Ngày 5 tháng Ba năm 1953 J. Stalin qua đời. Đấy là cái tin chấn động. Ở Việt Nam, ngay trên chiến khu Việt Bắc, tạp chí VĂN NGHỆ của Hội Văn nghệ Việt Nam đã ra số đặc biệt (s. 40, tháng Ba 1953) để tỏ lòng thương tiếc J. Stalin, trong đó có bài của Hồ Chí Minh, thơ của Chế Lan Viên, Huy Cận, Tố Hữu, Bàn Tài Đoàn, Nông Quốc Chấn, Xuân Diệu, Lê Thái, văn của Nguyên Hồng, Phan Khôi, Lê Đạt, Hoàng Trung Thông, Minh Tranh[1].

Chế Lan Viên khóc:

Stalin mất rồi!

Đồng chí Stalin đã mất!

Thế giới không cha nặng tiếng thở dài!

Xuân Diệu khóc:

Đại Nguyên soái Sta-lin đã mất

Tin rụng rời đến với chúng tôi

Cả thế gian như bỗng mất mặt trời

Ba trăm người chúng tôi trào nước mắt

Đứng lên, ngực nghẹn ngào tiếng nấc

Sta-lin, cha vĩ đại của loài người!

Huy Cận khóc:

Tên Người hoa nở bốn mùa

Tên Người ríu rít giọng đùa trẻ con

Tên Người khắp nước khắp non

Sta-lin bất diệt, Người còn sống đây

Tố Hữu khóc:

Ông Stalin ơi, Ông Stalin ơi!

Hỡi ơi, Ông mất! Đất trời còn không?

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình thương một, thương Ông thương mười!

Nhưng chỉ ba năm sau, ngày 25 tháng 2 năm 1956 trong Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, Bí thư thứ nhất N. S. Khrushchev đọc bản báo cáo vạch rõ tội ác của J. Stalin. Chấn động lần này còn mạnh hơn trước: Stalin từ địa vị thần thánh bị lột truồng thành tên sát nhân máu lạnh. Alexander Fadeev, Tổng thư ký Hội Nhà văn Liên Xô, tác giả các tiểu thuyết Đội cận vệ thanh niênChiến bại, không chịu nổi cú sốc, đã tự sát bằng súng[2]. Bản báo cáo này bị rò rỉ từ các nước Đông Âu, góp phần quan trọng trong việc phi Stalin hóa (de-Stalinization). Từ Liên Xô, qua Trung Quốc, lan tới Việt Nam, đâu đâu trong thế giới các nước cộng sản, cũng vang lên lời kêu gọi “chống sùng bái cá nhân”.

N. S. Khrushchev, người kế tục J. Stalin, đảm nhận vị trí lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô, không dùng danh xưng Tổng bí thư như J. Stalin, mà chọn cách gọi "khiêm tốn" hơn: Bí thư thứ nhất, chính là do "chống sùng bái cá nhân". Ở Việt Nam cũng tương tự, sau Tổng bí thư Trường Chinh, là Bí thư thứ nhất Lê Duẩn! 

Tuy thế, ngay tại Liên Xô, mãi cho đến năm 1989, bản báo cáo này mới được chính thức công khai.

Ở Việt Nam, đây là lần đầu tiên bản báo cáo này mới có bản dịch tiếng Việt.

Văn Việt