Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 21 tháng 3, 2025

Về tự do (kỳ 6)

Tác giả: Timothy Snyder

Việt dịch: Nguyễn Quang A

Nhà xuất bản Dân Khí, 2025

Đầy tớ

Tôi đọc những bức thư thú vị đó từ Leszek Kołakowski trong một ký túc xá sinh viên tồi tàn ở Warsaw, với các đường ống rò rỉ và trộm đột nhập thường xuyên. Khi tôi tiến hành nghiên cứu cho luận văn của mình trong 1992 và 1993, tôi hạn chế đồ đạc của mình ở những gì vừa trong một chiếc ba lô, mà tôi đặt dưới gối của tôi vào ban đêm để tránh kẻ cắp. Thứ quan trọng nhất của tôi là chiếc laptop Apple xám nặng tôi mang theo mình đến các cơ sở lưu trữ. Bạn tôi Andrzej Waśkiewicz, 68một nhà tư tưởng xã hội Ba lan, chỉ vào máy tính của tôi và hỏi, “Kto komu służy?”

Ai phục vụ ai? Có phải con người phục vụ máy, hay máy phục vụ con người? Tại thời điểm đó, trước wi-fi và điện thoại thông minh, tôi có thể đặt ba lô trong một góc của căn hộ bé tẹo của Andrzej, một đồ vật giữa những đồ vật khác, uống một chai bia hay ba chai, chơi phi tiêu, và nói chuyện. Trong một cuộc về thăm ngắn lại Hoa Kỳ trong tháng Năm 1993, 69laptop của tôi bị đánh cắp, cùng với tất cả các bản sao dự phòng về nghiên cứu luận văn của tôi. Trên đường đến một ngôi nhà buôn bán và xài ma túy ở New Haven để thử lấy lại nó, tôi nhớ đến câu hỏi của Andrzej, một ký ức bỗng nhiên. Thở hổn hển khi tôi chạy, tôi vẫn phải cười.

Chắc chắn, máy móc có thể phục vụ các mục đích của chúng ta, làm cho chúng ta có thể khẳng định các giá trị riêng của mình. Tôi đã lấy lại được máy tính và nghiên cứu của mình, và tôi đã viết luận văn của mình trên nó. Tony Judt và tôi liên lạc bằng file đính kèm email khi chúng tôi biên tập trò chuyện của mình thành một cuốn sách. Cuốn pamphlet (sách mỏng) 2017 của tôi On Tyranny bắt đầu như một post trên Facebook. Ngay sau cuộc bầu cử tổng thống 2020, khi tôi nói với các CEO Mỹ hãy chuẩn bị cho một âm mưu đảo chính của Donald Trump, trên Zoom. Một lớp tôi dạy tại Yale về Ukraine trong mùa thu 2022 đã đến với hàng triệu người nhờ YouTube và Spotify và Apple podcast.

Tôi không luôn luôn thành công, nhưng tôi cố gắng nhớ câu hỏi ai/ai của Andrzej. Tôi thử xem chiếc máy tính trước mặt tôi như một công cụ để với tới những người khác, và để thúc đẩy họ suy nghĩ hay hành động khác đi. Tôi biết rằng các bạn đọc của On Tyranny đã hành động trên đường phố và trong các quốc hội. Trên cơ sở của các ghi chú của tôi, 70các CEO nhanh chóng soạn một tuyên bố về việc tôn trọng kết quả của cuộc bầu cử tổng thống 2020 mà đã trở thành một tấm gương cho những người khác và đã làm khó hơn cho Trump để tiến hành cuộc đảo chính của ông. Bất chấp điều đó, lẽ ra tôi đã không phải dùng đến internet cho các thao tác phòng thủ này nếu giả như Trump đã không được bàu, và giả như dân chủ khắp thế giới đã không đổ vỡ—những tiến triển được media xã hội làm cho có thể.

Tôi đã có thể biến chiếc máy theo mục đích của tôi, và tôi biết rằng những người khác có làm như vậy. Tuy nhiên, tôi e rằng về tổng thể chiếc máy tạo ra một loại entropy (Havel) hay trọng lực (Weil) đặc biệt. Bởi vì các vi xử lý được kết nối di động—những điện thoại, tablet, và laptop có mặt khắp nơi của chúng ta—có vẻ có thể làm mọi thứ, chúng kéo chúng ta vào một thế giới tinh thần hỗn độn nơi chúng ta không chắc những gì chúng ta đang làm. Chúng ta bỏ lại đằng sau quà tặng của Leib khi chúng ta rút lui theo hướng Körper có thể dự đoán được hơn. Chúng ta mất cái vì sao yên lặng cá nhân giữa sự siêu dư thừa của cái thế nào. Và sau đó thế giới thay đổi.

Ai đang phục vụ ai? Hay cái gì? Mục đích của hầu hết công cụ là hiển nhiên. Như Martin Burckhardt chỉ ra, microprocessor được kết nối 71không có mục đích rõ ràng nào; nó ít là một công cụ cho chúng ta hơn là một lời mời gọi cho chúng ta, hay một sự cám dỗ của chúng ta. Nó có thể là một pan-tool (công cụ-vạn năng), có khả năng làm mọi thứ; nhưng cũng có thể là một anti-tool, làm cho những người dùng của nó có khả năng ít hơn, hơn là có khả năng nhiều hơn. Nếu chúng ta không sắp đặt kỹ lưỡng các máy, chúng ta sẽ thấy rằng 72chúng đang tách chúng ta: khỏi nhau, khỏi các giá trị của chúng ta, thậm chí khỏi thân thể của chúng ta.

Tiểu sử

Chúng ta phải hết sức lưu tâm nếu chúng ta muốn khẳng định các mục đích của mình qua media xã hội. Chúng ta phải điều khiển phần mềm (software) được thiết kế để thao túng chúng ta. Nếu chúng ta không cẩn trọng, media xã hội sẽ biến các năng lực tự chủ của chúng ta để tuyên bố và dàn xếp chống lại chúng ta, khiến chúng ta có thể dự đoán được và dễ bị cai trị. Thất đáng tiếc, điều này không phải là một giả thuyết. Bị giám sát, bị quấy rầy, và bị thúc nhẹ, không nghi ngờ gì tôi ít tự do hơn khi so với tôi ngồi trong căn hộ của Andrzej, đặt ba lô sang một bên, máy tính yên lặng trong một góc. Tất cả chúng ta đều ít tự do hơn.

Trong việc nhớ lại cảnh đó, tôi tự do hơn tôi có lẽ là nếu tôi quên nó. Tự do gồm những tương lai khả dĩ, không thể dự đoán được đối với các bạo chúa khao khát và các máy vô tâm. Và bất kể tương lai có vẻ hợp lý nào phải được kết nối với một quá khứ được nhớ hay lịch sử. Tri thức về quá khứ vì thế là một bể chứa sức mạnh và sự tự-giải phóng. Tương lai có thể chảy xuống nhiều kênh, nhưng các nguồn của nó ở trong quá khứ. Nhiều thứ là có thể, nhưng không phải mọi thứ là có thể. Khi chúng ta chẳng biết gì về quá khứ, chúng ta nghĩ mọi thứ là có thể nhưng mau chóng bị vỡ mộng. Khi chúng ta biết cái gì đó về quá khứ, chúng ta biết về cái gì đó về một số thứ có thể xảy ra, và chúng ta có một cơ hội để thực hiện chúng, một cơ hội để tự do.

Một yếu tố của sự không thể dự đoán được mỉa mai trong sự nghiệp của riêng tôi là sự thất nghiệp đã cho phép công việc lịch sử của tôi. Tôi đã dành hầu hết nửa đầu của các năm 1990 ở Anh, Ba Lan, và Pháp, viết một luận văn. Sau khi tôi hoàn thành học vị tiến sĩ của mình, tôi đã không có khả năng tìm một việc làm như một giáo sư trong sáu năm, như thế tôi dùng phần lớn phần còn lại của các năm 1990 sống ở Warsaw, Prague, và Vienna, với các chuyến du hành ở nơi khác trong vùng, kể cả Belarus và Ukraine. Tôi đọc sách, học ngôn ngữ, có một số học bổng, dịch để kiếm tiền, và làm những việc tạm thời khác. Sống ở châu Âu, tôi đánh giá cao sự tiếp cận đến các hệ thống sức khỏe công. Tôi bị chứng đau nửa đầu và hay gãy xương nhưng không phải lo về liệu một bác sĩ có khám cho tôi không.

Như kết quả của sự may mắn nào đó, cuối cùng tôi nhận được một việc làm, tại Yale. Điều này ít liên quan đến công trạng của tôi, hay bất kể logic tuyển người nào của các đại học Mỹ. Chính là ở New Haven mà laptop của tôi (với nghiên cứu luận văn của tôi) bị mất cắp, và chính ở New Haven tôi đã có khả năng công bố cuốn sách tiếp theo, Tái thiết lại Quốc gia, về Ba Lan, Lithuania, Belarus, và Ukraine. Mặc dù nó liên quan đến câu hỏi lớn về nguồn gốc của quốc gia hiện đại, nó đầy các nhân vật không thể dự đoán được, mà thấy các quá trình lớn hơn và làm việc với chúng. Giống cuốn sách muộn hơn của tôi Bloodlands, một lịch sử về các chính sách giết người hàng loạt Nazi và Soviet, nó rút nhiều từ thời gian tôi ở trong các lãnh thổ được nó mô tả.

Tôi bị hấp dẫn tới loại tiểu sử không đúng mốt, mà thâu tóm một số sự không thể dự đoán được, thật thiết yếu với lịch sử—với những gì thực sự xảy ra. Tính cá nhân có khuynh hướng bị loại bỏ bởi những tường thuật nhìn lại quá khứ về những gì hẳn đã phải theo các sơ đồ mà chúng ta tình cờ tin vào lúc này. Việc viết về các cá nhân khôi phục lại phần nào sự phong phú của quá khứ và làm cho hiện tại và tương lai có vẻ mở hơn cho sự lựa chọn. Luận văn của tôi là một tiểu sử của một nhà Marxist Ba lan bị sự đàn áp đế chế Nga lưu đày khỏi quê hương ông. Ở New Haven, tôi viết các tiểu sử của 73một họa sĩ vẽ phối cảnh Ba lan mà đã bày mưu sự độc lập Ukrainia, và của một đại công tước Habsburg, Wilhelm, mà đã muốn trở thành vua của Ukraine.

Maidan

Cuộc đời Wilhelm von Habsburg là 74một loại cuộc đời không thể dự đoán được; kết thúc trong nhà tù sau khi bị cảnh sát mật Soviet thẩm vấn. Ông ký các biên bản (protocol) thẩm vấn với tên Ukrainia được ông chọn, Vasyl Vyshyvanyi. Quốc gia được ông chọn, Ukraine, đã bắt đầu có một ý nghĩa mà ít người thấy trước.

Sau sự kết thúc của Liên Xô trong 1991, hầu hết mọi người tiếp tục nói về Moscow và Nga, nhưng trong một số khía cạnh Kyiv và Ukraine đã quan trọng hơn. Các sử gia đánh giá cao rằng Ukraine đã giữ các kho lưu trữ của nó mở; sự thực nhỏ và thường nhật này ở gốc rễ của phần lớn những gì chúng ta được biết về Liên Xô. Biểu tình vì tự do ngôn luận và kiểm phiếu trong các năm 2000, các công dân Ukrainia đã thiết lập một hệ thống dân chủ hoạt động. Vào đầu thế kỷ thứ hai mươi-mốt, hầu hết người Ukrainia nghĩ về châu Âu như tương lai chính trị của họ. Đối với những người Ukrainia lớn lên sau khi Liên Xô chấm dứt, Liên Âu nói chung có nghĩa là tự do, khả năng của một cuộc sống với các triển vọng tốt đẹp hơn, ít bị một quá khứ Soviet ràng buộc hơn.

Trong tháng Mười Một 2013, khi Ukraine sắp bước vào một hiệp định với Liên Âu, Putin tìm được cách, qua hối lộ và hăm dọa, để khuyên can tổng thống Ukrainia khỏi việc ký văn kiện xác đáng đó. Khi đó, tất cả các đài truyền hình Nga lớn đều phát các chương trình tuyên truyền được phối phợp. Thông điệp trong cuối 2013 và đầu 2014 là Ukraine thực sự không tồn tại, và những người Ukrainia và Nga là một dân tộc. Tôi dự đoán dựa vào cơ sở đó 75rằng Nga sẽ xâm chiếm Ukraine, mà muộn hơn nó đã xâm chiếm. Rõ ràng tôi đã đơn độc trong việc dự đoán như vậy, ít nhất trong các diễn đàn nổi bật. Có lẽ quan trọng là tôi đã không ở trên media xã hội và thay vào đó lắng nghe những người ở Kyiv và chú ý kỹ đến tuyên truyền Nga. Cũng đúng thế muộn hơn cho dự đoán của tôi trong 2020 rằng Trump sẽ thử một cuộc đảo chính, mà ông đã thử. Tôi chỉ lắng nghe những gì ông nói.

Ở Ukraine, các cuộc biểu tình thân-Âu châu 2013 thoạt tiên do các sinh viên và những người trẻ lãnh đạo, những người mất nhiều nhất nếu châu Âu ở ngoài tầm với. Sau khi các sinh viên bị cảnh sát chống bạo động đánh, nhà báo Mustafa Nayyem hiệu triệu mọi người đến Quảng Trường Độc lập của Kyiv, được biết đến như Maidan. Nayyem kết thúc post Facebook của ông với những từ “Các like không có giá trị”—chỉ các thân thể sống có giá trị, chỉ Leib có giá trị. Ông đang dùng máy cho một mục đích không được dự tính trước. 76Luật trị (rule of law) và nhân phẩm con người sẽ được bảo vệ, như phương sách cuối cùng, bởi sự tập hợp của các thân thể người trong một nơi công cộng.

Sự cô lập và việc nhắm mục tiêu thuật toán triệu tập Körper có thể dự đoán được; những người gặp nhau phát hiện lại Leib. Trên Maidan trong vài tháng tiếp, những tình bạn mới và lâu bền được tạo ra. Mọi người thành lập 77các tổ chức xã hội dân sự dẫn đến những thói quen hợp tác và sự tin cậy mà kéo dài khi Nga xâm chiếm Ukraine đầu tiên trong tháng Hai 2014 và rồi trong tháng Hai 2022. Trong tháng Năm 2014, cùng với các bạn bè và đồng nghiệp, tôi mời các trí thức, các nhà báo, và các nhà hoạch định chính sách từ châu Âu và Bắc Mỹ đến Kyiv 78cho một hội nghị gọi là Ukraine: Thinking Together (Ukraine: Suy nghĩ Cùng nhau). Giả thuyết của nó là những người đích thân nhìn những gì xảy ra sẽ hiểu tốt hơn những người ở lại đằng sau màn hình.

Ý tưởng cho hội nghị đó bắt đầu khi các bạn ở Mỹ gọi tôi vào giữa đêm ở London, và tôi nhận ra, trong sự giải ức chế của trạng thái nửa ngủ nửa thức, những gì phải được làm. 79Các đồng nghiệp và tôi tổ chức cuộc gặp gỡ Kyiv trong vài tuần hỗn loạn và phần lớn bị mất ngủ, và ký ức của tôi hơi lờ mờ. Những gì mọi người có vẻ nhớ lại là tôi đã dịch vài cuộc trực tiếp và tôi đã pha cà phê. Tôi không nhớ việc quyết định để làm những việc đó. Tôi đã phục vụ bàn trước đó. Tôi đã dịch trước đó. Tôi đang làm những gì tôi chọn và những gì tôi có thể, mà là những gì tôi phải làm.

Những hoàn cảnh đưa chúng ta lại với nhau là không thể dự đoán được. Và rồi trong cuộc gặp gỡ của mình chúng ta đưa sự không thể dự đoán được cho nhau. Đồng thời, để được ở bên nhau, chúng ta đều cần các thứ nhất đinh: thời gian, không gian, ngôn ngữ, các năng lực. Phải mất công sức để khiến mọi người đến với nhau vào thời gian đó và địa điểm đó. Nhưng tôi được cổ vũ bởi những mục đích mà tôi hiểu và được hỗ trợ bởi các tổ chức mà những người khác đã tạo ra. Tôi chắc chắn cảm thấy tự do.

Sự Giam hãm

Hội nghị đó ở Kyiv là lần đầu tiên cả vợ tôi và tôi phải qua những đêm xa các con chúng tôi. Con trai tôi vừa lên bốn, và con gái tôi vẫn chưa lên hai. (Và tất nhiên, đã có một người trông trẻ sơ sinh lúc ở Vienna. Vợ tôi đã phải để đứa bé lại với tôi trước đây, mà đã gây ra phản ứng sửng sốt này từ một nữ đồng nghiệp Đông Âu: “Cô để con cô với một người đàn ông?”) Nga đã xâm lấn Ukraine, nhưng mặt trận cách xa hàng trăm dặm. Chúng tôi không gặp nguy hiểm ở Kyiv trong tháng Năm 2014, nhưng chúng tôi ở đó để nghĩ về (và nghĩ cùng với) những người đã mạo hiểm với thân thể của họ. Một nhà thơ và nhà tiểu thuyết mà tôi ngưỡng mộ, Serhiy Zhadan, đã từ chối quỳ trước những người Nga ở Kharkiv—và 80khiến hộp sọ của ông bị vỡ. Sự dũng cảm cá nhân của ông, thật như những chiếc gậy, là phần của những gì đã đưa tôi đến Kyiv. Sử gia trẻ Bohdan Solchanyk đã phê phán cách tiếp cận của tôi trong Bloodlands, nghĩ rằng tôi đã không đủ địa phương, tôi đã không giải thích các động cơ cụ thể của các thủ phạm cụ thể. Anh đã có một điểm đúng, mặc dù tôi chưa bao giờ có cơ hội để nói với anh về điều đó. 81Bohdan đã bị một kẻ bắn tỉa giết khi Nga xâm lấn Ukraine.

Một sử gia Ukrainia trẻ khác muộn hơn nhận xét rằng trong Bloodlands tôi đã chỉ chú trọng đến các chính sách giết người hàng loạt, bỏ sự tống giam trong hậu trường. Điều này là đúng: tôi muốn cuốn sách của mình về sự giết người hàng loạt có một tiêu điểm rõ ràng và nghĩ rằng các quan niệm quen thuộc về “Gulag” và “sự khủng bố” che khuất các chính sách của tội giết người chính trị. Khi anh nêu vấn đề, Zhenya Monastyrs’kyi 82đang nói từ kinh nghiệm. Anh bị bắt làm tù nhân trong cuộc xâm lấn Nga đầu tiên. Nhà tù ngẫu hứng mà trong đó anh bị giam là phần của một hệ thống tăng lên của các cơ sở giam giữ, các trại tập trung, và các phòng tra tấn mà Nga đã xây dựng (và đang xây dựng) trong các vùng lãnh thổ Ukrainia bị nó chiếm đóng kể từ 2014.

Nhà tù là một nơi truyền thống để suy ngẫm về tự do. Những bài viết của các tù nhân giúp chúng ta suy xét sự giam hãm không chỉ như một tập hợp các rào cản quanh cá nhân mà như một điều kiện cụ thể của thân thể người. Ngay từ đầu, bản thân các tù nhân đã ghi lại sự dễ bị tổn thương của Leib với quá ít—và với quá nhiều—tiếp xúc con người. Trong cuốn sách quan trọng đầu tiên về nhà tù Nga, tiểu thuyết-như-hồi ký Ghi chép từ một Ngôi nhà Chết, Fyodor Dostoevsky than phiền về “việc sống chung cưỡng bức,” sự hiện diện liên tục của các thân thể không được chọn cho sự cùng ở của họ. James Davis III nêu rõ vấn đề rằng nhà tù là một 83“không gian trái tự nhiên nhồi nhét quá nhiều người, quá nhiều người.” Trong cuốn sách quan trọng đầu tiên của ông về nhà tù Mỹ, hồi ký-như-tiểu thuyết Life and Adventures of a Haunted Convict (Cuộc đời và những Phiêu lưu của một Tù nhân bị Ma ám), Austin Reed 84than phiền sự giam hãm đơn độc. Nhà triết học Lisa Guenther cho rằng 85nhu cầu của chúng ta cho sự gặp gỡ khiến sự cô đơn cưỡng bức là một sự tra tấn đặc biệt vô nhân đạo.

Khi bị giữ trong sự cô lập, Zhenya ngâm thơ để giữ sự minh mẫn. Sự giam hãm đơn độc là xấu, nhưng sự chia sẻ một xà lim (cell) dành cho một người cũng xấu. Những người áp bức chúng ta hoặc cắt đứt hay làm quá tải sự kết nối của Leib với thế giới. Như các sinh viên của tôi trong nhà tù Mỹ giải thích cho tôi, họ bị cả hai, cái này sau cái kia. Có thể có quá nhiều và có thể có quá ít, không bao giờ có một khoảnh khắc vừa đúng. Tôi hy vọng lớp chúng tôi cung cấp một khoảnh khắc như vậy.

Celly

Trong khi trong tiếng Anh Mỹ một celly là một bạn cùng xà lim trong nhà tù, bên ngoài Hoa Kỳ nó có thể là biệt ngữ cho một cell phone (điện thoại di động). Nhìn những người rời cell (xà lim) của họ và trả lời cell phone có thể gây bối rối. Một cựu tù nhân được thả trong đầu những năm 2020 hỏi một câu hỏi có lý về iPhone của ông: “Làm thế nào tôi tống thứ này ra khỏi mặt tôi?”

Một người bị tù khác tôi biết, một đàn ông cỡ trạc tuổi tôi, bắt đầu bản án của ông trong thế kỷ thứ hai mươi, trước xa khi điện thoại thông minh được sáng chế ra. Khi ông được thả sau hai mươi sáu năm, ông đã bị quấy rầy bởi cảnh mọi người nhìn chằm chằm vào các màn hình nhỏ. “Tôi đã thấy nhiều người không tự do ở bên ngoài này hơn tôi đã từng thấy bên trong (nhà tù)” là bình luận của ông. Khi tôi nhắc lại nó, nhận xét đó chọc tức vài sinh viên bị tù của tôi: một màn hình cảm ứng không phải là bức tường nhà tù. Nhưng quan điểm của người đàn ông trung niên mà chưa bao giờ bắt gặp internet di động là có giá trị: nó cung cấp một cái nhìn về cái gì đã xảy ra với chúng ta, từ ai đó không được thả từ từ vào thế giới can đảm của chúng ta nhưng bắt gặp nó bất ngờ và đột ngột.

Các thuật toán của media xã hội giữ chúng ta online với một công thức thanh lịch đến đau đớn: quá nhiều tiếp xúc với những người khác (bề ngoài) dưới dạng của sự khẳng định, thế nhưng cũng quá ít tiếp xúc với Leib thực sự của những con người thực sự. Chúng ta cảm thấy cứ như chúng ta đang nhận biết và học, nhưng không có Leib chúng ta bị mất phương hướng, căng thẳng, và thiên về những phán xét kém về mình. Chúng ta quen với 86mọi đam mê dopamine (kích thích thần kinh có thể gây nghiện), nhưng chúng (các đam mê đó) được sinh ra mà không có bất kể cảm giác thân thể nào. Chúng ta nhận được nhiều sự củng cố tâm lý từ dụng cụ hơn chúng ta có lẽ có thể nhận được trong cuộc đời thực—và sau đó bị căng thẳng bởi vì tất cả sự tiếp xúc đều thiếu tính hữu hình. Kinh nghiệm đó về quá nhiều và quá ít để chúng ta bị mắc bẫy.

Những gì có thể có vẻ như một chi tiết con người kỳ quặc, rằng chúng ta dành nhiều thời gian hơn bao giờ hết để xem nội dung có sức cám dỗ hơn bao giờ hết, 87đã làm thay đổi thế giới trong giữa-các năm 2010. Việc lật một quy ước thành quy ước khác, từ việc nhìn vào những người sang việc nhìn vào các màn hình, đã cho phép một loạt sự kiện mà khác đi lẽ ra đã là không thể. Trong 2014, tôi nhận ra rằng những câu chuyện thực sự của những người Ukrainia thực sự rất ít có giá trị trong thảo luận công về cuộc chiến tranh, bởi vì 88các định kiến được khuếch đại một cách cơ học đã chiếm toàn bộ không gian. Tôi bắt đầu viết một cuốn sách khi đó, Con Đường đến Không-tự do, về chế độ chuyên chế lai nổi lên ở Nga và sự lan ra của nó sang phía tây.

Trong 2016, 89chính xác cùng các tổ chức Nga đó đã khai thác chính xác cùng các chiến lược media xã hội để tấn công Hillary Clinton. Một số người Mỹ được bảo trên media xã hội rằng Clinton là một kẻ kỳ thị chủng tộc, những người khác rằng 90bà thích các tội phạm da Đen. Sự mâu thuẫn không quan trọng, hệt như nó đã không quan trọng liên quan đến cuộc Nga xâm lấn Ukraine 2014, bởi vì các thông điệp khác nhau được nhắm tới những người khác nhau. Một diễn viên Nga quan trọng trong các chiến dịch 2014 và 2016 là Yevgeny Prigozhin, người vận hành 91Internet Research Agency (Cơ quan Nghiên cứu Internet) của Nga. 92Prigozhin cũng chỉ huy một công ty quân đội tư nhân gọi là Wagner. (Tên là tên hiệu [call sign] của nhà sáng lập của nó, một Nazi Nga, người có ý muốn nó ám chỉ đến Hitler.) Trong cuộc Nga xâm lấn toàn diện Ukraine trong 2022, Wagner đã tuyển mộ hàng chục ngàn tù nhân Nga để chiến đấu và chết ở Ukraine.

Thật đáng lo ngại để nghĩ rằng các xúc cảm của chúng ta, và thậm chí các hành động của chúng ta, phát sinh từ công việc của những người như vậy. Nhưng chúng phát sinh, và điều đó làm cho chúng ta ít tự do hơn. Các xúc cảm của chúng ta có thể được tự động hóa bởi vì các microprocessor di động được kết nối của chúng ta không ngừng truyền dữ liệu về chúng ta. Là dễ để tính các sự dễ bị tổn thương của chúng ta—để tìm ra các trạng thái có khả năng xảy ra nhất của chúng ta. Khi sinh viên Ukrainia của tôi Zhenya bị bắt làm tù nhân, anh đã tìm được cách để xóa dữ liệu điện thoại di động của mình trong khi bị nhốt trong cốp của một xe ô tô, sao cho anh không đưa các bạn anh vào nguy hiểm. Tuy nhiên, trên một mức vĩ mô, chúng ta không thể bảo vệ dễ dàng những người khác hay bản thân chúng ta. 93Sự tích tụ dữ liệu về sự dùng media xã hội của chúng ta khiến chúng ta dễ bị tổn thương, như các nhóm, đối với tuyên truyền nhắm mục điêu.

Sự thu thập dữ liệu có thể trở thành cấu trúc của nền chính trị không-tự do. Trung Quốc có một hệ thống giam giữ nhỏ (ít nhất về mặt chính thức và tỷ lệ với dân số của nó) hơn Mỹ hay Nga; điều này có lẽ bởi vì toàn bộ nước này là một loại nhà tù. 94Các nhà chức trách Trung quốc đánh giá bạn một cách định lượng, với một đánh giá bằng số xác định không gian nào thân thể của bạn có thể ở đó. Thân thể của bạn, thay vì cho phép những kết nối không thể dự đoán được với những người khác, trở thành một phần của một hệ thống đo lường. 95Các phẩm chất của bạn bị biến thành các đại lượng và quay sang chống lại tự do của bạn. Thế giới vật lý đóng lại xung quanh bạn. Theo một cách nào đó, mọi công dân của Trung Quốc khi đó trở thành một celly.

Thời gian bị Mất

“Hãy sắp xếp thời gian, đừng để thời gian sắp xếp bạn” là một cụm từ tôi học được trong một nhà tù, nhưng nó có một ứng dụng rộng hơn. Khi chúng ta không suy nghĩ kỹ về chúng ta tương tác với media xã hội thế nào, thời gian là một trong những thứ đầu tiên chúng ta mất.

Chúng ta bỏ đi hàng giờ của ngày. Thời gian của chúng ta, mà không có máy, bị đập nát bởi thời gian chúng ta với nó. Cho dù chúng ta đang không dùng một điện thoại hay tablet, chúng ta quên mình đang làm gì khi chúng ta thấy một chiếc. Nếu ai đó khác nhìn vào một thiết bị, chúng ta nhìn vào thiết bị của riêng chúng ta. Chúng ta sống cứ như trong sự lơ lửng, chờ đợi một sự gián đoạn. Trong cuộc sống hàng ngày, cảm giác của chúng ta về thời gian tan biến thành một sự vội vã thường trực. Ngay cả những thời khắc quý giá ngay sau khi thức dậy và ngay trước khi ngủ bị hy sinh trong sự chiếu sáng bé tí. Một Leib cần ngủ nhằm để là tự chủ và không thể dự đoán được; 96khi chúng ta bỏ ngủ cho màn hình, chúng ta ít là bản thân mình hơn và ít tự do hơn. Ít thứ quan trọng hơn giấc ngủ cho sự trưởng thành, hạnh phúc, và ký ức của chúng ta. Giấc ngủ là nạn nhân thầm lặng của sự không-tự do của chúng ta.

Đối với con người, thời gian có thể tự chuyển thành các khoảnh khắc chủ quan mà chúng ta trải nghiệm và sau đó có thể nhớ. Chúng ta mất thời gian do không tập trung, do không ghi lại (mã hóa) các khoảnh khắc từ dòng chảy. Simone Weil nghĩ 97“lượng thiên tài sáng tạo của một thời đại” được đo bằng khoảng thời gian chú ý. Theo số đo của bà (và của chính chúng ta), chúng ta đang trở nên ngu ngốc hơn. Thế kỷ thứ hai mươi-mốt, hãy đối mặt nó, là rất ngu xuẩn. 98Phần lớn là sai với các test IQ, nhưng những người ca ngợi thế giới số có vẻ chấp thuận chúng. Họ thích nói về Hiệu ứng Flynn về IQ tăng lên. Điều này là kỳ quặc, vì thời đại internet trong thực tế là thời 99Hiệu ứng Flynn Ngược, về IQ giảm đi. Có thể chúng ta đã rơi qua sàn nhà rồi, quá ngu ngốc để thấy chúng ta trở nên ngu ngốc đến thế nào.

Thời gian cũng là thời gian của cuộc sống. 100Cảm giác của chúng ta về tính liên tục của tiểu sử riêng của chúng ta đến từ năng lực không thể dự đoán được của chúng ta để quay đi quay lại, để nhớ lại những gì được mã hóa, để liên kết ký ức với trải nghiệm. Tình huống nào đó trong hiện tại gợi lại một ký ức phong phú của quá khứ, có lẽ cái gì đó chúng ta không biết chúng ta đã nhớ—một hương vị dưa hấu, một cái nhìn lướt qua bầu trời, tiếng sỏi dưới lốp xe, lời của một bài hát, giọng nói của một người bạn. Những lối quay lại này là không thể dự đoán được, thế nhưng rất thực, chứng minh hiện tại và như thế tương lai. Tính vững chắc của các lối quay lại không ngờ đó bảo đảm tính điều hướng của con đường riêng của chúng ta lên phía trước. Những ký ức vô tình này là hình thức khác nữa của thời gian mà máy không có và có khuynh hướng từ chối chúng ta.

Trên media xã hội, sự chú ý của chúng ta bị chia thành các mẩu có kích thước thích hợp cho sự phân tích về chúng ta nhưng không phải bởi chúng ta. 101Tâm trí của chúng ta dập dờn đây đó, ghé vào không đâu cả. Sự chú ý không còn là về một trạng thái đặc biệt của tâm trí nữa mà về tròng mắt trên màn hình. Các thứ nhận được sự chú ý của chúng ta, nhưng chúng ta không còn để ý nữa. Và sau đó 102chúng ta không nhớ. Khi ký ức hỏng, tương lai của chúng ta không có quá khứ nào, và chúng ta không thực sự có mặt.

Thời gian được Lấy lại

Một ký ức vô tình có thể xúi giục chúng ta để xem, nghĩ, viết. Chiếc chuông kỷ niệm hai trăm năm của tôi đến từ đâu? Như một đồ vật ba-chiều, nó có quỹ đạo riêng của nó trong chiều thứ tư của thời gian: được đúc ở Cincinnati; treo trong một nhà trường học một phòng tại một giao điểm của các đường vùng quê; một trang trại; một trang trại khác. Nó đã đứng cạnh nhà trang trại trong 1976, và tôi đã túm được tay kéo và rung chuông. Việc đó đã xảy ra. Nhưng quá khứ của tôi đến với tôi thế nào? Tôi quay lại một khoảnh khắc ra sao? 103Chúng ta lấy lại thời gian thế nào? Chiếc chuông có nghĩa là cái gì đó cho tôi, đại diện cho những thứ khác, xuất hiện trong chiều thứ năm như thế nào? Một cách không thể dự đoán được.

Vào thời gian tôi rung chiếc chuông đó ở Ohio, và ban nhạc Plastic People of the Universe bị bắt ở Tiệp Khắc, một thiếu niên có tên là Michael Stipe tình cờ gặp một album của ban Velvet Underground trong đống đĩa giảm giá của một cửa hàng băng đĩa ở Nam Illinois. Ban nhạc anh khởi động trong 1980, R.E.M., đã là một trong nhiều ban mắc nợ Velvet Underground. Chúng đã hát lại bốn bài của Velvets, và Stipe muộn hơn hát lại bài thứ năm.

Em trai út của tôi phát hiện R.E.M. trong 1984. Chúng tôi đã có một bản của các album Murmur và Reckoning của họ trên băng cassette và đã hào hứng mua Fables of Reconstruction khi nó được phát hành trong 1985. Tôi bị mê hoặc bởi bài “Driver 8,” một bài hát về xe lửa, với ca từ “Trẻ con nhìn lên, tất cả cái chúng nghe là các chuông (màu xanh da trời) ngân nga.” Đúng hay sai, tôi luôn nghe “xanh da trời” không phải như màu của những chiếc chuông, mà như màu mà những đứa trẻ thấy khi chúng nhìn lên. Tôi được nhắc nhở về cái gì đó: bóng tối, một hồi chuông lớn, bầu trời xanh. Tôi không thể hoàn toàn nhớ nó.

Trong tháng Chín 1986, sau khi R.E.M. phát hành Lifes Rich Pageant, bố tôi lái xe đưa hai em tôi và tôi đến Cincinnati để xem buổi hòa nhạc của họ tại Nhà hát Taft. Bài “Driver 8” là bài thứ năm R.E.M. chơi. “Trẻ con nhìn lên, tất cả chúng nghe là các chuông (màu xanh da trời) ngân nga.” Nghe những ca từ đó với các em trai tôi, tôi chợt nhớ mình phù hợp với chúng mười năm trước, ngả về phía sau, nghe tiếng chuông, và nhìn bầu trời. Điều gì xảy ra nếu chúng tôi đã không xem show diễn đó? Nếu Michael Stipe đã chẳng bao giờ nhấc album Velvet Underground lên từ đống đĩa hạ giá thì sao? Nếu ông tôi đã chẳng bao giờ treo chiếc chuông đó thì sao? Thì cuốn sách này sẽ ở đâu?

Sự không thể dự đoán được của tiểu sử chảy vào sự không thể dự đoán được của lịch sử.

Trong tháng Chín 1989, không lâu sau khi một chính phủ không-cộng sản được thành lập ở Ba Lan, tôi nghe R.E.M. kết thúc buổi hòa nhạc với một bài hát lại Velvet Underground. Một tuần trước cuộc diễu hành lớn đầu tiên ở Prague, R.E.M. chơi lại bài “After Hours.” Các cuộc biểu tình Tiệp khắc mùa thu đó được gọi là Velvet Revolution (Cách mạng Nhung). Chúng kết thúc với Havel như tổng thống. Havel sẽ chẳng bao giờ đến được dinh tổng thống mà không có quyết định của ông để bảo vệ ban nhạc Plastics, và Plastics sẽ chẳng bao giờ là một ban nhạc mà không có ban Velvet.

R.E.M. cũng đã chẳng tồn tại mà không có ban Velvet, và như thế cũng chẳng có tôi, ít nhất cái tôi đã nghe nhạc, đã nhớ chiếc chuông, và viết các dòng này.

Như một sinh viên sau đại học ở nước Anh, tôi có đĩa CD Automatic for People của R.E.M. Một lần tôi đang nghe nó trong khi đọc một bài viết Havel đã viết trên cương vị tổng thống. Người dịch là Paul Wilson, ca sĩ chính của Plastics một thời. Nhưng thực sự ai dịch ai? Havel không trở thành tổng thống viết văn bản đó mà không có sự bắt chước Lou Reed của Wilson một phần tư thế kỷ trước đó.

Trong năm 2018 tôi được yêu cầu viết một dẫn nhập mới cho bản dịch của Paul Wilson của cuốn “Quyền lực của những kẻ Không-Quyền lực,” nơi tôi đã cố gắng trình bày một lý lẽ về sự không thể dự đoán được. Tôi đích thân gặp Paul ở Prague trong 2019; tại một hội nghị về Havel ở Maine trong 2022 tôi nói với ông về âm nhạc và sự tình cờ. Ngay trước đó, tôi đã ở Kyiv, hỏi Volodymyr Zelens’kyi ông định nghĩa tự do thế nào. Và ông nói, “Tất cả chúng ta đều có các giá trị riêng của mình. Hãy sống trong sự thật. Có lẽ bạn muốn chơi guitar. Hãy học chơi guitar. Hãy bắt đầu một ban nhạc.”

Khi các vòng tròn mềm mại của ký ức mở ra và đóng lại, chúng ta lấy lại thời gian. Sự hỗn loạn hòa trộn với các lựa chọn lại với nhau, mang lại một cái tôi tự chủ, không thể dự đoán được. Các máy lùa chúng ta vào các chuồng cứng hơn: chủng tộc, giới, thu nhập, nơi cư trú. Chúng xác định chúng ta bằng các trạng thái có khả năng xảy ra nhất của chúng ta, bằng những gì chúng ta làm online hay dưới sự giám sát, không phải bằng những gì chúng ta làm trên đỉnh núi hay dưới nước hay khi nhạc to hay trong những giấc mơ của chúng ta. Các thuật toán lẻn vào giữa mọi người và biến đổi sinh lực của Leib thành sự làm suy yếu cho Körper. Chúng ta không mã hóa những gì xảy ra, hay chúng ta không nhớ lại những gì chúng ta đã mã hóa. Sự xuay tít mỏng như tơ nhện của ký ức phẳng ra trên màn hình.

Những Rào cản Dã man

Khi tôi xem R.E.M. biểu diễn trong 1986, 1987, 1989, và 1995, tôi học trung học, đại học, và sau đại học. Chẳng ai kỳ vọng mấy về tôi. Bây giờ tôi thích biểu diễn trực tiếp bởi vì ai đó khác đang chiếm sân khấu. Tôi đồng cảm với các nghệ sĩ trả hết những gì họ nợ môn nghệ thuật của họ bằng thân thể họ, đưa những gì họ có bên trong cho một khán giả đang đợi bên ngoài.

Việc dạy là sự biểu diễn, và nó là công việc. Các màn hình làm cho việc làm của tôi khó hơn. Tôi đã dạy những đứa trẻ để đọc và cách ném bóng chày. Tôi đã dạy ngôn ngữ máy tính, những ngôn ngữ Slavic, tiếng Anh như một ngoại ngữ. Tôi đã dạy kịch cho lũ trẻ ở nhà trẻ và triết học cho các tù nhân. Tôi kiếm sống như một giáo sư lịch sử đằng sau bục giảng.

Nhưng ngày nay bục giảng đó ở đâu, trong hầu như mọi phòng học đại học Mỹ? Khi tôi đi khắp Hoa Kỳ cho các bài giảng được mời, tôi để ý đến cùng sự thay đổi ở mọi nơi. Bục giảng đã được chuyển từ trung tâm sang cực trái của sân khấu, sao cho giảng viên con người không cản cái nhìn của các sinh viên lên màn hình khổng lồ, có kích thước bức tường nơi các slide được trình chiếu. Người ta trả tiền cho tôi để nói, rồi mặc cả thời gian bài giảng của tôi, rồi yêu cầu tôi đưa các slide (mà tôi chẳng bao giờ có). Nỗi thôi thúc táo bạo để mời một người lạ đến giảng bài 104nhường đường cho nỗi sợ hãi tăng lên rằng cái gì đó có thể thực sự được nói.

Chúng ta bị máy thuần hóa, trở nên buồn tẻ với nhau. Lớp học đại học Mỹ đang chịu thua màn hình, cái hang, nguyên lý cái chết. Tất cả chúng ta giả bộ rằng cái gì đó đang xảy ra trong khi một giờ nữa trôi qua, làm việc đó trong bốn năm, nhận một mảnh giấy (bằng), và đi tiếp tới một thế giới giả dối hơn nữa. Đại học nên sống động, và ở mức tốt nhất nó vẫn thế; chắc chắn không có cái thay thế cho nó. Nhưng việc dạy là về Leib, không phải máy.

Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos, áp lực để có một bài trình bày trực quan là mạnh. Những bài trình bày hào nhoáng được gọi là “đáng nhớ,” nhưng chẳng ai thực sự nhớ nội dung của chúng. Tôi chẳng bao giờ dùng đồ trực quan (thị giác), và mọi người kể lại rằng, với sự ngạc nhiên của chính họ, họ thực sự nhớ những gì tôi nói từ năm này qua năm khác. Một lần tôi có sự thích thú hiếm hoi, tại Davos, về việc tham gia trong một sự kiện với hai sử gia khác, cả hai người đã chia sẻ thái độ của tôi và từ chối dùng các slide và màn hình. Kết cục đã là một khán giả chăm chú. Trong các phòng họp hội đồng cũng như các phòng học, elite và ít elite hơn, máy móc gây u mê. Khi đèn mờ dần và slide đầu tiên hiện lên, chúng ta thư giãn vào sự yên tĩnh bị biến thành thây ma nửa sống nửa chết (zombified), biết rằng chẳng gì sống động được mong đợi từ chúng ta.

Trong các bệnh viện, các bệnh nhân bị tách khỏi các y tá và các bác sĩ bởi những kẻ phục dịch (caddy) máy tính khổng lồ hay các thiết bị số cầm tay. Màn hình có quyền lực để tách mọi người ngay cả khi họ ở trong cùng một chỗ. Thời gian chúng ta dành mỗi ngày cho các màn hình dạy chúng ta để coi thường thân thể chúng ta, mà là sự chuẩn bị cho sự coi thường chúng bởi những người khác. Chúng ta không để ý khi máy móc chiếm không gian cần thiết của thân thể chúng ta, ngay cả khi cuộc sống của chúng ta phụ thuộc vào nó.

Duy lý hóa các Zombie (Thây ma)

Các nhà tư tưởng của chúng ta có thể giúp chúng ta chống lại tính có thể dự đoán được. Stein cho rằng sự thấu cảm thân thể dẫn chúng ta tới tính duy lý. Weil biện minh rằng tính hữu hình của chúng ta cho phép chúng ta hỏi những câu hỏi quan trọng. Kołakowski nói rằng sự tồn tại con người là về việc đẩy ra phía bên kia của rìa của một thế giới có thể dự đoán được vào một thế giới không thể dự đoán được. Havel cảnh cáo rằng chúng ta có thể bị cám dỗ vào việc suy nghĩ như các máy, hay thậm chí vào việc suy nghĩ rằng chúng ta là các máy. Tất cả họ đều khăng khăng về cái vì sao, về sự tìm kiếm “thế giới của các giá trị.”

Khi chúng ta tham gia vào thế giới số, chúng ta trở nên thoải mái với những câu hỏi như thế nào, những câu hỏi vô nhân đạo, và chúng ta thấy lúng túng với các câu hỏi vì sao, những câu hỏi nhân văn liên quan đến những đánh giá về cái tốt và cái xấu. Chúng ta diễn đạt các câu hỏi thế nào về mặt “tính hiệu quả,” “tối đa hóa,” và “tối ưu hóa.” Bản thân thành ngữ năng suất là vô nghĩa; nó có thể có nghĩa chỉ khi chúng ta biết chúng ta coi trọng những gì. 105Không quan niệm nào về tính duy lý phương tiện-mục đích (nếu bạn coi trọng a, bạn nên làm b) nhất quán mà không có một sự phán xét giá trị; không số lượng nào của cái thế nào có thể đưa bạn đến cái vì sao.

Các câu hỏi thế nào tạo ra các mệnh đề định lượng mà các chương trình máy tính có thể xử lý. Khi chúng ta dịch kinh nghiệm về cuộc sống thành ngôn ngữ máy, chúng ta có nguy cơ biến tâm trí của chúng ta trở thành cái gì đó giống các server phụ (máy chủ phụ) để làm cho các thứ dễ hơn cho các máy tính—mà không và không thể chăm sóc. Khi chúng ta lẫn lộn sự tiện lợi với cái quan trọng, nguyên lý cái chết sa xuống như một màn sương lạnh lẽo.

Một thách thức chính trị lớn trong thế kỷ này là để thoát ra khỏi di sản di động của đế chế, một chủ đề của chương tiếp. Tuy nhiên, thay vào đó chúng ta có vẻ đang xây dựng một loại đế chế mới. Frantz Fanon, nhà tâm lý trị liệu và nhà tư tưởng chống-thực dân, quan sát thấy rằng đế chế biến con người từ 107các sinh vật hỏi vì sao thành những con vật hỏi thế nào. Một kẻ thực dân mô tả những kẻ thực dân khác như có năng lực hành động (agency), và những người bị thực dân hóa như không có năng lực hành động, 109và vì thế như các công cụ. Khi chúng ta mất ý thức của mình về cái vì sao, chúng ta bị thực dân hóa bởi các máy của chúng ta—với sự bóp méo gây chóng mặt rằng 109những kẻ thực dân cơ khí của chúng ta—110không có năng lực hành động (agency). Chúng ta đang phục tùng một thực thể mà thậm chí không thể tận hưởng sự thống trị của nó.

Simone Weil tiên đoán rằng 111“chủ nghĩa tư bản sẽ được kế tiếp bởi sự áp bức được thực hiện nhân danh chức năng.” 112Trong “chủ nghĩa tư bản giám sát,” như Shoshana Zuboff gọi nó thật đúng, 113tính duy lý có nghĩa là sự giám sát liên tục, sao cho một nhóm người bé tẹo vô hình có thể kiếm lợi nhuận. Đế chế của họ không nhìn thấy được trong lãnh thổ giống các đế chế cũ, và họ (thường) giấu sự giàu có của họ ở các thiên đường thuế hơn là trong các lâu đài bằng cẩm thạch. Bản thân các nhà tài phiệt số (digital oligarch) thường không có ý tưởng nào về họ đang làm những gì, ngoài việc say mê sự cạnh tranh mơ hồ nào đó với nhau. Họ độc quyền tương lai của mọi người và lấp đầy nó bằng sự ngớ ngẩn bẩm sinh.

Khi chúng ta quên cái vì sao và có chỉ cái thế nào, sự tưởng tượng của chúng ta thấm vào cái rãnh của status quo (hiện trạng). Chúng ta hợp lý hóa, dùng trí thông minh còn sót lại của mình để giải thích rằng thế giới không thể khác với nó đang là, và rằng chúng ta không thể làm khác với cách chúng ta đã làm.

Trong việc làm vậy, chúng ta cộng tác trong sự không-tự do của chính chúng ta. Việc chịu trách nhiệm vì các quyết định quá khứ là cần thiết cho việc xây dựng tương lai tự do; 114nếu chúng ta hợp lý hóa quá khứ, chúng ta bị mắc bẫy trong một câu chuyện, một chuyện kể về những gì hẳn phải là các thứ mà những người khác sẽ dùng chống lại chúng ta. Nữ thần báo ứng số của chúng ta (và những người hầu của bà) huấn luyện chúng ta trở nên “duy lý,” theo đúng ý nghĩa đó của sự hợp lý hóa, để bào chữa cho chính quá trình đang làm nhục chúng ta. Chúng ta phải chấp nhận thế giới như các elite và các máy đã trao nó cho chúng ta, và chúng ta phải ca ngợi chỗ được phân của chúng ta. Sự tự-nô dịch hóa như vậy là một sự quay lại một thế giới phong kiến, trong đó một trật tự thần thánh được thay thế bằng một trật tự số, một loại linh mục bằng loại linh mục khác. Đây không phải là sự khai sáng mà là cảnh tối tăm.

Weil cảnh cáo rằng cái thế nào của cuộc sống có thể chèn ép cái vì sao ra ngoài, rằng 115“tính hữu dụng trở thành cái gì đó mà trí thông minh không còn có quyền để xác định hay phán xét nữa, mà chỉ để phục vụ.” Khi con người kêu gọi những con người khác để biến tâm trí của họ thành các mạch hợp lý hóa, lý do chính là chúng ta nên hoạt động, như các máy. Chúng ta nên hy sinh các năng lực khiến chúng ta khác với các máy tính và thay vào đó trở thành những sự bắt chước tồi của chúng. Thay vì tìm kiếm tự do bằng suy nghĩ hợp lý với các sự thực và các giá trị, chúng ta biến mất dần vào hiện trạng. Chúng ta không nên nghi ngờ các tham số của sự tồn tại của chúng ta mà đơn giản tận dụng tốt nhất những gì chúng ta được trao.

Tự do là khẳng định; nó cần thế giới gây sống động của các giá trị. Nếu chúng ta không có mục đích nào, chúng ta phục vụ mục đích của ai đó khác, hay chúng ta phục vụ một máy không có mục đích. Chúng ta được phân một nhiệm vụ vô nghĩa: để điều chỉnh, để thích nghi, để bình thường hóa, để tiếp thu nguyên lý cái chết trước khi chúng ta chết, để không 8coi bản thân chúng ta như Leib mà như Körper, để coi bản thân mình chẳng hơn một mô phỏng máy tính, để chết mà đã không sống, để tự-biến thành thây ma.

Một trí thông minh con người hỏi cái vì sao trước khi hỏi thế nào, mà hướng tới tự do hơn là tới tính hữu dụng, không hẳn là duy lý mà là hợp lý. Nó không lãng phí năng lực của nó duy lý hóa tình trạng hiện tại hay sự yếu kém của chính nó. Thay vào đó, nó lập luận, với sự giúp đỡ của các giá trị và những thứ khác, hướng tới những tương lai tốt đẹp hơn. Nó hoạt động trong ranh giới của sự không thể dự đoán được, xem xét các giá trị và các sự thực (dữ kiện). Nó tìm cách để hiểu thế giới như nó vốn là và để uốn nó theo hướng nó nên là.

Các vụ Não tặc

Là khó để là tự do một mình, tự chủ một mình, không thể dự đoán được một mình. Nếu tôi có bao giờ trở nên hợp lý, đó là nhờ những người xung quanh tôi, các nguồn lân cận của trí thông minh con người. Khi tôi ở với thầy giáo của tôi Leszek Kołakowski, hay thậm chí khi tôi đọc những sách của ông ngày nay, tôi có một cảm giác rằng tôi đang “tiếp xúc với ranh giới của sự không thể dự đoán được.” Những người tự do, ép đẩy ranh giới đó, đang mở rộng chiều thứ năm, vương quốc của các đức hạnh.

Để quăng sức nặng của chúng ta theo hướng đó, để trở nên tự do, chúng ta phải nhận ra các nguồn của tính có thể dự đoán được và sự dễ bị tổn thương của chúng ta với chúng.

Khi chúng ta hiểu những quy luật vật lý bên ngoài chúng ta, chúng ta có thể biến chúng theo các mục đích của chính chúng ta. Chúng ta không thể ước mong trọng lực biến mất hay cho rằng nó chỉ là một ý kiến giữa những ý kiến khác. Nếu chúng ta khai thác những gì chúng ta biết về nó, chúng ta có thể (để lấy một ví dụ đơn giản) dựng các đối trọng và nâng lên. Các thang máy dùng trọng lực chống lại bản thân nó, có thể nói như vậy. Mỗi bước chúng ta bước khi chúng ta đi (hay di chuyển trong một xe lăn hay trên nạng) là một sự thương thuyết với trọng lực; chúng ta tự do trong chừng mực chúng ta di chuyển mà không phải suy nghĩ. Các ràng buộc của vũ trụ cũng là những cơ hội theo một nghĩa rộng hơn: trọng lực, mà dường như giữ chặt chúng ta, cũng là một nguồn năng lượng và sự đa dạng cho phép sự sống và vẻ duyên dáng.

Chúng ta cũng phải hiểu những quy luật của thế giới tinh thần được xây dựng xung quanh chúng ta, mạng lưới của các microprocessor bên trong đó chúng ta dành rất nhiều thời gian của đời chúng ta. Chúng ta có thể sử dụng thế giới đó theo nhiều cách, kể cả một số cách cho phép chúng ta nhận ra các giá trị của mình. Nhưng, cho đến nay, không có sự tương đương nào trong thế giới số với sự đi dạo, không hình thức tham gia nào trong đó kiến thức của chúng ta về những gì chúng ta đang làm biến thành các thói quen lành mạnh. Các quy tắc của thế giới số có thể được và phải được thay đổi.

Cho đến lúc đó, nhịp đập của tính có thể dự đoán được của media xã hội sẽ kéo chúng ta vào. Các thuật toán định vị những phần dễ dự đoán nhất của chúng ta, nuôi dưỡng chúng cho đến khi chúng chặn tính cách của chúng ta. Chúng thực hiện cái mà nhà toán học Ada Lovelace (1815–52) từ lâu đã gọi là một 116“phép tính của hệ thần kinh.” Siêu năng lực đáng sợ của chúng là để tiên đoán (predictify), để thống trị mọi người bằng việc khiến họ có thể dự đoán được như các cá nhân và có thể phân loại được như các nhóm. Một trí óc kế tiếp nhau, nữ thần báo ứng này đẩy lùi ranh giới của sự không thể dự đoán được, co chiều thứ năm lại, làm cho chúng ta không tự do. Khi chúng ta xem bản thân mình như Körper, chúng ta có thể không thấy vấn đề; khi chúng ta xem bản thân mình như Leib, chúng ta thấy.

Chúng ta có thể sử dụng những gì chúng ta biết về tâm trí để làm cho bản thân chúng ta tự chủ và không thể dự đoán được. Nhưng chúng ta cũng có thể dùng kiến thức như vậy để tìm ra các vụ tấn công não (não tặc, brain hack) làm tàn tật nhiều con người vì lợi nhuận của ít người. Media xã hội lấy từ kiến thức như vậy. Facebook (và media xã hội khác) 117khai thác các vụ não tặc (brain hacks) nảy sinh hàng thập niên trước trong các phòng thí nghiệm đầy chuột và chim bồ câu.

Chú thích:

67một trong những chủ đề của Kołakowski: Leszek Kołakowski, Main Currents of Marxism, trans. P. S. Falla, 3 vols. (Oxford: Oxford University Press, 1978).

68một nhà tư tưởng xã hội Ba lan: Andrzej Waśkiewicz kể từ đó đã viết một loạt sách về tư tưởng xã hội và chính trị, kể cả Paradoksy idei reprezentacji politycznej (Warsaw: Scholar, 2012).

69laptop của tôi bị đánh cắp: tôi kể câu chuyện cho for History News Network trong 2005, https://historynewsnetwork.org/​article/​160270.

70các CEO nhanh chóng soạn một tuyên bố: Jeffrey Sonnenfeld, mà đã triệu tập cuộc họp này, nhớ lại những gì đã xảy ra khi đó và sau đó trong một email ngày 29 tháng Ba 2023.

71không có mục đích rõ ràng nào: Martin Burckhardt, Philosophie der Maschine (Berlin: Matthes & Seitz, 2018), 31. So với Giorgio Agamben, The Open: Man and Animal (Stanford, Calif.: Stanford University Press, 2004), chap. 8.

72chúng đang tách chúng ta: Luận bàn dài của tôi về máy tính, tâm trí, và thân thể là Und wie elektrische Schafe träumen wir: Humanität, Sexualität, Digitalität (Vienna: Passagen, 2020), mà nảy sinh từ tiểu luận “And We Dream as Electric Sheep: On Humanity, Sexuality and Digitality,” được công bố với các ghi chú trong Eurozine, May 6, 2019, và không có các ghi chú như “What Turing Told Us About Digital Threat to a Human Future,” New York Review of Books, May 6, 2019. Nó trau chuốt một số ý tưởng được nêu ở đây mà mở rộng chiều giới tính của lý lẽ trong chương 2.

73một họa sĩ vẽ phối cảnh Ba lan: Cuốn tiểu sử tôi viết về Henryk Józewski là Sketches from a Secret War: A Polish Artist’s Mission to Liberate Soviet Ukraine (New Haven: Yale University Press, 2006). Các đoạn trích từ hồi ký khá bí ẩn của ông xuất hiện trong Henryk Józewski, “Zamiast pamiętnika,” Zeszyty Historyczne, no. 59 (1982): 3–163.

74một loại cuộc đời không thể dự đoán được: Cuốn sách tôi viết về Wilhelm von Habsburg là The Red Prince: Secret Lives of a Habsburg Archduke (New York: Basic Books, 2008).

75rằng Nga sẽ xâm chiếm: Timothy Snyder, “Don’t Let Putin Grab Ukraine,” NYT, February 3, 2014.

76Luật trị (rule of law) và nhân phẩm con người: Về Maidan, xem Marci Shore, The Ukrainian Night: An Intimate History of Revolution, rev. ed. (New Haven: Yale University Press, 2024).

77các tổ chức xã hội dân sự: Snyder, Road to Unfreedom, chaps. 3 and 4.

78cho một hội nghị: Cho thông tin thêm về Ukraine: Thinking Together, xem https://www.iwm.at/​event/​ukraine-thinking-together.

79Các đồng nghiệp và tôi: cuộc gọi từ Leon Wieseltier và Frank Foer; một số nhà tổ chức là Tania Zhurzenko, Vasyl Cherepanyn, Oksana Forostyna, Katherine Younger, và Klaus Nellen.

80khiến hộp sọ của ông bị vỡ: Sally McGrane, “The Abuse of Ukraine’s Best-Known Poet,” New Yorker, March 8, 2014.

81Bohdan đã bị một kẻ bắn tỉa giết: Alison Smale, “Lviv, in Western Ukraine, Mourns One of Its Own Killed in Kiev,” NYT, February 23, 2014; Ukrainian Catholic University Foundation, “UCU Scholarship in Memory of Hero Bohdan Solchanyk Endowed,” UKUFoundation.org, December 10, 2020.

82đang nói từ kinh nghiệm: Kinh nghiệm thời chiến mà Yevhenii Monastyrskyi đã viết về theo thuật ngữ triết học là kinh nghiệm của một người tị nạn trong nước: “Chúng tôi, những Người Tản cư trong Nước,” apofenie, November 29, 2023. Tiêu đề ám chỉ đến “Chúng tôi những Người tị nạn” năm 1943 của Arendt.

 83không gian trái tự nhiên nhồi nhét quá nhiều người”: James Davis III, “Law, Prison, and Double-Double Consciousness: A Phenomenological View of the Black Prisoner’s Experience,” Yale Law Journal 128 (2018–19).

84than phiền sự giam hãm đơn độc: Austin Reed, The Life and Adventures of a Haunted Convict, ed. Caleb Smith (New York: Modern Library, 2017). Công trình này được soạn khoảng năm 1858.

85nhu cầu của chúng ta cho sự gặp gỡ: Lisa Guenther, Solitary Confinement: Social Death and Its Afterlives (Duluth: University of Minnesota Press, 2013), 213. Đây là một tóm tắt rất cơ bản của một trong hàng loạt lý lẽ bà đưa ra trong cuộc đối đầu với Levinas, Merleau-Ponty, và Heidegger.

86mọi đam mê dopamine: Các cựu nhân viên Facebook bảo chúng ta rằng đấy là mục tiêu. Amy B. Wang, “Former Facebook VP Says Social Media Is Destroying Society with ‘Dopamine-Driven Feedback Loops,’ ” Washington Post, December 12, 2017; Jaron Lanier, Ten Arguments for Deleting Your Social Media Accounts Right Away (London: Bodley Head, 2018), 8.

87đã làm thay đổi thế giới: Ví dụ, chúng ta đang sống trong một thế giới, mà trong đó một cố gái đã tự tử bởi vì một cậu con trai không tồn tại đã chia tay với cô ấy (https://www.meganmeierfoundation.org/).

88các định kiến được khuếch đại: Virginia Eubanks, Automating Inequality: How High-Tech Tools Profile, Police, and Punish the Poor (New York: Macmillan, 2018), 172. Về ví dụ này, xem Snyder, Road to Unfreedom, chaps. 4 and 5.

89chính xác cùng các định chế Nga đó: Tôi kể câu chuyện của nền chuyên chế mới của những năm 2010 trong Road to Unfreedom. Các bạn đọc quan tâm đến các nguồn sơ cấp hãy nên tham khảo cuốn sách đó. Cho một tóm tắt triết học nhanh, xem Michiko Kakutani, The Death of Truth (New York: Tim Duggan Books, 2018), các chương 7–8.

90bà thích các tội phạm da Đen: Xem chẳng hạn, Ryan Grenoble, “Here Are Some of the Ads Russia Paid to Promote on Facebook,” HuffPost, November 1, 2017; Cecilia Kang, “Russia-Financed Ad Linked Clinton and Satan,” NYT, November 2, 2017; Ben Collins et al., “Russia Recruited YouTubers,” Daily Beast, October 8, 2017; April Glaser, “Russian Trolls Are Still Co-Opting Black Organizers’ Events,” Technology, November 7, 2017. Xem cả Sara Wachtel-Boettcher, Technically Wrong (New York: Norton, 2017).

91Internet Research Agency: Xem các nguồn về Trump và 2016 được trích dẫn trong dẫn nhập; Snyder, Road to Unfreedom, chap. 6; và Craig Silverman and Jeff Gao, “Infamous Russian Troll Farm Appears to Be Source of Anti-Ukraine Propaganda,” ProPublica, March 11, 2022.

92Prigozhin cũng chỉ huy: Nathaniel Reynolds, Putin’s Not-so-Secret Mercenaries: Patronage, Patronage, Geopolitics, and the Wagner Group (New York: Carnegie Endowment for International Peace, 2019).

93Sự tích tụ dữ liệu: Về dự liệu nhạy cảm nhất được định lượng thế nào, xem Mathilde Loire, “Que deviennent les données des applications pour le suivi des règles?,” Le Monde, August 24, 2017; Sam Schechner and Mark Secada, “You Give Apps Sensitive Personal Information. Then They Tell Facebook,” Wall Street Journal, February 22, 2019.

94Các nhà chức trách Trung quốc đánh giá bạn: Lotus Roan, “When Winner Takes It All,” Issues Paper, Australian Strategic Policy Institute, 2018; Randolph Kluver, “The Architecture of Control: A Chinese Strategy for e-Governance,” Journal of Public Policy 25, no. 1 (2005): 75–97.

95Các phẩm chất của bạn bị biến thành các đại lượng: Zbigniew Herbert đã có một bài thơ về (và có tiêu đề) “The Interrogation of Angel (Cuộc Thẩm vấn của Thiên thần).” Herbert, Wiersze zebrane, ed. R. Krynicki (Cracow: Wydawnictwo a5, 2008), 331–32.

96khi chúng ta bỏ ngủ cho màn hình: Xem Michael Finkel, “While We Sleep, Our Mind Goes on an Amazing Journey,” National Geographic, August 2018.

97“lượng thiên tài sáng tạo”: Weil, La pesanteur et la grâce, 192.

98Phần lớn là sai với các test IQ: James Robert Flynn, What Is Intelligence? (New York: Cambridge University Press, 2009).

99Hiệu ứng Flynn Ngược: Bản thân James Flynn đổ lỗi cho sự gai tăng của internet và sự giảm sút của sự đọc truyền thống. Xem cả Bernt Bratsberg and Ole Rogeberg, “Flynn Effect and Its Reversal Are Both Environmentally Caused,” Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America 115, no. 26 (2018): 6674–78.

100 Cảm giác của chúng ta về tính liên tục: Marcel Proust, Du côté de chez Swann (Paris: Grasset, 1913). Xem cả Józef Czapski, Lost Time: Lectures on Proust in a Soviet Prison Camp, trans. Eric Karpeles (New York: New York Review Books, 2018). Cuốn sách này được xuất bản ban đầu bằng tiếng Pháp trong năm 1948.

101Tâm trí của chúng ta dập dờn dây đó: Sheri Madigan et al., “Association Between Screen Time and Children’s Performance on a Developmental Screening Test,” JAMA Pediatrics 173, no. 3 (2019): 244–50; Seungyeon Lee et al., “The Effects of Cell Phone Use and Emotion-Regulation Style on College Students’ Learning,” Applied Cognitive Psychology 31, no. 3 (June 2017): 360–66.

102chúng ta không nhớ: Adrian F. Khu et al., “Brain Drain: The Mere Presence of One’s Own Smartphone Reduces Available Cognitive Capacity,” Journal of the Association of Consumer Research 2, no. 2 (2017).

103Chúng ta lấy lại thời gian thế nào?: Khi tôi đang phục hồi từ bệnh nghiêm trọng trong bệnh viện và không có khả năng để ngủ, tôi nghe nhạc mà đã giúp tôi nhớ lại cuộc sống của tôi.

104nhường đường cho sự sợ hãi tăng lên: Khi tôi viết các ghi chú này, bài giảng của một đồng nghiệp bị thay đổi thành một cuộc trò chuyện được một moderator điều khiển (moderated conversation) trong khi ông đang trên đường đến vị trí.

105Không quan niệm nào về tính duy lý phương tiện-mục đích: Khi tôi nói về tính duy lý (rationality) trong cuốn sách này, tôi nghĩ hoặc đến tính duy lý phương tiện mục đích (means-ends rationality) hay đến từ rationality như nó được dùng trong tuyên truyền libertarian và tuyên truyền khác, theo nghĩa hợp lý hóa (rationalization). Cho một danh sách của các định nghĩa của rationality, xem Susanna Siegel, The Rationality of Perception (Oxford: Oxford University Press, 2017), 15–16.

106giống các server phụ: Trong tiểu thuyết Chúng tôi (1921) của Yevgeny Zamiatyn (1884-1937), để là “hoàn hảo” là để là “ngang bằng-máy.” Chúng tôi đã là một nguồn cảm hứng cả cho Brave New World và cho tiểu thuyết 1984.

107các sinh vật hỏi vì sao thành những con vật hỏi thế nào: Frantz Fanon, Black Skin, White Masks, trans. Richard Phillcox (New York: Grove Press, 2008), đặc biệt các chương 1 và 5; được xuất bản ban đầu bằng tiếng Pháp trong 1952.

108và vì thế như các công cụ: Như công trình của chị họ của tôi Emma Jane Mitchell nhắc nhở tôi, đấy là liên kết giữa diễn ngôn thực dân và diễn ngôn khuyết tật.

109những kẻ thực dân cơ khí của chúng ta: So sánh Massimo Cacciari, Europe and Empire: On the Political Forms of Globalization, trans. Massimo Verdicchio (New York: Fordham University Press, 2016), 114.

110không có năng lực hành động (agency): So sánh Lanier, Ten Arguments, 33: “sự sửa đổi hành vi tàn nhẫn, robotic, rốt cuộc vô nghĩa để phục vụ những kẻ thao túng vô hình và các thuật toán tệ bạc.”

 111chủ nghĩa tư bản sẽ được kế tiếp bởi sự áp bức được thực hiện nhân danh chức năng”: Simone Weil, Réflexions sur les causes de la liberté et de l’oppression sociale (Paris: Gallimard, 1955). Henry David Thoreau lo rằng chúng ta đã trở thành các công cụ của các công cụ của chúng ta. Về sự tập trung và sự chú ý trong thời của ông, xem Caleb Smith, Thoreau’s Axe (New Haven: Yale University Press, 2023).

112Trong “chủ nghĩa tư bản giám sát”: Shoshana Zuboff, The Age of Surveillance Capitalism: The Fight for a Human Future at the New Frontier of Power (New York: PublicAffairs, 2020).

113tính duy lý có nghĩa là sự giám sát liên tục: Về một dòng tư duy twong tự, tham khảo Joseph Raz, The Morality of Freedom (Oxford: Oxford University Press, 1986), 357.

114nếu chúng ta hợp lý hóa quá khứ: trong tiểu thuyết Stiller của ông, Max Frisch trình bày một nước Thụy Sĩ nơi mọi người tin rằng tự do là cái gì đó họ có, hơn là một vấn đề phải được đối mặt. Điều này dẫn họ đến để hợp lý hóa hiện tại hơn là nghĩ về tương lai.

 115tính hữu dụng trở thành cái gì đó”: Simone Weil, On Science, Necessity, and the Love of God, trans. and ed. Richard Rees (Oxford: Oxford University Press, 1968), ix.

 116“phép tính của hệ thần kinh”: Được trích trong Burckhardt, Philosophie der Maschine, 241.

117khai thác các não tặc (brain hacks): Xem Roger McNamee, Zucked (New York: Penguin, 2019), 9 và đây đó.