Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 28 tháng 5, 2025

Học giả và thi nhân[1]

(Đề tựa Quế Đường thi tập)

Phan Huy Chú

Bài này do nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi phát hiện vào khoảng đầu những năm 70 thế kỷ trước, khi ông có dịp đến Thư viện Viện Hán Nôm khảo sát bộ sách Ngô gia văn phái.  Trong một cuốn Ngô gia văn tuyển 吳家文選 đề tên tác giả là Huyền Trai công 玄斋公 ký hiệu A117 D/2 có bài tựa này xếp ở vị trí thứ 7 và nằm ở tờ 7a - 8b. Huyền Trai là tên của Ngô Thì Hoàng 吳時皇(1768 - 1814), một người con thứ của Ngô Thì Sĩ, vốn có tác phẩm Thạch Ổ công di thảo石塢公遺 được chép ở Ngô gia văn phái A.117 a/20 và Thạch Ổ văn tập 石塢文集 chép ở Ngô gia văn phái tuyển 吳家文派選 (Paris, BN A. 63, Tập 5 Q. 14). Tác phẩm đang nói đây có thể là một tuyển tập của Phan Huy Chú bị chép lẫn vào sách của dòng họ Ngô Thì, vì có nhiều bài cho thấy không phải của Ngô Thì Hoàng, thậm chí có những bài còn là thư trao đổi với Ngô Thì Hoàng trên tình nghĩa bè bạn.

Sau khi phát hiện văn liệu rất quý trên đây, Nguyễn Huệ Chi đã ủy thác việc sao chép nguyên văn và dịch ra tiếng Việt cho vợ mình là Nguyễn Kim Hưng để đăng trên Tạp chí văn học số 2/1977 kỷ niệm Lê Quý Đôn, và sau đó in lại trong bản dịch Quế Đường thi tập (2023). Rất tiếc bản chép tay nguyên văn thuở bấy giờ chưa có điều kiện in đính kèm bản dịch nên nhiều bạn đọc muốn tìm hiểu sâu hơn vẫn có ý áy náy. Vì thế, ngày 8-5-2025 Nguyễn Huệ Chi lại trở lại Thư viện Viện Hán Nôm và tìm lại được bài tựa này sau mấy lần dò tìm, lục lọi (vì ký hiệu bộ sách đã có thay đổi, nay là: A117/1), bèn chép ra để cung cấp cho bản dịch Quế Đường thi tập cả nguyên văn chữ Hán cùng với bản phiên âm, nhân dịp sách tái bản.

Văn chương của cổ nhân thường chia ra hai lối mà người đời vẫn lo ít ai tài kiêm được cả hai. Người có cái học chuyên về trước thuật thì phần đông kém ở lời văn hoa mỹ; trái lại, người có tài ngâm vịnh thì nhìn chung lại thiếu phần uyên bác. Có tài kiêm được cả hai phương diện ấy, thực khó lắm thay.

Đại phàm các nhà trước thuật thường xuất phát từ thể văn Kinh Thư, Xuân thu, cô đọng, sâu suốt, bao quát xa rộng, cốt yếu ở tính mực thước và hệ thống, mà chỉ với cảm hứng nhẹ nhàng thanh thoát thôi dường như không đủ. Còn các nhà ca vịnh thì lại bắt nguồn từ thể “tỷ” và “hứng” ở Kinh Thi, niềm cảm thán ở Ly tao, phô diễn những cảm xúc chí tình và thu lượm được nhiều cảnh lạ. Đôi khi nó còn phát ra từ nỗi niềm ký thác của hạng lữ khách, kỳ nhân[2] mà kẻ sĩ điển chương chẳng rỗi để tâm đến nên không mấy thông thạo. Nếu không phải là người vừa có đủ cái học uyên bác lại có cả nguồn cảm hứng bay bổng thì dễ đã mấy ai có thể vừa là nhà trước thuật lại vừa là nhà thơ được chăng.

Than ôi! Học vấn kiêm toàn từ xưa vốn dĩ đã khó rồi. Nước ta từ thời Lý - Trần trở lại đây, những dòng họ tiếng tăm như họ Công Cơ nước Lỗ[3] thật khó tìm, mà trong đó kẻ có tài năng bao quát được cả hai phương diện đã nói càng hiếm vậy. Tìm trong khoảng gần đây người xứng đáng với danh hiệu đó chẳng phải là Quế Đường họ Lê thì còn ai. Học vấn bao trùm, xem rộng khắp hết sách vở, nhờ văn chương mà đi thi chiếm bảng đầu. Có kiến thức mênh mông đồ sộ, lại sở trường bậc nhất ở trước thuật. Đối với Ngũ kinh, Tử, Sử  không gì không biên soạn, ghi chép. Biện luận, trước tác thì phong phú. Thật sừng sững là bậc danh nho của cả một đời. Mà những tư tưởng du dương phóng khoáng về những nơi núi non siêu tuyệt, phát lộ ra ở thể “tỷ” và thể “hứng” lại càng nhiều. Kể từ lúc còn bay liệng trong vườn hàn cho đến khi bước lên con đường hoạn lộ, vào thì đi lại nơi lang miếu, ra thì dấu chân trải khắp núi sông; ngụ hứng, tả lòng, thường biểu hiện ở không ít áng thơ của mình. Bất tất phải như lời cảm thán của tao nhân mặc khách, nhưng tình cao, tứ nhạy, tự nhiên tuôn chảy, thơ ông vẫn luôn bắt kịp âm điệu của các tác gia xưa.

Ta từng thử bàn điều này: Việc trước thuật của Lê công thì như sông dài bể rộng, đầy tràn, tít tắp, không nơi nào không đến; mà sự kì diệu của những lời ngâm vịnh của ông lại cũng như chim [ríu rít] mùa xuân, hoa [tươi nở] đúng kì; âm điệu hay, phong cách thanh tao đâu phải nhờ đẽo gọt cầu kì mà có được. Có lẽ vì vốn học của ông thì phong phú, tài năng lại đầy đủ, do đó mới có thể vừa hoàn thành công việc xuất sắc của nhà học giả, lại vừa kiêm luôn được cái việc gọi là khó của người xưa đó chăng.

Ta xưa kia từng được đọc các bộ sách trước thuật của ông, rồi sau lại tìm được mấy tập thơ văn của ông. Đọc xong than rằng: Cái nguồn hứng cảm rộng lớn sâu thẳm này, mãi gần đây cũng hiếm người có được. Ý muốn biên soạn, sắp xếp lại sách vở của Lê công đã nẩy ra từ sớm. Nhưng việc đời biến đổi khôn lường, có ý định ấy mà nấn ná mãi vẫn chưa thành.

Mùa thu năm Quý Hợi (1803), bạn ta là Đông Lao Nguyễn Thang Kiến tìm được bản sao toàn bộ thi phẩm của ông, đem đến cho xem, dặn dò ta hiệu đính thành tập. Bèn cùng Thang Kiến đính chính những chỗ sai lầm và sắp xếp theo từng môn loại để bạn đọc tiện xem xét, thưởng lãm. Xét ra thơ của ông vốn có hơn 500 bài nhưng bị nhầm lẫn, thất lạc mất nhiều. Cân nhắc, chọn lấy những bài tương đối tinh, được tất cả 490 bài. Bèn chép lại cẩn thận, chú giải và sắp theo thứ tự.

Tập sách hoàn thành, Thang Kiến bảo ta viết lời tựa. Ôi! Ta vốn là người kính mộ thơ văn ông mà vẫn chưa làm được việc tập hợp, sao chép. Nay Thang Kiến đã sưu tầm được bản sao còn lại, lại gấp rút cất công biên tập. Tấm lòng ham thích văn chương như thế thực cùng một chí hướng với ta vậy. Lời lẽ của ta tuy chẳng văn vẻ gì nhưng lẽ nào có thể từ chối?

 

Bèn thuật lại đại ý trước tác của ông, cốt để bày tỏ lòng ta ngưỡng mộ học vấn của ông. Và cũng xin đợi một dịp khác sẽ biên soạn lại toàn tập của ông sau.

 

Nguyễn Kim Hưng

Dịch, chú và giới thiệu

 

Nguyên văn:

 

[tờ 7a] 桂堂詩集序

古人文章之道有二、而常患其難兼。著述之學、多病於詞華、歌 詠之才、每乏於淵博、甚矣哉兼斯二者之難也。

蓋著述者流、出於書春秋之体、淹貫該博、主於典叙、而清脫飄逸之興、恒若不足。歌詠者流、則源於詩之比興、離 騷之感嘆、寫至情而搜異景、往往出於羈人畸客之所托、而典章之士、常無暇於此而弗工。非夫具淹博之學、兼飄逸之思、孰能宣著述而又比興 者耶。 鳴呼兼該之學自古所難。

我越李陳以來 [tờ 7b]、如公姫难、其能兼此盖鮮矣。求之近代、 有能 稱是者、如桂堂黎公、非其人歟。學問該貫博極群書、以文章登魁榜 。碩大宏博之學、最長著述。其於五經子史、靡不纂録。辨論著作之富、卓然為一代名儒。而悠揚岩逸之思、時發於比興者為尤多。自其翔翰園、登仕路、入而趨蹌廊廟、出而閱丕江山。寓興冩懷、每形篇什。蓋不必如騷人墨客之感嘆、而高情逸思、自然流動、往往造古作者 之元音。

常試論之、公之著述、如長江大海、渾涵汪洋、靡所不為[4]。而吟詠之妙、如時花春鳥、好 [tờ 8a]音逸態、又非雕訓可及。蓋其學之富才之備、斯能極儒者之能事、而兼古人之所難者歟。予昔 時嘗得讀公諸書、又獲詩文各集、嘆其浩汗淵源、近世鮮有。思欲纂錄矣、世故推栘、有志未就。

癸亥之秋、吾友東牢阮湯建、 淂其全書抄本見示、嘱予校訂成集、乃相與參正訛謬、為次門類、得便观[5]覽。蓋公詩五百餘首、而舛[6]落頗多。較選其精者、得四百九十首、繕寫注解、分為次序集說。

[8]、湯建使予序之。噫素景慕公詩文、未克纂 錄、今湯建乃能搜求遺本、亟於[9] [tờ 8b] 編輯文章之好、真與予同志矣。言雖不文、其可以辝[10]。乃述其著作之大意、 端以見予慕公之學、而且待他時之纂全集云。                                                

Phiên âm:

QUẾ ĐƯỜNG THI TẬP TỰ

Cổ nhân văn chương chi đạo hữu nhị, nhi thường hoạn kỳ nan kiêm. Trước thuật chi học, đa bệnh ư từ hoa, dục vịnh chi tài, mỗi phạp ư uyên bác. Thậm hĩ tai! Kiêm tư nhị giả chi nan dã. Cái trước thuật giả lưu, xuất ư Thư, Xuân thu chi thể, yêm quán cai bác, chủ ư điển tự, nhi thanh thoát phiêu dật chi hứng, hằng nhược bất túc. Ca vịnh giả lưu, tắc nguyên ư Thi chi tỉ hứng, Ly tao chi cảm thán, tả chí tình nhi sưu dị cảnh, vãng vãng xuất ư cơ nhân cơ khách chi sở thác, nhi điển chương chi sĩ, thường vô hạ ư thử nhi phất công. Phi phù cụ yêm bác chi học, kiêm phiêu dật chi tư, thục năng tuyên trước thuật nhi hựu tỉ hứng giả da?

Ô hô! Kiêm cai chi học tự cổ sở nan, ngã Việt Lý Trần dĩ lai, như Công Cơ tính, kỳ năng kiêm thử, cái tiển hĩ. Cầu chi cận đại, hữu năng xưng thị giả, như Quế Đường Lê công, phi kỳ nhân dư? Học vấn cai quán bác tổng quần thư, dĩ văn chương đăng khôi bảng, thạc đại hoành bác chi học, tối trường trước thuật. Kỳ ư Ngũ kinh, Tử, Sử, mỵ bất toản lục. Biện luận, trước tác chi phú, trác nhiên vi nhất đại danh nho. Nhi du dương nham dật chi tư, thời phát ư tỉ hứng giả vi vưu đa. Tự kỳ tường hàn viên, đăng sĩ lộ, nhập nhi xu thương lang miếu, xuất nhi duyệt phỉ giang san, ngụ hứng tả hoài, mỗi hình thiên thập. Cái bất tất như tao nhân mặc khách chi cảm thán, nhi cao tình dật tư, tự nhiên lưu động, vãng vãng tháo cổ tác giả chi nguyên âm.

Thường thí luận chi, công chi trước thuật, như Trường Giang đại hải, hồn hàm uông dương, mỵ nhi ngâm vịnh chi diệu, như thời hoa xuân điểu, hảo âm dật thái, hựu phi điêu huấn khả cập. Cái kỳ học chi phú, tài chi bị, tư năng cực Nho giả chi năng sự, nhi kiêm cổ nhân chi sở nan giả dư? Dư tích thường đắc độc công chư thư, hựu hoạch thi chi các tập, thán kỳ hạo hãn uyên nguyên, cận thế tiên hữu, tư dục toản lục cửu hĩ. Thế cố thôi di, hữu chí vị tựu.

Quý Hợi chi thu, ngô hữu Đông Lao Nguyễn Thang Kiến, đắc kỳ toàn thư sao bản kiến kỳ, chúc dư hiệu đính thành tập, nãi tương dữ tham chính ngoa mậu, vi thứ môn loại, đắc tiện mịch lãm. Cái công thi ngũ bách dư thủ, nhi suyễn lạc phả đa, giảo tuyển kỳ tinh giả, đắc tứ bách cửu thập nhất thủ, soạn tả chú giải, phân vi thứ tự tập thuyết. Thành, Thang Kiến sử dư tự chi. Hy! Tố cảnh mộ công thi văn, vị khắc toản lục, kim Thang Kiến nãi năng sưu cầu di bản, cấp ư biên tập văn chương chi hảo, chân dữ dư đồng chí hỹ. Ngôn tuy bất văn, kỳ khả dĩ từ, nãi thuật kỳ trước tác chi đại ý, đích dĩ kiến dư mộ công chi học, nhi thả đãi tha thời chi toản toàn tập vân.

Chú thích:

[1] Đầu đề do chúng tôi thêm, dựa vào nội dung trong toàn bài tựa. Như chúng ta từng biết từ lâu, Phan Huy Chú là một trong hai người sưu tầm và biên soạn Quế Đường thi tập 桂堂詩集 được đề tên ở đầu bộ sách của Lê Quý Đôn. Người thứ hai đứng liên danh với ông là Nguyễn Thang Kiến. Nhưng hết thảy các bộ Quế Đường thi tập hiện còn lại ở Thư viện Khoa học xã hội có ghi tên hai ông là đồng biên tập lại không có kèm theo một bài “Tựa” hay “Bạt” nào. Đó là một thiếu sót rất đáng tiếc. Gần đây, trong quá trình tìm kiếm tài liệu về họ Phan Huy, chúng tôi may mắn phát hiện ra hai tuyển tập mới của Phan Huy Chú: một tuyển tập thơ và một tuyển tập văn mà tuyển tập văn có lẽ bị người sao chép ngộ nhận là của Huyền Trai công, tức Ngô Thì Hoàng (tuyển tập này do GS Nguyễn Huệ Chi phát hiện, sơ bộ khảo chứng và chuyển giao lại để chúng tôi nghiên cứu chuyên đề về họ Phan). Hai tuyển tập kể trên thực ra cũng đã nhập tịch vào kho sách Hán Nôm của Thư viện Khoa học xã hội từ rất lâu (thời Viễn Đông bác cổ) song chưa mấy ai tìm đọc. Hai tập sách giúp ta hiểu thêm nhiều điều về tiểu sử Phan Huy Chú, như mối quan hệ thân thiết giữa ông với các nhà văn Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, hay với các con trai của Ngô Thì Sĩ; những bi kịch xảy ra trong gia đình ông gắn liền với cái bi kịch của lịch sử dân tộc hồi đầu Nguyễn cuối Lê. Mặt khác hai tuyển tập quý giá này còn giúp chúng ta hiểu thêm về Phan Huy Chú nhà thơ và bổ sung cho ta những điều ta hiểu chưa kỹ càng về Phan Huy Chú nhà trước thuật. Bài đề tựa Quế Đường thi tập mà chúng tôi giới thiệu sau đây chính là nằm trong trong tập văn bị nhận lầm của Ngô Thì Hoàng đã nói. Phan Huy Chú (1782 - 1840), người ấp Uyên Sơn, xã Thuỵ Khê, phủ Quốc Oai (nay thuộc Hà Tây), là nhà sử học xuất sắc đời Nguyễn, đã kế thừa những công trình của Lê Quý Đôn để biên soạn bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí nổi tiếng. Tất nhiên, ông đánh giá rất cao các công trình học thuật của Lê Quý Đôn, nhất là những kiến thức rộng lớn của bậc thầy thể hiện trong nhiều sách sử mà chính ông đã tiếp thu được rất nhiều. Nhưng ông còn nhìn nhận giá trị đặc biệt của Lê Quý Đôn trong tư cách nhà thơ. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, thiên “Văn tịch chí”, Phan nhấn mạnh đến một đặc điểm nổi bật của thơ Lê Quý Đôn là sự khoái hoạt, tự nhiên của cấu tứ, và sự giản dị của ngôn ngữ; không cần gò gẫm mà ý thơ tuôn ra trôi chảy; không cần dùng chữ cầu kỳ, dùng điển cố khó hiểu mà câu thơ có sức lay động mọi người. Trong bài tựa sau đây, phát triển rộng hơn các ý đã nói, Phan Huy Chú còn đi đến phân biệt hai hình thức văn chương: văn chương trước thuật và văn chương cảm hứng. Văn chương trước thuật vốn là sở trường của nhà học giả, còn văn chương cảm hứng là của văn gia thi sĩ. Nhưng chỗ đặc sắc của ngòi bút Lê Quý Đôn, theo Phan Huy Chú, là ở khả năng phối hợp sâu sắc đến mức khó chia tách giữa phong cách "mực thước, hệ thống" của một học giả với cảm hứng "nhẹ nhàng bay bổng" của thi nhân. Đó mới chính là đặc điểm của một tài năng lỗi lạc. NKH.

[2] Nguyên văn là “cơ nhân cơ khách” (羈人畸客), “cơ nhân” là người lữ khách đang trong cảnh rong ruổi đường xa, còn “cơ khách” là loại người có hành vi khác thường, thoát tục, không cầu danh lợi, không chịu sống trong ràng buộc của thói thường. NKH.

[3] Trong hai lần in trước, gặp chữ Công Cơ 公姫 tôi và nhiều bạn có quan tâm đều không thể giải thích điển cố này nên đã ghi chú lại. Nay theo văn liệu Trung Quốc, Công Cơ tương truyền là một họ tộc thời thượng cổ thuộc nước Lỗ đời nhà Chu; nguyên là họ Cơ được phong tước công nên lấy công làm họ thành họ Công Cơ, là dòng họ được tiếng thông thái, chăm học. NKH.

[4] Thành ngữ cổ là “Mỵ sở bất vi 靡所不為”, nghĩa là không việc gì không làm, không cái gì không đạt đến. Ở đây, người sao chép nhầm chữ vi為 ra chữ vi 違là trái. Chúng tôi chữa lại.  Nguyễn Huệ Chi (NHC).

[5] Trong nguyên bản, chữ này gồm một chấm, một phẩy dài, tiếp liền chữ kiến. Ta hiểu đó là chữ quan 观 giản thể viết tắt. Viết đầy đủ phải là 觀. NHC.

[6] Trong nguyên bản, chữ này gồm một bộ tịch夕đứng bên chữ khai 开 viết giản thể, không có nghĩa. Chúng tôi đoán đó là chữ suyễn 舛. Suyễn có nghĩa là trái ngược, nhầm lẫn.  Suyễn lạc 舛落 cũng như thác lạc 錯落 là bừa bãi, hỗn tạp, lộn xộn, thất lạc, thất thoát. NHC.

[7Nguyên bản chép thừa một chữ thiên 千. “Tứ bách cửu thập thiên thủ” là bốn trăm chín chục nghìn bài thì quá lớn. NHC.

[8Nguyên bản có hai dấu chấm câu,  trước chữ thành 成 và ngay sau chữ thành. NHC.

[9Nguyên bản chép thừa một chữ ư 於. NHC.

[10辝 là một dạng viết khác của chữ từ 辭. NHC.