Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 19 tháng 5, 2025

Cùng trời cuối đất

 Dạ Ngân

 

Cỗ xe bò thả tôi xuống một ngã ba. Ông lão đánh xe có chiếc búi tó thời tiền sử ngoái nhìn như ông vừa thả xuống một người lẩn thẩn từ hành tinh khác. Tôi xốc lại túi xách, bụi cát và lá khô vờn trên mặt cỏ vệ đường. Tôi cần gì ở đây, thực sự tôi muốn gì ở gã đàn ông chưa từng biết mặt ấy? Thật điên rồ, tôi đã điên rồ một cách đầy phấn khích sau khi kết thúc công việc ở Sài Gòn, thế là một cú phôn ra Hà Nội cho chồng, rồi hai chặng xe, giờ thì mũi tôi đã có thể ngửi thấy mọi thứ mà lịch sử gọi là miền biên viễn.

Gã ta cũng khéo chọn chỗ để trốn chạy lắm đây. Không khí mùa khô đất tây nam dễ chịu. Đã nghe thấy hơi núi giác chiều, trời sẫm đỏ thứ hoàng hôn mà gã từng viết, rằng gã đã ngồi nhìn nó mỗi ngày, câm lặng, đau nghiến, không thể bộc bạch với ai, trong nỗi chờ đợi tuyệt vọng người đàn bà của đời gã. Thật đáng mặt cái thứ hoàng hôn cuối trời của gã! Tôi hướng ra ngoài, tôi chưa muốn đi vào chân núi vội, tôi thả lỏng tất cả các giác quan để tận hưởng những điều mà gã đàn ông ghê gớm ấy đã mô tả trong lá thư tâm sự với tôi. Xa kia là dãy Chàng Ô xứ người, chắc thế, đây đó những chòm thốt nốt hoang vu, gã bảo phải ba mươi lăm năm cây mới cho trái rồi ví gã là thứ cây trời đày kia. Đúng là một nơi lỡ nhích thêm vài trăm mét thì có thể thành kẻ nhập cư bất hợp pháp đất nước người ta nhưng ngồi yên thì lại thấy bị gói trong cảnh thâm sơn cùng cốc.

Ông lão xe bò tốt bụng có cái búi và bộ râu rất là sơn cước hóa ra không giúp tôi được gì nhiều. Một Thực gò hàn nếu đi theo hướng cỗ xe của ông, một Thực biên phòng, một Thực thầy giáo và một Thực lâm nghiệp nữa, cả ba đều ở sâu trong chân núi Tà Niên kia. Thực nào cũng trung trung tuổi, cũng dân miền ngoài đổ vào, đã bảo ở đây là một cái túi mà. Mơ hồ như một cái mạng nhện nhưng dù sao cũng đã chạm tay vào cái mạng ấy. Ở phần địa chỉ của lá thư xin tư vấn, cái gã mà tôi đang lần theo chỉ ghi vẻn vẹn có một dòng: Thực Đồng Châu (Tà Niên - đất đạo). Nhất định gã không phải Thực gò hàn vì gã từng đi đại học theo như gã viết, cũng không phải Thực biên phòng, đơn giản vì quân đội không phải là nơi để trốn chạy. Chắc chắn gã phải có công việc gì đó gần với đi ẩn.

Vài chiếc xe máy thồ gà qué, heo cúi, hoa trái của đất núi ngược chiều vút qua tôi. Một cỗ xe bò cùng chiều xới lên mùi phân bò khô cùng với bụi bặm. Những chú bé đưa bò về chuồng. Những mái ngói cũ dưới những cây mít. Có tiếng chuông chùa, ở đây vừa có đạo Cao Đài, vừa có đạo Hòa Hảo, nghe đâu lại có cả đạo Hiếu Nghĩa. Một tốp phụ nữ Khmer đi bộ thành hàng một, những cái thúng nhỏ và những tấm khăn ca-ma vắt mối trên đầu. Tôi nhoẻn cười vẫy tay với họ nhưng quyết không mở miệng hỏi han đường sá gì cả, tôi đang thi gan với sự phiêu lưu của mình, tôi đang nghe thấy tín hiệu đúng từ linh cảm.

Tôi bắt đầu làm công việc Tư vấn tình cảm từ khi thấy mình đã khá đủ thương tích cuộc đời. Những bức thư từ mọi miền gửi về tòa báo. Những cú điện thoại tức tưởi dựng tôi dậy khi trưa khi chiều, cả lúc nửa đêm. Những lá thư điện tử xin được reply ngay như một ca cấp cứu. Tôi thấy mình khi thì giống một bác sĩ, khi lại như một Cha xứ đang nghe người ta xưng tội qua một bức vách, khi lại như một người mẹ có những đứa con đang gục vào lòng mình xin che chở. Thiên hình vạn trạng, cái mà nhà Phật gọi là bể khổ, cái bể thật ít hỉ xả, từ bi. Tôi cũng chẳng tài thánh gì, tôi cũng có những lúc muốn được phôn cho ai đó hay khóc với ai đó, tôi cũng thịt xương tim óc bời bời, nhưng tôi đã được tòa báo chọn làm cái việc lắng nghe rồi tìm cách dội từ tâm của mình lại, như một vách núi mẫn cảm. Tôi cố gắng hồi đáp không bỏ sót một ai, nhiều thư cảm ơn lần hai lần ba mỹ mãn, nhưng cũng có những khi tôi ngóng chờ một tín hiệu báo an mà không thấy gì cả. Bồn chồn như mình đã làm một việc với hư không. Bứt rứt như ngóng một người thân ở chân trời. Đúng là ngóng một người thân, vì có thể mình không biết mặt họ nhưng mình đã được nhìn tận bên trong nỗi đau của họ. Khi ta trút với ai đó nỗi lòng mình, người đó đã dự vào đời sống tinh thần của ta mà ta sẽ phải chịu ơn hay ân hận vì đã cho họ sự sâu kín ấy.

Một ngôi trường tiểu học mái tôn cũ tựa vào chân núi. Những cây phượng trên sân đất cho trẻ con có mùa thi và bóng mát. Một đám trẻ trai áo trắng đồng phục đã cũ từ trong đó chạy túa ra, vừa chạy vừa vít cổ nhau kêu loạn xị. Một đứa hét: “Thầy Thực ra kìa!”. Tôi đứng lại bên đường, tim đập rộn. Làm nghề gõ đầu trẻ ở đây là đi ẩn hay đi làm từ thiện? Một bầy vịt con vàng óng đi lúc lắc thành hàng sau một ả vịt mẹ trên vệ cỏ trông thật vui mắt. Thực thầy giáo hiện ra: “Các em từ tốn đi nào!”. Gương mặt cứng bạnh của dân đất Nghệ và một ống tay áo sơ mi lủng lẳng trên người. Anh Thực này chắc chắn là một cựu binh từ cuộc chiến với Pol Pot, một anh bộ đội tàn phế rồi cắm lại đất này. Không thể là Thực tôi đang tìm, tôi nhìn anh thân ái rồi im lặng đi tiếp.

Lá thư xin tư vấn của gã Thực Đồng Châu ấy đến tay tôi qua nguồn thư bưu điện mỗi tuần, phong bì thông dụng, đơn giản. Nét chữ nghiêng nghiêng rắn rỏi mực thước, trên bốn trang giấy học trò. Thư có đoạn viết:

“Kính thưa chị! Câu chuyện của tôi có lẽ phải kể lùi lại từ lúc tôi mới có 15 tuổi. Dạo đó tôi còn là một cậu nhóc lớp 9, thế mà trái tim tôi đã sớm rộn ràng bởi hình bóng của một cô bạn cùng lớp. Một tình cảm trong suốt, thánh thiện đến mức tôi chưa lần nào dám viết thư hay tìm cách chạm vào cô ấy. Rồi chúng tôi cùng lên cấp III, lại cùng lớp, luôn luôn có nhau trong từng buổi học. Ngày chia tay cuối cấp, lần đầu tiên tôi cầm tay cô ấy để thổ lộ lòng mình và cả hai chúng tôi cùng hiểu rằng, chúng tôi sinh ra là để cho nhau.

Những năm đại học - cô ấy không đi thi do học yếu và nhà nghèo, tôi luôn dành trọn tình cảm của mình cho cô. Các kỳ nghỉ hè tôi từ chối tất cả để về bên cô ấy. Bạn bè vun vén cho chúng tôi, ai cũng tin khi tôi ra trường là có cưới. Đường học hành của tôi từ khi có cô ấy thì mọi sự bỗng trở nên hanh thông, suôn sẻ. Thế nhưng khi tôi lấy xong bằng và về thưa chuyện với U thì U tôi lắc đầu. Tôi nhớ đó là một buổi tối đầu thu, heo may đã về, tôi tưởng như từng tế bào tôi đang phát cuồng vì khát thèm hạnh phúc. Nhưng U tôi không cho phép. Tôi gạn, tôi nài, tôi cầu xin một lời giải thích thì U tôi gầm lên: “Không được, vì nó là con rơi của bố mày, nghe chửa?”. Tôi đứng sững như thể trời trồng. Chị có hình dung được nỗi đau khổ của tôi không? Có thể lắm chứ, không là anh em sao tôi và cô ấy luôn như bóng với hình, luôn vướng víu nhau như cả hai thường bị mắc trong một tấm lưới?

Tôi ở lì trong nhà trọn một tuần lễ rồi quyết định ra đi. Chỉ có một người có thể nói với tôi toàn bộ sự thật nhưng bố tôi đã ra người thiên cổ lâu rồi. Tôi đi một mạch từ nhà đến cái nơi gọi là cuối đất này, tôi muốn biến mất như tôi chưa từng có mặt trên đời vậy. Mười mấy năm đã trôi qua, tôi có chung đụng với một người đàn bà, hậu quả của mối tình ngắn ngủi ấy là giờ tôi phải vừa làm bố vừa làm mẹ cho đứa con trai nhỏ của tôi đây. Được cái cháu rất khỏe mạnh và ngoan. Tôi biết mình không yêu ai được nữa, ngoài cô ấy. Mới đây tôi bỗng nảy ra ý muốn hồi quê, lá chưa già mà lá đã nghiêng về với cội rồi. Khi ra đến nơi tôi mới biết U tôi cũng đã qui tiên và cô gái ngày xưa của tôi đang ngồi tù. Tại sao sự thật nào cũng tàn nhẫn với tôi như vậy hở chị? Mẹ cô ấy đã già, khóc con mờ cả mắt, bảo giá ngày xưa anh hỏi qua tôi một tiếng thì đâu nên nỗi. Rồi bà nói cô ấy không phải là con gái bố tôi, bà xin lấy trời ra làm chứng. Tôi đoán mẹ tôi thấy người phụ nữ này xinh và chắc bố tôi cũng từng có tình ý nên đã tìm cách phán thế cho tôi đừng đi lại với nhà họ nữa. Thật không sao lường hết được nỗi ghen tuông của những người đàn bà! Suốt mười mấy năm qua cô ấy đã đợi tôi, hy vọng U tôi còn sống là tôi sẽ trở về. Cô ấy đã bỏ ngoài tai tất cả lời tỏ tình của những người đàn ông để chỉ chờ tôi. Khi U tôi qua đời, cô ấy lại hy vọng rằng tôi sẽ biết tin bằng linh cảm mà trở về. Nhưng tôi vẫn biệt tăm. Và rồi cô đã nghe theo bạn bè rủ rê lên biên giới đi buôn. Giá như hồi ấy tôi bình tĩnh, giá như…

Tôi đánh đường lên Sơn La để nhìn thấy cô ấy trong tù. Không sao cất nổi thành lời sự éo le của chúng tôi. Tôi là người thăm nuôi không danh nghĩa, tôi còn có đứa con như một sợi dây cột lấy tôi bên chân núi, cô ấy còn cả thời hạn 5 năm nếu như ăn năn cải tạo tốt, chúng tôi phải chờ nhau đến bạc đầu thật sao hở chị? Chưa bao giờ tôi thương tôi và thương cô ấy như lúc này. Vật đổi sao dời, chúng tôi yêu nhau từ lúc mái đầu còn chưa đủ xanh kia mà. Liệu chúng tôi còn được khỏe mạnh để về với nhau nữa không đây? Tôi đau khổ quá chừng, tôi không biết bộc bạch cùng ai mỗi khi chiều xuống mà tôi thì quá đơn độc ở cái nơi khỉ ho cò gáy này. Tôi mong chị cho tôi vài lời, may mà còn có những tờ báo, chị ạ!”

Tôi nhớ cảm giác đau ran trong ngực hôm tôi đọc xong lá thư trên. Như tôi cũng bị chẹn bằng một viên đá. Tôi hồi âm ngay trên báo và chờ. Tôi kể lại câu chuyện cho chồng nghe để biết một cảnh ngộ và chờ. Tôi lấy câu chuyện để nhắc các bạn gái cái thói ghen tuông đàn bà rồi có ý chờ. Tôi cho con gái mình đọc lá thư để nhắc nó hãy cẩn trọng khi cho con cái một lời phán rồi tôi tiếp tục chờ. Thư của người ấy không xin giải pháp, chỉ muốn san sẻ, động viên nhưng tôi viết rằng tôi có nhiều mối quan hệ, tôi có thể nói giúp để cho cô ấy được giam giữ một nơi thuận tiện cho người ấy dễ tới lui hơn, tôi có thể mở lời với trại giam để hai người có nhau sớm hơn trong những lần thăm nuôi không được chính danh… Nhưng phía chân trời vẫn không thấy động tĩnh gì. Nhiều lúc tôi thần người bên bàn viết, tôi thấy như mình chưa xong một việc ở đâu đó. Và tôi muốn một chuyến đi, tôi sợ người ấy buông xuôi và một lần nữa lại làm hỏng cuộc đời của cả hai người. Hơn hết, tôi muốn nhìn thấy một chân dung, thấy một trái tim mãnh liệt và sâu sắc nếu có thể được.

Có tiếng xe máy vượt lên từ phía sau tôi. Tôi bắt đầu thấy mình hơi ngớ ngẩn nếu cứ lang thang bách bộ bên cái chân núi lạ hoắc trong buổi chiều này. Gã đàn ông cưỡi chiếc hon-đa 67 cũng của thời tiền sử bỗng dưng đi chậm lại ngoảnh nhìn kinh ngạc như thể tôi là vật thể lạ. Chiếc xe giống một con dế trũi phong trần chui từ trong hang ra. Gã ấy có vẻ chập chờn rồi phóng thẳng, áo khoác bludông màu cỏ úa bay bay. Bộ lọc của tôi định hướng vào người mà ông lão gọi là Thực lâm nghiệp chắc đang ở đâu đó phía trước. Có lẽ phải quá giang ngay một chiếc xe bò nếu thời may bắt gặp. Vách núi đằng trước dội lại tiếng xe máy, ở đây cũng không quá vắng vẻ như tôi hình dung. Thì ra là cái gã ban nãy, lần này gã cố ý đi thật chậm và thật sát để nhìn kỹ tôi. Tôi hất cái bản mặt của một mệ già năm mươi tuổi không biết sợ là gì lên để gã thấy chẳng bõ bèn gì, đừng có mà vớ vẩn! Gã có vẻ kinh ngạc, như không tin vào mắt mình nhưng lại cho xe vút thẳng. Tôi chợt tiếc, gã có bộ dạng của gã xe ôm, tôi đang cần, tôi đã chậm tay để gã đi huốt luôn rồi.

Trong lúc tôi ngẩn ngơ tiếc thì nghe thấy tiếng xe vòng lại, gã ngoặt một cua ngoạn mục trước mặt tôi rồi đạp phanh, lỏng người lấp lửng ngoảnh nhìn chờ một phản ứng. Tôi thấy gã có vẻ tức cười. Gã khoảng bốn mươi tuổi, thái dương lốm đốm bạc dưới vành mũ lưỡi trai, tôi hơn gã hàng chục tuổi, cả gã và tôi đều đã quá già với tiết mục có tên là “mô-tô 67 bay”. Một khắc im lặng cân đo nhau không biết vì cớ gì. Tôi bước sải tới, bật cười: “Trông cậu mình giống dân xe ôm nhưng bắt khách kiểu này hơi có vẻ cao bồi Hollywood!”. Gã ta nhìn tôi chăm chú, không hiểu sao ánh mắt lại có vẻ thán phục, rất thán phục nữa. Một gương mặt đàn ông phong sương nhưng dễ tin cậy, nước da biên địa nâu tái, nụ cười thân thiện quen quen: “Bà chị tìm nhà ai trong này? Lên đây tôi cho quá giang!”. Tôi sung sướng trèo lên: “Tôi không đi nhờ, tôi trả tiền sòng phẳng!”. “Được thôi! Nhưng hình như chị từ trên trời rơi xuống?”, gã nói và đỡ lấy chiếc túi xách của tôi đặt lên bình xăng phía trước. Tôi cười cười: “Trời khiển tôi xuống đây để tìm cân một trái tim!”. Gã cũng cười, cười ngất, tiếng cười sảng khoái, thân thiện. “Ngộ há? Dân trong này nói ngộ là khen đấy bà chị ạ!”. Tôi reo lên: “Cậu cũng dân ngoài kia vào? Vùng này vắng, xe ôm sao sống nổi?”. Gã ta nhún vai: “Trời sinh voi trời sinh cỏ. Nhưng tôi không phải voi, tôi là dê núi thứ thiệt, coi bộ bà chị dễ tin người quá!”. Tôi làm cứng: “Ở hiền gặp lành!”. Gã ta gục gặc tán thành, tấm lưng này, phong thái này nếu không là dân xe ôm có tư cách thì cũng là người thừa sức tốt bụng. “Bà chị hổng chịu nói rõ mình đi tìm nhà ai, coi chừng tôi chở vô núi nộp bọn lục lâm thảo khấu, đừng trách nghe!”. Tôi nói nghiêm: “Cho tôi đến nhà Thực lâm nghiệp, Thực gà trống nuôi con, cậu biết không?”. “Chị là sao với tay Thực ấy?”. Tôi đập nhẹ vào lưng gã: “Là chị gái ngoài quê vào, được chưa?”. Lại một cái nhún vai không rõ ý nghĩa, chiếc xe bắt đầu bay trên những mét đường mà gã ta có vẻ thuộc làu.

Độc giả quý mến của tôi! Những con người đã nhìn thấy nội tâm nhau, tức là đã ít nhiều hình dung được bộ mặt tinh thần của nhau không hiểu vì sao rất dễ thân thiết nhau như có một sợi dây kết nối bí ẩn. Khi “gã xe ôm” dừng trước một khuôn vườn nghiêng nghiêng có na, có bưởi và những chú gà tre sinh động rồi mời tôi vào nghỉ chân chút đã, tôi bỗng ngợ ra: đây chính là cơ ngơi của gã và gã cũng chính là người đàn ông có trái tim son sắt mà tôi hằng tò mò! Một nếp nhà vắng lặng, đáng yêu. Một không gian thiếu vắng đàn bà mà vẫn ngăn nắp, vén khéo lý tưởng. Từ trong chái bếp, một con chó phèn vẫy đuôi chạy ra cùng với một chú nhóc chừng bảy tuổi, hai má nó dính đầy mật trái ô môi mà nó còn cầm nguyên một khúc trên tay. Gã khoát tay với con, dịu dàng: “Chào bác đi con!”. Đứa bé lễ phép, vâng lời. Hai bố con kéo nhau ra chỗ cây nước, bố đẩy cần, con rửa mặt rửa tay, trong ráng chiều, những đường nét của họ trông giống một bức ảnh ngược sáng cảm động. Tôi đến bên: “Cậu là Thực Đồng Châu, Thái Bình?”. Gã vừa lom khom kỳ cọ cho con vừa ngoảnh nhìn tôi, cười cười: “Chị vào tới tận hang rồi, còn hỏi!”.

Cảm giác lâng lâng tuyệt diệu. Tôi đã kỳ vọng đúng một con người, tôi đã cất công để nhìn thấy cậu ta có một sự thu xếp xanh biếc với tương lai. Tôi đang ủy lạo một cuộc đời đau khổ, vậy cũng có nghĩa là tôi đang làm từ thiện trong khả năng mảnh dẻ của mình. Tôi ngồi xuống ngoài sân, chiếc bàn kết bằng tre và những khúc gỗ mít làm đôn, nơi gã bù khú với bạn bè và chắc cũng là nơi gã ngồi đếm lịch mỗi ngày khi hướng lòng về cái nơi gọi là Sơn La ấy. Không còn cái vẻ trững giỡn ngổ ngáo ban nãy, trông gã bỗng chậm chạp vì cái vẻ nghiêm trang có phần khắc khổ. Gã đi vào nhà mang ra ấm nước chín và một cặp sơ mi dày loại có dây thắt, trịnh trọng: “Tôi đã ngờ ngợ chị ngay lúc lướt xe qua lần đầu. Khi quay xe lại thì tôi biết chắc là chị rồi. Tôi cất giữ bao nhiêu là ảnh và bài viết của chị hoặc liên quan đến chị đây. Dù chị có đi tìm ai trong cái núi này thì tôi cũng phải “bắt cóc” chị trước đã. Tôi cứ mơ cái ngày hai chúng tôi được đón chị ở chỗ này. Tôi định khi cô ấy ra trại rồi sẽ có thư ghi địa chỉ cụ thể để mời chị. Tôi quá cảm kích, chị đã hồi âm, đã nhắn tin tôi thư cho chị lần nữa rồi còn tìm tới tận đây, tôi ơn chị nhiều lắm, chị biết không?” Tôi để cho cậu ta nói một hơi dài, tôi đang tận hưởng cảm giác tri kỷ từ gã. Tiếp tục lấy từ trong một chiếc phong bì to những lá thư đưa cho tôi, gã nói: “Thư của cô ấy đây, chị! Cảnh đi tù, không làm sao có một bức ảnh được chị ạ. Nhưng mà chữ cũng là người, chị đoán xem cô ấy có thể là bà mẹ tốt cho thằng con nhà tôi không hở chị?”.

Tôi không cho gã những nhận xét sau khi đọc qua những lá thư toàn yêu thương và nước mắt. Chữ là chữ nhưng thời gian và tù tội biến cải, biết làm sao mà đoán. Nhưng tôi tin, tin rằng người phụ nữ ấy, cô gái ngày xưa ấy thật là diễm phúc mới có được một tình yêu và một con người như gã trong đời.

Thanh Đa, tháng 12/2010