Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 20 tháng 5, 2025

Không khói hoàng hôn (Tập III - kỳ 1)

 Nguyễn Thị Kim Thoa

Người khách xuống ga Tháp Chàm

Tôi gọi cậu ta như thế, bởi vì không biết cậu tên gì. Tôi gặp cậu tình cờ trên một chuyến tàu suốt Hà Nội - Sài Gòn. Tôi lên ga Đà Nẵng. Khoang số 6, giường nằm số 2 tầng giữa, cậu ta đã ở đó, giường số đối diện. Cậu xuống ga Tháp Chàm, chúng tôi là bạn đồng hành trên một đoạn đường chừng bảy trăm cấy số, trong một khoảng thời gian chừng mười bảy tiếng đồng hồ. Cậu xuống ga lúc nào tôi không biết, nhưng từ đó đến nay – chừng 25 năm, hình ảnh người thanh niên xấu trai nhưng đôi mắt tinh anh, kiên nghị mà hiền từ thỉnh thoảng trở lại trong ký ức tôi với tình cảm tốt đẹp.

 

Vào những năm 1993-1997 tôi thường vào ra, ra vào Đà Nẵng - Sài Gòn, Sài Gòn - Đà Nẵng do đang theo học một lớp chuyên khoa ở đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh. Phương tiện đi lại của tôi lúc bấy giờ là tàu hỏa (xe lửa).

Gần mười năm sau thời mở cửa (1985) nhưng phương tiện giao thông đường sắt còn rất phức tạp. Thông thường tôi phải mua vé trước nửa tháng; vào dịp tết hay dịp lễ phải đặt mua vé trước cả một hoặc hai tháng. Đối với tôi là như thế. Nhưng đối với người khác thì không như thế: đến ga là có vé ngay vì có đường dây mua lậu.

Trong một chuyến đi từ Đà Nẵng vào Sài Gòn, khoảng cuối tháng sáu, thời điểm của mùa thi đại học, hành khách đi tàu rất đông. Tôi mua vé giường nằm, tầng hai trong một khoang có sáu giường, giờ khởi hành là 8 giờ sáng. Ra ga mới biết tàu trễ chuyến, chuyến tàu SE1 từ Hà Nội vào chậm hai tiếng. Dưới thời tiết nóng bức ngày hè, ngồi lại tại ga tàu với cảnh người người qua lại và bao âm thanh hỗn độn không thoải mái chút nào. Giở tập sách đem theo để đọc cho qua thời gian nhưng không làm sao nhét vào đầu một chữ. Người mẹ trẻ và đứa con ba tuổi ngồi cạnh tôi cứ loay hoay với hai chiếc túi sách mang theo, hết mở ra rồi khóa lại, đứa trẻ liên tục ho và ói. Qua thăm hỏi tôi được biết hai mẹ con vào Sài Gòn để chữa bệnh cho cháu nhỏ. Từ Điện Hồng, một vùng quê của Quảng Nam, họ ra ga từ chiều hôm trước để sáng nay kịp lên chuyến tàu 8 giờ sáng, hai mẹ con đã qua đêm trên chiếc ghế dài. Tôi hỏi sao không vào bệnh viện Đà Nẵng để điều trị mà phải vào tận Sài Gòn. Chị ấy bảo bệnh viện Đà Nẵng đã điều trị 15 ngày, định bệnh là có khối u ở đáy mắt trái, nguy cơ gây mù cả hai mắt nên chuyển vào Viện Mắt Sài Gòn. Một thoáng màu vàng chất độc da cam hiện về trong tầm mắt của tôi.

Tàu đến lúc 10 giờ 10 phút. Tìm được số khoang và số giường của mình, tôi vội thu xếp hành lý ở góc trong cùng của chiếc giường tầng hai. Đúng là khoang giường nằm. Vì hành khách không thể ngồi trong khoảng cách từ tầng dưới đến tầng trên chừng 6 tấc. Người nằm ở tầng ba còn tệ hơn. Khoảng cách từ giường đến trần khoảng 5 tấc.

Trong khoang số 6 của tôi có 6 hành khách, hai giường tầng một là hai thanh niên độ chừng 30 - 35 tuổi, cả hai ăn mặc theo cách của thanh niên miền Bắc lúc bấy giờ: quần tây dài màu xanh bộ đội, áo sơ mi dài tay màu xanh nước biển đậm bỏ ra ngoài. Tầng hai bên kia, một thanh niên trạc chừng 25 - 27 tuổi mặc quần tây dài màu xám đậm, áo sơ mi màu lam tay dài bỏ vô quần và gài nịt da to bản, cậu ta có dáng vẻ người Miền Nam. Phía trên hai tầng áp mái (tầng ba) là hai thanh niên độ chừng 35 tuổi, mặc áo quần bộ đội màu xanh lá cây rừng, áo bỏ thụng ra ngoài. Cả bốn thanh niên ở hai giường áp mái và hai giường tầng một là một nhóm với nhau, họ chuyện trò, cười cợt thoải mái như chỗ dành riêng. Họ không có ý thức công cộng là gì. Bốn người như bốn pháo thủ, và hai ống điếu thuốc lào (điếu cày) mang theo trông như hai khẩu đại bác.

Đắp chiếc chăn mỏng, nằm quay đầu về hướng cửa sổ, đọc tập thơ Bùi Giáng đem theo để tìm giấc ngủ ngắn, nhưng tiếng máy tàu xình xịch, tiếng cười nói quá tự nhiên như không có ai của bốn anh thanh niên miền Bắc* cộng với những làn khói thuốc lào phun ra liên tục khiến tôi đau đầu và buồn nôn.

– “Cô đưa cho cháu chiếc khăn mặt, cháu sẽ đi thấm ướt cho cô che mũi, tránh khói thuốc”. 

Cậu thanh niên ở giường tầng hai bên kia nói với qua phía tôi. Cậu bước xuống sàn, lấy khăn tôi đưa và đi ra ngoài. Tôi cảm thấy an lòng khi trong khoang có một thanh niên tử tế.

Khăn ướt giúp tôi bớt choáng váng, nhưng phần cơm trưa tôi không thể nhai nuốt được. Mùi thuốc lào vẫn đặc quánh trong bốn mét khối của khoang tàu với sáu con người.

Ăn cơm xong, bốn thanh niên miền Bắc trải tấm nylon lên sàn tàu, họ chơi bài tiến lên và hút thuốc lào. Hai ống điếu để hai bên như hai khẩu đại bác. Họ vừa đánh bài vừa thay nhau hít phả liên tục. Họ hét to khi thắng. Họ văng tục khi thua. Họ phun khói mù mịt. Họ vỗ đùi đôm đốp... Quả là họ rất sảng khoái. Còn tôi thì không thể tiếp tục chịu đựng, tôi bước xuống khỏi giường, đi ra hành lang để thở. Cậu thanh niên ở giường đối diện cũng ra hành lang với tôi. Cậu ái ngại nhìn tôi: 

– “Cô không sao chứ? Cô đưa khăn để cháu đi giặt và nhúng nước”.

Khi người trai trẻ trở lại, tôi cầm lấy khăn chà xát mặt mày, tóc tai và cả hai tay, chà đi chà lại như một kẻ tâm thần. Người thanh niên rời đi một lúc; mấy phút sau cậu đem về cho tôi một chai nước khoáng, Cậu nói: 

– “Cô uống đi, sẽ khỏe thôi”. 

Tôi uống nước. Quả nhiên mấy phút sau tôi bình tĩnh trở lại.

Tôi xấu hổ và tò mò nhìn rất sâu vào đôi mắt lấp lánh sáng và đầy tự tin của người trai trẻ. Tôi hỏi cậu có thể cho tôi biết đôi chút về bản thân được không? Người thanh niên trả lời cậu là người Ninh Thuận, có nhà ở sát cạnh ga Tháp Chàm, ông nội đã từng làm sếp ga thời Ngô Đình Diệm. Cậu đã từng học sử ở đại học sư phạm. Không có tiền đút lót nên không được đi dạy. Hiện cậu là nhân viên đường sắt. Nhà ngoại ở thành phố Hồ Chí Minh, quê nội ở Huế; làm công nhân đường sắt cũng có cái tiện là có thể đi lại đó đây mà không tốn kém lắm. Nghe người thanh niên nói nhiều về đường sắt, tôi sực nhớ đến một vấn đề đang làm xôn xao dư luận và làm tôi bận lòng: Tổng cục Đường sắt bán đầu máy xe lửa hơi nước để tại ga Đà Lạt theo giá sắt vụn. Tôi hỏi cậu có biết gì về tuyến đường sắt răng cưa Tháp Chàm - Đà Lạt, và cậu có ý kiến gì về việc nhà nước bán đầu máy theo giá sắt vụn?

Như có dịp để giải tỏa bức xúc, người thanh niên nói một mạch:

– “Tuyến đường sắt Tháp Chàm - Đà Lạt là một trong hai tuyến đường sắt đặc biệt trên thế giới, một ở Việt Nam, và một ở Thụy Sĩ. Tuyến đường ở Việt Nam dài hơn, đi qua nhiều đèo dốc hiểm trở hơn. Tuyến đường sắt này được Công ty Đường sắt Đông Dương (Chemin de Fer de L’indochine) đặt mua bên Thụy sĩ. Công ty cũng thuê chuyên viên Thụy Sĩ qua điều khiển thi công. Tuyến đường sắt này dài 84km trong đó có 34km đường răng cưa, được xây dựng trong vòng 30 năm. Khởi công dưới thời toàn quyền Doumer năm 1902, đến năm 1932 mới hoàn thành. Lễ khánh thành tuyến đường này có vua Bảo Đại và Toàn quyền Pháp tạị Đông Dương tham dự. Ngoài chức năng vận chuyển du khách, tuyến đường sắt này còn là phương tiện chính chuyên chở rau quả từ Đà Lạt về ga Tháp Chàm, rồi từ ga Tháp Chàm phân phối đi Sài Gòn, Nha Trang, Đà Nẳng, Huế, Hà Nội... Nó hoạt động liên tục từ 1932 cho đến những năm 1967-1968 thì cầm chừng, và dừng hẳn vào năm 1972 do chiến tranh lan rộng”.

“Sau 1975, chính xác là vào tháng 8.1975, trong khi trùng tu đường sắt thống nhất Bắc - Nam, Tổng cục đường sắt Việt Nam tháo gỡ các đường ray răng cưa bán sắt vụn, đầu máy hơi nước tiếp tục bỏ hoang phế ở ga Đà Lạt. Đến năm 1990 công ty DFB (Dampfbahn - Furk - Bergstrecke) của Thụy Sĩ đi tìm đầu máy và các chi tiết đường sắt răng cưa mà Thụy sĩ đã chế tạo. Việt Nam đã bán cho công ty trên toàn bộ đầu máy hơi nước và các chi tiết đường sắt răng cưa còn lại với giá sắt phế thải. Toàn bộ tuyến đường sắt có một không hai này biến mất khỏi Việt Nam. Phía Thụy Sĩ đem số “sắt vụn” này về sửa chữa, lắp ghép thành tuyến du lịch đường sắt răng cưa xưa cổ Fufka - Bergstrecke, nơi thu hút nhiều khách tham quan du lịch của châu Âu”.

“Chắc cô cũng đồng ý với cháu là không nên bán đầu máy xe lửa răng cưa. Chính quyền chỉ nghĩ đến việc thống nhất Hà Nội - Sài Gòn mà không có Đà Lạt. Chính quyền cũng chỉ chú ý cái lợi trước mắt mà không nghĩ tới lợi ích lâu dài. Và vấn đề không chỉ có kinh tế mà còn cả văn hóa”.

Thấy người thanh niên có khuynh hướng mở rộng đề tài, tôi hỏi tiếp:

– “Chú ý đến lợi ích lâu dài và mục tiêu văn hóa, phải chăng cháu nghĩ đến phạm vi tổng quát là đường lối cai trị và xây dựng đất nước của đảng Cộng sản?”

Người thanh niên nhìn tôi với một chút thăm dò. Lúc sau anh nói nhỏ và kiêm định:

– “Đúng như thế, thưa cô. Người Cộng sản chỉ nghĩ đến mục tiêu trước mắt là lợi ích cho cá nhân và đảng của mình. Cô thấy đó, bốn người khách cùng khoang với chúng ta là kết quả đào tạo của chế độ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa. Không ai ở với họ được cả. Phải chăng nãy giờ đứng ở đây là chúng ta đang di tản?”

Tôi giật mình khi nghe người thanh niên nói lên một sự thật mà tôi chưa từng nghĩ tới. Tôi nói với cậu ta rằng là nếu cả dân tộc mà di tản hết thì còn ai để thay đổi chế độ, bảo vệ và phục hưng đất nước?

Người thanh niên với giọng chắc nịch đầy tự tín nói tiếp với tôi rằng là: “Cô đừng lo, ông nội cháu đã khẳng định rằng dân tộc Việt Nam như một lũy tre, gió bão có thể làm nó ngả nghiêng trong một thời đoạn, nhưng khi có thời cơ đến nó chắc chắn sẽ bật dậy vươn mình cùng trời xanh. Cháu không bao giờ di tản”.

Tôi bật cười, cùng cậu ta đi vào khoang, nơi bốn người thanh niên miền Bắc đang ăn bữa cơm chiều. Mùi khói thuốc và sự huyên náo nhố nhăng có dịu đi đôi chút. Tôi trèo lên tầng với lòng bớt nặng nề. Con tàu tiếp tục xuôi Nam với câu chuyện “lũy tre bật dậy vươn mình cùng trời xanh sau cơn bão” của người trai trẻ đồng hành đã giúp tôi qua cơn bức xúc. Hơn thế nữa, tôi cảm thấy niềm tin và hy vọng nhen nhóm lại trong tôi...

Vào khoảng ba giờ sáng, cậu thanh niên Tháp Chàm lục đục thu dọn hành lý, bước xuống đi khỏi khoang, chừng 20 phút sau trở lại với một người đàn ông trung niên. Cậu nói với tôi:

– “Cô ơi, cháu đã thu xếp để cô đổi chỗ với bác trai này ở khoang số 4. Đến ga Tháp Chàm cháu phải xuống. Từ đấy vào đến Sài Gòn còn gần 350 km và đến hơn 5 hoặc 6 tiếng đồng hồ nữa. Cô một mình ở đây e không tiện”.

Người đàn ông trung niên vui vẻ nói với tôi bằng cái giọng Quảng nguyên xi:

– “Đoàn bòa” con “goái” về một nơi với “nhao” tiện “sinh hoẹc” hơn”.

Sau khi giúp tôi chuyển chỗ, người thanh niên Tháp Chàm và người đàn ông xứ Quảng cười từ giã tôi và trở về khoang của mình.

Khoang số 4 nơi tôi được đổi chỗ chỉ toàn là phụ nữ, tôi gặp lại hai mẹ con người phụ nữ Điện Hồng đi chữa bệnh cho con, hai cô gái miền Trung đi thi cùng với hai bà mẹ đi theo. Tôi nhẹ nhàng đi vào giấc ngủ bù. Tàu đến ga Tháp Chàm lúc nào tôi không biết. Tôi không có dịp để nói lời cám ơn và lời chào tạm biệt người trai trẻ tôi không biết tên, nhưng thái độ, lời nói, tư tưởng của cậu ta đối với cá nhân tôi và đối với đất nước đã trở thành một phần tâm trí của tôi đến tận lúc này.

Những dòng ký ức này tôi muốn gởi đến người khách xuống ga Tháp Chàm để nối lại cuộc hội ngộ 25 năm trước. Tôi cũng muốn gởi đến những người trẻ tuổi trên khắp mọi miền đất nước để bày tỏ niềm tin và sự đồng tình ủng hộ cuộc đấu tranh chống bạo quyền của guồng máy cai trị chỉ biết cái lợi của cá nhân và băng đảng bất chấp quyền lợi tối cao và thiêng liêng của cả dân tộc.

Chú thích:

(*) Từ Miền Bắc tôi dùng ở đây phát xuất từ một thành kiến. Đến lúc này (2018) tôi vẫn chưa hết thành kiến đó.

Những người miền Bắc tôi gặp và tiếp xúc từ 1975 đến nay đa phần (tôi nói đa phần, tôi không nói tất cả) được đào tạo trong chế độ Xã hội Chủ nghĩa. Tôi nói đào tạo, tôi không nói giáo dục. Miền Bắc trong những năm chiến tranh và trong hơn 40 năm thực thi chế độ Xã hội chủ nghĩa trên toàn đất nước chỉ đào tạo công cụ chứ không giáo dục Con Người. Những công cụ này trung thành với chế độ, bám chế độ để sống, để vinh thân phì gia. Họ chỉ biết có đảng Cộng sản và cái bụng tham lam vô đáy của mình. Họ không màng đến đất nước dân tộc. Họ không biết giá trị làm Người là Tự do, Công bình và Nhân ái. Họ xem người Miền Nam là kẻ đáng ngờ và là đối tượng khai thác, lợi dụng. Những người Cộng sản này đối xử với nhau như kẻ thù trước bất cứ mục tiêu quyền lợi cạnh tranh lớn nhỏ nào. Họ xem thường công lợi và ý thức công cộng. Đích thực họ là sản phẩm của chế độ Xã hội Chủ nghĩa.

Hồi 1954 có khoảng gần một triệu người Miền Bắc di cư vào Nam, đa phần là tín đồ Thiên Chúa giáo. Những người Miền Bắc này không để lại trong lòng người Miền Nam lúc bấy giờ những thành kiến nặng nề như kinh nghiệm của người Miền Nam sau 1975.

Sự khác biệt này phải chăng là do ý thức hệ Cộng sản được thể hiện qua sách lược đào tạo công cụ của chế độ Xã hội chủ nghĩa?

 

 

Một chuyện tình trong chiến tranh - Địa danh Mang Cá

 

S

au thảm kich đẫm máu kinh hoàng Tết Mậu Thân, tình hình chiến sự tạm lắng xuống. Hội đàm Paris bắt đầu nhóm họp. Người dân Huế tưởng chừng hòa bình đã đến. Tuy nhiên cái cảm thức hòa bình ấy chỉ là một ước mơ, một hy vọng hảo huyền.

Đầu năm 1971 không khí chiến tranh dần nóng trở lại. Không chỉ qua báo đài mà còn qua những lời bàn tán xôn xao trong gia đình, bạn bè, xóm giềng: Việt Nam Cộng Hòa chuẩn bị thay Mỹ đảm nhiệm chiến tranh, trực tiếp đánh nhau với quân Mặt Trận, quân miền Bắc.

Anh trai tôi là lính Quân y Việt Nam Cộng Hòa đồn trú tại căn cứ La Sơn cách Huế chừng 20km về phía Nam, thỉnh thoảng về thăm nhà mang theo không khí doanh trại và tin tức bom đạn, chết chóc chỗ này chỗ nọ: Dường như cả hai bên đang tập trung lực lượng để đụng đầu ở Khe Sanh và cả Hạ Lào, hành quân Lam Sơn...

Đầu hè 1971 chiến tranh ập đến gia đình chúng tôi. Cộng quân pháo kích vào căn cứ La Sơn, anh trai tôi bị thương nặng phải đưa vào cấp cứu tại Quân y viện Nguyễn Tri Phương. Gia đình tôi sững sờ hoảng hốt. Chị dâu tôi đang mang thai sắp sinh cháu thứ hai. Tôi đảm trách vào quân y viện chăm sóc anh trai.

Anh trai tôi bị thương rất nặng, nhưng không nguy hiểm đến tính mạng, các vết thương đa phần ở phần mềm, phải cắt vá, ghép da và điều trị lâu dài. Vào quân y viện ngày hai lần, đầu óc không quá tập chú vào anh, tôi có dịp nhìn qua các giường bệnh khác với sự tò mò của một sinh viên y khoa, chuyện trò với một vài người nuôi bệnh và đặc biệt quan tâm đến tên gọi dân gian Mang Cá – nơi quân y viện Nguyễn Tri Phương đứng chân. Bài viết nhỏ này tôi ghi lại một chuyện tình trong chiến tranh và ký ức về một địa danh đã theo dòng lịch sử: Mang Cá.

Một chuyện tình trong chiến tranh

Phía trái giường anh tôi là giường của anh Phiến, một sĩ quan Thủy quân lục chiến bị thương đâu ở chiến trường Khe Sanh. Mới nhìn qua cơ thể anh Phiến không bị “tàn phá” dữ dội như anh trai tôi, anh ấy bị một vết thương ở bụng, các bác sĩ đã can thiệp bằng phẫu thuật. Chăm sóc anh ấy là một phụ nữ xinh đẹp, lớn hơn tôi khoảng 4 – 5 tuổi, dáng người mảnh mai, da mịn trắng hồng, đặc biệt mái tóc dài đen mượt ngang lưng luôn được buộc bằng một dãi băng nhung màu đen, ánh mắt và nụ cười hiền từ dễ mến. Áo dài màu tím than, eo áo thả rộng, vạt ngắn ngang gối, quần dài đen ống hẹp, khăn quàng màu tím nhạt, chuỗi tràng hạt niệm kinh với tám hạt bồ đề đeo ở cổ tay trái, tất cả các thứ đó là dấu chỉ riêng của chị.

Đồng bệnh tương lân, chúng tôi trò chuyện cứ như đã quen biết nhau từ trước. Tên chị là Mỹ Lý. Mỹ Lý quê làng Kim Long, học sư phạm Qui Nhơn, đang là giáo viên tại một trường tiểu học vùng ven thị xã Quảng Trị. Anh Phiến đóng quân gần đó. Anh Phiến người Nam bộ, nhà ở miệt Lái Thiêu. Lái Thiêu – Kim Long xa mà rất gần. Cây trái, hoa lá như là những nhịp cầu nối kết họ với nhau.

Nhưng chiến tranh. Chiến tranh.

Vào một bữa trưa dầu tháng chín, mới qua ngày tựu trường, người bạn thân của anh Phiến ghé qua trường báo là anh ấy bị thương nặng, đang điều trị tại Quân y viện Nguyễn Tri Phương. Chị Lý xin phép trường, nhờ bạn dạy thế, vội vã vào Huế.

Anh Phiến cũng như hầu hết các thương binh khác không có gia đình tại Huế, được chăm sóc bởi các y tá. (Chăm sóc thương binh là nhiệm vụ của các nam, nữ y tá quân nhân, trong trường hợp có người nhà, bệnh viện cho phép người nhà làm những việc đơn giản như cho ăn, thay áo quần...).  Chị Lý vào tình nguyện thay y tá chăm sóc cho anh. Ý định là như thế nhưng khi trực tiếp bắt tay vào việc, tôi thấy chị lúng túng, lóng cóng. Anh Phiến bị thương ở bụng, mỗi lần bác sĩ thăm khám, y tá thay bông băng, chị Lý nhìn đi chỗ khác. Đến khi thay áo quần cho anh Phiến chị Lý tỏ ra luống cuống thực sự. Thấy thế tôi bảo:

“Thì chị cứ giao cho y tá”. Chị nói chị muốn chính mình chăm sóc cho anh. Tôi bảo thì chị cứ xem anh Phiến là chồng, vợ chăm sóc cho chồng còn gì nữa mà ngại. Chị đỏ mặt chối đay đảy:

– “Đâu được, tụi mình mới cầm tay nhau và chỉ mới hẹn hò tay đôi, chưa có sự thăm viếng của hai gia đình, mình còn là cô giáo, là Phật tử. Tết vừa rồi anh Phiến nói đợi đến hè, cha mẹ anh sẽ ra Huế bàn chuyện hỏi cưới. Nhưng ra Tết, những cuộc hành quân liên miên đã khiến anh Phiến tối tăm mặt mày, không còn tâm trí để tính chuyện hôn nhân đại sự. Hai tháng trước lúc mình nghỉ hè ở Kim Long, anh Phiến từ chiến trường về ghé qua, trông anh hốc hác đen sạm. Anh và người bạn đi cùng xe chỉ đủ thời gian để gia đình mình mời ăn bữa cơm trưa. Cơm nước vừa xong, anh xin lỗi ba mẹ mình rằng phải đi gấp... Tụi mình cũng chỉ nắm tay nhau tạm biệt”.

Phòng hậu phẫu nơi anh tôi đang điều trị có hai dãy

giường bệnh, mỗi dãy 15 giường sắt tây đầy đủ chức năng nâng lên, hạ xuống hoặc ở tư thế nửa nằm nửa ngồi (tư thế Fowler) kê đối diện nhau và cách nhau một lối đi nhỏ ở giữa. Trong tiếng gầm rú của những chiếc trực thăng lên xuống tải thương ở bãi cỏ bên ngoài, các chị y tá trong quân phục màu xám với mũ vải, khẩu trang đầy đủ lặng lẽ làm công việc của mình. Trong tiếng rên la, than vãn của bệnh nhân các chị vẫn lặng lẽ gắp từng miếng bông lau rửa vết thương, bơm hút từng ống dẫn lưu, xông tiểu, thay bô, nâng nhẹ người này, dựa lưng người kia, ai hỏi gì, cần gì các chị vui vẽ trả lời không một lời cáu gắt, hình như ai nấy trong phòng này đều đau cái đau chung, cái đau của cuộc chiến.

Một điều làm tôi quan tâm và cảm kích là ở trại phòng có hai bệnh nhân Vô Danh, họ nằm yên, thỉnh thoảng rên khe khẻ. Một người độ chừng 18 – 20, người kia lớn hơn án chừng trên dưới 30. Người trẻ bị thương dập nát cả hai chân, các bác sĩ ở đây đang cố gắng điều trị để giữ lại đôi chân cho bệnh nhân này. Người lớn tuổi hơn bị rách phổi màng phổi đang dẫn lưu, chuyền máu.

Qua chuyện trò với các chị y tá, chị Sương cho tôi biết họ là Vi Xi (Việt Cộng). Cũng theo lời chị Sương: “Thông thường các thương binh chuyển về đây đều được ghi đầy đủ họ tên, số quân, nhóm máu từ các thông tin trên thẻ bài mang trên người. Còn các thương binh của quân bên kia họ không có thẻ bài và không khai báo tên tuổi, đơn vị. Để nhanh chóng tải thương, các y sĩ chiến trường ghi vội: vô danh 1, vô danh 2 và địa điểm hành quân…”.

Dù là người ở bên kia chiến tuyến, tại đây họ vẫn được chăm sóc điều trị giống như các bệnh nhân khác không có sự phân biệt. Dưới mắt của các y bác sĩ tại đây dù vô danh hay hữu danh họ đều là bệnh nhân. Chuyện tên tuổi, đơn vị của các bệnh nhân vô danh là việc của an ninh quân đội sau khi họ đã được chữa lành thương tích.

Vào một bữa trưa, tôi từ trường Y vào thẳng quân y viện thăm anh trai, không thấy anh Phiến ở giường bên cạnh, nhìn quanh, chị Lý đang ngồi ủ rũ trên chiếc ghế xếp ở góc cuối phòng bệnh. Chị đang lần tràng hạt, lâm râm tụng niệm. Tôi hỏi anh trai, anh ấy bảo anh Phiến trở bệnh nặng, bị xuất huyết nội phải phẫu thuật cấp cứu lần hai. Rón rén kéo chiếc ghế xếp còn lại đến ngồi cạnh, tôi lặng lẽ nắm bàn tay chị Lý rồi cùng niệm “Nam mô cứu khổ, cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát”; tay kia tôi ôm quàng lấy vai chị để chia sẻ nỗi đau lo. Bỗng tôi phát hiện mái tóc dày mượt của chị đã bị cắt ngắn còn một nửa. Chị đã tự cắt đi một nửa mái tóc đẹp để nguyện cầu cho sinh mệnh người yêu.

Thế rồi cơn nguy hiểm tạm qua, sau phẫu thuật anh Phiến tươi tĩnh và trở lại chiếc giường quen thuộc của mình. Chị Mỹ Lý trông vui hẳn ra.

Niềm vui chưa được bao lâu, ba ngày sau khi mổ lần hai, anh Phiến lại có những cơn đau bụng dữ dội. Vào một chiều thứ bảy, hai bác sĩ đảm trách phòng bệnh đến khám rồi giải thích cho chị Mỹ Lý rằng: “Anh Phiến bị tổn thương vùng tụy, dịch tụy thấm tiết, phá hủy mô chung quanh, bệnh rất nặng, chúng tôi đã rất cố gắng nhưng phải mổ lần nữa thôi, không biết kết quả như thế nào. Không thể chờ đến thứ hai được, tối nay chúng tôi quyết định phẫu thuật cấp cứu lần ba”. Chiều hôm đó chị Mỹ Lý sau khi gởi tôi chăm bệnh giùm, vội vã đi ra ngoài. Hơn nửa giờ sau chị trở lại, tôi thấy đầu chị trùm một chiếc khăn lam giống như các nữ tu, chị đã tự cạo hết tóc mình để cầu nguyện cho anh Phiến. Chị lại ngồi góc phòng lần tràng hạt niệm phật khi người yêu lên giường phẫu thuật. Nhìn chị, nước mắt tôi cứ chảy dài.

Sau phẫu thuật anh Phiến được đưa vào phòng chăm sóc đặc biệt. Tôi không còn gặp gỡ chị Lý thường xuyên như trước, thế nhưng chúng tôi vẫn hay qua về và nói chuyện cùng nhau vì hai dãy phòng bệnh chỉ cách nhau mấy hàng bao cát chống đạn.

Hai ngày sau phẫu thuật lần ba, anh Phiến ra đi.  Không ai cả ngoài tôi và chị Mỹ Lý đưa anh xuống nhà vĩnh biệt. Tôi ở lại cùng chị một đêm, sáng hôm sau chị Lý theo trực thăng đưa anh xuống Phú Bài để đưa anh về quê mẹ Lái Thiêu. Nhìn vóc dáng người phụ nữ nhỏ nhắn với chiếc áo dài tím, khăn lam trùm đầu, cúi đi trong chiều, lòng tôi se thắt lại. Tôi đã khóc. Biết bao giờ tôi gặp lại chị Mỹ Lý thân yêu?

Tháng 4 năm 1974, Huế đang là mùa hạ, cái nóng oi bức bao trùm, khoa nhi bệnh viện trung ương Huế đang đối đầu với bệnh sốt xuất huyết. Là sinh viên y khoa đang thực tập tại đây, tôi gặp lại chị Mỹ Lý. Cũng cái dáng gầy mảnh mai ấy, cũng chiếc áo dài tím, tóc bối gọn gàng, chị đang chăm con bị bệnh ở đây. Nhìn đứa trẻ lên ba xinh xắn, tôi mừng thầm trong bụng, chị ấy đã có lại niềm vui.

Thấy tôi chị tay bắt mặt mừng nói:

 – “Gặp lại em chị vui lắm, trông em đã chững chạc hơn nhiều, đã ra dáng là bác sĩ rồi nhé”. Tôi cười và hỏi:

– Ba cháu Hạ Liên giờ làm gì hả chị?

Chị Mỹ Lý nhìn cháu Hạ Liên rồi nói:

– Ba cháu mất khi cháu mới gần một tuổi.

Sau này tôi mới biết Hạ Liên là con nuôi của chị. Trên đường di tản từ Quảng Trị vào Huế trong mùa hè đỏ lửa 1972, chị thấy một cháu bé chừng một tuổi lăn lóc giữa vài ba xác chết. Chị ẵm cháu về nhận làm con và đặt tên cho cháu là Hạ Liên.  Hạ Liên, bông sen ngày hè, nguyện cầu bình an cho tất cả.

Cuối đông 1977, vào một buổi chiều, trời rất lạnh, tôi đến thăm chị trước khi đi Ban Mê Thuột nhận nhiệm sở. Vào nhà tôi thấy cháu Hạ Liên đang chơi quanh quẩn bên bà ngoại. Tôi hỏi:

– “Chị Mỹ Lý có ở nhà không thưa bác?”.

Mẹ chị Lý vui vẽ bảo tôi:

– “Cháu đến chơi đó hả, mẹ Lý đang giặt đồ sau giếng”.

Theo lối nhỏ bên hông nhà đi về phía vườn sau, tôi thấy chị Lý đang ngồi cúi mặt vò áo quần trên chiếc thau nhôm lớn. Tôi gọi: “Chị Lý ơi, em lên thăm chị đây”. Đang chú tâm giặt đồ nên chị không nghe tôi gọi. Đến gần tôi thấy hai tay chị vò đi vò lại tấm áo nhỏ, máu từ các vết nứt nẻ ở đầu các ngón tay rỉ ra, nước trong thau đỏ au. Tôi gọi lần hai to hơn:

– “Chị Lý ơi, em lên thăm chị đây”.

Chị Lý giật mình, như sực tỉnh ra, đứng dậy, nhận ra tôi, chị ôm quàng lấy tôi khóc nức nở, miệng lẩm bẩm nói:

– “Em ơi, chị nhớ anh Phiến quá”.

Tôi khóc theo chị. Hai chị em ôm nhau khóc dưới tán măng cụt đang ra hoa.

Địa danh Mang Cá

Mang Cá là tên dân gian thường gọi của Đài Thái Bình xây vào năm Gia Long thứ 4 (1805). Đến năm Minh Mạng thứ 17 đổi là Trấn Bình Đài (1836). Đây là khu vực pháo đài canh giữ góc đông bắc kinh thành Huế. Trấn Bình Đài là một pháo đài năm cạnh, mỗi cạnh dài 200 mét, trên mặt nền đặt nhiều cổ đại pháo, hai bên có hai cái hố hình chữ V trông như hai mang cá, nên dân gian gọi là đài Mang Cá. Năm 1883 sau khi đánh chiếm trấn Hải Thành (cửa Thuận An) người Pháp buộc triều đình Huế nhường Trấn Bình Đài làm nhượng địa (theo thỏa ước Patenôtre 1884). Đến 1886, sau cuộc chính biến bất thành của vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết (1885), toàn quyền Paul Bert ép vua Đồng Khánh nhường thêm một phần đất sát trấn Bình Đài về phía bên trong nội thành, người Pháp đã xây một tường rào để phân biệt đất của triều đình và đất nhượng địa mới; dân chúng gọi bức tường này là “bức tường ô nhục”. Bức tường ô nhục bắt đầu từ cửa Hậu (?) đến cửa Cầu Kho dài 600 mét cao 5 mét chắn luôn lối đi vào cửa Cầu Kho. Diện tích khu nhượng địa sau rộng gấp hai ba lần khu nhượng địa trước. Các từ dân gian Mang Cá nhỏ, Mang Cá lớn phát xuất từ thực tế này.

Tại Mang Cá Lớn, Người Pháp xây dựng doanh trại đóng quân, một số biệt thự nhỏ làm chỗ ở cho các sĩ quan chỉ huy, một nhà nguyện và một trạm xá. Đồn Mang Cá có chức năng uy hiếp triều đình và canh phòng sự nổi dậy của nhân dân. Cùng thời điểm xây dựng đồn Mang Cá, người Pháp xây dựng ở phía nam bờ sông Hương một công trình khác để khống chế triều đình về mặt chính trị gọi là Tòa Khâm Sứ.

Năm 1954, theo tinh thần hiệp định Genève, người Pháp bàn giao đồn Mang Cá cho chính quyền Quốc gia. Quân đội Quốc Gia Việt Nam tách dần ra khỏi quân đội Liên Hiệp Pháp, từng bước xây dựng thành Quân đội Việt Nam Cộng Hòa do ông Ngô Đình Diệm làm tổng thống.

Quân đội Việt Nam Cộng Hòa tiếp quản Mang Cá Lớn làm bản doanh của quân khu Một. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa phát triển, quân khu Một dời vào Đà Nẵng trở thành quân đoàn Một. Mang Cá giao lại cho sư đoàn Một. Trạm xá thời Tây thành bệnh viện cho quân khu Một rồi cho sư đoàn Một. Cái tên Nguyễn Tri Phương gợi nhớ về thời kỳ lịch sử không lấy gì làm vẻ vang, nhưng đồng thời khắc sâu khí phách của một anh hùng.

Bác sĩ Lê Bá Vận được đào tạo tại Y khoa Đông Dương Hà Nội và Sài Gòn từ năm 1948, năm 1957 được trưng tập làm quân y sĩ. Quân đội điều động ông về Huế với nhiệm vụ phát triển này. Có lẽ cái tên quân y viện Nguyễn Tri Phương là do ông đặt ra. Trong hồi ký của mình, bác sĩ Lê Bá Vận (nguyên trưởng khoa Y của Viện đại học Huế) đã ghi: “Đến Huế tôi đi xích lô qua cửa Thượng Tứ thẳng đường Cầu Kho (đường Đinh Tiên Hoàng) vào cổng trại Mang cá. Qua cổng đi thẳng tiếp bên tay trái nhiều dãy nhà ngói dài, bên phải bãi cỏ rộng, bụi bờ gần sát tường Thành Nội, hai bên đường nhiều dãy nhà trông đẹp mắt. Một số trại binh được xây trên bờ thành”. (ykhoahuehaingoai.com).

Năm 1971, tôi vào Mang Cá Lớn theo một lối đi khác. Tôi đạp xe hết đường Huỳnh Thúc Kháng, qua cống Thanh Long một đoạn, rẻ trái, vào cửa Trài, rẻ phải, đi dọc theo bờ thành, rẻ trái, lên dốc, trước mặt tôi là Quân y viện Nguyễn Tri Phương, là khu Mang Cá Lớn.

Quân y viện Nguyễn Tri Phương thời bấy giờ (1971) tọa lạc trong khu Mang Cá Lớn. Toàn khu vực chỉ thấy một màu xám xịt, không cây xanh, hiếm nụ cười, rất nhiều tiếng kêu la, rên khóc. Phía bên phải nhìn từ cổng đi vào là những dãy nhà vòm bằng tôn Mỹ dã chiến với những bao cát chống đạn chất chung quanh là khu vực dành cho phòng phẫu thuật và phòng hậu phẫu.

Lối đi vào các dãy nhà vòm này là hai cổng vòng cung trước và sau chỉ phủ che bằng các tấm tăng dày màu đất. Mấy dãy nhà gạch cũ kỹ tô xi măng quét vôi màu vàng ở phần cuối khu đất bên phải cũng chất đầy bao cát chung quanh là khu bệnh phòng dành cho thân nhân quân nhân, nhà bếp, nhà bàn. Những dãy nhà cũ dành cho bệnh nhân xây trên bờ thành đều đổ nát do đạn pháo. Về phía trái là khu vực bãi cỏ rộng, nơi trực thăng tải thương lên xuống. Cuối bãi cỏ này là phòng vĩnh biệt với hai dãy nhà dọc nằm giữa hai hàng chừng mươi cây dừa mà các ngọn cây đã xơ xác, cháy sém do đạn pháo.

Mang Cá lớn – Mang Cá nhỏ, tôi đi trên những dấu tích của một thời quốc nạn.

Mang Cá Lớn – quân y viện Nguyễn Tri Phương, tôi đi giữa những đau thương chết chóc của thời kỳ Việt Nam hóa chiến tranh. Việt Nam Hóa chiến tranh là nội chiến. Tôi nhìn sâu vào tâm thức tôi: nội chiến là quốc nạn bi đát và to lớn hơn.