Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2025

Hiện tượng học và văn học (1)

 Dương Thắng

NHẬP ĐỀ

1. Hiện tượng học là một triết lý về kinh nghiệm. Đối với hiện tượng học, nguồn gốc cuối cùng của mọi ý nghĩa và giá trị chính là trải nghiệm sống của con người. Mọi hệ thống triết học, lý thuyết khoa học hay phán đoán thẩm mỹ đều có thể xem như một sự trừu tượng hóa bắt nguồn từ dòng chảy của thế giới thực. Nhiệm vụ của một triết gia hiện tượng học là mô tả các cấu trúc của kinh nghiệm, đặc biệt là ý thức, trí tưởng tượng, mối quan hệ với người khác và vị thế của chủ thể (con người) trong xã hội và lịch sử. Các lý thuyết hiện tượng học về văn học xem tác phẩm nghệ thuật là khâu trung gian giữa ý thức của tác giả và ý thức của người đọc hoặc như là những nỗ lực nhằm bộc lộ các khía cạnh của con người và thế giới của họ.

2. Roman Ingarden (1893-1970), nhà triết học người Ba Lan, học trò của Husserl, cũng là người sáng lập ra trường phái mỹ học hiện tượng học. Giống như Trần Đức Thảo, ông đã kiên quyết bác bỏ khía cạnh duy tâm chủ nghĩa của hiện tượng học Husserl, ông cũng là người đi tiên phong trong việc tiến hành nghiên cứu các tác phẩm nghệ thuật văn học (1931) và nhận thức về tác phẩm nghệ thuật văn học (1937) từ quan điểm hiện tượng học. Lý do đầu tiên mà các tác phẩm nghệ thuật thu hút sự chú ý của ông là vì theo ông, chúng dường như không thuộc về bất kỳ lĩnh vực nào. Ông lập luận rằng không giống như những vật thể tự chủ và được xác định hoàn toàn, sự tồn tại của tác phẩm văn học phụ thuộc vào hành động có chủ ý của người sáng tạo và cả của độc giả. Nhưng đây lại không phải là những hư cấu hay hình ảnh riêng tư của từng cá thể bởi vì chúng có một ”cuộc sống” liên chủ thể. Tuy nhiên, trạng thái “lý tưởng” của chúng như là những cấu trúc ý thức hoàn toàn không giống như một hình tam giác hay các dạng hình học toán học khác, là những đối tượng “lý tưởng” đích thực, không có thời điểm ra đời chính xác hay có một lịch sử xác định tuyến tính của những quá trình chuyển đổi tiếp theo.

3. Với Ingarden tác phẩm văn học là "một đối tượng có chủ ý liên chủ thể". Nó bắt nguồn từ những “hành động” có ý thức của người sáng tạo ra nó và được lưu giữ dưới dạng văn bản hoặc các phương tiện vật lý khác, và những “hành động” này sau đó được tái hiện (mặc dù không bao giờ là một sự sao chép chính xác) bởi ý thức của người đọc. Tuy nhiên, một tác phẩm văn học như vậy không thể và không bao giờ chỉ gói gọn trong tâm lý của tác giả hoặc người đọc. Câu chuyện chứa đựng trong một tác phẩm văn học dạng này lại luôn vượt ra ngoài ý thức của người sáng tạo ra nó hoặc ý thức của bất kỳ độc giả nào. Sự tồn tại của một tác phẩm vượt qua mọi trải nghiệm cụ thể và nhất thời về nó, ngay cả khi nó được tái sinh và tiếp tục tồn tại thông qua các hành động ý thức khác nhau. Ingarden lập luận rằng tác phẩm có "phương thức tồn tại dị biệt về mặt bản thể", vì một mặt nó không thể tự mình sinh ra, tự mình tồn tại, mặt khác nó cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức của tác giả và người đọc; nghịch lý ở đây là nó được xây dựng dựa đồng thời trên ý thức của tác giả và ý thức của người đọc nhưng lại luôn có xu hướng vượt thoát/vượt qua ý thức của tác giả hay ý thức của những người đọc để cập bến ở những bến bờ mới mẻ.

4. Ingarden lưu ý rằng tác phẩm văn học là một sự hình thành phân tầng. Nó bao gồm bốn lớp có liên quan, mỗi lớp có "phẩm chất giá trị" riêng: (1) âm thanh của từ, (2) các đơn vị ý nghĩa, (3) "các khía cạnh được sơ đồ hóa" (các góc nhìn thông qua đó trạng thái của sự vật được nhìn nhận đánh giá), và (4) lớp các khía cạnh được sơ đồ hóa thể hiện tính khách quan của văn bản. Ông lập luận rằng sự phân tầng này là một "sơ đồ mờ" vì các tầng (đặc biệt là hai tầng cuối) có thể để lại "những khoảng trống không xác định" mà người đọc có thể điền vào theo những cách khác nhau. Ingarden lập luận rằng trong một tác phẩm thành công, các tầng/lớp này kết hợp lại để tạo thành một tổng thể thống nhất mang đến "sự hòa hợp đa âm của các phẩm chất giá trị".

5. Ingarden phân biệt cái phiên bản "cụ thể hóa" của tác phẩm ở từng người đọc với bản thân tác phẩm. “Đối tượng thẩm mỹ” do người đọc tạo ra có mối tương quan với “đối tượng nghệ thuật” do tác giả tạo ra nhưng nhất thiết sẽ phải khác biệt với tác giả. Không chỉ độc giả với những trải nghiệm sống khác nhau sẽ cách khác nhau để “điền vào chỗ trống” với những phần còn bỏ ngỏ của tác phẩm (do phẩm tính “ tập mờ” của nó) hoặc có những phản ứng khác nhau với những giá trị hiện diện trong các tầng lớp khác nhau, và cũng bởi vì nhận thức về một tác phẩm là một quá trình được tích lũy theo thời gian, do đó "tác phẩm văn học" không bao giờ được hiểu đầy đủ. Bởi vì theo Ingarden, "trong tất cả các lớp và thành phần của nó luôn có những phần hay những yếu tố có thể thay đổi liên tục”. Giống như các đối tượng khác tự thể hiện thông qua các khía cạnh, bản thân các tác phẩm văn học chỉ có thể tiếp cận "theo chiều ngang", thông qua một loạt các góc nhìn mang tính đặc thù riêng lẻ trong nhiều trải nghiệm khác nhau và trong suốt quãng thời gian của một lần đọc, hoặc theo nhiều cách khác nhau mà một tác phẩm có thể được “cụ thể hóa” trong suốt chiều dài lịch sử của nó. Tuy nhiên, Ingarden lập luận rằng "sẽ có một số giới hạn” hạn chế sự tiệm cận tới một phiên bản cụ thể hóa chính xác hoặc đầy đủ, và ông tuyên bố rằng những giới hạn này được xác định trước bởi cấu trúc của tác phẩm…

ĐỌC NHƯ LÀ QUÁ TRÌNH “CỤ THỂ HÓA” TÁC PHẨM

1. Nếu như ban đầu Roman Ingarden được biết đến như một triết gia trong lãnh vực hiện tượng học là nhờ vào những cuộc thảo luận mang tính luận chiến với Husserl về thực tại của thế giới thì cái lĩnh vực sẽ lưu giữ lâu dài nhất tên tuổi của ông chính là mỹ học hiện tượng học. Theo Ingarden, các tác phẩm văn học, cũng giống như bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào khác, sẽ tạo ra một tình huống gặp gỡ giữa một đối tượng cung cấp một cấu trúc đơn nhất (tác giả) và một chủ thể có khả năng nắm bắt nó, nghĩa là có khả năng làm cho nó tồn tại theo ý nghĩa riêng của nó, trong cái sự thật thẩm mỹ của nó (độc giả). Trong sự hiệp thông này, việc đọc bao gồm những hành động rất riêng biệt, những hành động vừa “sáng tạo vừa khám phá”, những hành động có chủ ý khám phá ra các giá trị cấu thành nên tác phẩm – những giá trị gắn kết ý nghĩa và sự thật của tác phẩm cũng như sự thật của sự tồn tại của chính chúng ta.

2. Vì vậy, đối với Ingarden, đọc không chỉ có nghĩa là dỡ bỏ cái cấu trúc của tác phẩm và sắp xếp nó lại theo một cách hiểu riêng của người đọc để truy tìm cái ý nghĩa thật sự của một văn bản (giải cấu trúc), mà việc đọc còn bao gồm việc tạo ra một đối tượng văn học, tức là cấu thành nên đối tượng thẩm mỹ và các giá trị mà nó mang đến hay gợi mở đến, vì thế hành động đọc, theo Ingarden là một tình huống phức tạp có chủ đích nằm giữa hai phạm trù bản thể học và hiện tượng học, giữa sáng tạo và tiếp nhận, giữa ý nghĩa và chân lý. Để giải quyết được sự phức tạp này, Roman Ingarden đã tiến hành thảo luận về ba hoạt động ý hướng tính tạo ra một cấu trúc chặt chẽ của việc đọc một tác phẩm văn học: cụ thể hóa, đánh giá và diễn giải.

3. Trước tiên, cần làm rõ về cái “bản thể” của một văn bản văn học. Hành động đọc chỉ có thể được thực hiện khi nó liên quan đến cái đối tượng cụ thể là các văn bản, ở đây là các văn bản văn học. Ingarden đã chứng minh rõ ràng rằng cấu trúc của các văn bản văn học rất phức tạp, nhiều lớp/ đa tầng, chủ yếu dựa trên sự kết hợp của bốn lớp/tầng khác nhau: 1/ Lớp các từ và âm thanh của từ (các từ được nghe trong âm thanh của chúng, trong chiều hướng ngữ âm hoặc ngữ âm của chúng), 2/ lớp các đơn vị ngữ nghĩa (ý nghĩa của từ, câu, nhóm câu), 3/ lớp các đối tượng được mô tả và phóng chiếu bởi các đơn vị câu (nhân vật, địa điểm, tình huống, trạng thái công việc... nói cách khác đó là các góc nhìn thông qua đó trạng thái của sự vật được nhìn nhận đánh giá), cuối cùng là 4/ lớp các khía cạnh được sơ đồ hóa thể hiện tính khách quan của văn bản. Lớp cuối cùng này đóng vai trò chính trong quan niệm thẩm mỹ của Ingarden vì nó chỉ ra tất cả các dấu hiệu do văn bản cung cấp nhằm củng cố thêm cho các ý nghĩa mà vẻ ngoài của các đối tượng mang lại (tính từ, ẩn dụ hoặc mô tả cung cấp thông tin định tính về vẻ ngoài, màu sắc, hình dạng, bầu không khí, v.v.). Đây cũng là yếu tố đóng góp nhiều nhất tạo ra sự khác biệt căn bản giữa các văn bản văn học và các văn bản khoa học, vì chiều kích định tính mang tính tương đối này không đóng vai trò quan trọng với văn bản khoa học giống như cái vai trò của nó trong một tác phẩm văn học vì lớp thứ 4 này sẽ không cung cấp thông tin được xác định rõ ràng mà chỉ là cách thức và phong cách gợi ra những quan hệ đa liên kết với mọi vật và thế giới. Tất nhiên, lớp thứ nhất: lớp từ ngữ cũng đóng vai trò quan trọng (nhất là trong thi ca) và theo quan điểm này, hai lớp này có sự đan xen chặt chẽ với nhau. Do đó, tính độc đáo của văn bản văn học so với các văn bản khác nằm ở sự kết nối giữa các lớp khác nhau, đôi khi có thể tạo ra sự hài hòa đa âm, từ đó có thể làm xuất hiện các giá trị và phẩm chất thẩm mỹ.

4. Do đó, một tác phẩm văn học, giống như bất kỳ tác phẩm nghệ thuật và đối tượng văn hóa nào, là một đối tượng đa tầng do một tác giả hoặc một nghệ sĩ sáng tạo ra, được sản xuất và định hình bởi một loạt các hành động có chủ ý. Văn bản văn học là một đối tượng phái sinh và phụ thuộc, không mang lại sự tự chủ như những sự vật thực sự tồn tại mà không cần tới sự can thiệp của chúng ta (cái cây, ngôi nhà hay con đường, một hình tam giác hay hình tròn…). Chẳng hạn Hamlet là một nhân vật được tạo ra bởi nhiều câu văn thể hiện một số phẩm chất và tình huống nhất định, thông qua những tình huống được tạo dựng bởi các câu văn đó mà nhân vật chính tự mô tả mình, sống và hành động trước mắt người đọc, những người có thể thay đổi các chiều kích tư tưởng hay đạo đức của nhân vật văn học đó bằng cách kích hoạt lại theo một cách nào đó những ý nghĩa ẩn còn chưa “lộ sáng” trong những câu văn mà tác giả đã viết.

5. Như vậy, một tác phẩm văn học được in trọn vẹn trong một cuốn sách bằng giấy mà người ta nhìn thấy trong thư viện hoặc chứa trong một file word hay pdf nằm trong máy tính của chúng ta vẫn chỉ là một sự vật “chưa hoàn chỉnh” và “chưa bước vào đời sống thực sự của nó”. Trên thực tế, các đối tượng của một tác phẩm văn học được thể hiện bằng một số lượng hữu hạn các câu. Các sự vật hoặc nhân vật ở đây là “không hoàn chỉnh” vì luôn còn có những khía cạnh còn thiếu trong phẩm tính đặc thù của chúng mà chúng ta không bao giờ biết tới, một “thực thể văn học” sẽ không giống như những vật thể thực tế (hình tròn, hình vuông) mang trong mình toàn bộ các đặc tính khiến chúng trở nên hoàn toàn tự chủ. Do đó, Ingarden đã khẳng định rằng tác phẩm nghệ thuật văn học là một tạo vật hình thành có sơ đồ và liên chủ thể. Sơ đồ của tác phẩm luôn mang tính chất nhiều chiều. Trước hết, điều này nhắm tới những gì không được nói đến, không được mô tả, không được đề cập đến để các nhân vật, địa điểm hoặc tình huống vẫn mang tính ám chỉ và không đầy đủ; có những khoảng trống, những khoảng giãn cách trong mô tả hoặc những lỗ hổng trong văn bản, những thứ mà Ingarden gọi là “những nơi chốn không xác định” (như người ta thường nói: cần phải biết cách đọc được “các khoảng trống giữa các dòng chữ”). Sau đó, các yếu tố khác trong văn bản hoạt động theo cách tương tự như những khoảng trống này, đây là những khía cạnh được sơ đồ hóa, nghĩa là những phẩm chất mà vì chúng cần được mô tả hoặc phác họa theo một phương thức có ý nghĩa (bằng lời hoặc danh từ) nên không thể biểu hiện được trọn vẹn sự nhạy cảm của chúng trong chiều kích cảm giác. Vì thế những điều này vẫn tồn tại “ẩn” ở dạng tiềm năng, chờ được “hiện thực hóa”, chờ được “cụ thể hóa” để có thể mang lại sự trọn vẹn cho nó. Thật vậy, nếu trong cuộc sống hàng ngày, nhận thức kiểu “tự nhiên chủ nghĩa” giúp chúng ta tiếp cận mọi thứ trong sự hiện diện hữu hình của chúng, thông qua cách tiếp cận trực tiếp với các khía cạnh (nóng, lạnh) hoặc hình dạng khác nhau (vuông, tròn) thu nhận trực tiếp từ chúng, thì ngược lại, khi đọc một tác phẩm văn học, mọi thứ đều được chuyển tải qua khâu trung gian là các từ ngữ và những ý nghĩa mà chúng ta sẽ thu nhận từ các từ ngữ đó. Từ ngữ là một dạng thay thế cho sự vật. Kết quả là, mọi thứ chỉ trở nên hữu hình hoặc có thể hình dung được thông qua các khía cạnh được sơ đồ hóa nhằm mục đích mô tả chúng, và đây chính là nơi mà vai trò của người đọc sẽ phát huy tác dụng. Chính người đọc phải bỏ công sức ra “đầu tư” cho những khía cạnh này, “lấp đầy” chúng (như cách Husserl đã nhấn mạnh) để chuyển từ bình diện mang ý nghĩa sang bình diện trực quan, từ tiềm năng sang thực tế. Nếu chúng ta không muốn dừng lại ở cấp độ nhận thức thô thiển của việc đọc, nếu chúng ta muốn làm cho văn bản trở nên sống động hơn, để tham gia vào một cách đọc khám phá được chiều sâu thẩm mỹ của văn bản, người đọc phải tự cung cấp cho mình phương tiện, sự chú ý và sự tập trung cần thiết để hình dung hoặc tưởng tượng những gì được mô tả, để “biểu thị” các tình huống hoặc nhân vật.

6. Vì vậy, một tác phẩm văn học dù đã in ra thành sách, cái đối tượng tưởng chừng như đã hoàn thiện và trọn vẹn này vẫn cần tới “một tác nhân bên ngoài” – cụ thể là người đọc – để lấp đầy những khoảng trống và hiện thực hóa mọi chiều kích tiềm năng của nó. Ingarden gọi quá trình này là sự “cụ thể hóa”. Cụ thể hóa một tác phẩm nghệ thuật văn học bao gồm việc làm cho nó tồn tại đầy đủ bằng cách bộc lộ những phẩm chất nhạy cảm hoặc những phẩm chất thẩm mỹ có giá trị (âm thanh hoặc phong cách, nhịp điệu, hòa âm hoặc cảm xúc). Đôi khi tác phẩm cũng có khả năng tiết lộ cho người đọc (khi họ tham gia vào việc tái tạo lại tác phẩm) những phẩm chất siêu hình mà sự chiêm nghiệm của người đọc, theo Ingarden, tạo nên sự vĩ đại và phẩm giá cho sự tồn tại của con người, bởi vì khi đó tác phẩm sẽ cho thấy mức độ mà con người có khả năng vượt lên trên chủ nghĩa kinh nghiệm để đạt đến giá trị lý tưởng hay siêu việt. Ông mô tả hoạt động của người đọc theo những thuật ngữ sau: “Thông qua hoạt động đồng sáng tạo của quá trình đánh giá, người quan sát bắt đầu, như người ta thường nói, “diễn giải” tác phẩm, hay như tôi muốn nói, “tái tạo” tác phẩm theo những đặc tính hiệu quả của nó”.

7. Trong tuyên bố trên, chúng ta tìm thấy điểm cốt lõi trong lý thuyết thẩm mỹ của Ingarden, cái điểm nhấn trong mọi phân tích của ông về các tác phẩm nghệ thuật. Một mặt, ở cấp độ triết học nghiêm ngặt, luận điểm này làm sáng tỏ và biện minh cho sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các phân tích bản thể học và phân tích hiện tượng học các tác phẩm văn học (và rộng hơn là các tác phẩm nghệ thuật nói chung): chính cấu trúc của tác phẩm sẽ đòi hỏi tới hoạt động tiếp nhận của người đọc/ người xem để tồn tại. Hơn thế nữa người đọc không phải là yếu tố thứ yếu, ngẫu nhiên mà ngược lại, họ đóng vai trò thiết yếu và cấu thành trong chính sự tồn tại của tác phẩm, họ thực hiện một quá trình "đồng sáng tạo", gần như ngang bằng với nghệ sĩ. Nói cách khác, sau người nghệ sĩ đã đưa tác phẩm đến với thế giới, người đọc chính là người tiếp tục thổi hồn vào tác phẩm, nếu không có sự tiếp sức này, tác phẩm sẽ trở về với trạng thái hư vô như lúc ban đầu. Nói đến “đồng sáng tạo” là bước vào một quan niệm rất khắt khe về người đọc, bởi vì giờ đây họ phải chịu trách nhiệm về sự sống còn và tính bền vững của tác phẩm. Luận đề này đã được Ingarden nêu rõ vào năm 1929, và thật đáng ngạc nhiên khi lưu ý rằng, Sartre cũng đã bày tỏ mạnh mẽ quan điểm tương tự như vậy vào năm 1948: “Hành động sáng tạo chỉ là một khoảnh khắc trừu tượng và chưa hoàn thiện trong quá trình sản xuất một tác phẩm; Nếu tác giả tồn tại chỉ một mình, anh ta có thể viết mọi điều như anh ta muốn, nhưng tác phẩm ấy chỉ như một đối tượng sẽ không bao giờ nhìn thấy ánh sáng ban ngày […] Nhưng hoạt động viết ngụ ý hoạt động đọc như là tương quan biện chứng của nó và hai hành động liên quan này đòi hỏi hai các tác nhân riêng biệt” (J. P. Sartre, Văn học là gì?, Nguyên Ngọc dịch, NXB. Hội Nhà văn, 1999).

8. Thao tác “cụ thể hóa” này có ý nghĩa chính xác như thế nào, đâu là cốt lõi của hành động đọc? Như tên gọi của nó cho thấy, đó là về việc làm “cụ thể hóa” hoặc nói chính xác hơn là là “hiện thân hóa”, nghĩa là, chuyển từ bộ khung mang tính sơ đồ (được mô tả bằng một số hữu hạn các từ ngữ) sang một tác phẩm "bằng xương bằng thịt", nghĩa là tác phẩm trọn vẹn và được khoác lên mình tất cả vẻ đẹp tinh tế. Sự cụ thể hóa không được phép hiểu như là một sự tìm kiếm phản xạ về ý nghĩa hoặc tầm quan trọng của một tác phẩm, đó là lý do tại sao Ingarden rất hiếm khi nói về sự diễn giải (theo nghĩa đen là một quá trình nhằm mục đích làm cho mọi thứ hướng tới trở nên trực quan, hữu hình, có thể nghe được, có thể hình dung và có thể tưởng tượng được) mà các câu trong văn bản là những sự dẫn dắt đưa tới những gợi ý. Cụ thể hóa là làm cho một phẩm chất, một đặc điểm, một giọng điệu trở nên cụ thể và dễ thấy, đặt chúng gần như trước mắt, như thể chúng được trao tặng trong nhận thức giác quan. Ingarden sử dụng vốn từ vựng trực quan mạnh mẽ và liên tục: mang lại sự xuất hiện, tạo hình, biểu hiện, tiết lộ, đặt dưới mắt, v.v. để nói về tiến trình này. Do đó, việc “đọc” một tác phẩm văn học bao gồm việc hình dung, tưởng tượng, lướt qua các hình ảnh trong tâm trí về các cảnh và nhân vật khác nhau được xây dựng trong văn bản.

9. Trong cuốn Văn học là gì?, Sartre cũng đã nhấn mạnh: "Viết là thu hút người đọc [...] để đối tượng thẩm mỹ xuất hiện". Đối tượng thẩm mỹ mà Sartre muốn nói tới ở đây không chỉ biểu thị các nhân vật trong truyện, địa điểm, bối cảnh, khuôn mặt. Vấn đề cũng không phải là về bản thân câu chuyện, cốt truyện và cái kết của nó. Giá trị thẩm mỹ chính là cái cách thức nhạy cảm mà văn bản dàn dựng một giá trị hoặc một sự thật của sự tồn tại được thể hiện thông qua nhịp điệu của các từ hoặc âm thanh, sự duyên dáng hoặc sự căng thẳng của phép ẩn dụ, màu sắc của bầu không khí được cấu thành bởi các khía cạnh cho phép chúng ta nắm bắt một cách trực quan hơn, cảm xúc hơn những ý nghĩa mà nếu không có chúng thì người đọc sẽ chỉ dừng lại ở mức độ hiểu ý nghĩa của câu chuyện trên bình diện lý thuyết và mang tính chung chung hay trừu tượng.

10. Đối tượng thẩm mỹ là đối tượng cảm tính đòi hỏi phải được xuất hiện và được khám phá ở bên ngoài vùng ý nghĩa của lý tính, do đó nó đòi hỏi ở người đọc một loại trực giác nhất định, tương tự như nhận thức cảm tính, nhưng ở phương thức khác. Ví dụ, cần phải hiểu theo nghĩa nào khi chúng ta nói rằng nhạc sĩ “nhìn thấy” hoặc thậm chí “nghe thấy” một bản hòa âm khi anh ta đọc một bản nhạc? Quả thật đối với người nhạc sĩ, điều đó là thực sự hiện hữu và được thể hiện trực tiếp – nhưng nó lại không phải là thứ gì đó giống như một tầm nhìn hay một thính giác theo nghĩa đen. Mục tiêu của một sự tiếp nhận thẩm mỹ (cho dù đối tượng đó là tác phẩm văn học, âm nhạc hay hội họa) vẫn là sự cấu thành và sự hiến tặng của chính đối tượng thẩm mỹ. Sự xuất hiện này khơi dậy những cảm xúc mạnh mẽ, thậm chí là lòng biết ơn từ phía người đọc, một phản ứng của họ đối với giá trị thẩm mỹ của tác phẩm.

11. Do đó, việc cụ thể hóa/ hóa thân hóa đối với một tác phẩm văn học trước hết là một thách thức đối với các phẩm chất và giá trị thẩm mỹ, diện mạo và sự thừa nhận chúng, bởi vì cũng có những kiểu đọc khác không cho phép thực hiện điều đó, Ingarden phân biệt giữa việc đọc để tiếp nhận các giá trị thẩm mỹ với lối đọc để giải trí như một cách tiêu thụ sản phẩm văn hóa đại trà hay lối đọc mang tính học thuật chỉ quan tâm đến thông tin lịch sử hoặc các chủ đề có trong văn bản (ví dụ: những hiểu biết về cuộc sống của người Hy Lạp cổ đại). Theo ông, đọc thẩm mỹ là cách đọc khi đặt mình vào thái độ thẩm mỹ và hợp tác với văn bản, lắng nghe những chỉ dẫn của văn bản để ủng hộ hành động cụ thể hóa về mặt thị giác hoặc thính giác của những phẩm chất có giá trị. Với thái độ này, người đọc trở thành người mang cái nhìn xuyên thấu, có khả năng nhìn thấy các cảnh tượng, lắng nghe nhịp điệu của chúng theo một cách gần như trực tiếp. Tuy nhiên, để tiếp cận những giá trị thầm mỹ từng bước được hình thành theo cách này, cần phải có sự chuẩn bị sẵn sàng đi kèm với những nỗ lực lớn để tiếp cận văn bản, một sự chú ý (ý hướng tính) không phải tự nhiên mà xuất hiện. Nó sẽ liên quan đến vấn đề "đọc đúng". Và như vậy một vấn đề mới bắt đầu nảy sinh ở đây: thế nào là cách "đọc đúng"? Đây sẽ là nội dung phần tiếp theo sau bài viết này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Roman Ingarden, Connaître une œuvre d'art littéraire (Hiểu biết một tác phẩm nghệ thuật văn chương) Rennes, Presses Universitaires de Rennes, coll. "Æsthetica", 2024.