Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 8 tháng 4, 2025

Về tự do (kỳ 15)

Tác giả: Timothy Snyder

Việt dịch: Nguyễn Quang A

Nhà xuất bản Dân Khí, 2025

Phân phối

Một trong những sinh viên tù nhân của tôi, Justin, đã mang các bài tập đang soạn của anh cho các bạn không học trong lớp, sau đó chuyển những câu trả lời của họ cho tôi. Một trong những bạn anh viết rằng trước khi anh bị tù, anh đã chẳng bao giờ xa dự án nhà ở nơi anh lớn lên. Đối với anh, xà lim bên trong là một sự tiếp tục không đáng ngạc nhiên của 48sự bất động đã kìm chặt tất cả mọi người anh biết ở bên ngoài. Tôi đã muốn bác bỏ điều này như sự cường điệu văn học, nhưng khi tôi đọc tiếp, tôi biết rằng tôi không thể.

Nhà tù là một trường hợp cực đoan tiết lộ một thực tế lớn hơn. Sự di động xã hội sẽ vẫn nằm ngoài tầm với chừng nào của cải và thu nhập được phân bố không đều đến như vậy. James Madison đã coi là nghiễm nhiên rằng 49“hoạt động thầm lặng của các luật” sẽ “làm giảm sự giàu có tột cùng xuống mức tầm thường” và “nâng sự nghèo khổ cùng cực tới sự sung túc.” Thomas Jefferson đã mơ ước về chẳng gì ít hơn sự bình đẳng kinh tế: 50“Có thể có bất kỳ tình cảnh xã hội nào đáng mong muốn hơn tình cảnh này không?”

Hoa Kỳ đã di chuyển theo hướng đó, trong các thập niên của Giấc Mơ Mỹ, từ các năm 1930 đến các năm 1970. Nhưng sau bốn thập kỷ, (1980-2020), bình thường hóa chế độ đầu sỏ, bây giờ chúng ta đối mặt với những sự bất bình đẳng mà đơn giản là lố bịch—không nhất quán với một chính phủ tốt, với một nền dân chủ, với một nền cộng hòa. Sự di chuyển đều đặn ra xa khỏi sự phân bố của cải phi lý của ngày hôm nay sẽ phá vỡ những sự bế tắc, tạo hy vọng, và làm cho tâm trí thanh thản. Barbara Jordan đã đúng rằng “Giấc Mơ Mỹ không cần bị trì hoãn mãi mãi.” (Bà nhắc tới bài thơ “Harlem” của Langston Hughes.)

Luật phục vụ chế độ chuyên chế khi nó thiên vị cho một thiểu số bé tẹo của các đầu sỏ tài phiệt. Nếu nước Mỹ cần trở thành một xứ tự do, nó phải áp dụng luật đối với 51những sự bất bình đẳng của cải và thu nhập khổng lồ của nó. Việc thi hành các luật hiện hành sẽ là một khởi đầu rất tốt. 52Những người Mỹ mất khoảng 1 ngàn tỷ $ mỗi năm do gian lận thuế và sự trốn thuế của những người rất giàu. Những kẻ trốn thuế hải ngoại nên được cho một năm để [đưa tài sản] về đất liền hay bị truy tố. Các thực hành đã biết mà phục vụ khuynh hướng đầu sỏ tài phiệt bỏ trốn nên bị cấm. Những thực hành này gồm các giao dịch gương (mirror trades), các giao dịch (transaction) bất động sản nặc danh, và các công ty hữu hạn che giấu các chủ sở hữu và những người hưởng lợi thật.

Hoa Kỳ nên đánh thuế tiêu thụ cũng như thuế thu nhập. Các thuế suất thuế thu nhập nên được định để phản ánh một sự đóng thuế tác động bao nhiêu đến phong cách sống của một người: đây là sự đoàn kết. Trong những năm Eisenhower, 53thuế suất thuế thu nhập cao nhất là 91 phần trăm. Một thuế suất cao nhất 75 phần trăm sẽ phù hợp. Trong một hệ thống thuế như vậy, hầu hết những người Mỹ chắc sẽ đóng ít thuế hơn. Bộ luật thuế 1980, trước khi các chính sách bất bình đẳng phá hoại Giấc Mơ Mỹ, là một sự tham khảo hữu ích. Các thuế tài sản (trên các tài sản mà không có trì hoãn) sẽ cải thiện cuộc sống của hàng trăm triệu người mà không làm thay đổi cuộc sống của vài ngàn người đóng thuế đó. Nếu những người Mỹ rất giàu đóng thuế, chúng ta có thể cho mình một cơ hội để trở thành một xứ tự do. Những người được nói đến sẽ nhận biết không sự khác biệt nào trong cuộc sống vật chất của họ. Và tất cả những người khác sẽ thấy cuộc sống sôi động hơn và an toàn hơn.

Trong hàng ngàn năm, các nhà tư tưởng chính trị đã hiểu các hậu quả của sự bất bình đẳng cùng cực. Là khó để tìm thấy những người bảo vệ tự do mà tin rằng vài người nên chi phối nền kinh tế. Lord Acton, một nhà tư tưởng bảo thủ Anh vĩ đại, đã tin rằng các chính phủ phải tái phân phối sự giàu có. Những sự khác biệt cùng cực về quyền lực kinh tế, ông nghĩ, sẽ làm cho mọi người lệ thuộc, tự do ngôn luận vô nghĩa, và chính ý tưởng về tự do thành một sự nhạo báng. Thomas Paine, tác giả của tập sách nhỏ (pamphlet) cách mạng Common Sense (Lẽ Thường), đã có một ý kiến tương tự. Một chính phủ phụng sự tự do, ông nghĩ, sẽ xóa bỏ nghèo khổ. John Stuart Mill, 54nhà khai phóng quan trọng nhất trong truyền thống Anglo-Saxon, coi là nghiễm nhiên rằng hoạt động nhà nước sẽ khắc phục những sự bất bình đẳng dai dẳng. Mark Twain đã khiến một người da Đen đưa ra tất cả các điểm xác đáng trong chuyện ngắn “Corn-Pone Opinions (Ý kiến Bánh-Ngô, tức là ý kiến theo đuôi)” của ông. Isaiah Berlin, nhà khai phóng xuất chúng của thế kỷ thứ hai mươi, 55tin vào nhà nước phúc lợi. Friedrich Hayek, một nhà kinh tế học được những người bảo thủ ngưỡng mộ, tin rằng mọi người nên có 56một thu nhập tối thiểu an toàn. Martin Luther King, Jr., nhà lãnh đạo phong trào các quyền dân sự, có cùng quan điểm. Ông đang tổ chức chống nghèo khi ông bị ám sát.

Hầu hết những gì được đề xuất trong chương này sẽ tốn ít tiền, hay thậm chí tiết kiệm tiền (các nhà tù nhỏ hơn, 57bảo hiển sức khỏe do một người chi trả duy nhất [là chính phủ]). Tuy thế, theo một nghĩa quan trọng, lý lẽ về các chi phí là lạc đề. Vấn đề ngân sách Mỹ không phải là chính phủ tiêu quá nhiều mà là những người giàu không đóng thuế của họ. Việc cho phép mọi người tích trữ của cải—và bẻ cong chính phủ để cho phép sự tích trữ của họ—không chỉ là sai theo nghĩa trái với tự do, nó cũng rất không hiệu quả.

Ngay cả không phải thế: tự do đến đầu tiên. Ngân sách phản ánh các lựa chọn, các lựa chọn phản ánh các giá trị, và các giá trị là lãnh địa của những người tự do. Chúng ta không thể đạt đến tự do mà không phá vỡ các thói quen tinh thần xấu và mà không chăm sóc các nhu cầu thể chất cơ bản.

Tâm trí

Một màn hình chạm không phải là bức tường nhà tù, nhưng chúng ta bị bao quanh và bị giám sát và bị nhắc nhở và bị kiểm soát. Chúng ta bằng lòng với một lưới kích thích hành vi chủ nghĩa dữ tợn. Chúng ta đang bị tiên đoán.

Media xã hội phải được cải cách bởi hành động chung, qua chính phủ tốt. Tuy nhiên, các quyết định cá nhân tốt về thân thể chúng ta là một sự khởi đầu. Chúng ta nên khẳng định sự không thể dự đoán được của riêng mình chống lại và vượt xa hơn thế giới số. Điều này sẽ giúp chúng ta trở thành những loại công dân chọn các chính sách đúng.

Tâm trí chúng ta được phục vụ tốt nhất khi thân thể chúng ta có thể trong chuyển động. Chúng ta nên cho Leib của chúng ta vị trí quan trọng nhất. 58Thời gian nhìn màn hình bảy giờ một ngày, số trung bình Mỹ, đúng là quá nhiều. Đó là khoảng nhiều như chúng ta ngủ. Nó hầu như là nửa thời gian thức của chúng ta.

Nếu bạn có thể, hãy tập một chút thể dục mỗi ngày trước khi bạn với lấy điện thoại của mình. Một mình điều này có thể thay đổi cuộc sống tự do có vẻ thế nào, một ngày diễn ra một cách không thể dự đoán được thế nào, con mắt gặp pixel thế nào khi thời gian đến. Nếu bạn ở trong một chỗ với hơn một phòng, tránh có các màn hình trên các bàn nơi mọi người ăn, hay trong các phòng nơi mọi người ngủ. Vào ban đêm, hãy nạp pin các dụng cụ của bạn càng xa bạn càng tốt, trong một chỗ bạn không thể nhìn thấy chúng, như trong một ngăn kéo. Thứ cuối cùng bạn chạm vào trước khi bạn đi ngủ không nên có một microprocessor (bộ vi xử lý). Khi bạn không làm việc, hãy cố gắng dùng không quá một giờ trước một màn hình.

Hãy cố gắng viết và gửi một lá thư giấy mỗi tháng cho ai đó bạn quan tâm. Đừng nổi giận chống lại máy; hãy lật từng trang sách để chống lại máy. Hãy đọc sách giấy. Giữ vài cuốn cạnh giường của bạn và một danh sách về những cuốn sách bạn đã đọc.

Nếu điều này nghe có vẻ cấp tiến hay lạ, hãy nhớ rằng không rất lâu trước đây không ai có một điện thoại thông minh cả, và mọi người lúc đó tự do hơn, thông minh hơn, và mạnh khỏe hơn về thể chất. Cũng hãy nhớ rằng những người vận hành Silicon Valley 59dùng những biện pháp quyết liệt để ngăn cản các sản phẩm của chính họ khỏi việc làm con trẻ của họ nghiện. Họ đặt thiết bị hẹn giờ để cắt điện trên các bộ định tuyến (router) của họ, chẳng hạn, và về mặt hợp đồng bắt các cô giữ trẻ sơ sinh không cho con cái họ thấy màn hình. Họ muốn cái tốt nhất cho các gia đình của họ. Giống những kẻ buôn ma túy, họ không đẩy sản phẩm vào nhà của chính họ.

60“Hệ thống dựa vào những lời nói dối,” Havel nghĩ. “Nó hoạt động chỉ chừng nào mọi người sẵn sàng để sống bên trong lời nói dối.” Khi bạn online, hãy sống trong sự thật. Hãy chắc chắn rằng bạn biết các mục đích riêng của bạn trước khi bạn mở máy tính của mình và đóng màn hình khi bạn đã hoàn thành chúng. Hãy cưỡng lại những sự thôi thúc bạn cảm thấy khi con mắt bạn trên các pixel. Chúng không thực sự là của bạn; chúng được sắp đặt thông qua bạn. Khi bạn hành động trên chúng, bạn để lại một bản ghi về tính có thể dự đoán được của bạn. Hãy hít một hơi thở; hãy vui vẻ và biết điều. Hãy cố gắng không phản ứng trực tiếp với các kích thích; thay vào đó, hãy cố gắng thay đổi trò chơi hay hướng sự chú ý của mọi người đến các năng lực offline của họ. Bạn không thể khắc phục cảnh ảm đạm, nhưng bạn có thể tạo ra một ốc đảo mà những con người khác sẽ tìm thấy. Rất nhiều người làm một công việc tuyệt vời về chuyện này trên X, Instagram, và Telegram; hãy tìm một tấm gương tốt. Sức mạnh của chúng ta để kháng cự tổ hợp công nghiệp hư cấu là hạn chế nhưng có thật.

Khi bạn ở trong thế giới thật, đừng quên để nói với mọi người. Hãy nói chuyện phiếm, tìm những chủ đề chung. Mội thời khắc của sự giao tiếp bằng mắt là hai thân thể an toàn khỏi mối hiểm nguy của các màn hình và sẵn sàng cho cảm giác thoáng qua của một cuộc gặp gỡ không thể dự đoán được. Nếu bạn phải ở trong thế giới giả, hãy hướng các biểu tượng của nó để tiếp sinh lực cho những người khác cho hoạt động trong thế giới thật. Các ví dụ hữu ích nhất về giao tiếp qua media xã hội gồm những người thúc giục hoạt động công cộng. Chúng ta có thể thấy tầm quan trọng của điều này trong phản ứng của các bạo chúa. Chính phủ Trung quốc là 61nhất quán nhất trong việc kiểm duyệt những người dùng internet để cổ vũ các công dân đồng bào của họ để biểu tình ở nơi công cộng. Như điều này xác nhận, các sự thật nguy hiểm nhất là “sự thảo luận chuẩn bị cho hành động” (Pericles), những sự thật mà thúc đẩy mọi người đừng thụ động nữa.

Chúng ta có thể ứng xử tốt hơn hay tồi hơn như các cá nhân, nhưng chúng ta không thể cải cách internet mà không có các nguyên tắc đúng và sự áp dụng chúng như chính sách. Chúng ta ta phải bắt đầu từ tiền đề rằng tự do là khẳng định. Trong lĩnh vực này, là thô bạo để không cho phép chính phủ; bởi vì chính phủ đã làm quá ít, internet đã mang những kẻ thao túng không được bàu và không được chọn vào nhà, đời sống, và tâm trí của chúng ta. Chúng ta phải bắt đầu với Leib, kiến thức chúng ta có được khi chúng ta xem xét sự yếu đuối phòng thủ của những người khác và nhận ra rằng cùng thế xảy ra với chúng ta. Một chính sách số, mà giải phóng thân thể của chúng ta, có thể bắt đầu với tâm trí của chúng ta vì đó là cái chúng ta có thể mất. Những người Mỹ đều nên có một cơ hội hợp lý để phát triển và bảo vệ tâm trí của mình, một quyền với habeas mentem (quyền bảo tâm). Trong nước Mỹ thế kỷ thứ hai mươi mốt, một quyền đối với habeas mentem sẽ gợi ý một sự ủy nhiệm công, một sự ủy nhiệm tư, và một điều lệ cho sự minh bạch công bằng.

Sự ủy nhiệm công là sự tiếp cận đến trường công. 62Các trẻ em con người cần các trường con người. Họ nên học để bày tỏ bản thân họ trước khi các thứ được bày tỏ thông qua họ. Các đầu sỏ tài phiệt số của chúng ta thường đã học 63các trường mà không có các màn hình, và họ khăng khăng cùng thế 64cho các con của họ. Tuy nhiên, những người Mỹ tiêu 65hơn 10 tỉ $ mỗi năm để đặt các màn hình trong các trường sao cho các đầu sỏ tài phiệt có thể kiếm lợi nhuận từ sự giáo dục gây còi cọc các trẻ em của những người không-đầu sỏ tài phiệt. Chúng ta nên trả tiền cho các giáo viên và những người quản lý thư viện thay vào đó. (Những quản thư đó phải được phép xếp sách lên kệ trong sự yên bình, mà không phải ngó qua vai của mình tìm các nhà kiểm duyệt tự cao tự đại hay sợ sự tố giác từ các cha mẹ giận dữ.) Nếu có một màn hình trước mỗi học sinh ở trường, nó nên cho mục đích học lập trình. Đạo luật Bảo vệ sự Riêng tư Online (Online Privacy Protection Act of) 2000 nên được sửa đổi sao cho những người trẻ từ tuổi mười ba đến mười tám không còn được coi như những người lớn nữa.

Máy phải là một công cụ cho học sinh, không phải ngược lại. Học sinh cần toán học và vật lý học cho sự tự-vệ chống lại chế độ đầu sỏ. Họ cần lịch sử cho một ý nghĩa về cấu trúc và khả năng, và cần nghệ thuật và các môn nhân văn để phát triển các giá trị. Nghệ thuật là cái thức tỉnh chúng ta mỗi ngày và phơi bày thời khắc hiện tại cho chúng ta, cho phép chúng ta tạo các liên kết bất ngờ từ quá khứ tới tương lai. Một lời trong một bài hát, một tiếng chuông, hay một miếng kính màu có thể mở một kênh và làm thay đổi thế giới của một người. Học sinh cần các sách trong thư viện mà sẽ làm họ ngạc nhiên và thách thức họ. Mỗi lớp của mỗi trường Mỹ nên xuất bản một tờ báo, dựa vào việc viết phóng sự.

Sự ủy quyền này gồm cả một hệ thống phát đạt của các đại học công, có thể tiếp cận được cho mọi người. Sinh viên không nên rời đại học với các khoản nợ ngăn cản sự di động của họ và cưỡng ép trong cuộc sống của họ. Để là (trường) công có nghĩa là được xây dựng theo cách phục vụ giá trị lớn hơn của tự do ngôn luận. Giống định chế báo chí, định chế đại học công tự trị giúp những người Mỹ trẻ lớn lên để trở thành những người phát biểu tự do (free speaker).

Một cuộc vận động chống lại tự do ngôn luận được hướng tới chống lại các đại học nhân danh bản thân “ngôn luận tự do.” Kế hoạch là để phá hủy cả các đại học và tự do. Các trường cao đẳng và đại học dạy sinh viên những gì không học ở nơi khác và vào thời gian khác trong đời họ, và đó là điều tốt. Các sinh viên học, và chất vấn. Các đại học cho phép những người trẻ, mà chúng ta hy vọng là tự chủ và không thể dự đoán được rồi, để nắm lấy sự di động: trong không gian, trong thời gian, trong các giá trị. Ngoài kiến thức họ nhận được, họ tận hưởng những năm sinh viên, vào những thời khắc quan trọng trong đời, khi họ có thể nói những gì họ nghĩ. Đây là một cơ hội quý giá cho họ để trở thành những người phát biểu tự do (free speaker), và đối với nhiều người trong số họ nó sẽ là cơ hội cuối cùng. Vì chính lý do này, các đại học bị các bạo chúa và các phó vương của họ tấn công.

Tôi được kỳ vọng để làm việc trong trường và trong thời gian đại học, và sáu năm đã trôi qua giữa học vị tiến sĩ của tôi và việc làm đầu tiên (và cho đến nay duy nhất) với bảo hiểm sức khỏe. Tôi đã làm việc với những việc làm đa dạng, từ tiếp thị từ xa đến xây dựng, và tôi có thể nói với sự tự tin rằng mức độ tự do ngôn luận thịnh hành trên một khuôn viên đại học là lớn hơn trên các địa điểm làm việc khác một cách không thể so sánh nổi. Sinh viên có cơ hội để bày tỏ ý kiến và xem xét lại các giá trị. Các đại học công tự trị như thế phục vụ các hình thức của tự do. Đối với chúng để vẫn là đại học công và tự trị, chúng phải tự-quản. Việc đặt các đại học dưới sự chỉ huy của các chính ủy sẽ làm què quặt chúng và bỏ lại những người trẻ ít tự do hơn.

Sự ủy nhiệm tư là việc dạy đạo đức nghề nghiệp cho các kỹ sư phần mềm và các nhà lập trình máy tính và sự thiết lập các cơ quan (như trong những nghề nghiệp khác) để chế tài những sự vi phạm. Các máy không có các giá trị (của chúng). Không tự do cũng chẳng bất kỳ giá trị khác nào sẽ hiện diện trong các chương trình máy tính trừ khi những con người đặt nó ở đó. Ngày nay lĩnh vực này hoạt động phần lớn không có đạo đức. Các huấn luyện viên trên một sân chơi có đạo đức (của họ), nhưng các tác giả của tính dễ bảo của chúng ta thì không có; các thẩm phán của các luật thành văn có đạo đức (của họ), nhưng những người tạo ra các quy tắc không được công bố của media xã hội thì không; các nhà trị liệu có đạo đức (của họ), nhưng các influencer (người có ảnh hưởng) thì không. Chắc chắn, các công ty đôi khi làm những việc tốt: Microsoft, Amazon, và Google đã làm công việc quan trọng để bảo vệ Ukraine khỏi chiến tranh cyber (chiến tranh trên không gian mạng). Nhưng một internet tốt hơn sẽ phụ thuộc vào những người nghĩ tử tế hơn về tự do của những người khác và những người hiểu công việc của mình như một nghề với đạo đức và các quy tắc.

Sau sự ủy nhiệm công và sự ủy nhiệm tư, những người Mỹ sẽ được lợi từ một điều lệ về tính minh bạch công bằng, mà bắt đầu từ tiền đề rằng các máy phục vụ tâm trí, chứ không phải ngược lại, và rằng một người nên có khả năng để đánh giá liệu điều này có đúng thế không. Mối quan hệ tổng thể giữa tâm trí và máy chỉ có thể được thiết lập bởi một nỗ lực tập thể, mà có nghĩa là bởi chính sách.

Một điều lệ cho sự minh bạch công bằng sẽ dựa vào ba nguyên tắc: (1) các thứ nên là minh bạch đối với chúng ta; (2) chúng ta không nên minh bạch đối với các đồ vật; và (3) chúng ta không nên bị áp bức bởi dữ liệu mà chúng ta không thể nhìn thấy.

Từ nguyên tắc rằng các thứ nên là minh bạch đối với chúng ta nổi lên năm thực hành tốt. (1) Media xã hội phải hỏi liệu những người dùng có muốn phóng sự điều trong (news-) feeds của họ hay không và mở một con đường thuật toán thích hợp. (2) Media xã hội phải hỏi liệu người dùng có muốn các ý kiến thách thức ý kiến riêng của họ hay không và mở một con đường thuật toán thích hợp. (3) Media xã hội phải đưa ra những sửa chữa cho những người dùng đã xem các tài liệu sai được trình bày cho họ như tin tức. (4) Mọi tuyên bố và quảng cáo trên media xã hội phải là có thể truy vết được cho một con người. (5) Tất cả code (mã) nên có thể truy cập được, với một cái nhìn và một click, mục đích của nó phải được mô tả trong một tóm tắt bằng tiếng Anh dễ hiểu.

Từ nguyên tắc rằng chúng ta không nên minh bạch đối với các đồ vật nổi lên năm thực hành tốt tiếp. (6) Chúng ta nên phải chọn vào [opt-into: đồng ý với] (và không phải chọn ra [opt-out: không đồng ý]) việc chia sẻ dữ liệu của chúng ta. Cài đặt mặc định trên tất cả các phần mềm nên là không lưu giữ dữ liệu và không chuyển nhượng dữ liệu cho các bên thứ ba. (7) Dữ liệu nảy sinh từ một hành động nên được truyền chỉ cho mục đích rõ ràng của nó thay vì được lưu trữ hay bán. (8) Mọi sự thu hoạch dữ liệu, mà có xảy ra, nên được bồi thường và được liệt kê trong một bộ ghi. (9) Dữ liệu riêng tư thân tình liên quan đến sức khỏe, vị trí, và tương tự chẳng bao giờ nên được lưu trữ hay chuyển nhượng. (10) Phần mềm phải đưa ra những cài đặt về tính riêng tư dễ truy cập, không phức tạp, và lâu bền (thay vì phải được tái xác nhận liên tục).

Nguyên tắc thứ ba là chúng ta không nên chịu bất bình đẳng dữ liệu. Từ đó nổi lên năm thực hành tốt cuối cùng. (11) Chúng ta nên có quyền để xem các thực thể tư nhân nào biết những gì về chúng ta và sửa các sai lầm của chúng. (12) Việc sàng lọc bằng thuật toán các đơn xin việc và đơn xin vào trường học phải tạo ra một bản ghi rõ ràng về lý do từ chối đơn. (13) Dữ liệu y tế công nảy sinh từ kiểm tra thân thể chúng ta phải là dễ truy cập cho chúng ta. (14) Các tổ chức phi chính phủ nên được phép, theo yêu cầu của chúng ta, để giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của hồ sơ dữ liệu của chúng ta. (15) Khi chúng ta thiếu sự lập tư liệu truyền thống, chúng ta nên được phép dùng luồng dữ liệu (data flows) đã biết để thiết lập căn tính (identity) của chúng ta.

Cần một thời gian cho một quyền mới như habeas mentem để được thiết lập. Giữa chừng, các lựa chọn của chúng ta càng có ý nghĩa hơn.

Những người Nghe

Việc tuyên bố cho tự do có nghĩa là sự tuyên bố cho tự do ngôn luận. Việc tuyên bố cho tự do ngôn luận có nghĩa là đứng về phía các sự thực. Việc đứng về phía các sự thực có nghĩa là ủng hộ các định chế cho chúng một chỗ để tồn tại.

Một sự tuyên bố được cân bằng bởi một sự thích ứng (thích nghi). Một người phát biểu tự do (free speaker) đang chấp nhận một rủi ro. Những người chấp nhận rủi ro cần sự đoàn kết, trong hình thức bảo vệ tự do ngôn luận. Một nước của những người phát biểu tự do cần đến các định chế điều tiết các rủi ro này và bằng cách ấy làm cho tính xác thực là có thể.

Những người phát biểu tự do là cần thiết, nhưng cũng thế là những người lắng nghe dễ tiếp thu. Chúng ta cần năng lực điềm tĩnh để chú ý. Những người sống bên trong những lời nói dối lớn làm vậy bởi vì họ cảm thấy bị cô lập và bất lực. Họ không tin rằng họ tạo ra một sự khác biệt trong thế giới, nên họ chấp nhận rằng một âm mưu điều khiển mọi thứ. Trong một vòng ác, vòng luẩn quẩn (vicious cycle), không-tự do thúc đẩy những lời nói dối, mà khiến mọi người còn ít tự do hơn. Chúng ta cần một vòng thiện (virtuous cycle) của tự do và sự can đảm.

Một chính phủ tốt sẽ tiến hành những bước cụ thể để bảo vệ sự điều tra và khuyến khích sự chấp nhận nó. Học giả pháp lý Zechariah Chafee, một nhà diễn giải hàng đầu của Tu Chính Án thứ Nhất, biết rằng tự do ngôn luận đòi hỏi rằng chúng ta tiến hành “66các bước dứt khoát để cải thiện các phương pháp mà theo đó thảo luận được thực hiện.” Khắp thế giới, các nền dân chủ tốt hơn làm đúng điều này. 67Hiến pháp Na Uy, như một ví dụ, quy định nhà nước phải tạo các điều kiện thuận lợi cho thảo luận.

Những người Mỹ, khi được hỏi, nói rằng các nhà báo nên giám sát các chính phủ và các công ty trên cơ sở các dữ kiện (các sự thực) đã được xác minh. Tuyên bố này nên được đáp ứng nhưng nó không. Nếu không có đủ nhà báo để làm những gì chúng ta muốn, thì chúng ta ít tự do hơn. Khi được hỏi, những người Mỹ cũng nói họ thích hơn rằng 68quan điểm của họ bị thách thức online. Vì chúng ta thiếu lựa chọn để hỗ trợ sự viết phóng sự thực sự trên media xã hội, chúng ta ít tự do hơn. Vì những người Mỹ tốn khoảng hai trăm tỉ giờ một năm trên media xã hội, đây là một sự vi phạm nghiêm trọng các quyền.

Nói về mặt lịch sử, là bình thường để điều tiết media mới sao cho các quyền có thể được trình bày rõ ràng, được công nhận, và được tôn trọng. Chính xác các quy ước này tạo ra các hình thức mà chúng ta cho là nghiễm nhiên, như, chẳng hạn, sách. Chúng ta bảo vệ tự do ngôn luận không chỉ khi chúng ta kháng cự sự kiểm duyệt hay bày tỏ sự ghê tởm đối việc đốt sách, mà cả khi chúng ta làm cho sự bày tỏ là có thể với các chuẩn mực về đạo văn và bản quyền. Thế nhưng định chế bản quyền đã không xuất hiện một cách tự động sau sự sáng chế ra máy in. Nó đã được con người tạo ra, được các giá trị biện minh, và được nhà nước thi hành. Bài học này phải được áp dụng cho media xã hội. Chúng ta sẽ tự do hơn khi chúng ta có một sự cài đặt trên các nền tảng của chúng ta mà quảng bá các nhà báo địa phương trong các (news-) feed của chúng ta. Chúng nên được hỗ trợ theo nghĩa chính xác về được trả tiền cho công việc quý giá của họ.

Chúng ta không thể giải thoát khỏi internet, nhưng chúng ta có thể khẳng định các giá trị con người trên nó. Không phải là tự do để liên tục bị thúc nhẹ theo hướng của các định kiến và sự dễ bị tổn thương được chia sẻ bởi một lớp người mà chúng ta không nhìn thấy cũng chẳng chọn. Là tự do để đưa ra một sự đánh giá và thực hiện nó. Các cú hack não đẩy chúng ta theo hướng bất hòa và bất lực. Điều này không trung lập: nó xua chúng ta ra xa khỏi tính xác thực và như thế khỏi tự do. Nếu media xã hội là không thể để tránh, thì chúng phải bị thay đổi để cho phép tự do.

Tự do ngôn luận không phải là cảm xúc trào dâng của một khoảnh khắc cho trước. Các xúc cảm và khoảnh khắc được quản lý dễ dàng bởi các đầu sỏ tài phiệt và các máy. Tự do ngôn luận là lớn lao hơn thế và dựa trên các nền tảng của sự khiêm nhường và rủi ro.

Tin tức

Những người Mỹ nói rằng họ muốn “sự thô ráp đáng kể”: tính xác thực tươi và mới. Những người cung cấp các dữ kiện (sự thực) trên cơ sở hàng ngày là các nhà báo điều tra. Một số trong các phóng viên quan trọng nhất đưa tin tức địa phương. Các ứng viên cho chức vụ địa phương nói dối—làm sao để kiểm tra? Họ quyên tiền—từ những người nào? Các chính quyền địa phương chi tiêu tiền—cho những gì? Các hãng gây ô nhiễm—ở đâu? Trong hầu hết các quận hạt ở Hoa Kỳ, không ai có bất kể ý tưởng nào về những chuyện này, bởi vì các phóng viên không còn 69đưa bất cứ tin nổi bật nào trong số này. Hầu hết lãnh thổ Mỹ bây giờ là một sa mạc tin tức, và một sa mạc tin tức không phải là xứ tự do. Chúng ta cần các sự thật khó chịu nhưng đúng, cả vì lợi ích của chính chúng và như sự chuẩn bị cho những lợi ích lớn hơn. Một chân không của tính xác thực địa phương sa vào những lời nói dối lớn và các thuyết âm mưu.

Như Simone Weil viết, 70việc tìm ra và tiếp nhận sự thật đòi hỏi sự làm việc, còn việc tạo ra và tin sự dối trá không cần nỗ lực. Các sự thực là rất cần thiết; chúng có các chi phí; và những người khao khát tự do sẽ chịu các chi phí đó. Những người Mỹ nói suốt ngày về tin tức nhưng hầu như không trả tiền cho ai cả để tường thuật nó. Hầu hết những gì được nói đến như “tin tức” là sự lặp lại, sự suy đoán, và spin (một dạng tuyên truyền cố ý diễn giải các sự kiện một cách thiên vị). Các nhà báo điều tra làm công việc quả cảm, không thể thiếu được. Nhưng họ quá ít. Các chuyên gia về quan hệ công chúng bây gờ đông hơn các nhà báo với tỷ lệ khoảng sáu trên một. Chúng ta hãy tưởng một nước nơi tỷ lệ là ngang nhau.

James Madison, mường tượng tương lai của nước Mỹ, đã hy vọng cho một 71“sự lưu hành các tờ báo qua rất nhiều người, qua toàn bộ khối nhân dân.” Điều đó đã tồn tại một thời. Khi George Orwell (trong năm 1948) viết tiểu thuyết 1984 của ông, đã có khoảng hơn mười triệu người đặt báo ở Hoa Kỳ nhiều hơn số hộ gia đình. Ngày nay thực tế của chúng ta đến gần xã hội được mô tả trong tiểu thuyết: tất cả chúng ta đều nhìn vào màn hình, và những người Mỹ trong hầu hết các phần của đất nước không có sự tiếp cận đến bất cứ việc tường thuật con người nào về thế giới xung quanh họ. Mỗi quận hạt Mỹ nên có một nguồn tin tức địa phương với việc làm phóng sự địa phương của các phóng viên địa phương. Các sa mạc tin tức nên được thay thế bằng các suối tin tức.

Chừng nào tâm trí của chúng ta còn bị tự do phủ định đánh bẫy, chúng ta sẽ không thấy giải pháp nào cho chuyện này. Nếu chúng ta tin rằng chính phủ ở đó để bị buộc bằng dây chằng, chúng ta sẽ không thấy rõ chính sách nào sẽ cho phép tự do, ngay cả khi chúng ở rất gần.

Mục đích của chính phủ là để thiết lập các hình thức của tự do. Tính xác thực cần cho tất cả phần còn lại, và tính xác thực đòi hỏi chính sách. Tự do ngôn luận là công việc quốc gia khó khăn. Sự điều tra, các tờ báo địa phương, và các sạp báo đều nên được trợ cấp. Các trường công nên dạy việc làm phóng sự qua các chuyến đi thực địa và những cuộc trò chuyện trực tiếp. Một ombudsman (thanh tra viên về các vi phạm của chính quyền) trong mỗi quận Mỹ có thể ghi các cuộc họp địa phương và sự lập tư liệu liên quan, tất cả đều được tải lên một hệ thống Wiki quốc gia. Các sinh viên tốt nghiệp nên được mời chào một năm công vụ để làm phóng viên địa phương.

Tin tức địa phương là một dịch vụ công. Nó có thể được biện minh rất dễ dàng về mặt kinh tế thuần túy, như một chiếc phanh (thắng) lên sự tham nhũng và lãng phí. Nhưng điểm lớn hơn là tất cả chúng ta đều cần sự hiểu biết về những gì đang xảy ra ngay xung quanh chúng ta. Các nguồn lực ở trong tầm tay. Các hãng internet kiếm lợi nhuận khổng lồ bằng việc phân phân phối phóng sự mà chúng không trả tiền, trong khi hút thu nhập quảng cáo khỏi những người đang làm công việc thực sự. Các chi phí này nên được hiệu chỉnh; hay, như các nhà kinh tế học nói, các ảnh hưởng ngoại lai có thể được nội hóa. Việc quảng cáo nhắm mục tiêu nên bị đánh thuế để hỗ trợ việc làm phóng sự địa phương.

Tính xác thực là một hình thức không thể thiếu của tự do. Khi chúng ta mất nó, cuộc sống có vẻ ngày càng hỗn loạn, quá khứ là khó hơn để nhớ, tương lai ít chắc chắn hơn. Nhưng có thể đạt được tính xác thực. Chúng ta có các công cụ. Chúng ta có thể trở thành những người phát biểu tự do, và chúng ta có thể trở thành những người tự do.

Rings (các Vòng vân, Ngân vang)

Ngay trước khi tôi rung chiếc chuông đó trên trang trại, tôi ngồi trên một chiếc đu treo trên nhánh của một cây phong. Các cành của nó phủ vài hàng đầu tiên của một cánh đồng ngô. Một cây sung dâu già ở bên kia làn đường trải sỏi phủ bóng râm lên ngôi nhà trang trại. Các thung lũng đánh dấu ranh giới của trang trại vẫn là rừng. Bọn trẻ chúng tôi khám phá rừng và các lạch sông, như cha mẹ chúng tôi và ông bà chúng tôi đã khám phá trước chúng tôi.

Các cây tạo vòng vân, mặc dù theo cách khác với các chuông. Mỗi vòng của một cây ghi lại một năm của sự lớn lên, sự kiên trì, và sự sống sót. Các vòng vân của cây truyền đạt một sự thích ứng suôn sẻ với các thách thức của các mùa, đánh giá thời gian bằng việc lớn lên trong không gian. Cây sung dâu già có một vòng cho mỗi năm ngôi nhà đứng đó. Khi một cây chết, các vòng vân có thể nói cho chúng ta về quá khứ, hệt như các bọt khí trong các sông băng tan chảy có thể, hệt như các đầu mũi tên có thể, hệt như các hóa thạch có thể nói về quá khứ. Những dấu hiệu nhỏ này từ những sự sống khác có thể giúp chúng ta đặt bản thân mình vào vị trí và để thấy khoảnh khắc của chúng ta như nó là.

Tuyên bố nhỏ của tôi về tự do trong 1976 đã to tiếng và rõ ràng. Nó là của tôi, nhưng nó không được một mình tôi tạo ra. Ý tưởng để rung chuông là của một chị họ, thường nêu một tấm gương. Chị giữ chúng tôi trong một hàng ngăn nắp, một quy ước cho phép mỗi chúng ta làm những gì chúng ta muốn khi đến lượt. Các anh chị em họ của tôi và tôi đều trên một trang trại, một phong cảnh người mà trẻ con chúng tôi đã chẳng làm gì để tạo ra. Ai đó khác đã xây dựng các đường miền quê và làn đường sỏi. Ai đó khác đã trồng các cây. Những cây sung dâu lớn lên bên dòng suối; một cây mà phủ bóng lên nhà trang trại đã được trồng lại, có lẽ trong 1825. Ai đó khác, ông ngoại tôi, đã treo chiếc chuông.

Nó rung, trong hàng thập niên, để đưa mọi người lại với nhau. Một thời nó đã gọi trẻ con tới trường một phòng ở góc của hai con đường nơi gia đình mẹ tôi định cư. Ông nội của mẹ tôi, cụ ngoại tôi, đã học trường đó. Khi trường bị phá hủy, chiếc chuông được chuyển sang một trang trại khác, nơi ông ngoại tôi được nuôi dưỡng. Tại đó nó đã là một chiếc chuông sân trang trại, gọi những người trên đồng quay về ăn tối. Khi ông tôi nghỉ hưu từ việc trồng trọt, ông chuyển chiếc chuông tới trang trại ông tiếp quản như một người trưởng thành, chiếc tôi biết như một đứa trẻ. Nó đã reo liên tục dài hơn Chuông Tự do đã reo rất nhiều, bây giờ trong hơn một thế kỷ. Có lẽ các chuông nên nhỏ.

Như một cậu bé, tôi đã chỉ có một cảm giác rất rộng về những khoản nợ này. Tôi biết rằng cây sung dâu có tuổi như căn nhà. Tôi biết ai cày đất: ông ngoại tôi. Ông gọi các cánh đồng của mình là “Arrowhead Farms (các Trang trại Đầu Mũi tên)” theo các di tích đá lửa ông tìm thấy trong những cánh đồng của mình. Ông giữ chúng trong các hộp gỗ được lót bằng nỉ đỏ. Thi thoảng ông đưa chúng trong các chuyến đi, đeo một cà vạt bolo (bằng dây) với một viên đá xanh.

Ai đó khác đã cung cấp cho tôi thức ăn, thức uống, nơi ở, ngôn ngữ, một quá khứ. Tôi đã không tìm ra những chiếc chuông bị nứt và đường sắt ngầm cho bản thân mình. Những cuốn sách ở trước mặt tôi; những câu chuyện được kể cho tôi. Mặc dù tự do là một phẩm chất của một cuộc đời duy nhất, nó là công việc của các thế hệ. Chiếc chuông là một vật tình cảm đối với tôi, nhưng nó ở trong đời tôi và trên những trang này chỉ bởi vì nó cũng là một vật tình cảm đối với ông tôi, và điều đó đã chỉ đúng bởi vì nó đã gọi các nông dân để làm việc và trẻ con để đến trường. Chỉ một cá nhân có thể là tự do, nhưng chỉ một cộng đồng có thể tạo ra các cá nhân. Và tuy nhiên cho một cộng đồng để làm việc này, hết thế hệ này đến thế hệ khác, các thực hành của nó phải được xem xét dưới ánh sáng của những đòi hỏi của tự do.

Vào Chủ nhật Phục sinh 1988, tôi đứng dưới bóng cây sung dâu với bạn tôi Danny Gubits. Tôi nhìn xuống đồi về hướng quốc lộ, đang thảo luận dài dòng về tất cả những gì ông tôi đã đạt được mà không có ai giúp. Danny đã sửa lại tôi: “Ông đã có màu của da ông.” Tôi nhớ cơn kháng cự trào dâng đầu tiên, máu nóng bốc lên mặt, mong muốn của tôi để mô tả một nước Mỹ nơi màu da không quan trọng, ít nhất trên một trang trại. Và rồi tôi thấy sự phi lý của điều đó và thừa nhận vấn đề.

Lịch sử của xứ này đã không bắt đầu với sự đến của các tổ tiên bên ngoại của tôi trong năm 1806, hay với Tuyên ngôn Độc lập trong 1776, hay với sự đến của tàu nô lệ đầu tiên trong 1619. Ai đã bỏ lại những đầu mũi tên được cày của ông tôi lật lên mỗi năm? Ngà voi mastodon treo trong hành lang ngụ ý một dòng thời gian còn dài hơn. Ai đã lùng bắt những con thú có vú khổng lồ đó? Và các hóa thạch cổ hơn nhiều mà bà tôi đã tìm thấy và dán nhãn thì sao? Chúng ta không thể lập luận cách của chúng ta tới tự do mà không có quá khứ, kể cả quá khứ sâu.

Chúng ta sinh vào một thời khắc nào đó, mà chúng ta chẳng kiểm soát cũng không biết trước, và mà chúng ta không thể thậm chí bắt đầu hiểu cho đến muộn hơn nhiều trong đời. Thế nhưng chúng ta có thể, với kinh nghiệm, học để đặt bản thân chúng ta trong những lịch sử dài hơn, để nghĩ về thời gian. Chúng ta không thể tự do cho đến khi chúng ta có sự tự chủ nhất định đối với bản thân mình, mà đòi hỏi chúng ta để hiểu rằng thời khắc hiện tại không là thời khắc duy nhất, và rằng sự thôi thúc của nó không phải là thứ duy nhất chúng ta có. Chúng ta sống một cách tự do trong một thời khắc trong chừng mực mà chúng ta có thể vượt qua nó và thấy chính mình trong đó.

Tự do ngân vang giống một chiếc chuông, gây sửng sốt và có tính tuyên bố. Khi tôi kéo dây (để rung chuông), tôi đang làm cái gì đó của riêng tôi, cái gì đó to và thật. Nhưng tôi đang gọi những người khác dùng một nhạc cụ được những người khác đúc và bảo quản. Tôi đã chỉ nhảy từ một chiếc xích đu được treo trên nhánh của một cây, một bạn nhỏ của sự cân bằng của nó. Tự do cũng tạo vòng vân giống một cây, biến đổi cái không sống thành cái sống, phân loại và lớn lên, già đi và thích nghi, ghi chép và làm mới.

Sự thấu hiểu

Ngày hè đó trên trang trại, đứa bé sáu tuổi là tôi đưa ra một lựa chọn nho nhỏ. Tôi đã có thể tiếp tục đu đưa trên xích đu, dùng năng lượng của tôi và sự hiểu con trẻ của tôi về vật lý chỉ để vui thôi. Thay vào đó, tôi đã nhảy khỏi xích đu, chạy lon ton khỏi cây, và lấy chỗ của tôi trong hàng để rung chuông.

Khi đến lượt tôi, tôi hít vào và giữ hơi thở trong khi kéo dây, rồi thở ra khi tôi xả hơi. Ngả về phía sau và nắm chặt dây, tôi dùng một chút năng lượng riêng của tôi, mà tôi có được nhờ các thực vật và mặt trời. Món nợ cuối cùng của tôi là cho trọng lực, vì trọng lực mặt trời đã tạo ra phản ứng nhiệt hạch mà cho phép các thực vật lớn lên và tôi để phát đạt. Một món nợ trực tiếp hơn: khi ngả về phía sau, tôi mượn trọng lực của Trái Đất, chuyển nó cho các mục đích của riêng tôi. Tôi đã tập rung chuông như thế; việc làm vậy đã trở nên tự nhiên. Chúng ta tự do để làm những gì chúng ta có thể làm, khi chúng ta biết vì sao chúng ta đang làm nó.

Dây trong tay tôi giật mạnh đỉnh chuông, cho dù quả lắc của nó, treo tự do bên trong, vẫn đứng yên. Một vật trong chuyển động có khuynh hướng ở trong chuyển động; một vật đứng yên có khuynh hướng vẫn đứng yên. Mép của chuông đang chuyển động đánh vào quả lắc. Sắt rung động nén không khí gần đó, đẩy các sóng ra với tốc độ âm thanh. Chúng đến tai của mọi người trên trang trại, và tất cả mọi người biết âm thanh có nghĩa là gì: thời gian để tập hợp và ăn. Và bởi vì tâm trí của chúng ta là nhiều hơn những sự hướng dẫn sống sót, một số người trong chúng ta nghĩ về cái gì đó khác: tự do.

Có thể dường như rằng mọi thứ, mà xảy ra khi chuông rung, là có thể dự đoán được, chủ đề của sự mô tả như khoa học. Các sóng của một loại năng lượng trở thành các sóng của một loại năng lượng khác. Qua trung gian của những loại khác của vật chất (plasma mặt trời, các tế bào thực vật quang hợp, mitochondria con người), năng lượng điện-từ (hay các sóng ánh sáng) trở thành động năng (hay các sóng âm). Mặt trời tỏa sáng, ngô lớn lên, tôi ăn ngô, tôi hành động. Các photon từ ngôi sao địa phương khích thích các electron trong các lá cây, gây ra những thay đổi hóa học mà cung cấp cho một Homo sapiens trẻ năng lượng cần thiết để kéo một dây và làm cho một miếng sắt đánh vào miếng sắt khác.

Như tôi hy vọng tôi đã cho thấy, đó không phải là mọi thứ. Một vũ trụ với năng lượng điện-từ không phải cùng như một vũ trụ với những con mắt mà nhìn qua các sóng ánh sáng. Một vũ trụ với động năng không phải là cùng như một vũ trụ với những đôi tai mà nghe qua các sóng âm. Một vũ trụ với những sự đều đặn vật lý không phải là cùng như vũ trụ nơi những sinh vật, như một đứa trẻ con người, hiểu chúng (các quy luật vật lý) và chuyển chúng cho các mục đích riêng của họ. Một vũ trụ được định hình bởi trọng lực không phải cùng như một vũ trụ mà các sinh vật của nó có thể lưu tâm rung những chiếc chuông với một suy nghĩ cho mục đích của họ. Một vũ trụ nơi các đòn bẩy hoạt động không là cùng như một thế giới nơi một cậu bé tự làm một đòn bẩy. Một Körper là không cùng như một Leib. Trọng lực có thể trở thành vẻ duyên dáng. Tôi đã có sự hiểu vật lý của một đứa trẻ sáu tuổi, và tôi đã có nhiều hơn thế: một ý tưởng chớm nở về tự do.

Những gì tôi thiếu đã là một sự hiểu về tự do có thể có ý nghĩa gì cho mọi người. Tay nắm chặt dây, tôi đã không cảm thấy rằng thế giới chống lại tôi. Những gì tôi cần hiểu đã là tất cả sự hợp tác mà cần để đưa tôi đến một trạng thái tự do. Những gì tôi đã tìm lý lẽ để bảo vệ cho trong cuốn sách này, và có lẽ bạn đã đi cùng với tôi, là tất cả chúng ta đều có thể đến một trạng thái tốt đẹp hơn, cùng nhau.

Sự Bao gồm

Tôi thật vui để nghĩ về thời hơ ấu của mình, nhưng tôi phải giải phóng bản thân mình khỏi những sai lầm của nó. Lễ kỷ niệm hai trăm năm, một trong những ký ức yêu dấu nhất của tôi, đã kéo tôi theo hướng sai lệch thời gian (time warps). Nó đã chuẩn bị tâm trí của tôi cho một nền chính trị của tính không thể tránh khỏi, trong đó tất cả sẽ tốt đơn giản bởi vì một đế chế (hay cái gì đó khác) đã bị dỡ bỏ. Nó đã chuẩn bị tôi cho một nền chính trị của tính bất diệt, trong đó bất cứ thách thức nào đối với tính đúng đắn của chỗ hoặc các hành động của tôi sẽ vấp phải một sự dẫn chiếu đến một quá khứ hoàn hảo được kỷ niệm trong những năm chẵn.

James Madison ca ngợi những người Mỹ vì việc xây dựng một nền cộng hòa mới của họ mà không có 72“sự mù quáng tôn kính đời xưa.” Đó là thái độ chúng ta nên áp dụng cho bản thân các nhà Lập Quốc. Việc mô phỏng họ có nghĩa là vượt qua họ. Họ đã là các diễn viên lịch sử, không phải các thú cưng ký ức. Họ đã đảm nhận rủi ro trong việc tuyên bố độc lập. Bảy mươi sáu năm sau, Frederick Douglass nhắc nhở những người Mỹ về điều đó. 73“Đã có một thời,” ông nói, “khi để tuyên bố chống lại Anh quốc, và ủng hộ sự nghiệp của các thuộc địa, đã thử thách linh hồn người. Họ, mà đã làm vậy, được tính trong thời đó như những kẻ bày mưu điều ác, những kẻ kích động và kẻ nổi loạn, những kẻ nguy hiểm.”

Thật tai ác để ca tụng một cuộc đấu tranh quá khứ vì tự do trong khi chấp nhận chính thể chuyên chế trong hiện tại. Mỗi kỷ nguyên đòi hỏi một sự can đảm cụ thể đối với các thách thức của nó. Nói trong 1852, Douglass đang đề cập đến chế độ nô lệ, mà bản thân ông ra đời vào đó: “Đối với nô lệ Mỹ, thì ngày Bốn tháng Bảy của bạn là gì? Tôi trả lời: một ngày tiết lộ cho anh ta, hơn bất cứ ngày khác nào trong năm, sự bất công và sự hung ác thô bạo mà anh ta là nạn nhân liên tục.”

Hai trăm năm sau khi các nhà Lập Quốc ký Tuyên ngôn Độc lập, một số anh chị em họ của tôi đã rung một chuông trên một trang trại ở Hạt Clinton, Ohio. Em trai tôi, năm tuổi, đã cũng trong hàng. Em trai út của tôi, ba tuổi, đã phải được giúp đỡ để kéo dây. Thật tốt để ăn mừng sự thịnh vượng và Giấc Mơ Mỹ. Tôi yêu sự nhớ lại và gia đình và trang trại, và tôi lẽ ra đã không trở thành bản thân tôi hoặc đang viết cuốn sách này mà không có chúng. Nhưng chúng ta sẽ không đến tương lai đó bằng việc hiểu lầm quá khứ hay nhấn chìm nó vào các huyền thoại của sự vô tội.

Các em trai tôi và tôi là những đứa trẻ của các năm 1970. Cuộc sống của chúng tôi đã khá khác nhau, và tôi không nói cho họ; nhưng, nhìn lại, tôi đã bị mắc kẹt rằng đúng là chúng tôi hầu như không hiểu vòng đồng thau [của quả chuông và nội dung của đoản văn Rings ở trên], việc né tránh những khó khăn mà đến trong đầu thế kỷ tiếp: một cuộc chiến tranh ngu xuẩn trong 2003, một cuộc khủng hoảng tài chính trong 2008, sự bất bình đẳng tăng lên khắp nơi. Trong đại gia đình mà đã gặp nhau ở trang trại trong các năm 1970 và các năm 1980, những anh chị em họ trẻ hơn đã có một thời gian gay go hơn những người già hơn. Sự tính thời gian là quan trọng, và các em trai tôi và tôi được ưu ái bởi vận may của các thế hệ trước đó.

Sự di động xã hội đã trở nên khó hơn cho hầu hết những người Mỹ kể từ thời thơ ấu của tôi, nhưng theo những cách khác nhau cho những người khác nhau. Khi tôi ra đời trong 1969, khoảng 80.000 đàn ông da Đen ở trong nhà tù. Vào 1990, khi tôi xem đội Reds thắng World Series (cuộc đua vô địch hàng năm của các đội bóng chày Mỹ) lần thứ ba của họ trong đời tôi, con số đã tăng hơn bốn lần, lên khoảng 360.000. Trong đầu các năm 2020, khi tôi bắt đầu chơi bóng mềm với con gái tôi, gần 700.000 đàn ông Mỹ gốc Phi bị bỏ tù. Ngày nay 74có nhiều người với các bản án chung thân hơn tổng số những người trong tù khi tôi ra đời, và gần một nửa của những người bị án chung thân này là những người đàn ông da Đen. Tôi có thể nói về các quỹ đạo khác nhau của các em trai và các anh chị em họ của tôi, nhưng không ai thuộc thế hệ đó, tổng cộng mười sáu anh em họ ở cả bên nội và ngoại của gia đình tôi, đã bị tù hay bị bắn. Gần một nửa thế kỷ sau câu chuyện tôi kể, tất cả mọi người, mà đã đứng xếp hàng đó để rung chuông, vẫn còn sống. Tôi có thể coi điều đó là nghiễm nhiên, nhưng tôi không nên. Giữa các gia đình người Mỹ gốc Phi ở Dayton, Ohio, hay ở New Haven, Connecticut, sự tính thường trong sự khác biệt đáng buồn.

Việc nhìn những sự bất bình đẳng như vậy là một vấn đề không chỉ về sự công bằng mà về tự do cho tất cả mọi người. Những người da trắng bị kéo vào chính trị chủng tộc đang cản trở các chính sách giải phóng. Như sinh viên tù nhân của tôi Alpha diễn đạt, 75“Các ngươi đang áp bức bản thân mình với sự đàn áp của chính các ngươi.” Tự do bắt đầu với các đức hạnh, với các ý tưởng về cái gì là tốt. Thời khắc chúng ta chấp nhận rằng hiện trạng được biện minh, chúng ta thấy bản thân chúng ta trong xứ chết của tự do phủ định, xứ phòng thủ và bất lực. Thật đau lòng để nói rằng cái gì đó sai và mà tôi chịu trách nhiệm nào đó; nhưng nếu không có 76chút can đảm đó, tự do chẳng bao giờ bắt đầu.

Tôi có thể tuyên bố cảm nhận của riêng tôi về nước Mỹ, nhưng chỉ nếu tôi sẵn sàng chấp nhận những câu chuyện của những người khác. Tôi có thể kể chuyện riêng của tôi về mùng Bốn tháng Bảy, nhưng nó giúp tôi biết rằng gia đình của Alpha xem nó như một ngày lễ thuộc về những người khác. Khi tôi tưởng tượng gia đình anh ta quay cả con (lợn hay cừu) trên ban công của một căn hộ trong một dự án nhà ở, tôi thấy mình và ký ức của riêng tôi rõ ràng hơn. Sự tính toán của những người khác với tự do bắt đầu ở nơi khác, mà phải được công nhận: không chỉ như một vấn đề tôn trọng, mà cũng như một vấn đề logic. Evan, một tù nhân sinh viên Mỹ gốc Phi khác, viết rằng “tự do là một trò hề ở nước Mỹ cho đến khi ‘chúng ta’ bao gồm cả tôi.” Anh ấy đúng.

Tôi phải thích ứng bất kể đức hạnh nào tôi khẳng định từ kinh nghiệm của riêng tôi với các đức hạnh mà bắt đầu ở nơi khác. Tôi hy vọng rằng điều này sẽ dẫn đến một quan niệm phong phú hơn về tự do, đến chính sách sáng tạo hơn, và đến nhiều tự do hơn cho mọi người.

Cơ hội

Trong 1976 đứa trẻ là tôi đã nhảy từ một xích đu, đợi trong hàng, và rung một quả chuông. Những ký ức không thể dự đoán được đưa tôi quay lại thời khắc đó, hệt như một cuộc sống không thể dự đoán được kể từ đó đã khiến tôi tự do. Tôi đã đầy các tương lai lúc đó và đã thực hiện vài trong số chúng, kể cả cuốn sách này. Tôi sẽ không cho điểm 2076, kỷ niệm ba trăm năm của nước Mỹ. Nhưng với sự may mắn và công việc nặng nhọc, các con tôi sẽ thấy thế kỷ thứ tư của nước chúng ta bắt đầu.

Trong một ngày đông trên cùng trang trại Ohio đó, con trai năm tuổi của tôi để một bàn tay đeo găng lướt qua sự kéo chuông, rồi nhìn với sự mê hoặc kiên nhẫn khi dây lắc qua lắc lại, ngày càng chậm hơn, cho đến khi nó quay lại sự cân bằng bất động ban đầu của nó. Rồi nó lang thang, trong đôi ủng nhỏ màu xanh, để tìm kiếm các hóa thạch và đầu mũi tên trong cánh đồng đầy bụi tuyết. Nó đã tìm thấy cái gì đó khác: một viên đá nhỏ được bàn tay con người chế tác thành một khối lập phương, được đánh dấu bằng sự tính điểm trên mỗi mặt: một con súc sắc cổ.

Chúng ta đã không tạo các sự thực về vũ trụ mà hướng dẫn một con súc sắc khi được gieo. Chúng ta không thể phá hủy quy luật tất yếu. Nhưng cũng có một quy luật của tự do, một sự đồng lõa bí ẩn, mà chúng ta có thể tập cho đến khi chúng ta đạt vẻ duyên dáng. Những gì chúng ta không thể thay đổi, thì chúng ta có thể hiểu và biến cho mục đích của chúng ta. Ai đó rất lâu trước đây, tình cờ dùng tay, chọn để làm con súc sắc đó, ai đó mà đã tập làm các thứ. Ai đó muộn hơn nhiều đã tìm thấy nó, ai đó đã tập (chơi) khi nhìn thấy.

Vào một ngày hè trên cùng trang trại Ohio đó, con trai tôi, bây giờ mười một tuổi, đã lần lượt rung chuông với một người bạn da Đen. Chuông ngân vang như nó đã luôn ngân; chỗ hỏng của nó, hồi chuông vụng về thứ hai đó, khởi động một chuỗi những ký ức vô tình. Con trai tôi không phải là một đứa trẻ da trắng như tôi đã là. Nó đối đầu với những người lớn để bảo vệ bạn của nó. Nó có một cơ hội với tự do mà tôi đã không có, hoặc mà tôi đã không lấy được. Nó thích Afrofuturism (chủ nghĩa vị lai châu Phi) bởi vì các phim Black Panther (Báo Đen), mà thẩm mỹ của nó là tác phẩm của ai đó tôi nhớ như một cô gái ở Ohio.

Qua hình ảnh của cô, Hannah Beachler sẽ chạm vào nhiều tâm trí hơn bất kỳ ai khác mà đã tốt nghiệp từ trường trung học của chúng tôi. Điều này có lẽ không phải là cái bất cứ ai đã dự đoán, nhưng sự không thể dự đoán được là linh hồn của tự do.

Khi tôi cố gắng kết thúc cuốn sách này, con gái tôi ngồi đối diện với tôi tại quán Claire’s, một quán ăn tại trung tâm New Haven. Sự tập bóng mềm đã xong, và chúng tôi được cho là đang làm bài tập về nhà. Một đĩa nhỏ bánh cupcake trống không ở bên tay phải nó, một cuốn sách về các thần thoại Hy Lạp ở bên trái, cùng sưu tập mà một thời tôi đã tìm thấy trong thư viện trường công như một đứa trẻ. Sách đầy các anh hùng có khiếm khuyết, các thần bị hạn chế, và những sự biến hình kết nối sự ngạc nhiên thời thơ ấu với các thế khó xử của người lớn.

Con gái tôi có thể ném mạnh một quả bóng, như cha nó, như ông nội nó, như cụ nội nó, mà các gậy của họ tôi cầm trong tay mình, và trong chiếc xe bán tải cuối cùng của họ, một chiếc Dodge Dakota đời 1992, chúng tôi lái đến quán ăn chay này. Buổi tối này chúng tôi sẽ xem vài cuộn băng về World Series 1975, mà tôi muốn con gái tôi xem.

Đội Reds thua trận một. Tuy nhiên, họ quay lại. Họ đã thắng loạt nhờ sự đánh đơn của Joe Morgan trong lượt chơi cuối cùng của trận cuối cùng. Anh đã là cầu thủ gỏi nhất thời anh, và cú đánh của anh ấy đã giành được giải World Series hay nhất mọi thời đại. Anh nhìn vào quả bóng, toàn thể vật lý trở thành của anh ấy, luật tất yếu trở thành luật của tự do. Tôi đang cố gắng để con gái tôi tập nhiều hơn.

Giống bọn trẻ khác thuộc tuổi nó, nó đã phải dùng phần lớn cuộc sống có ý thức của nó trong một đại dịch, với các bạo chúa nắm quyền ở các nước nó quan tâm. Nó đã biết rằng bố nó có thể lơ lửng trên bờ vực của cái chết, rằng các nhà văn gỏi có thể ở trong tù, rằng các bạn có thể nhắn tin từ các hầm trú bom. Nó biết rằng việc làm một cô gái bưng hoa cho một cô dâu đi trước việc chào đón một người tị nạn với một trẻ sơ sinh. Đây là cách mọi thứ diễn ra, nhưng không phải cách mọi thứ phải là.

Như con trai của tôi, nó chấp nhận điều đó trong thế giới của các ràng buộc và các cơ hội của chúng ta, cùng với thể thao và sách và sự đoàn kết và sự thật mà vợ tôi và tôi và những người khác cố gắng chia sẻ với chúng. Các con của tôi, tôi hy vọng, là tự chủ và, tôi chắc chắn, là không thể dự đoán được, khi chúng bắt đầu nghĩ chúng sẽ đi đâu trong đời.

Các con tôi có một cơ hội. Tất cả chúng ta đều có. Thế giới này có thể tốt đẹp hơn rất nhiều.

Khi tôi nhìn vào khuôn mặt tươi cười của con gái tôi, tôi nghĩ về cái tôi có thể để lại phía sau: một ý tưởng về tự do. Vấn đề của chúng ta không phải là thế giới; vấn đề của chúng ta là chính chúng ta. Và như thế chúng ta có thể giải nó. Chúng ta có thể trở nên tự do, nếu chúng ta hiểu tự do là gì. Chúng ta có thể thấy sự sáng tạo trong quá khứ, khả năng trong hiện tại, tự do trong tương lai. Chúng ta có thể nhận ra nhau, tạo ra một chính phủ tốt, và tạo ra sự may mắn của chính chúng ta.

“Chúng ta sống trong một thế giới,” Simone Weil nói, “nơi mọi người có thể kỳ vọng những phép màu chỉ từ chính bản thân họ.” Chúng ta có thể nắm lấy cơ hội của chúng ta. Nó là cơ hội cuối cùng của chúng ta, nhưng nó là một cơ hội tốt.

Chú thích:

48sự bất động đã kìm chặt: Elizabeth Hinton, America on Fire: The Untold History of Police Violence and Black Rebellion Since the 1960s (New York: Liveright, 2021), 132.

49“hoạt động thầm lặng của các luật”: James Madison, National Gazette, [c. January 23,] 1792.

50“Có thể có bất kỳ tình cảnh xã hội nào đáng mong muốn hơn tình cảnh này không?”: Thomas Jefferson gửi cho Thomas Cooper, September 10, 1814.

51những sự bất bình đẳng của cải và thu nhập khổng lồ của nó: Như Paul Mason chỉ ra, sự bất bình đẳng cuối cùng làm cho việc đánh thuế là không thể, mà khiến sự cai quản là không thể—mà khiến cho tự do là không thể. Xem PostCapitalism của ông.

52Những người Mỹ mất khoảng 1 ngàn tỉ $: Alan Rappeport, “Tax Cheats Cost the U.S. $1 Trillion per Year, I.R.S. Chief Says,” NYT, April 13, 2021.

53thuế suất cao nhất là 91 phần trăm: Tax Foundation, “Historical U.S. Federal Individual Income Tax Rates & Brackets, 1862–2021,” TaxFoundation.org, August 24, 2021.

54nhà khai phóng quan trọng nhất: Một dẫn nhập thú vị đến Mill và rồi đến những thảo luận về quyền tự do biểu đạt là Isaiah Berlin, “John Stuart Mill and the Ends of Life,” trong Vincent Blasi, ed., Freedom of Speech in the History of Ideas (St. Paul, Minn.: West Academic, 2016).

55tin vào nhà nước phúc lợi: Xem lời nói đầu của tôi cho Isaiah Berlin, The Sense of Reality (Princeton: Princeton University Press, 2019).

56một thu nhập tối thiểu an toàn: Và như thế chúng ta tìm thấy một điểm gặp nhau giữa cuộc Diễu hàng trên Washington (do Martin Luther King tổ chức) và The Road to Serfdom.

57bảo hiểm sức khỏe do một người chi trả duy nhất: Christopher Cai et al., “Projected Costs of Single-Payer Healthcare Financing in the United States,” PLOS Medicine, January 15, 2020; Elizabeth H. Bradley and Lauren A. Taylor, The American Health Care Paradox (New York: PublicAffairs, 2013); Lovisa Gustafsson, Shanoor Xemrvai, and David Blumenthal, “The Role of Private Equity in Driving Up Health Care Prices,” Harvard Business Review, October 29, 2019.

58Thời gian nhìn màn hình bảy giờ một ngày: Simon Kemp, “Digital 2022: Time Spent Using Connected Tech Continues to Rise,” DataReportal, January 26, 2022.

59dùng những biện pháp quyết liệt: Alice Marwick and Rebecca Lewis, “Media Manipulation and Disinformation Online,” Data and Society Research Institute, 2017; Tamsin Shaw, “Invisible Manipulators of Your Mind,” New York Review of Books, April 20, 2017.

60 “Hệ thống dựa vào những lời nói dối”: Havel, “Power of the Powerless,” 28.

61nhất quán nhất trong việc kiểm duyệt những người dùng internet: Một điểm được Zeynep Tufekci đưa ra trong Twitter and Tear Gas (New Haven: Yale University Press, 2018), 235.

62Các trẻ em con người cần các trường con người: Xem José van Dijck, Thomas Poell, and Martijn de Waal, The Platform Society: Public Values in a Connective World (Oxford: Oxford University Press, 2018), 121.

63các trường mà không có các màn hình: Sergei Brin, Larry Page, and Jeff Bezos, chẳng hạn, đã học các trường Montessori schools. Xem trang nhà của the American Montessori Society.

64cho các con của họ: Jaron Lanier, Ten Arguments for Deleting Your Social Media Accounts Right Away (London: Bodley Head, 2018), 12.

65hơn 10 tỉ $: Nicholas Kardaras, Glow Kids (New York: St. Martin’s, 2017).

66 các bước dứt khoát để cải thiện các phương pháp: Được trích trong Garton Ash, Free Speech: Ten Principles for a Connected World, 80.

67Hiến pháp Na uy: Điều 190.

68quan điểm của họ bị thách thức: Garton Ash, Free Speech, 190.

69đưa bất cứ tin nổi bật nào trong số này: Charles Bethea, “Shrinking Newspapers and the Costs of Environmental Reporting in Coal Country,” New Yorker, March 26, 2019. Về các sa mạc tin tức, xem Penelope Muse Abernathy, “The Expanding News Desert,” USNewsDeserts.com, không đề ngày tháng. Xem cả Margaret Sullivan, Ghosting the News: Local Journalism and the Crisis of American Democracy (New York: Columbia Global Reports, 2020).

70việc tìm ra và tiếp nhận sự thật: Weil, La pesanteur et la grâce, 114. So sánh Martin Burckhardt: “The free act of creation has costs; the replication of these efforts has none.” Philosophie der Maschine (Berlin: Matthes & Seitz, 2018), 70. Ông đang dẫn chiếu đến Walter Benjamin, mà công trình của ông tôi đọc ở Moscow ba thập niên trước.

 71“sự lưu hành các tờ báo qua rất nhiều người, qua toàn bộ khối nhân dân.”: James Madison, trong National Gazette, [c. December 19,] 1791. Xem Lee McIntyre, Post-Truth (Cambridge, Mass.: MIT Press, 2018), cho sự thảo luận.

 72“sự mù quáng tôn kính đời xưa.”: James Madison, Federalist no. 14, November 30, 1787.

 73“Đã có một thời,”: Frederick Douglass, “What, to the Slave, Is the Fourth of July,” bài phát biểu được trình bày ở Rochester, New York, July 4, 1852. Xem David Blight, Frederick Douglass: Prophet of Freedom (New York: Simon & Schuster, 2018).

74có nhiều người với các bản án chung thân hơn: Trong năm 2021, số người bị kết án chung thân trong nhà tù là 161.512 người và số thụ án chung thân thực tế (virtual life sentence – năm mươi năm hay hơn) là 42.353. “No End in Sight,” Sentencing Project, 2021. Trong năm 1969, tổng số người trong tù là 197.136. U.S. Department of Justice, Bureau of Justice Statistics, Historical Statistics on Prisoners in State and Federal Institutions, 1925–1986 (Ann Arbor: Inter-university Consortium for Political and Social Research, 1989).

 75“Các ngươi đang áp bức bản thân mình với sự đàn áp của chính các ngươi.”: Chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc có thể trở thành “công cụ mà với nó nền dân chủ bị hành tới chết, chủ nghĩa tỉnh lẻ chủng tộc được phong thần, và thế giới được giao cho plutocracy (chế độ do người giàu cai trị).” W. E. B. Du Bois, Black Reconstruction (New York: Harcourt, Brace & Co., 1935), 241. Một sự lập tư liệu hiện đại thuyết phục là Heather McGhee, The Sum of Us (New York: OneWorld, 2022). Xem cả Volodymyr Yermolenko, “Russia, Zoopolitics, and Information Bombs,” Euromaidan Press, May 26, 2015.

76chút can đảm: Hãy xem xét W. E. B. Du Bois: “There is but one coward on earth, and that is the coward that dare not know (Chỉ có một kẻ hèn nhát trên trái đất, và đó là kẻ hèn nhát không dám biết).” “The Study of the Negro Problem,” Annals of the American Academy of Political and Social Science, 1375, January 2, 1898, 27. Ông viện dẫn châm ngôn của Kant “Dám biết” (Sapere aude).