Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 13 tháng 3, 2025

Về tự do (kỳ 2)

Tác giả: Timothy Snyder

Việt dịch: Nguyễn Quang A

Nhà xuất bản Dân Khí, 2025

Dẫn nhập

Tự do

Lễ kỷ niệm

Mùa hè 1976, một buổi chiều đầy nắng trên một trang trại Ohio. Những đám mây bay ngang bầu trời; sỏi ép dưới chân. Một cậu bé sáu tuổi, sắp lên bảy, đứng trong hàng cạnh một ngôi nhà trang trại để rung một chiếc chuông: tôi một thời, đầy tương lai.

Một làn đường lát sỏi uốn lượn lên từ đường quốc lộ miền quê. Uốn cong như những chỏm đồi, giữa một cây phong trải ngang vài hàng đầu tiên của một cánh đồng ngô và một cây ngô đồng già phủ bóng xuống ngôi nhà trang trại. Trên cây phong treo một chiếc đu, đang đu đưa chầm chậm do tôi nhảy xuống đất. Qua ngôi nhà, làn đường sỏi tiếp tục đến hai kho tròn chứa ngô và một vựa cũ bằng gỗ, rồi biến dần thành một đường đi xuống một chiếc ao. Trên cả hai bên của làn đường là những cánh đồng của những vật hóa thạch và các mũi tên, như tôi nghĩ về chúng, bây giờ được phủ trong những thân cây ngô đang lên.

Tôi ở trên trang trại với gia đình mẹ tôi, để mừng những ngày sinh nhật mùa hè và kỷ niệm hai trăm năm nền độc lập Mỹ. Mỗi anh chị em họ, xếp hàng từ đứa lớn tuổi nhất đến trẻ nhất, đợi đến lượt đánh chuông. Tiếng chuông kép phân biệt của nó vọng lại suốt tuổi thơ của tôi: một tiếng ngân cao dễ chịu, tiếp theo bởi một tiếng rung vụng về thấp hơn, khi quả lắc chuông chạm vào miệng chuông lần thứ hai ngoài ý muốn. Chiếc chuông có một khuyết tật.

Đến lượt tôi. Chiếc chuông nặng như tôi, nhưng được gắn chắc, và tôi biết di chuyển nó thế nào. Hai tay bám chặt quanh sợi dây, mắt nhắm lại, tôi ngả về phía sau để biến thân tôi thành một đòn bẩy. Trọng lực làm công việc của tôi. Tiếng chuông vang lên, không thể nhầm lẫn và không hoàn hảo. Tôi mở mắt ra, vẫn nghiêng về phía sau, và thấy chỉ trời xanh. Tôi đang nghĩ về tự do.

Sau khi mọi đứa trẻ đã rung chuông, tất cả chúng tôi đều chạy vội qua một hành lang được quét vôi trắng, nơi một chiếc ngà voi mastodon treo trên tường phía xa. Tôi dừng ở đó một khoảnh khắc để tìm giày đế mềm của tôi, rồi đi vào nhà bếp, đứa cuối cùng gia nhập một vòng tròn được hình thành cho sự cầu nguyện (trước bữa ăn). Tôi thoáng thấy thùng thư gửi đi, được gắn trên bức tường đằng sau tôi. Chiếc tem Chuông Tự do trích dẫn lời dạy kinh thánh được khắc trên bản thân chuông: trong một năm kỷ niệm, “Tuyên bố tự do trên khắp đất nước.”

Chuông Tự do bị nứt. Vết nứt ở ngay trên con tem. Chiếc chuông đó được đúc trong năm 1752 cho Quốc hội bang Pennsylvania ở Philadelphia cho một lễ kỷ niệm khác, nửa thế kỷ của Hiến chương về các Đặc quyền của thuộc địa. Vết nứt mà chúng ta thấy bây giờ khi nó đánh vào 1ngày sinh nhật của George Washington trong năm 1846.

Những từ tiếp của sử thi kinh thánh gợi ý một cách để diễn giải vết nứt: “ai nấy đều được nhận lại cơ nghiệp mình, và ai nấy đều trở về gia quyến mình (ye shall return every man unto his possession, and ye shall return every man unto his family)” (Leviticus 25:10). Trong thế kỷ thứ mười chín, những người theo chủ nghĩa bãi nô đọc các từ đó như một lời kêu gọi để chấm dứt chế độ nô lệ Mỹ. Họ coi chiếc chuông tại quốc hội Philadelphia như biểu tượng của họ và cho nó cái tên chúng ta biết ngày nay. Muộn hơn Chuông Tự do được phong trào quyền bầu cử cho phụ nữ sử dụng.

Trong năm 1976 chiếc tem đã mã hóa một huyền thoại yêu nước: rằng Chuông Tự do đã ngân vang khi Tuyên ngôn Độc lập được tuyên bố ở Philadelphia trong tháng Bảy 1776. Chuông đã không ngân vang lúc đó, nó cũng chẳng mang cái tên đó. Chuông Tự do được đặt tên liên quan đến những người không giành được tự do. Nó được dùng để đòi một tương lai tốt đẹp hơn, không phải để tưởng niệm một quá khứ lý tưởng.

Lễ kỷ niệm 200 năm đã là một ý tưởng gian xảo cho một đứa trẻ. Nó gợi lại cho tôi một thế giới nơi tự do đã được thiết lập hai thế kỷ trước bởi vì cái gì đó, một Đế chế Anh, đã bị loại bỏ. Chúng tôi, những người Mỹ, khi đó được cho là đã được giải phóng vĩnh viễn. Như một biểu tượng kỷ niệm 200 năm, Chuông Tự do bị tước mất sự ám chỉ đến phụ nữ và những người da Đen, gợi ý một thành tựu hoàn hảo của tự do đã hoàn thành từ lâu.

Thoạt tiên có vẻ logic rằng tự do là một sự vắng mặt và có vẻ hợp lý rằng chính phủ nên để mỗi chúng ta một mình như nhau. Trực giác này rút ra vẻ hợp lý của nó từ một lịch sử bóc lột. Về mặt truyền thống, một số người đã coi bản thân mình là tự do bởi vì họ bóc lột lao động của các nô lệ và phụ nữ. Những người, mà tin mình là tự do bởi vì họ thống trị những người khác, định nghĩa tự do một cách phủ định, như sự vắng mặt của chính phủ, bởi vì chỉ một chính phủ có thể giải phóng các nô lệ hay trao quyền (bỏ phiếu) cho phụ nữ. Sự đánh đồng một Chuông Tự do với Cách mạng Mỹ né tránh vấn đề về tự do là gì, và chuông đó nguyện hồn cho ai.

Với tư cách một cậu bé sáu sắp lên bảy tuổi, tôi đã nghe cụm từ đường sắt ngầm và đã tự hỏi sẽ như thế nào để ẩn náu trong tầng hầm nhà nông trại. Nhưng tôi đã không nảy ra ý nghĩ để hỏi liệu sự độc lập Mỹ có nghĩa là tự do cho mọi người hay không. Những đứa trẻ da Đen thuộc tuổi tôi đã chẳng cần phải hỏi, vì câu trả lời đã ở ngoài đó, trong bản thân cuộc sống.

Các chuyến bay

Chuông rung. Thời gian tự do. Thời gian ăn tối. Vì ngày sinh nhật của tôi là gần nhất, tôi nhảy lên đầu hàng. Buffet bắt đầu gần cửa dẫn từ hành lang, rồi đi theo quầy quanh chu vi của nhà bếp: ngô ngọt (vẫn đang sôi trong nồi) đầu tiên, rồi thịt và rau và khoai tây nghiền, rồi thịt hầm và bánh mì, và đồ tráng miệng và cà phê. Cho những ai muốn, có một quả dưa hấu ngoài hành lang, để được cắt thành lát sau và ăn ở bên ngoài.

Một bàn được đặt trong nhà bếp, những bàn khác được bày ra khắp tầng trệt, vài cái dưới các ảnh chân dung tổ tiên. Giữa những ảnh chân dung là một chứng thư tài sản và một giấy chứng nhận được đóng khung từ bang Ohio xác nhận một thế kỷ của quyền sở hữu liên tục. Gia đình mẹ tôi đã sống ở đây suốt cuộc Chiến tranh 1812, cuộc Nội Chiến, cuộc Chiến tranh Thế giới I, và Đại Suy Thoái. Mẹ tôi sinh ra ở đây trong giữa Chiến tranh Thế giới II. Bố tôi sinh ra ở bên kia của hạt, trong một nhà trang trại khác.

Mẹ tôi sinh tôi trong một bệnh viện được đặt tên theo một nhà sáng chế Ohio, trong giữa Chiến tranh Việt Nam, vài tuần sau sự đổ bộ xuống mặt trăng năm 1969. Các dự án của Anh em nhà Wright cho chuyến bay nặng-hơn-không-khí được thực hiện vài dặm về phía bắc trong cửa hàng xe đạp Dayton của họ.

Dayton đã là một trung tâm đổi mới và công nghiệp Mỹ vĩ đại. Nó đã là địa điểm của chuyến bay vận tài thương mại đầu tiên và chuyến bay lên thẳng đầu tiên. Nó đã là một trung tâm đường sắt trong 1900, với hàng tá sự dừng lại tại Ga Union của nó mỗi ngày. Charles Kettering, người cho tên của bệnh viện, đã sáng chế ra bộ khởi động điện cho ô tô. 2Ông bắt đầu làm việc tại National Cash Register (NCR ngày nay), đã sáng lập ra công ty DELCO (Dayton Engineering Laboratories Company), và đứng đầu bộ phận nghiên cứu tại General Motors.

Cùng với Căn cứ Không Quân Wright-Patterson, ba công ty này đã là những người sử dụng lao động lớn ở địa phương trong các năm 1970, khi tôi là một cậu bé ở tây nam Ohio. Các công nhân đã tham gia công đoàn. Các nông dân đã gọi National Cash Register là “Cash” và Căn cứ Không quân Wright-Patterson là “Cánh Đồng” (còn trẻ con thành phố gọi là “NCR” và “Wright-Pat”).

Neil Armstrong, người đầu tiên đi bộ trên mặt trăng, là từ thành phố Wapakoneta, Ohio, phía bắc Dayton. Như những đứa trẻ chúng tôi thăm bảo tàng của ông và gặp ông trực tiếp. Bà ngoại tôi có một bức ảnh về nhà du hành vũ trụ được ông ký. Em trai bà là một phi công và kỹ sư làm việc trên tàu con thoi; sự phóng tàu con thoi Columbia là thời khắc ngây ngất trong tuổi thơ của tôi. Tôi xem nó trên TV và rồi đi ra bên ngoài ngó lên trời. Chuyến bay nặng-hơn-không-khí trong 1903, một cuộc hạ cánh xuống mặt trăng trong 1969, một tàu con thoi trong 1981: quỹ đạo này hứa hẹn một tương lai của sự di động phiêu lưu.

Bố mẹ tôi lớn lên trong Hạt Clinton, Ohio, trước khi đến Đại học Bang Ohio. Tôi đã sống phần lớn đời thơ ấu của mình trên các trang trại đó. Vào mùa hè, ông nội tôi đưa tôi và các em tôi đi làm việc và đưa chúng tôi đến phiên chợ huyện. Ông giữ những gậy và găng tay bóng chày của ông ở cửa hiên, cứ như một trận đấu có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Tôi mang găng của riêng mình và tìm được cách để luyện bóng chày ở sân sau. Đội Cincinnati Reds có thể đang chơi trên TV bên trong còn tôi đang chơi một trò chơi tưởng tượng ở bên ngoài. Bà nội tôi dạy tôi đừng nấu ngô ngọt quá lâu, chia sẻ các tiểu thuyết của bà, và phê phán ân cần về người ta nói thế nào. Bà đã dạy bố tôi trong một ngôi trường một phòng.

Ở bên kia của hạt, trong nhà của ông bà ngoại tôi, nhà với chiếc chuông, tôi thích trú ẩn trên lầu. Giữa bộ sưu tập hóa thạch của bà ngoại tôi, tôi đắm mình trong những cuốn sách của bà về quá khứ, hiện tại, và các tương lai thay thế: cổ sinh học, động vật học, tiểu thuyết A Wrinkle in Time (Nếp gấp Thời gian).

Vào ngày Năm Mới 1982, căn áp mái đó lạnh và bị gió hút khi tôi đọc về sự áp đặt quân luật ở Ba Lan cộng sản. Trong các tờ báo, những người Mỹ lo về sự bất ổn định và chiến tranh hạt nhân, nhưng tôi có cảm giác về cái gì đó sống động và lý thú. Trong những bức ảnh trên tạp chí, màu xám của các xe bọc thép chở binh lính và tuyết bẩn tương phản với một chút mực đỏ cho các biểu ngữ của công đoàn lao động bị đàn áp, công đoàn Đoàn kết.

Các holocaust

Trong thời thơ ấu của tôi, 3Liên Xô luôn có vẻ gần, vài phút bay của tên lửa xuyên lục địa. Tạp chí Reader’s Digest đăng các bài về kho vũ khí hạt nhân Soviet và Mỹ. Sự ám ảnh với khả năng hủy diệt của các siêu cường là một cách để bỏ qua 4những người bị đau khổ trực tiếp trong Chiến tranh Lạnh, như những người Mỹ Latin bị chúng tôi tiếp tục xâm lấn và những người Đông Âu bị những người Soviet tiếp tục xâm lấn.

Trong các năm 1980, khi sự di động xã hội ở Hoa Kỳ chậm lại, cuộc thảo luận về sự đối đầu hạt nhân tăng lên. Trong 1984 tôi trả lời một cuộc điện thoại—tất nhiên, điện thoại cố định—và tham gia một cuộc khảo sát. Nhà thăm dò ý kiến hỏi tôi hai câu hỏi: “Có an toàn không để làm việc trong các cửa hàng tiện ích?” và “Bạn có sợ chiến tranh hạt nhân không?” Tôi thấy không gì lạ về việc đó.

Các tên lửa hạt nhân Mỹ được gọi là “Minutemen,” theo tên của các dân quân của Chiến tranh Cách mạng. Trong các năm 1970 và các năm 1980, bóng ma của một sự trao đổi hạt nhân giữa Hoa Kỳ và Liên Xô đã là một yếu tố của đời sống thường ngày. Đằng sau nhà chúng tôi (về hướng tây) một đồng cỏ trải dài đến tận các đường ray đường sắt cách một phần tư dặm, nơi các tàu vận tải chạy qua lúc hoàng hôn khi tôi còn là một đứa trẻ nhỏ. Một dòng suối chảy qua đồng cỏ, tưới nước cho một bãi nhỏ cây trồng làm củi nơi chúng tôi đã thử bắt cá. Về phía nam ngôi nhà của chúng tôi, bên kia đường, một cánh đồng ngô cuộn lên đồi đến một trường dòng. Một còi báo động trên đỉnh tháp chuông của nó thực tập các báo động gió lốc, nhưng trẻ con địa phương liên tưởng nó với những cuộc không kích. Nhìn lên từ dòng suối nơi chúng tôi thử bắt tôm trong cốc xốp, chúng tôi nghĩ về những đám mây hình nấm và biết rằng đã trưa.

Thật là một cú sốc khi bà ngoại tôi, Lucile, bảo tôi rằng 5sự nguy hiểm không đến từ xa. Cho ngày kỷ niệm thứ bốn mươi của D-Day [ngày 6-6-1944 khi quân đồng minh đổ bộ lên bãi biển Normandy, Pháp để đánh phát xít] trong 1984, một thầy giáo cử tôi để phỏng vấn bà về Chiến tranh Thế giới II. Ngồi đối diện tôi tại bàn bếp, Lucile gợi ý rằng việc điều tra bà con thân thuộc không phải là cách để hiểu chiến tranh. Bản thân bà là một giáo viên, bà đã xem bài tập trường học của tôi như một cơ hội để chắc chắn rằng tôi đã học. Bà luôn cười và cho kẹo cao su; vào tuổi mười bốn, tôi hầu như không biết bà trông giống gì với một vẻ mặt nghiêm túc. Ngày đó tôi đã tìm ra. Mắt bà mở to, và cơ má bà căng thẳng, khi bà khuyên can tôi về những suy nghĩ của tôi nên ở đâu. Nếu tôi muốn viết về chiến tranh, tôi nên nhớ “tất cả những người Do thái đó.” Bà thở dài và rồi lại mỉm cười.

Holocaust (cuộc tàn sát hàng loạt) những người Do thái đã xảy ra 6trước đây không lâu lắm. Tôi đã đọc nhật ký của Anne Frank, tình cờ tìm thấy trên giá sách trường học khi học lớp năm. Tuy nhiên vào thời gian tôi phỏng vấn bà tôi, sự tàn sát hàng loạt những người Do thái đã là 7một phần nhỏ hơn của ký ức về chiến tranh sau này. Từ Holocaust theo nghĩa này được sử dụng rộng rãi ở Mỹ sau loạt phim truyền hình 1978, nhưng trong các năm 1980 thuật ngữ đã vẫn mơ hồ. Phim truyền hình 1983 về holocaust hạt nhân The Day After (Ngày hôm Sau) được hơn một trăm triệu người Mỹ xem. Một buổi chiều tháng Mười Hai năm 1985, ngồi trên ghế dài màu da cam trong thư viện công địa phương, tôi nghe một số đứa trẻ lớn hơn trình bày chi tiết kế hoạch của chúng cho chiến tranh hạt nhân: lấy một thùng sáu-lon (bia), chạy (xe) đến [căn cứ quân sự] Wright-Pat, và chết trong nháy mắt hơn là chết do phóng xạ.

Có lẽ holocaust hạt nhân, giả thuyết đó đã kéo sự chú ý của chúng ta khỏi những gì Holocaust Do thái đã có thể dạy chúng ta. Một thảm họa có thể dính líu đến các tên lửa tầm xa đã làm lu mờ sự biểu hiện gần đây về 8một hệ thống dân chủ một phần như của chúng ta có thể dễ dàng sụp đổ đến thế nào, về 9những lời nói dối lớn (big lie) có thể tạo ra nhanh đến thế nào các thực tế thay thế (alternative reality) ngang bướng ra sao, và về những người nhẫn tâm có thể giết nhau thế nào. Trong Chiến tranh Lạnh, bộ máy tuyên truyền Mỹ và Soviet đã không ngừng liên kết phía kia với bọn Nazi; hàng thập niên buộc tội lẫn nhau có lẽ đã làm mọi người chai cứng với rủi ro thật sự rằng chủ nghĩa phát xít có thể phát sinh ở quê nhà.

Tôi đã có ý tưởng, như một đứa trẻ tuổi teen, rằng sự sợ hãi làm cho đất nước ít tự do hơn. Khi tôi vào đại học trong 1987, tôi có kế hoạch để trở thành một nhà đàm phán vũ khí hạt nhân. Mặc dù chẳng có gì ti tiện trong mục tiêu nghề nghiệp này, tôi đã quay lưng lại với thực tế Mỹ. Tôi đã bỏ qua các nguồn của sự sợ hãi ngay trước mặt tôi.

Những chiếc chuông

Trong cuối các năm 1980, với tư cách một sinh viên đại học, tôi bị quyến rũ bởi những người đã tìm thấy một nền chính trị vượt ngoài sự sợ hãi: các nhà bất đồng chính kiến Đông Âu. Andrei Sakharov, một trong các nhà sáng lập chương trình hạt nhân Soviet, đã thúc giục những người Tây phương để nghĩ ít hơn về sự đe dọa hạt nhân và nhiều hơn về nhân phẩm con người. Tôi nhớ đã ngước mắt lên khỏi đoạn văn của ông và ngó lên bầu trời khi tôi hiểu rõ. Chúng ta nên loại bỏ các nguyên nhân của sự sợ hãi nếu chúng ta có thể; chúng ta cũng nên chịu trách nhiệm vì các nỗi sợ của mình. Tự do không thể chỉ là một sự vắng mặt; nó phải phát sinh từ chúng ta và lớn lên vào thế giới.

Trong mùa thu 1989, trong năm thứ ba của tôi ở đại học, nghề nghiệp dự định của tôi trong giải trừ vũ khí hạt nhân bị lấy đi khỏi tôi. Chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu đã kết thúc, và các cuộc thương lượng kiểm soát vũ khí với Liên Xô đã tiến nhanh tới những hiệp định. Thật hồi hộp để đọc những tường thuật của các phóng viên Mỹ từ Đông Âu. Nhờ một việc làm sinh viên tại Trung tâm Phát triển Chính sách Đối ngoại tại Đại học Brown, tôi đã gặp vài nhà bất đồng chính kiến khi họ lên nắm quyền.

Tôi chịu trách nhiệm về bộ trưởng ngoại giao Tiệp Khắc Jiří Dienstbier trong vài cuộc gặp gỡ ở Washington, đã không đưa ông đến bất cứ cuộc gặp nào đúng giờ. Ông đã không để ý đến lịch trình và cứ dừng lại để hút thuốc. Chúng tôi đã khiến phó tổng thống và bộ trưởng ngoại giao phải đợi. Ý tưởng của tôi về tự do lúc đó đã hoàn toàn về tính hiệu quả, và tôi đã hơi bối rối rằng ông rất khác.

Tôi đã viết một tiểu luận về kiểm soát vũ khí hạt nhân như một sinh viên năm thứ hai; như một sinh viên năm dưới, tôi đã chú ý nhiều hơn đến kinh tế học, bắt đầu các dự án mà trở thành các luận án năm cuối về cải cách quốc phòng và độc quyền Soviet. Trong tháng Mười Một năm 1990, mùa thu của năm cuối của tôi, tôi được mời đến Moscow để trình bày vài công trình của tôi. Đó là chuyến bay xuyên đại tây dương đầu tiên của tôi, đi theo quỹ đạo của tất cả những tên lửa tưởng tượng đó. Khi máy bay hạ độ cao, tôi nhìn xuống một miếng chắp vá của các trang trại tập thể.

Lúc này đã sâu vào thời kỳ cải cách của nhà lãnh đạo Soviet Mikhail Gorbachev, tôi đã vô tích sự và hai mươi mốt tuổi, và tôi coi thủ đô Soviet như một nơi để khám phá. Tôi để chìa khóa phòng nặng trịch tại quầy tiếp tân của Khách sạn Hà Lâm (Akademicheskaia) và đi thang máy cuộn nhanh xuống sân ga metro sâu có ý định cũng được dùng như nơi tránh bom, ghi nhớ các tên ga và hỏi những người lạ nhờ giúp đỡ. Những cái nhìn vội vã của các hành khách, sự trống rỗng của các kệ hàng trong các cửa hàng, những trang trại bỏ hoang: những ấn tượng này xác nhận những gì tôi đã viết trong bài viết của tôi, rằng nước này sẽ không kéo dài.

Mọi người đã chỉ đường cho tôi, một điều tốt; thành phố thì lớn, ngày thì lạnh và ngắn, và các tòa nhà có vẻ lặp lại từ quận này sang quận kia. Một học giả Nga tại hội nghị tử tế đón tôi, và hai con ông, khoảng cùng tuổi tôi, đã cho tôi các chuyến tham quan Moscow tốt hơn. Khi tôi không tế nhị nói về sự sụp đổ sắp đến của Liên Xô, khuôn mặt họ cho thấy một nỗi buồn đơn giản. Họ không nghi ngờ điều đó, nếu một học giả Mỹ trẻ nói vậy. Nhưng nước Nga hậu-Soviet mà họ tưởng tượng là một đế chế với một sa hoàng. Trong căn hộ, họ giới thiệu cho tôi những di tích quý giá của Đế chế Nga, của một quá khứ trước-Soviet.

Tuyết rơi vào ngày ba chúng tôi đi thăm Kremlin. Những bông tuyết tan trên một chiếc chuông có kích thước thật khó tin: “Chuông Sa hoàng.” Nó lớn khoảng một căn hộ gia đình và nặng khoảng hai trăm tấn. Nó có ý định tôn vinh một nhà cai trị tuyệt đối, khối sắt khổng lồ nằm trên mặt đất và chẳng làm gì cả. Vật thể không có khả năng ngân vang khiến tôi nghĩ về những sự mất cân đối trong nền kinh tế Soviet mà tôi có ý định trình bày tại hội nghị ở Moscow.

Sự cân bằng

Trong ngôn ngữ vật lý, một chiếc chuông được treo trên một trụ trên một trang trại ở trong sự cân bằng: lực hấp dẫn kéo nó xuống được đối lại bởi lực của mặt đất đẩy ngược lại lên cấu trúc. Việc giữ một chiếc chuông trong không khí sao cho nó có thể được rung đòi hỏi công việc cẩn thận nào đó. Không phải mọi sự cân bằng là như nhau. Chuông Sa hoàng ở trong một sự cân bằng trong đó nó không thể được rung.

Các nhà kinh tế học cũng nói về những sự cân bằng. Họ thích các tình huống khi các thứ có vẻ trong sự cân bằng, như kết quả của một sự tổng hợp của các hành động con người mà có thể được mô tả đặc trưng như một lực lớn hơn, vô nhân tính. Thí dụ: cung, lượng hàng và dịch vụ, được cho là cân bằng với cầu, lượng hàng và dịch vụ người dân muốn. Một cân bằng giống một sự kết thúc có hậu: mọi thứ hóa ra ổn. Chúng ta không phải nghĩ về người dân như các cá nhân với các mục đích: các thị trường làm việc suy nghĩ cho chúng ta. Chúng ta không phải hỏi người dân đến với thế giới thế nào, vì sao họ muốn những gì họ muốn, hay là tự do có nghĩa là gì.

Trong mùa thu 1990, khi tôi đi Liên Xô, tôi làm việc trên các dự án về kinh tế học, nhưng học kỳ đó tôi cũng học các cua sau đại học về lịch sử và đã nộp đơn cho một học bổng để tiếp tục những nghiên cứu đó trong một chương trình tiến sĩ. Tôi thích tính không thể vét cạn của lịch sử—một sự ngạc nhiên chờ đợi trong mỗi cuốn sách mới, đằng sau mỗi sự kiện được hiểu một nửa, bên trong mỗi ngôn ngữ mới. Quá khứ đầy những khả năng hoang dã đã thực sự thấy rõ, như Cách mạng Bolshevik, hay Cách mạng Mỹ. Các cuộc cách mạng Đông Âu 1989, không thể dự đoán được như chúng đã là, khiến tôi tự hỏi liệu những sự ngạc nhiên khác có thể đến hay không.

Tại Moscow trong tháng Mười Một 1990, lịch sử đã cho tôi một ngôn ngữ chung với các học giả Soviet. Chúng tôi đã nói về nền kinh tế Nga trong những năm cuối đế chế, trước cách mạng, và về sự công nghiệp hóa cấp tốc của các năm 1930. Tôi đã có thể đồng ý với những người Soviet tham dự hội nghị rằng vấn đề biến đổi nền kinh tế kế hoạch của họ thành cái gì đó khác đã không được đoán trước trong kinh tế học sách giáo khoa.

Trong phòng hội nghị lạnh và bị gió lùa, tâm trí tôi lang thang, tôi vẽ nguệch ngoạc các quả chuông nhỏ bên lề của sổ ghi chép của tôi. Trong Đế chế Nga, trong 1591 và 1771, những chiếc chuông 10đã bị kết án lưu đày sang Siberia, căn cứ vào lý thuyết rằng chúng thúc giục các cuộc tụ tập công cộng. Trong 1510, sau khi Moscow chế ngự thành phố Pskov, các nhà cai trị mới đã thủ tiêu chuông được dùng để triệu tập các cuộc họp công cộng.

Tôi vẽ vài chiếc xiềng quanh các chuông. Ở Liên Xô, như tôi biết từ nghiên cứu riêng của tôi về độc quyền Soviet, Pskov là nơi họ 11sản xuất tất cả các còng tay. (Trong 2014 binh lính từ Pskov đã xâm lấn Ukraine; trong 2022 họ đã sát hại các thường dân ở Bucha.) Phần còn lại của nền kinh tế Soviet đã được tập trung tương tự: các sản phẩm quan trọng được sản xuất trong vài vị trí hay thậm chí trong một nhà máy duy nhất. Khí và dầu tự nhiên cũng được khai thác và phân phối theo một cách rất tập trung.

Như một điều kiện ban đầu cho một nền kinh tế thị trường, tôi thử nói, độc quyền là không hứa hẹn. Những người phê phán triệt để chủ nghĩa tư bản (Vladimir Lenin) và những người ủng hộ triệt để (Friedrich Hayek) đồng ý rằng độc quyền có nghĩa là sự áp bức. Các thị trường được cho là cho phép cạnh tranh, truyền bá thông tin, và tách kinh tế khỏi chính trị. Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi các doanh nghiệp Soviet khổng lồ rơi vào tay tư nhân?

Các nhà độc quyền sẽ tìm cách cản trở cạnh tranh, sở hữu các phương tiện truyền thông (media), và dồn quyền lực chính trị vào góc tường. Một khi Liên Xô bắt đầu tan rã (tôi lập luận [trong hội nghị]), sự tập trung công nghiệp của nó sẽ đẩy nhanh quá trình tan rã, bởi vì những người địa phương nắm sự kiểm soát các tài sản quý giá sẽ tìm cách bảo vệ các tài sản mới của họ bằng việc thử kiển soát các nhà nước mới.

Như thế bất cứ sự thay đổi nào sang chủ nghĩa tư bản ở Liên Xô phải được hiểu như phần của một lịch sử chính trị dài hơn, không phải như một việc xóa sạch đi để làm lại sẽ tạo ra các thị trường hoàn hảo. Từ điểm xuất phát của thực tế Soviet xung quanh tôi trong tháng Mười Một 1990, là (chính sách kinh tế) laissez-faire (để tự do) không dẫn đến kết quả đúng. Chế độ đầu sỏ (oligarchy), sự cai trị của những người rất giàu, cũng là một sự cân bằng. Một chiếc chuông nặng có thể chỉ nằm ì ra trên mặt đất.

Tôi không nghĩ tôi đã tìm được cách giải thích rõ ràng điều này nhiều ở Moscow: phòng họp khổng lồ biến mọi lời nói thành tiếng vọng; những người đàn ông quàng khăn run rẩy trong các phiên trình bày; khói thuốc lá cũ đã ấm hơn không khí một cách lạ lùng.

Chẳng ai đã nghĩ nhiều khi đó về các dân tộc không-Nga. Những người Mỹ nói “Nga” cho Liên Xô và “những người Nga” cho các công dân Soviet. Tôi khá hơn một chút, mặc dù tôi biết địa lý từ việc nghiên cứu các vị trí quân sự và các nhà máy lớn. Nửa dân số Liên Xô không phải là người Nga, và một phần tư lãnh thổ đã trong các nước cộng hòa không-Nga. Bản thân cộng hòa Nga được mô tả như một liên bang bởi vì sự đa dạng vô cùng của nó: nó bao gồm, ví dụ, những người Tatar, một trong những dân tộc Soviet lớn nhất. Ukraine là nước đông dân thứ hai sau Nga. Tại Moscow, những người Mỹ tham gia hội nghị đã xem vở opera Mazepa, về hetman (Гетьман-người đứng đầu nhà nước) Ukrainia và sự đoạn tuyệt của ông với Sa hoàng Peter; trong thời gian nghỉ, các nhà kinh tế học trong nhóm đã hỏi những người Nga tham gia liệu Ukraine có là một nước riêng biệt. Sự đồng thuận đã là, không thực sự.

Bị jet-lag (mệt mỏi do lệch múi giờ) và 12đọc vào ban đêm cho một seminar đại học về chủ nghĩa Marx, tôi nghĩ ở Moscow về sự giống nhau kỳ lạ giữa những nhà tiên tri về chủ nghĩa cộng sản và những nhà tiên tri về chủ nghĩa tư bản. Các nhà tư bản đã biết rằng các xã hội cộng sản sẽ tự động điều chỉnh lại bản thân chúng một khi tài sản tư nhân được khôi phục, hệt như các nhà Marxist một thời đã biết rằng các xã hội tư bản sẽ tự động điều chỉnh lại bản thân chúng một khi tài sản tư nhân bị xóa bỏ. Tôi cảm thấy sự hấp dẫn của quan điểm thứ nhất: Chẳng phải sẽ là tốt để đơn giản bắt đầu lại, không bị quá khứ ràng buộc? Nhưng sự hấp dẫn đã đúng là quá giống với sự tự tin của 13Marx và Engels, hay cũng đúng thế là sự tự tin của Lenin và Trotsky khi thử nghiệm Soviet bắt đầu.

Tôi làm việc như một sinh viên tại Trung tâm Phát triển Chính sách Đối ngoại (Center for Foreign Policy Development) giữa mùa xuân 1989 và mùa xuân 1991, ở Washington tại tạp chí Foreign Policy trong mùa hè 1990, và lại ở Washington tại Viện Kinh tế học Quốc tế trong mùa hè và mùa thu 1991. Tôi có cảm giác về sự đồng thuận elite giữa sự kết thúc của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu trong cuối 1989 và sự tan rã của Liên Xô trong cuối 1991. Rất ít người khôn ngoan đã mong đợi điều đó. Chính quyền George H. W. Bush đã ủng hộ Gorbachev cho đến phút cuối cùng. Chính sách Hoa Kỳ là để giữ Liên Xô lại với nhau. Tổng thống Bush đã đi Kyiv vào ngày 1 tháng Tám 1991, nhưng chỉ để thúc giục những người Ukrainia đừng tuyên bố độc lập.

Vào ngày 18 tháng Tám 1991, tôi đi ngủ sớm trong phòng thuê lại của tôi ở Georgetown. Tôi đã làm việc suốt ngày về kinh tế Nga và học tiếng Đức, sau đó đã làm một bữa ăn cho vài người bạn để mừng sinh nhật thứ hai mươi hai của tôi. Một bạn Nga đã đánh thức tôi với một cuộc gọi điện thoại: “Cuộc cách mạng lớn!” Anh có ý nói âm mưu đảo chính chống lại Gorbachev mà là sự bắt đầu của sự chấm dứt của Liên Xô. Những người cộng sản Ukrainia đã tuyên bố sự độc lập của cộng hòa của họ vào ngày 24 tháng Tám. Một tháng sau, tôi hoàn thành nghiên cứu của tôi về độc quyền Soviet và rời đi cho việc học lịch sử sau đại học tại Oxford. Tôi ở Tiệp Khắc và thấy sự giải thể chính thức của Liên Xô trong tháng Mười Hai. Ngay sau Năm Mới, tôi lấy một chuyến tàu đêm từ Prague đến Warsaw. Khi tôi trình bày một bài báo về độc quyền Soviet 14ở Vienna trong tháng Tư 1992, các nhà kinh tế học từ cái là Liên Xô bây giờ đại diện các nhà nước mới độc lập.

Khi Liên Xô chấm dứt, sự lo lắng Mỹ đã mang lại một sự phấn khích kỳ quặc. Những người Mỹ đã không mong đợi cuộc cách mạng và sự tan rã. Và thế nhưng bây giờ nhiều người nói với sự tự tin về 15những gì phải tiếp theo: một sự cân bằng tư bản chủ nghĩa sẽ mang lại với nó nền dân chủ và tự do. Công bằng mà nói, các nhà kinh tế học giỏi hơn đã lo về các cơ cấu. Nhưng tự do phủ định đã định giọng: một khi các rào cản của kế hoạch tập trung Soviet và sở hữu nhà nước được dọn đi, chỉ những thứ tốt có thể tiếp theo. Sự tự tin kỳ quặc này về tương lai đã là một lý do tôi quyết định nghiên cứu quá khứ.

Chủ nghĩa ngoại lệ

Chiến tranh Lạnh đã là một thách thức đạo đức đối với Hoa Kỳ. Chống-chủ nghĩa cộng sản đã dẫn đến những sự tố giác thái quá của chủ nghĩa McCarthy. Nó cũng đã trở thành một sự biện minh cho việc ủng hộ các nhà độc tài cánh-hữu, việc xâm lấn các nước Caribbea và Mỹ Latin, và 16việc lật đổ các nhà cai trị được bầu một cách dân chủ.

Tôi được nuôi dưỡng trong sự hiểu biết này. Bố mẹ tôi đã phục vụ trong Đoàn Hòa bình ở Cộng hòa Dominica khi Hoa Kỳ can thiệp trong năm 1965. Sau đó họ được chuyển tới El Salvador. Một cô gái Salvador đã sống sáu tháng ở nhà chúng tôi khi tôi còn nhỏ, chăm sóc các em tôi và tôi. Mẹ tôi tiếp tục thăm Mỹ Latin suốt thời thơ ấu của tôi, và bà đã dạy Mỹ Latin học tại một đại học địa phương.

Thách thức Soviet cũng đã đẩy nước Mỹ tới một số sức mạnh. Nó đã dẫn đến sự hạ cánh xuống mặt trăng năm 1969 và đến các sản phẩm phụ công nghệ quan trọng. Nó khuyến khích những người Mỹ chú ý đến văn hóa  châu và Nga, và đã đưa sự đầu tư chính phủ đến các đại học, kể cả về các ngôn ngữ và các môn nhân văn. Các đại học Mỹ đã dạy các lớp về Nga và Liên Xô (mặc dù hiếm khi về Đông Âu và hầu như chẳng bao giờ về Ukraine). Ngệ thuật, âm nhạc, và văn học avant-garde (tiên phong) Mỹ được truyền bá ra nước ngoài, để tỏ ra dân chủ có thể là sành điệu và sôi động. Những lời nhắc nhở Soviet về sự bất bình đẳng Mỹ đã giúp đỡ nhà nước phúc lợi và 17phong trào các quyền dân sự Mỹ. Chừng nào chủ nghĩa Marx đã là một lựa chọn thay thế hiện thời, những người Mỹ đã thử biện minh hệ thống riêng của họ bằng các ý tưởng và bảo vệ nó bằng các cấu trúc.

Sự tan rã của Liên Xô trong năm 1991 đã giống một nước đi judo, biến Hoa Kỳ chống lại chính nó. Những lý lẽ 18đã nhường đường cho chân lý: chủ nghĩa tư bản sẽ thay chủ nghĩa cộng sản và mang lại dân chủ cho thế giới. Khi tự do phủ định trở thành lẽ thường tình ở Hoa Kỳ, một chủ nghĩa tất định thay thế chủ nghĩa tất định khác. Nếu sự vắng mặt của tài sản tư nhân đã không mang lại tự do, thì sự có mặt của tài sản tư nhân chắc chắn sẽ mang lại. Vì các quy luật sắt của lịch sử sẽ giải phóng tất cả mọi người, 19không cần biết quá khứ—ngay cả các chi tiết của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít, hai lựa chọn chính trị thay thế lớn của thế kỷ thứ hai mươi, có thể bị quên đi. Vào thời khắc tôi chọn (nghiên cứu) lịch sử, nó bị coi là không thích đáng. Thế mà tự do phải là về các tương lai khả dĩ, và bất kể tương lai khả dĩ nào tồn tại trên một đường từ một quá khứ thật. Làm sao chúng ta có thể vẽ những đường đó mà không có lịch sử?

Chế độ đầu sỏ

Các sự kiện bất ngờ đã có xảy ra trong đầu các năm 1990: 20bạo lực chủng tộc ở Los Angeles, mà tôi đọc về nó trong các báo Ba lan khi tôi đang học ngôn ngữ đó ở bên bờ biển Baltic; chiến dịch vận động đầu tiên của tỉ phú Ross Perot cho chức tổng thống, mà đã trở thành thực tế cho tôi trên bản đồ bầu cử của BBC trong một phòng chung của sinh viên Oxford; các cuộc chiến tranh Nam tư, mà đã xua những người tị nạn đến Vienna, nơi tôi đã kết bạn với vài người trong số họ. Tuy nhiên trong tâm trạng này, mọi khủng hoảng có vẻ là ngoại lệ, và 21mỗi thách thức đều có vẻ mang tính kỹ thuật. Lịch sử đã không để được học mà để bị đổ lỗi—sự diệt chủng trong khu vực Balkan được cho là kết quả của “những mối hận thù cổ xưa.” Nước Mỹ là thước đo vĩnh cửu của tự do.

Nếu tự do là phủ định, thì chính trị trở thành công việc thực tiễn của việc dọn dẹp rác rưởi của quá khứ: theo biệt ngữ (tiếng lóng) của các năm 1980 và các năm 1990: giải quy chế (deregulation), tư nhân hóa, cải cách phúc lợi. Kinh tế học hoặc tự nhiên được kỳ vọng làm phần còn lại. Quan niệm về tự do như phủ định đã dẫn những người Mỹ để cho lời khuyên tồi cho những người Đông Âu: tư nhân hóa càng nhanh càng tốt; vẽ chân dung nhà nước phúc lợi như một sự biến dạng cộng sản; hãy bỏ qua văn hóa. Nó cũng đã dẫn Hoa Kỳ đến một số chính sách đối nội khủng khiếp trong những năm 1990, như tổ hợp công nghiệp nhà tù và sự tích trữ của cải.

Tự do phủ định cũng lơ lửng trên những sai lầm của các năm 2000. Sau khi sống hơn vài năm ở Đông Âu, trong tháng Chín 2001 tôi chuyển về New Haven, Connecticut, cho công việc thực sự đầu tiên của tôi, tại Đại học Yale. Tôi đã ở New York trong những giờ sáng sớm ngày 11 tháng Chín (để xem đội Yankees thua đội Orioles trong một trận đấu dài, xấu xí bị trì hoãn do mưa). Khi ở New Haven tôi biết những gì đã xảy ra, tôi đã thử quay lại New York, nhưng xe lửa đã dừng chạy.

Các cuộc tấn công 9/11 (ngày 11 tháng Chín) được trình bày như cái gì đó chưa từng thấy, bình minh của một thế giới mới trong đó tự do phải bị hy sinh cho an ninh. Tại chính lớp đầu tiên của tôi ở Yale, tôi nói về sự phá hủy của Tòa Tháp đôi theo ánh sáng của những gì tôi hiểu từ các tình tiết Đông Âu về sự khủng bố và sự chống-khủng bố. Một sự khiêu khích có kết quả khi một thực thể ít hùng mạnh biến một tác nhân hùng mạnh hơn chống lại chính mình. Cuộc tấn công 9/11 đã là một trong những sự khiêu khích thành công nhất mọi thời đại.

Sau 9/11, những người Mỹ được bảo rằng 22những kẻ tấn công “căm ghét tự do,” nhưng phản ứng của chúng ta gợi ý rằng chúng ta đã hiểu sai tự do. Sự trao đổi bề ngoài của tự do lấy an ninh có nghĩa là ít hơn của mỗi thứ. Sự giám sát trở nên bình thường. Cuộc xâm lấn 2003 vào Iraq đã giết hàng trăm ngàn người Iraq và để để lại Hoa Kỳ nghèo hơn, ít an toàn hơn, và ít được tin cậy hơn. Cuộc chiến tranh đó đã là 23một cuộc phiêu lưu trong tự do phủ định, được tiến hành để tạo ra một sự vắng mặt. Việc phá hủy nhà nước Iraq và việc giải tán đảng và quân đội cầm quyền, được cho là, sẽ tự động mang lại chủ nghĩa tư bản và nền dân chủ. Nó đã không. Cuộc chiến tranh đã làm mạnh Iran và tạo ra một loạt vấn đề an ninh kéo dài sâu vào thế kỷ mới.

Sự hiểu lầm của chúng ta về Nga trong các năm 1990 và các năm 2000 cũng đã liên quan đến tự do phủ định. Trong năm 1993 thổng thống Nga, Boris Yeltsin, đã giải tán quốc hội Nga bằng vũ lực. Điều này được hiểu ở Hoa Kỳ như cần thiết cho cải cách kinh tế. Thực ra, sự tập trung công nghiệp Soviet đang trở thành độc quyền tư bản chủ nghĩa. Vài người đã nói về sự kiểm soát các doanh nghiệp sinh lời. Sau năm 1999, người kế vị được Yeltsin chọn, Vladimir Putin, đã trở thành ông chủ của các ông chủ, củng cố quyền lực qua 24sự khủng bố và các cuộc chiến tranh.

Nhìn qua lăng kính của tự do phủ định, Putin có vẻ giống một nhà kỹ trị quan tâm đến tiền. Giả thuyết đã là sự giàu có sẽ mang lại tính duy lý, và 25tính duy lý sẽ mang lại dân chủ. Trong mùa xuân đầu tiên của tôi ở Yale, tôi được mời tới một cuộc họp nơi một hãng hydrocarbon quốc tế lớn được khuyên về Nga. Một đồng nghiệp với kinh nghiệm ở các mức cao của chính phủ nói rằng chính sách Hoa Kỳ có căn cứ trong giả thuyết rằng chủ nghĩa tư bản sẽ mang lại dân chủ cho cả Nga và Trung Quốc. Tôi nói rằng điều này là phi lý. Tôi đã không được mời đến những cuộc họp như vậy trong một thời gian.

Chế độ đầu sỏ Nga thay vào đó đã mang lại 26một nền chính trị mới, một thay thế trong một thời đại khi được cho là không có sự thay thế nào. Trong năm 2004, nước Nga của Putin đã thử gian lận phiếu ở Ukraine. Mười năm sau, nó đã xâm lấn miền nam và miền đông Ukraine. Trước và trong cuộc xâm lấn, bộ máy tuyên truyền của Moscow đã vu khống Ukraine và những người Ukrainia. Cơ sở của cuộc tấn công đã không phải là bằng chứng hay thậm chí ý thức hệ, mà đúng hơn là những ước tính về những gì sẽ gây ra những cảm xúc tiêu cực trong những người tiêu dùng media xã hội (các phương tiện truyền thông xã hội, hay theo ngôn ngữ thường dùng là mạng xã hội). Biết cái gì đó về những gì mọi người tin về thế giới, Nga đã có thể nhắm mục tiêu những sự dễ bị tổn thương cụ thể. Xem xét sự toàn bộ của chúng, các luận điệu của Nga về Ukraine đầy mâu thuẫn: không có ngôn ngữ Ukrainia, nhưng nhà nước Ukrainia khiến mọi người nói tiếng đó; nhà nước Ukrainia không tồn tại nhưng là nhà nước áp bức; những người Ukrainia đều là bọn Nazi, nhưng 27họ cũng là những người đồng tính và những người Do thái. Tôi sống ở Vienna lúc đó và có liên lạc với các bạn và đồng nghiệp Ukrainia. Sự thực đơn giản, rằng Nga đã xâm lấn một nước láng giềng, bị lạc lối trong media xã hội. Những người Mỹ và những người khác đã lãng phí sự phẫn nộ chống lại các bóng ma ngay cả khi một cuộc chiến tranh xâm lược thật bắt đầu.

Tại Nga, chúng ta thấy sự chuyển tiếp từ định nghĩa về tự do như sự thiếu các rào cản sang một nền chính trị của chủ nghĩa phát xít trong đó không có rào cản nào đối với các sự đồng bóng của Lãnh tụ. Thế mà lập trường tuyên truyền của riêng Moscow—rằng chẳng có gì đúng và chẳng có gì tốt—đã không được cảm nhận như một mối nguy hiểm. Sự xâm lấn Ukraine chứng minh sự ngụy biện của chủ nghĩa tất định kinh tế: nước Nga đầu sỏ (hay tài phiệt-oligarchic) là một đế chế xâm lược, không phải một nền dân chủ mới nổi. Đối với những người tin rằng tự do là phủ định, chủ nghĩa hư vô Nga đã không có vẻ nguy hiểm. Nó rất nguy hiểm, tất nhiên. Bất kể chân không nào của các sự thực và giá trị sẽ được lấp đầy bằng sự trình diễn và chiến tranh. Bản chất phát xít của chế độ Nga lẽ ra đã phải rõ ràng lâu trước cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine trong năm 2022.

Trường hợp Nga có thể được dùng như một lời cảnh báo. Trong thế kỷ thứ hai mươi mốt, chủ nghĩa tư bản Mỹ cũng đã bị xua theo hướng độc quyền, sự tập trung của cải, và sự suy đồi. Khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta là ngoại lệ trong sự tận tâm của chúng ta với tự do, sự quá tự tin của chúng ta khiến chúng ta dễ bị tổn thương đối với sự tuyên truyền của các bạo chúa thêu dệt những gì chúng ta muốn nghe. Nếu chúng ta tin rằng tự do là phủ định, vấn đề chỉ là một rào cản bên ngoài, và chẳng bao giờ là sự thiếu phán xét của chính chúng ta. Khi tôi quay lại Hoa Kỳ trong 2014 sau một năm xa cách, tôi đã kinh ngạc (như các bạn Ukrainia và Nga của tôi) bởi media xã hội Nga hoạt động khéo đến thế nào trong nền chính trị Mỹ. Rằng những người Mỹ bị Nga đánh lừa về Ukraine đã là đủ xấu. Nhưng trong 2015 và 2016 những người Mỹ đã bị những người Nga đánh lừa về những người Mỹ khác. Trong năm 2016 28ứng viên tổng thống tài phiệt Mỹ đã thắng, 29với sự giúp đỡ Nga.

Donald Trump, khách hàng ngoan ngoãn của Putin, là một người hùng của tự do phủ định, 30giàu có nhờ sự thừa kế bị đánh thuế thấp và 31sự thoái mái phủ nhận mọi thứ. Trong 2018 ông đi Helsinki và nói với thế giới rằng ông tin cậy một nhà độc tài Nga hơn các cố vấn Mỹ của ông. Trong 2019 ông đã thử bắt nạt một tổng thống Ukrainia được bàu để bôi nhọ đối thủ của ông trong cuộc bầu cử tổng thống sắp tới. Khi Trump thua cuộc bầu cử 2020, ông đã nói dối về kết quả và đã thử dàn dựng một cuộc đảo chính để ở lại nắm quyền. 32Bất chấp một sự cấm hiến định chống lại những kẻ nổi dậy giữ chức vụ, ông có ý ứng cử tổng thống trong 2024, nuôi hy vọng của Putin rằng ông ta có thể chiến thắng cuộc chiến tranh của ông ta ở Ukraine.

Sâu vào một thế kỷ mà là thứ chỉ có thể thấy trong mơ trong các năm 1970, và chủ đề của những dự đoán tự tin trong các năm 1990, chúng ta thấy mình ở một bước ngoặt. Liệu chúng ta có sẽ tự do sẽ phụ thuộc vào chúng ta—không chỉ vào những gì chúng ta làm, mà vào 33vì sao chúng ta làm: các lý tưởng của chúng ta.

Ở lại

Không có các lý tưởng, là không thể để trở thành một người thực tế. Nếu bạn quên về tự do, bạn hiểu sai thế giới và thay đổi nó cho sự tồi tệ hơn. Phản ứng Mỹ ban đầu với sự xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine trong tháng Hai 2022 làm rõ điểm này.

Khi Nga tập trung quân trên biên giới Ukrainia, tôi ở New Haven, nơi tôi đã dạy học trong hai thập niên. Vào Thứ Hai trước sự xâm lược toàn diện của Nga, tôi tham gia vào một cuộc họp từ xa, một cuộc bảo vệ luận văn tiến sĩ ở Ukraine. Illia Chedoluma 34đang bảo vệ một luận văn lịch sử về một nhà phê bình văn học Ukrainia gốc Do thái người đã dịch Hamlet trong khi ẩn nấp khỏi bọn Nazi. Illia vượt qua kỳ thi của anh, rồi nhập ngũ bảo vệ lãnh thổ Ukrainia.

Vào Thứ Ba trước khi Nga xâm lược, tôi được mời tham gia một lớp tại Trường Quản lý của Yale. 35Đồng nghiệp hướng dẫn lớp học đã thấy tôi trên truyền hình Thứ Bảy trước và biết rằng tôi có một ý kiến khác thường về tổng thống của Ukraine, Volodymyr Zelens’kyi: rằng nếu Nga xâm lược, ông sẽ ở lại, và rằng Ukraine sẽ chiến đấu. Đồng nghiệp của tôi đã mời các cố vấn an ninh của các cựu tổng thống Barack Obama và Donald Trump để tham gia từ xa vào lớp học, và ông hỏi họ bình luận về dự đoán của tôi. Nói chuyện từ các màn hình lớn, họ đều không đồng ý với tôi. Đối với họ, là hiển nhiên rằng Zelens’kyi sẽ chạy trốn. Giống những người ở bên trong Kremlin, những người ở bên trong Beltway (Washington D.C) tin rằng Ukraine sẽ sụp đổ trong ba ngày. Minh triết thông thường Nga và Mỹ đã giống hệt nhau.

Vào Thứ Năm, Nga xâm lược, và sinh viên của tôi báo cáo cho đơn vị của anh. Zelens’kyi đã ở lại Kyiv, và những người Ukrainia đã chiến đấu. Các chuyên gia Mỹ đã loại trừ tự do như một nhân tố trong thế giới, cho nên dự đoán của họ đã không đúng. Họ đã kiên nhẫn để giải thích rằng Zelens’kyi sẽ rời khỏi đất nước; các sĩ quan tình báo Mỹ đã khuyên ông làm vậy. Tất cả đều đại diện cho một sự đồng thuận Mỹ. Những người Mỹ đã bảo chính mình trong hàng thập kỷ rằng tự do là phủ định, rằng nó đại diện cho một sự dọn sạch các rào cản bởi các lực lớn hơn. Nếu bạn tin vào tính ưu việt của các lực lớn hơn, thì bạn không có lựa chọn nào khi chúng có vẻ quay sang chống lại bạn: bạn bỏ chạy. Và bạn không thể tưởng tượng rằng những người khác sẽ ứng xử khác đi.

Vào Thứ Sáu, Zelens’kyi đăng một video về bản thân ông và các quan chức chính phủ cấp cao khác ở Kyiv: “Tổng thống ở đây.” Đây là một ví dụ có tính biến đổi về tự do ngôn luận. Giống tự do nói chung, tự do ngôn luận không phải là phủ định, không phải về các rào cản mà về con người, không phải về một sự vắng mặt mà về một sự hiện diện. Chúng ta bảo vệ những người nói tự do bởi vì sự thật đe dọa quyền lực của các bạo chúa. Zelens’kyi đang nói sự thật giữa những lời nói dối của các nhà tuyên truyền Nga khẳng định rằng ông đã rời bỏ thành phố. Ông đang nói sự thật của ông với quyền lực, bởi vì Nga đang xâm chiếm với lực khủng khiếp. Zelens’kyi đang đặt thân thể ông vào rủi ro vì những gì ông biết là đúng. Quả thực, đó là những gì ông đang làm với thân thể của ông—ở lại—đó đã là sự thật.

Việc ông từ chối bỏ đi cho một gợi ý về tự do khẳng định—tự do thật—có thể là gì. Các rào cản đối với tự do không nghi ngờ gì đã có mặt, trong một hình thức triệt để nhất. Ngay cả khi Zelens’kyi nói, những kẻ ám sát Nga đang truy nã ông. Quân đội Nga đã ở các cổng của Kyiv, bom và tên lửa Nga đang rơi, và hầu như mọi người bên ngoài Ukraine kỳ vọng Nga thắng chiến tranh trong vòng vài giờ hay vài ngày. Thế nhưng đối với những người Ukrainia, vấn đề đã không phải là các vật thể—những viên đạn và chất nổ—mà là ý định đằng sau chúng, sự loại bỏ một xã hội. Vũ khí Nga đã phải đối mặt với vũ khí Ukrainia, nhưng chúng cũng phải đối mặt với sự cam kết. Những người Ukrainia đã đánh bại những người Nga ở Kyiv và rồi ở Kharkiv. Bucha được giải-chiếm đóng, Yahidne và Posad Pokrovs’ke cũng thế, trong vòng một năm của sự xâm lược toàn diện của Nga. Những người Ukrainia lấy lại hơn nửa vùng đất Nga đã chiếm trong tháng Hai 2022. Nhưng chỉ bởi vì nhân dân đã quyết định ở lại.

Khi tôi hỏi Zelens’kyi vì sao ông đã ở lại Kyiv, ông nói rằng ông “đã không thể làm khác được.” Giải thích sự lựa chọn của mình, ông bắt đầu không phải từ tình thế khó khăn cụ thể, dù nó kịch tính đến thế nào, và không thậm chí từ bản thân ông. Ông nói về sự yêu mến của ông cho cha mẹ ông, và những gì ông học được từ họ. Ông đã không chọn họ, và tuy nhiên trong sự yêu mến của ông cho họ ông đã tự do. Ông so sánh sự yêu mến đó với quyết định để ở lại thủ đô khi cuộc chiến tranh bắt đầu: cái gì đó hiển nhiên. Việc ở lại không phải là cái gì đó ông làm một mình: ông cùng với những người đã dạy ông khi ông còn trẻ hơn và những người đã bàu ông. Ông đã cùng những người khác cũng đang chấp nhận rủi ro. Ông hiểu tình thế của mình, ông nói, bởi vì sự đại diện cho những người khác có nghĩa là gì. Một tổng thống, ông nói, chỉ là hạt cát đầu tiên trong một đồng hồ cát lộn ngược.

Chúng tôi nói về một sự tích lũy các quyết định, theo thời gian, bắt đầu trong thời trẻ, biến chúng ta thành những người chúng ta trở thành như thế nào. Rồi đến một thời khắc khi chúng ta làm những gì chúng ta phải làm bởi cái chúng ta đã chọn để trở thành. Một người không-tự do có thể luôn chọn để cố bỏ chạy. Nhưng đôi khi một người tự do phải ở lại. 36Ý chí tự do là tính cách.