hình thực tế ở các địa phương của ông ta có thể thấy rõ qua ví dụ về cách ông quản lý nông nghiệp.
Bất kỳ ai quan tâm dù chỉ một chút đến tình hình đất nước đều thấy tình trạng nghiêm trọng của nông nghiệp, nhưng Stalin không nhận ra điều này. Chúng ta có nói với Stalin về điều này chưa? Có, chúng ta đã nói, nhưng ông ta không ủng hộ chúng ta. Tại sao lại như vậy? Vì Stalin không đi đâu cả, không gặp gỡ công nhân và nông trang viên, và không biết thực trạng ở các địa phương.
Ông ta nghiên cứu đất nước và nông nghiệp chỉ qua các bộ phim. Mà phim ảnh thì tô hồng, làm đẹp tình hình nông nghiệp. Cuộc sống nông thôn tập thể trong nhiều bộ phim được mô tả như thể các bàn ăn tràn ngập gà tây và ngỗng. Có lẽ Stalin nghĩ rằng thực tế cũng như vậy.
Vladimir Ilyich Lenin nhìn cuộc sống theo cách khác, ông luôn gắn bó chặt chẽ với nhân dân; tiếp đón những người nông dân đi bộ đến gặp ông, thường xuyên phát biểu tại các nhà máy, xí nghiệp, đến thăm các làng mạc, trò chuyện với nông dân.
Stalin tự cô lập mình khỏi nhân dân; ông ta không đi đâu cả. Và tình trạng này kéo dài hàng chục năm. Chuyến đi cuối cùng của ông ta đến nông thôn là tháng 1 năm 1928, khi đến Siberia để giải quyết vấn đề thu mua lương thực. Làm sao ông ta có thể biết được tình hình ở nông thôn?
Và trong một cuộc trò chuyện, khi Stalin được báo rằng tình hình nông nghiệp của chúng ta rất khó khăn, đặc biệt là tình trạng sản xuất thịt và các sản phẩm chăn nuôi khác rất tệ, một ủy ban đã được thành lập để soạn thảo dự thảo nghị quyết “Về các biện pháp phát triển hơn nữa chăn nuôi trong các nông trang tập thể và quốc doanh”. Chúng tôi đã soạn thảo một dự thảo như vậy.
Tất nhiên, các đề xuất của chúng tôi lúc đó chưa bao quát hết mọi khả năng, nhưng đã vạch ra những phương thức nhằm nâng cao chăn nuôi công cộng. Khi đó, chúng tôi đề xuất tăng giá thu mua các sản phẩm chăn nuôi để nâng cao lợi ích vật chất cho nông dân tập thể, công nhân các trạm máy kéo và nông trang quốc doanh trong việc phát triển chăn nuôi. Nhưng dự thảo do chúng tôi soạn thảo không được chấp nhận; tháng 2 năm 1953, nó bị hoãn lại.
Hơn nữa, khi xem xét dự thảo này, Stalin đề xuất tăng thuế đối với các nông trang tập thể và nông dân tập thể thêm 40 tỷ rúp, vì theo ông ta, nông dân đang sống khá giả, và chỉ cần bán một con gà, nông trang viên đã có thể trả hết thuế nhà nước.
Hãy nghĩ xem điều này có nghĩa là gì? 40 tỷ rúp chính là số tiền mà nông dân không nhận được từ tất cả các sản phẩm họ nộp. Ví dụ, vào năm 1952, các nông trang tập thể và nông dân tập thể chỉ nhận được 26 tỷ 280 triệu rúp cho toàn bộ sản phẩm họ nộp và bán cho nhà nước.
Liệu đề xuất của Stalin có dựa trên bất kỳ số liệu nào không? Tất nhiên là không. Trong những trường hợp như vậy, sự thật và con số không làm ông ta quan tâm. Nếu Stalin đã nói điều gì, thì điều đó được coi là đúng – vì ông ta là “thiên tài”, và một thiên tài không cần tính toán, chỉ cần nhìn là đủ để xác định mọi thứ phải như thế nào. Ông ta nói ra ý kiến của mình, và sau đó mọi người phải lặp lại lời ông ta và ngưỡng mộ sự thông thái của ông ta.
Nhưng có gì thông thái trong đề xuất tăng thuế nông nghiệp thêm 40 tỷ rúp? Hoàn toàn không có gì, bởi đề xuất này không dựa trên đánh giá thực tế, mà xuất phát từ những tưởng tượng hão huyền của một người tách rời khỏi cuộc sống.
Hiện nay, trong nông nghiệp, chúng ta đang dần thoát khỏi tình trạng khó khăn. Những bài phát biểu tại Đại hội Đảng lần XX khiến mỗi chúng vui mừng, khi nhiều đại biểu nói rằng đã có đủ mọi điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm lần thứ sáu về sản xuất các sản phẩm chăn nuôi cơ bản, không phải trong 5 năm, mà trong 2-3 năm. Chúng ta tin tưởng rằng nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm mới sẽ được hoàn thành tốt đẹp. (Tràng pháo tay kéo dài.)
Thưa các đồng chí!
Khi chúng ta hiện nay mạnh mẽ lên án tệ sùng bái cá nhân, vốn đã lan rộng trong thời Stalin còn sống, và nói về nhiều hiện tượng tiêu cực do sự sùng bái trái với tinh thần Marx-Lenin này gây ra, một số người có thể đặt câu hỏi: tại sao lại như vậy, khi Stalin đã lãnh đạo Đảng và đất nước trong 30 năm, đã đạt được những chiến thắng lớn, liệu có thể phủ nhận điều này không? Tôi cho rằng chỉ những người mù quáng và bị thôi miên hoàn toàn bởi tệ sùng bái cá nhân mới đặt câu hỏi như vậy, những người này không hiểu bản chất của cách mạng và nhà nước Liên Xô, không thực sự hiểu vai trò của Đảng và nhân dân theo cách của Lenin trong sự phát triển xã hội Liên Xô.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa được thực hiện bởi giai cấp công nhân, liên minh với nông dân nghèo nhất, với sự ủng hộ của tầng lớp trung lưu, được thực hiện bởi nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Bolshevik. Công lao vĩ đại của Lenin là đã tạo ra một Đảng đấu tranh của giai cấp công nhân, trang bị cho Đảng tri thức Marxist về các quy luật phát triển xã hội, học thuyết về chiến thắng của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, ông đã tôi luyện Đảng trong ngọn lửa của các cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng. Trong quá trình đấu tranh này, Đảng kiên định bảo vệ lợi ích của nhân dân, trở thành lãnh tụ được thử thách của nhân dân, đưa giai cấp công nhân lên nắm chính quyền và thành lập nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.
Các đồng chí hẳn nhớ rõ những lời sáng suốt của Lenin rằng nhà nước Liên Xô mạnh mẽ nhờ ý thức của quần chúng, rằng lịch sử giờ đây được tạo ra bởi hàng triệu và hàng chục triệu người.
Nhờ công tác tổ chức của Đảng, các tổ chức địa phương của nó, và lao động tận tụy của nhân dân vĩ đại của chúng ta, chúng ta đã đạt được những chiến thắng lịch sử. Những chiến thắng này là kết quả của hoạt động quy mô lớn của nhân dân và Đảng nói chung, chúng không phải là kết quả của sự lãnh đạo của một mình Stalin, như cách mà người ta cố gắng trình bày trong thời kỳ thịnh hành tệ sùng bái cá nhân.
Nếu tiếp cận bản chất vấn đề này theo cách Marxist-Leninist, chúng ta phải thẳng thắn tuyên bố rằng phương thức thực hành lãnh đạo được hình thành trong những năm cuối đời của Stalin đã trở thành một trở ngại nghiêm trọng của xã hội Liên Xô trên con đường phát triển.
Stalin trong nhiều tháng không xem xét nhiều vấn đề quan trọng và cấp bách của Đảng và đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Stalin, các mối quan hệ hòa bình của chúng ta với các nước khác thường xuyên bị đe dọa, bởi các quyết định đơn phương có thể gây ra và đôi khi đã gây ra những rắc rối lớn.
Trong những năm gần đây, khi chúng ta thoát khỏi thực tiễn sai lầm của tệ sùng bái cá nhân và đề ra một số biện pháp trong lĩnh vực chính sách đối nội và đối ngoại, tất cả đều thấy rõ hoạt động tích cực đang tăng lên, sáng kiến sáng tạo của đông đảo quần chúng lao động đang phát triển, và điều này bắt đầu mang lại kết quả tích cực cho sự phát triển kinh tế và văn hóa của chúng ta. (Pháo tay.)
Một số đồng chí có thể hỏi: các ủy viên Bộ Chính trị Ủy ban Trung ương nhìn đâu, tại sao họ không kịp thời phản đối tệ sùng bái cá nhân và chỉ làm điều đó gần đây?
Trước hết, cần hiểu rằng các ủy viên Bộ Chính trị có quan điểm khác nhau về vấn đề này ở các giai đoạn khác nhau. Trong thời gian đầu, nhiều người trong số họ tích cực ủng hộ Stalin, bởi Stalin biểu hiện như là một trong những nhà Marxist mạnh mẽ nhất, và logic, sức mạnh cùng ý chí của ông ta có ảnh hưởng lớn đến các cán bộ và công tác của Đảng.
Ai cũng biết rằng sau khi V.I. Lenin qua đời, đặc biệt trong những năm đầu, Stalin đã tích cực đấu tranh cho chủ nghĩa Lenin, chống lại những kẻ xuyên tạc và kẻ thù của học thuyết Lenin. Dựa trên học thuyết Lenin, Đảng do Ủy ban Trung ương đứng đầu, đã phát động công việc lớn lao nhằm công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa đất nước, tập thể hóa nông nghiệp và cách mạng văn hóa. Trong thời kỳ đó, Stalin đã giành được sự nổi tiếng, sự yêu mến và ủng hộ. Đảng phải đấu tranh với những kẻ cố gắng đưa đất nước đi chệch khỏi con đường đúng đắn duy nhất của Lenin – với những người Trotsky, Zinoviev, những người cánh hữu và các nhà dân tộc chủ nghĩa tư sản. Cuộc đấu tranh này là cần thiết. Nhưng sau đó, Stalin, ngày càng lạm dụng quyền lực, bắt đầu đàn áp các nhà hoạt động xuất sắc của Đảng và Nhà nước, áp dụng các phương pháp khủng bố đối với những người Xô Viết trung thực. Như đã nói, chính Stalin đã làm như vậy với các nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng và Nhà nước chúng ta – Kosior, Rudzutak, Eikhe, Postyshev và nhiều người khác.
Những nỗ lực phản đối các nghi ngờ và cáo buộc vô căn cứ dẫn đến việc người phản đối bị đàn áp. Câu chuyện về đồng chí Postyshev là một ví dụ điển hình về vấn đề này.
Trong một cuộc trò chuyện, khi Stalin bày tỏ sự không hài lòng với Postyshev và hỏi ông ấy:
– Ông là ai?
Postyshev đã trả lời một cách kiên định với giọng đặc trưng của mình:
– Tôi là một người Bolshevik, đồng chí Stalin, một người Bolshevik!
Lời tuyên bố này trước tiên bị coi là thiếu tôn trọng Stalin, sau đó là một hành động có hại, và cuối cùng dẫn đến việc Postyshev bị tiêu diệt, bị tuyên bố là “kẻ thù của nhân dân” mà không có bất kỳ căn cứ nào.
Chúng tôi thường xuyên thảo luận với Nikolai Alexandrovich Bulganin về bầu không khí thời bấy giờ. Một ngày nọ, khi chúng tôi đang cùng ngồi trên xe ô tô, ông ấy nói với tôi:
– Có lúc anh được gọi đến gặp Stalin như một người bạn. Nhưng khi ngồi với Stalin, anh không biết mình sẽ được đưa đi đâu: về nhà hay vào tù.
Rõ ràng, bầu không khí như vậy đặt bất kỳ thành viên nào của Bộ Chính trị vào tình thế cực kỳ nặng nề. Nếu tính thêm rằng trong những năm cuối, các phiên họp Toàn thể của Ủy ban Trung ương gần như không được triệu tập, và các cuộc họp của Bộ Chính trị chỉ diễn ra thất thường, thì có thể hiểu được việc bất kỳ thành viên nào của Bộ Chính trị khó có thể lên tiếng phản đối bất kỳ biện pháp bất công hay sai lầm nào, chống lại những sai sót và khuyết điểm rõ ràng trong thực tiễn lãnh đạo.
Như đã đề cập, nhiều quyết định được đưa ra một cách đơn phương hoặc qua thăm dò ý kiến, mà không có thảo luận tập thể.
Mọi người đều biết số phận đáng buồn của thành viên Bộ Chính trị đồng chí Voznesensky, người đã trở thành nạn nhân bị đàn áp của Stalin. Điều đáng chú ý là quyết định loại ông ra khỏi Bộ Chính trị không được thảo luận ở đâu cả, mà được thông qua qua thăm dò ý kiến. Các quyết định loại bỏ đồng chí Kuznetsov và Rodionov khỏi các vị trí của họ cũng được thực hiện qua thăm dò.
Vai trò của Bộ Chính trị Ủy ban Trung ương bị hạ thấp nghiêm trọng, công việc của nó bị rối loạn bởi việc thành lập các ủy ban khác nhau trong Bộ Chính trị, hình thành các cái gọi là “bộ năm”, “bộ sáu”, “bộ bảy”, “bộ chín”. Ví dụ, đây là một nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 3 tháng 10 năm 1946:
“Đề xuất của đồng chí Stalin.
- Giao cho Ủy ban Đối ngoại thuộc Bộ Chính trị (bộ sáu) từ nay trở đi, ngoài các vấn đề chính sách đối ngoại, còn giải quyết các vấn đề xây dựng trong nước và chính sách đối nội.
- Bổ sung đồng chí Voznesensky, Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Liên Xô, vào thành phần bộ sáu, và từ nay gọi là bộ bảy.
Bí thư Ủy ban Trung ương – I. Stalin.”
Đây là thuật ngữ của một tay chơi bài! (Tiếng cười trong hội trường.) Rõ ràng, việc tạo ra các ủy ban như “bộ năm”, “bộ sáu”, “bộ bảy” và “bộ chín” trong Bộ Chính trị đã phá hoại nguyên tắc lãnh đạo tập thể. Kết quả là một số thành viên Bộ Chính trị bị loại khỏi việc giải quyết các vấn đề quan trọng.
Một trong những thành viên kỳ cựu nhất của Đảng ta, Kliment Efremovich Voroshilov, bị đặt vào điều kiện không thể chịu nổi. Trong nhiều năm, ông thực tế bị tước quyền tham gia công việc của Bộ Chính trị. Stalin cấm ông xuất hiện tại các cuộc họp Bộ Chính trị và cấm gửi tài liệu cho ông. Khi Bộ Chính trị họp và đồng chí Voroshilov biết được, ông luôn gọi điện để xin phép đến dự. Đôi khi Stalin cho phép, nhưng luôn tỏ ra không hài lòng. Do sự đa nghi và đa nghi thái quá, Stalin đã đi đến một nghi ngờ vô lý và lố bịch rằng Voroshilov là một điệp viên của Anh. (Tiếng cười trong hội trường.) Vâng, một điệp viên của Anh. Và một thiết bị đặc biệt đã được cài đặt tại nhà ông để nghe lén các cuộc trò chuyện của ông. (Tiếng ồn phẫn nộ trong hội trường.)
Stalin cũng đơn phương loại bỏ một thành viên khác của Bộ Chính trị, Andrei Andreevich Andreev, khỏi công việc của Bộ Chính trị.
Đó là sự tùy tiện vô độ nhất.
Và hãy xem phiên họp toàn thể đầu tiên của Ủy ban Trung ương sau Đại hội Đảng lần XIX, khi Stalin phát biểu và đưa ra nhận xét về Vyacheslav Mikhailovich Molotov và Anastas Ivanovich Mikoyan, đưa ra những cáo buộc vô căn cứ đối với hai nhà hoạt động kỳ cựu của Đảng ta.
Không loại trừ khả năng, nếu Stalin còn nắm quyền thêm vài tháng nữa, thì tại đại hội đảng này, các đồng chí Molotov và Mikoyan có lẽ đã không thể phát biểu.
Stalin rõ ràng có kế hoạch thanh trừng các thành viên kỳ cựu của Bộ Chính trị. Ông ta không ít lần nói rằng cần thay thế các thành viên Bộ Chính trị. Đề xuất của ông ta sau Đại hội XIX về việc bầu 25 người vào Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương nhằm mục đích loại bỏ các thành viên kỳ cựu của Bộ Chính trị, đưa vào những người ít kinh nghiệm hơn để họ ca ngợi ông ta bằng mọi cách có thể. Thậm chí có thể cho rằng điều này được tính toán để sau đó tiêu diệt các thành viên kỳ cựu của Bộ Chính trị và che giấu những hành vi không tốt đẹp của Stalin, mà chúng ta đang báo cáo hôm nay.
Thưa các đồng chí! Để không lặp lại những sai lầm của quá khứ, Ủy ban Trung ương kiên quyết phản đối tệ sùng bái cá nhân. Chúng tôi cho rằng Stalin đã được tôn vinh quá mức. Không thể phủ nhận rằng trong quá khứ, Stalin có những đóng góp lớn lao cho Đảng, giai cấp công nhân và phong trào công nhân quốc tế.
Vấn đề trở nên phức tạp bởi tất cả những gì đã nói ở trên diễn ra dưới thời Stalin, dưới sự lãnh đạo của ông ta, với sự đồng ý của ông ta, và ông ta tin rằng điều đó là cần thiết để bảo vệ lợi ích của người lao động trước âm mưu của kẻ thù và sự tấn công của phe đế quốc. Ông ta xem xét tất cả những điều này từ góc độ bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của chiến thắng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Không thể nói rằng đây là hành động của một kẻ tự cao. Ông ta tin rằng cần làm như vậy vì lợi ích của Đảng, của người lao động, để bảo vệ những thành quả của cách mạng. Đó là bi kịch thực sự!
Thưa các đồng chí! Lenin không ít lần nhấn mạnh rằng sự khiêm tốn là phẩm chất không thể thiếu của một người Bolshevik chân chính. Và chính Lenin là hiện thân sống động của sự khiêm tốn vĩ đại nhất. Không thể nói rằng trong vấn đề này chúng ta noi gương Lenin trong mọi việc. Chỉ cần nói rằng rất nhiều thành phố, nhà máy, xí nghiệp, nông trang tập thể và quốc doanh, các cơ quan văn hóa Xô Viết đã được đặt tên, nếu có thể nói như vậy, như “tài sản riêng” của các nhà hoạt động Nhà nước và Đảng, những người vẫn còn sống và thành công. Trong việc đặt tên của mình cho các thành phố, khu vực, doanh nghiệp, nông trang, nhiều người trong chúng ta là đồng phạm. Điều này cần được sửa chữa. (Pháo tay.)
Nhưng việc này cần được thực hiện một cách khôn ngoan, không được vội vã. Ủy ban Trung ương sẽ thảo luận vấn đề này và xem xét kỹ lưỡng để tránh bất kỳ sai lầm hay thái quá nào. Tôi nhớ rằng ở Ukraine, khi người ta biết về việc Kosior bị bắt, đài phát thanh Kyiv thường bắt đầu các chương trình phát thanh của mình bằng câu: “Đây là đài phát thanh mang tên Kosior.” Một ngày nọ, các chương trình phát thanh bắt đầu mà không nhắc đến tên Kosior. Và mọi người đoán rằng đã có chuyện gì đó xảy ra với Kosior, rằng có lẽ ông ta đã bị bắt.
Vì vậy, nếu chúng ta bắt đầu tháo dỡ các biển hiệu và đổi tên khắp nơi, người ta có thể nghĩ rằng đã có chuyện gì đó xảy ra với những đồng chí mà tên của họ được đặt cho các doanh nghiệp, nông trang hay thành phố, rằng có lẽ họ cũng bị bắt. (Tiếng xôn xao trong hội trường.)
Đôi khi uy tín và tầm quan trọng của một lãnh đạo được đo bằng việc có bao nhiêu thành phố, nhà máy, xí nghiệp, nông trang tập thể và quốc doanh mang tên họ. Đã đến lúc chúng ta chấm dứt “tài sản riêng” này và tiến hành “quốc hữu hóa” các nhà máy, xí nghiệp, nông trang tập thể và quốc doanh. (Tiếng cười, pháo tay. Tiếng hô: “Đúng vậy!”) Điều này sẽ có lợi cho sự nghiệp của chúng ta. Tệ sùng bái cá nhân cũng biểu hiện trong những sự việc như vậy.
Chúng ta phải nghiêm túc xem xét vấn đề sùng bái cá nhân. Chúng ta không thể đưa vấn đề này ra ngoài phạm vi Đảng, càng không thể công khai trên báo chí. Đó là lý do chúng ta báo cáo vấn đề này tại phiên họp kín của đại hội. Cần biết giữ chừng mực, không cung cấp đạn cho kẻ thù, không phơi bày vết thương của chúng ta trước mặt chúng. Tôi tin rằng các đại biểu đại hội sẽ hiểu và đánh giá đúng các biện pháp này. (Tràng pháo tay nồng nhiệt.)
Thưa các đồng chí! Chúng ta cần kiên quyết, một lần và mãi mãi, xóa bỏ tệ sùng bái cá nhân, đưa ra những kết luận phù hợp trong cả lĩnh vực tư tưởng-lý luận và công tác thực tiễn.
Để làm được điều này, cần:
Thứ nhất, theo tinh thần Bolshevik, lên án và loại bỏ tệ sùng bái cá nhân như một điều xa lạ với tinh thần chủ nghĩa Marx-Lenin và không tương thích với các nguyên tắc lãnh đạo Đảng và chuẩn mực đời sống Đảng, tiến hành cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống lại mọi nỗ lực phục hồi nó dưới bất kỳ hình thức nào.
Khôi phục và thực hiện nhất quán trong toàn bộ công tác tư tưởng của chúng ta những luận điểm quan trọng nhất của học thuyết Marx-Lenin về nhân dân như người làm ra lịch sử, người tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần của nhân loại, về vai trò quyết định của đảng Marxist trong cuộc đấu tranh cách mạng để cải tạo xã hội, để giành chiến thắng của chủ nghĩa cộng sản.
Liên quan đến điều này, chúng ta cần thực hiện một khối lượng công việc lớn để có thể xem xét lại và hiệu chỉnh, từ quan điểm Marxist-Leninist những quan điểm sai lầm đã lan rộng liên quan đến tệ sùng bái cá nhân trong các lĩnh vực lịch sử, triết học, kinh tế và các khoa học khác, cũng như trong văn học và nghệ thuật. Đặc biệt, trong thời gian tới, cần tiến hành biên soạn một cuốn giáo trình Marxist toàn diện, với tính khách quan khoa học về lịch sử Đảng ta, các giáo trình về lịch sử xã hội Liên Xô, các sách về lịch sử nội chiến và Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại.
Thứ hai, tiếp tục kiên trì công việc mà Ủy ban Trung ương Đảng đã thực hiện trong những năm gần đây về việc tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc lãnh đạo Đảng của Lenin trong tất cả các tổ chức Đảng, từ trên xuống dưới, đặc biệt là nguyên tắc cao nhất – lãnh đạo tập thể, tuân thủ các chuẩn mực đời sống Đảng được quy định trong Điều lệ Đảng, thúc đẩy phê bình và tự phê bình.
Thứ ba, khôi phục hoàn toàn các nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa Xô Viết của Lenin, được thể hiện trong Hiến pháp Liên Xô, đấu tranh chống lại sự tùy tiện của những người lạm dụng chức quyền. Cần sửa chữa triệt để những vi phạm pháp luật cách mạng xã hội chủ nghĩa đã tích tụ trong một thời gian dài do hậu quả tiêu cực của tệ sùng bái cá nhân.
Thưa các đồng chí!
Đại hội lần thứ XX của Đảng Cộng sản Liên Xô đã đã chứng minh một cách mạnh mẽ sự thống nhất không thể phá vỡ của Đảng ta, sự đoàn kết xung quanh Ban Chấp hành Trung ương và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ to lớn của công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản. (Tràng pháo tay nồng nhiệt.) Và thực tế là chúng ta hiện đang nêu những vấn đề cơ bản về việc khắc phục tệ sùng bái cá nhân, vốn xa lạ với chủ nghĩa Mác-Lênin, và loại bỏ những hậu quả nghiêm trọng mà nó gây ra, cho thấy sức mạnh đạo đức và chính trị to lớn của Đảng ta. (Tràng pháo tay kéo dài.)
Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng Đảng ta, được trang bị bởi những quyết định lịch sử của Đại hội XX, sẽ dẫn dắt nhân dân Liên Xô theo con đường Lenin đến những thành công mới, những thắng lợi mới. (Tràng pháo tay nồng nhiệt, kéo dài.)
Ngọn cờ chiến thắng của Đảng ta – Chủ nghĩa Lenin – muôn năm! (Tràng pháo tay nồng nhiệt, kéo dài, chuyển thành tiếng hoan hô. Tất cả đứng dậy.)
Nguồn: Trang mạng БЕССМЕРТНЫЙ БАРАК ngày 25.2.2019
https://bessmertnybarak.ru/article/XX_sezd_kpss/
Bản dịch của Grok.
Văn Việt hiệu đính.