Danh ngôn
Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.
We need, in every community, a group of angelic troublemakers.
(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)
Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.
It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.
(James Baldwin - No Name in the Street 1972)
Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.
While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.
(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)
Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.
There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.
(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)
Ban Biên tập
Địa chỉ liên lạc:
1. Thơ
tho.vanviet.vd@gmail.com
2. Văn
vanviet.van14@gmail.com
3. Nghiên cứu Phê Bình
vanviet.ncpb@gmail.com
4. Vấn đề hôm nay
vanviet.vdhn1@gmail.com
5. Thư bạn đọc
vanviet.tbd14@gmail.com
6. Tư liệu
vanviet.tulieu@gmail.com
7. Văn học Miền Nam 54-75
vanhocmiennam5475@gmail.com
Tra cứu theo tên tác giả
- A. A. Fadeev
- A. Puskin
- A. T.
- Abdulrazak Gurnah
- Abraham F. Lowenthal
- Ace Le
- Ace Lê
- Adam Gopnik
- Adonis
- Adrian Horton
- Agi Mishol
- Ajar
- Akiko Miki
- Alain Guillemin
- Alan Phan
- Alăng Văn Gáo
- Alăng Văn Giáo
- Albert Camus
- Aldous Huxley
- Aleksandr Griboedov
- Alesandr Blok
- Alex Marshall
- Alex Smith
- Alex Thai
- Alex-Thái Đình Võ
- Alexander Fadeev
- Alexander Solzhenitsyn
- Alexandra Alter
- Alexandre FERON
- Alice Munro
- Alina Lesik
- Alison Flood
- Allen Ginsberg
- Amanda Gorman
- Amartya Sen
- Amelia Glaser
- Amos Oz
- An Nam
- Anatole France
- Anatoly Gavrilov
- Anders Olsson
- André Breton
- André Menras
- André Menras – Hồ Cương Quyết
- André Menras Hồ Cương Quyết
- Andrea Hoa Pham
- Andrea Kendall-Taylor
- Andreas Fulda
- Andreas Wimmer
- Andrew Postman
- Andy Cao
- Anh Anh
- Anh Hồng
- Anh Hồng (nhà thơ)
- Ánh Liên
- Anh Nhi
- Anh Văn
- Anika Zeller
- Anna Akhmatova
- Anna Maria Bracale Ceruti
- Anna Mitchell
- Anne Carson
- Anne Cazaubon
- Anne Hébert
- Anne Henochowicz
- Annie Ernaux
- António Jacinto
- Antôn Nguyễn Trường Thăng
- Archimedes L.A. Patti
- Arlette Quỳnh Anh Trần
- Arnold Schwarzenegger
- Arthur Koestler
- Arty Abel
- Arvind Subramanian
- Augustina
- Aurélie Coulon
- Aurelien Breeden
- Ba Sàm
- Bá Thụ Đàm
- Bạch Cúc
- Bạch Hoàn
- Bách Mỵ
- Bách Thân
- Bạch X. Phẻ
- Bạch Xuân Phẻ
- Bakhtin
- Ban Mai
- Bàn Văn Thòn
- Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
- Bảo Huân
- Bảo La
- Bảo Nhi Lê
- Bảo Ninh
- Bảo Phác
- Bão Vũ
- Barbara Demick
- Bashô
- Batrioldman
- Bauxite Việt Nam
- Bắc Đảo
- Bắc Phong
- Bằng Việt
- BB Ngô
- Bei Dao
- Benjamin Péret
- Benjamin Ramm
- Bertolt Brecht
- Bertrand Russell
- Bettina Rheims
- Bích Ngân
- Biếm họa
- Biên Cương
- Biệt Hiệu
- Bilahari Kausikan
- Bill Hayton
- Billy Collins
- Bình Nguyên Lộc
- Brahma Chellaney
- Branko Milanovic
- Brett Reilly
- Brian Pascus
- Brian Wu
- Brice Pedroletti
- Brodsky
- Bryan
- Bùi An
- Bùi Bảo Trúc
- Bùi Bích Hà
- Bùi Chát
- Bùi Chí Trung
- Bùi Chí Vinh
- Bùi Công Thuấn
- Bùi Công Trực
- Bùi Đức Lại
- Bùi Giáng
- Bùi Hải Quảng
- Bùi Hoàng Tám
- Bùi Hoằng Vị
- Bùi Huệ Chi
- Bui Huy Hoi Bui
- Bùi Mai Hạnh
- Bùi Mạnh Hùng
- Bùi Mẫn Hân
- Bùi Minh Quốc
- Bùi Ngọc Tấn
- Bùi Quang Thắng
- Bùi Suối Hoa
- Bùi Thanh Hiếu
- Bùi Thanh Phương
- Bùi Thanh Tuấn
- Bùi Thụy Băng
- Bùi Tiến An
- Bùi Trân Phượng
- Bùi Trọng Hiền
- Bùi Văn Kha
- Bùi Văn Nam Sơn
- Bùi Việt Sỹ
- Bùi Vĩnh Phúc
- Bùi Xuân Bách
- Bùi Xuân Đính
- Bùi-Viết Văn Đức
- Bulgakov
- Bửu Chỉ
- C.D.
- Cái Lư Hương
- Cái Trọng Ty
- Cam Ly
- Cảnh Chánh
- Cao Bảo Vân
- Cao Bình Minh
- Cao Chi
- Cao Gia An
- Cao Hành Kiện
- Cao Huy Thuần
- Cao Kim Ánh
- Cao La
- Cao Quang Nghiệp
- Cao Tần
- Cao Thị Hồng
- Cao Thu Cúc
- Cao Việt Dũng
- Cao Xuân Hạo
- Cao Xuân Huy
- Carl Bildt
- Carl O. Schuster
- Carlos Assunção
- Carolyn Mary Kleefeld
- Cát Linh
- Cẩm Tú
- Cấn Thị Thêu
- Chan Phuong
- Chanh Tam
- Charles Bo
- Charles Bukowski
- Charles Simic
- Chau Doan
- Chân Minh
- Chân Pháp Xa
- Chân Phương
- Chân Xuân Tản Viên
- Châu Diên
- Châu Hải Đường
- Châu Hồng Thủy
- Châu Hữu Quang
- Chenn
- Chế Diễm Trâm
- Chế Lan Viên
- Chi Mai
- Chi Phương
- Chiêu Dương
- Chiêu Khiêm
- Chiharu Shiota
- Chim Hải
- Chim Trắng
- Chinh Ba
- Chính Tâm
- Chính Vĩ
- Chinua Achebe
- Chơn Không Cao Ngọc Phượng
- Christian Gampert
- Christian Welzel
- Christina Mary Hjortlund
- Christoph Giesen
- Christoph Sator
- Christopher Balding
- Christopher Goscha
- Christy Wampole
- Chu Dương
- Chu Hảo
- Chu Hoạch
- Chu Kim
- Chu Mộng Long
- Chu Quang Tiềm
- Chu Tử
- Chu Văn Lễ
- Chu Văn Sơn
- Chu Vĩnh Hải
- Chu Vương Miện
- Chu Xuân Diên
- Chung Le
- Claire Simon
- Clay Phạm
- Concepcion de Leon
- Connie Hoàng
- Cora Engelbrecht
- Costica Bradatan
- Cổ Ngư
- Cù An Hưng
- Cù Huy Hà Vũ
- Cù Mai Công
- Cù Tuấn
- Cung Minh Huân
- Cung Tích Biền
- Cung Trầm Tưởng
- D. S. Likhachev
- Da Màu
- Dạ Ngân
- Dạ Thảo Phương
- Dã Tượng
- DAD
- Dadolin Murak
- Damien Keown
- Dan Bilefsky
- Dan Slater
- Dana Gioia
- Danh ngôn
- Dani Rodrik
- Daniel Halpern
- Daniel Hautzinger
- Daron Accemoglu
- David Brown
- David Gascoyne
- David Marchese
- David Weinberger
- Ðặng Thơ Thơ
- Demetrio Paparoni
- DEUTSCHE WELLE
- Di
- Di Li
- Diêm Liên Khoa
- Diễm Thi
- Diễm Tường
- Diễn đàn Thế kỷ
- Diệp Duy Liêm
- Diệp Huy
- Ðinh Cường
- Dino Buzatti
- Dipanjan Roy Chaudhury
- Dmitri Prokofyev
- Dmitry Burago
- Dmitry Muratov
- Doãn Cẩm Liên
- Doãn Mạnh Dũng
- Doãn Mẫn
- Doãn Quốc Sỹ
- Dominique Lemieux
- Donald Inglehart
- Donna Ashworth
- Ðỗ Quang Nghĩa
- Ðỗ Quyên
- Du Tử Lê
- Dung Nguyễn
- Dũng Phan
- Dũng Trung Kqd
- Dũng Vũ
- Duy Lam
- Duy Tân
- Duy Thanh
- Duy Thông
- Duyên Anh
- Duyên Khánh
- Dư Hoa
- Dư Kiệt
- Dư Thị Hoàn
- Dư Thu Vũ
- Dương Đại Triều Lâm
- Dương Đình Giao
- Dương Khánh Phương
- Dương Kiền
- Dương Ngạn
- Dương Nghiễm Mậu
- Dương Ngọc Thái
- Dương Như Nguyện
- Dương Phương Vinh
- Dương Thắng
- Dương Thiệu Tước
- Dương Thu Hương
- Dương Thuấn
- Dương Tú
- Dương Tường
- Dương Văn Ba
- Dylan Suher
- Đà Văn
- Đàm Hà Phú
- Đàm Hách Thành
- Đào An Khánh
- Đào Anh Kha
- Đào Công Tiến
- Đào Duy Anh
- Đào Hiếu
- Đào Lê Na
- Đào Ngọc Chương
- Đào Nguyên
- Đào Nguyễn
- Đào Nguyên Phương Thảo
- Đào Như
- Đào Phương Liên
- Đào Quang Toản
- Đào Tấn Phần
- Đào Thái Tôn
- Đào Thị Hương
- Đào Tiến Thi
- Đào Trung Đạo
- Đào Trường Phúc
- Đào Tuấn
- Đào Tuấn Ảnh
- Đào Văn Thuỵ
- Đào Văn Tiến
- Đào Vũ Anh Hùng
- Đặng Anh Đào
- Đặng Bích Phượng
- Đặng Chương Ngạn
- Đặng Đình Cung
- Đặng Đình Mạnh
- Đặng Hà
- Đặng Hải Sơn
- Đặng Hoàng Giang
- Đặng Hồng Nam
- Đặng Hùng Võ
- Đặng Hương Giang
- Đặng Hữu
- Đặng Mai Lan
- Đặng Mậu Tựu
- Đăng Nguyên
- Đặng Phùng Quân
- Đặng Quốc Thông
- Đặng Sơn Duân
- Đặng Thái
- Đăng Thành
- Đặng Thân
- Đặng Thị Hảo
- Đặng Thơ Thơ
- Đặng Tiến
- Đặng Tiến (Thái Nguyên)
- Đặng Trung Nghĩa
- Đặng Túy
- Đặng Văn Dũng
- Đặng Văn Hùng
- Đặng Văn Ngữ
- Đặng Văn Sinh
- Đặng Vũ Vương
- Đặng Xuân Thảo
- Đặng Xuân Xuyến
- Đằng-Giao
- Điểm Thọ
- Đinh Bá Anh
- Đinh Cường
- Đinh Hoàng Thắng
- Đinh Hùng
- Đình Kính
- Đinh Linh
- Đinh Ngọc Thu
- Đinh Phương
- Đinh Phương Thảo
- Đinh Quang Anh Thái
- Đinh Thanh Huyền
- Đinh Thị Như Thúy
- Đinh Trường Chinh
- Đinh Từ Bích Thuý
- Đinh Từ Bích Thúy
- Đinh Văn Đức
- Đinh Vũ Hoàng Nguyên
- Đinh Ý Nhi
- Đinh Yên Thảo
- Đoàn Ánh Thuận
- Đoàn Bảo Châu
- Đoàn Cầm Thi
- Đoàn Công Lê Huy
- Đoàn Hồng Lê
- Đoàn Huy Giao
- Đoàn Huyền
- Đoàn Khắc Xuyên
- Đoàn Lê Giang
- Đoàn Nhã Văn
- Đoàn Thanh Liêm
- Đoan Trang
- Đoàn Tùng Nguyễn
- Đoàn Tử Huyến
- Đoàn Việt Hùng
- Đoàn Xuân Kiên
- Đỗ Anh Hoa
- Đỗ Anh Tuấn
- Đỗ Cao Bảo
- Đỗ Duy Ngọc
- Đỗ Đức
- Đỗ Đức Đông Ngàn
- Đỗ Đức Hiểu
- Đỗ Hòa
- Đỗ Hoàng Diệu
- Đỗ Hồng Ngọc
- Đỗ Hồng Nhung
- Đỗ Hữu Chí
- Đỗ Kh
- Đỗ Kh.
- Đỗ Khiêm
- Đỗ Kim Thêm
- Đỗ Lai Thuý
- Đỗ Lai Thúy
- Đỗ Lê Anh Đào
- Đỗ Mạnh Hoàng
- Đỗ Minh Tuấn
- Đỗ Nghê
- Đỗ Ngọc
- Đỗ Ngọc Thống
- Đỗ Quang Nghĩa
- Đỗ Quang Vinh
- Đỗ Quý Toàn
- Đỗ Quyên
- Đỗ Quỳnh Dao
- Đỗ Thắng Cảnh
- Đỗ Thị Thu Trà
- Đỗ Thiên Anh Tuấn
- Đỗ Trí Vương
- Đỗ Trọng Khơi
- Đỗ Trung Quân
- Đỗ Trường
- Đỗ Tuyết Khanh
- Đồng Chuông Tử
- Đông Hoài
- Đông Hồ
- Đông Kha
- Đông Ngàn Đỗ Đức
- Đông Nghi
- Đức Ban
- Đức Đàm
- Đức Flying Bay
- Đức Hoàng
- Đức Lê
- Đức Phổ
- Đức Tâm
- Đức Tiến
- E. M. Forster
- E.E. Cummings
- E.M. Chernoivanenko
- Eamonn Butler
- Eckart Kleßmann
- Eduardo Galeano
- Edward Hirsch
- Elena Pucillo Truong
- Elias Canetti
- Ellen Bass
- Eloisa Amezcua
- Emiel Roothooft
- Emmanuelle Jardonnet
- Eric Weiner
- Erica Frantz
- Erik Harms
- Erik Korling
- Euan Ward
- Evgheni Dobrenko
- F.N.
- Federico García Lorca
- Feliks Kuznesov
- Filip Lech
- Flanny O’Connor
- Florence Noiville
- Florian Altenhöner
- Francis Fukuyama
- Francis Fukuyma
- Frank Dikötter
- Frank O'Hara
- Frankfurt
- Fred Hiatt
- Friedrich Dürrenmatt
- Friedrich Nietzsche
- Fritz J. Raddatz
- Gabriel García Márquez
- Gaither Stewart
- Gaiutra Bahadur
- Gary Leupp
- Gặp gỡ và trò chuyện
- Georg Bönisch
- Georg Trakl
- George Burchett
- George Orwell
- George Perreault
- George Siemens
- Georges Condominas
- Gerhard Will
- Germain Droogenbroodt
- Giang Dang
- Giang Lại Đức
- Giang Nam
- Giáng Vân
- Giáp Văn Dương
- Gideon Rachman
- Giuse Lê Công Đức
- Goethe
- Gonçalo Fernandes
- Gottfried Benn
- Graham Allison
- Grigory Yudin
- Günter Kunert
- Gyảng Anh Iên
- Hà Duy Phương
- Hà Dương Tuấn
- Hà Dương Tường
- Hà Đình Nguyên
- Hạ Đình Nguyên
- Hà Huy Sơn
- Hà Hương
- Hà Lệ Minh
- Hà Ngọc Hòa
- Hạ Nguyên
- Hà Nguyên Du
- Hà Nhân
- Hà Nhật
- Hà Phạm Phú
- Hà Quang Vinh
- Hà Sĩ Phu
- Hà Thanh Vân
- Hà Thế
- Hà Thị Minh Đạo
- Hà Thúc Sinh
- Hà Thủy Nguyên
- Hà Tùng Long
- Hà Tùng Sơn
- Hà Văn Thịnh
- Hà Văn Thùy
- Hà Vũ Trọng
- Hagi Kenaan
- Hai An Vu
- Hải Hạc
- Hải Ngọc
- Hai Thanh
- Han Dang
- Hàn Giang
- Han Kang
- Hàn Vĩnh Diệp
- Hạnh Nguyên
- Hạnh Phước
- Hạnh Viên
- Hannah Beech
- Hào Thiện Nhân
- Haruki Murakami
- Hân Hương
- Heiko Buschke
- Heinrich Heine
- Henri Michaux
- Henry David Thoreau
- Henry Wadsworth Longfellow
- Heriberto Araújo
- Hermann Hesse
- Hiền Trang
- Hiệp Ikaria
- Hiệu Minh
- Hiếu Tân
- Ho Lai-Ming
- Hòa Bình Lê
- Hoa Níp
- Hoài Hương
- Hoài Nam
- Hoài Phương
- Hoài Thanh
- Hoài Việt
- Hoài Ziang Duy
- Hoan Doan
- Hoàn Nguyễn
- Hoàng Ánh
- Hoàng Anh Tuấn
- Hoàng Cát
- Hoàng Cầm
- Hoàng Chí Hiếu
- Hoàng Chính
- Hoàng Cường Long
- Hoàng Dũng
- Hoàng Dương Tuấn
- Hoàng Đăng Khoa
- Hoàng Đỗ
- Hoàng Đông
- Hoàng Đức Truật
- Hoàng Hà
- Hoàng Hải Thủy
- Hoàng Hải Vân
- Hoảng Hãn
- Hoàng Hưng
- Hoàng Khởi Phong
- Hoàng Kim Oanh
- Hoàng Lại Giang
- Hoàng Lan
- Hoàng Lan Anh
- Hoàng Lan Chi
- Hoàng Lê
- Hoàng Lệ
- Hoàng Linh
- Hoàng Long
- Hoàng Mai Ðạt
- Hoàng Mạnh Hải
- Hoàng Minh Trí
- Hoàng Minh Tường
- Hoàng Nam
- Hoàng Nga
- Hoàng Ngọc Biên
- Hoàng Ngọc Hiến
- Hoàng Ngọc Nguyên
- Hoàng Ngọc Tuấn
- Hoàng Nguyễn
- Hoàng Nguyên Vũ
- Hoàng Nhơn
- Hoàng Nhuận Cầm
- Hoàng Phong Tuấn
- Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Hoàng Quân
- Hoàng Quốc Hải
- Hoàng Thị Hường
- Hoàng Thị Thu Thủy
- Hoàng Thu Phố
- Hoàng Thúy
- Hoàng Thuỵ Anh
- Hoàng Tiến
- Hoàng Trung Thông
- Hoàng Tuấn Công
- Hoàng Tuấn Phổ
- Hoàng Tùng
- Hoàng Tuỵ
- Hoàng Văn Sơn
- Hoàng Việt
- Hoàng Vũ Thuật
- Hoàng Xuân Phú
- Hoàng Xuân Sơn
- Hoàng Xuân Tuyền
- Hoàng Yến
- Horst Bienek
- Howard Gardner
- Hồ Anh Thái
- Hồ Bạch Thảo
- Hồ Bất Khuất
- Hồ Diệu Vân
- Hồ Dzếnh
- Hồ Đắc Vũ
- Hồ Đình Nghiêm
- Hồ Hải Thụy
- Hồ Hữu Tường
- Hồ Minh Tâm
- Hồ Ngọc Đại
- Hồ Như
- Hồ Phú Bông
- Hồ Tịnh Tình
- Hồ Trường An
- Hồ Tú Bảo
- Hội những người ủng hộ GS. Chu Hảo
- Hồng Anh
- Hồng Hoang
- Hồng Lê Thọ
- Hồng Phú
- Huệ Hương Hoàng
- Huguette Bertrand
- Huong Nguyen
- Huy Bảo
- Huy Cận
- Huy Đức
- Huy Tưởng
- Huyền Thương
- Huỳnh Duy Lộc
- Huỳnh Hoa
- Huỳnh Hữu Uỷ
- Huỳnh Hữu Ủy
- Huỳnh Kim Báu
- Huỳnh Kim Quang
- Huỳnh Lê Nhật Tấn
- Huỳnh Liễu Ngạn
- Huỳnh Ngọc Chênh
- Huỳnh Như Phương
- Huỳnh Sơn Phước
- Huỳnh Tấn Mẫm
- Huỳnh Thế Du
- Huỳnh Thục Vy
- Huỳnh Trọng Khang
- Huỳnh Tuấn Anh
- Hứa Chương Nhuận
- Hứa Lập Chí
- Hương Lan
- Hường Thanh
- Hương Thủy
- Hữu Danh
- Hữu Đông
- Hữu Loan
- Hữu Mai
- Hữu Phương
- Ian Bui
- Ian Johnson
- Igor Poglazov
- Ilza Burchett
- Inrasara
- Iris Radisch
- Isabella Kwai
- Issa
- Issac Bashevis Singer
- Italo Calvino
- Iya Kiva
- J. M. Lotman
- J.B Nguyễn Hữu Vinh
- Jacques Attali
- Jacques Prévert
- Jake Johnson
- James Borton
- James Daniel Spears
- James G. Zumwalt
- James Grossman
- James Joyce
- James Poniewozik
- James Stavridis
- James WrightJuan Felipe Herrera
- Janos Kornai
- Jared Carters
- Jason Lopata
- Jason Morris-Jung
- Jay Nordlinger
- Jaya K.
- Jean Chesnaux
- Jean d'Ormesson
- Jean Piaget
- Jean Przyluski
- Jean Toomer
- Jean-Jacques Brochier
- Jean-Jacques Roth
- Jean-Louis Rocca
- Jean-Luc Chalumeau
- Jean-Marc Roberts
- Jean-Patrick Géraud
- Jean-Paul Sartre
- Jefferson Cowie
- Jeffrey Hanfover
- Jeffrey Nall
- Jessica Swoboda
- Jessie Yeung
- Jiayang Fan
- Jimmy Carter
- Joan Hua
- João Guimarães Rosa
- Joaquin Nguyễn Hòa
- John Barrow
- John Cheever
- John Freeman
- John Keane
- John McCain
- Jon Fosse
- Jonathan Dee
- Jonathan London
- Jörg Wischermann
- Jorge Amado
- Jorge Luis Borges
- Joschka Fischer
- Josée Lapointe
- Joseph Wong
- Joseph Wright
- Josh Rogin
- Joshua Rothman
- Juan Pablo Cardenal
- Juan Pablo Cardenal & Heriberto Araújo
- Julia Cagé
- Julio Cortázar
- Jun’ichiro Tanizaki
- Kahil Gibral
- Kai Hoàng
- Kale
- Kalynh Ngô
- Kamel Daoud
- Kao Phú
- Kap Seol
- Karel Appel
- Karen Tongson
- Kate Chopin
- Kazuo Shiraga
- Kenneth Nguyen
- Keorapetse Kgositsile
- Kerstin Holm
- Kều Jang
- Kha Lương Ngãi
- Kha Tiệm Ly
- Khải Đơn
- Khái Hưng
- Khaly Chàm
- Khang Quốc Ngọc
- Khánh
- Khánh Bình
- Khánh Duy
- Khánh Ly
- Khánh Mai
- Khanh Nguyen
- Khanh Pham
- Khánh Phương
- Khánh Trâm
- Khánh Trường
- Khét
- Khế Iêm
- Khiêm Nhu
- Khổng Đức Thiêm
- Khuất Đẩu
- Khuê Phạm
- Khuyết Thư
- Kiệm Hoàng
- Kiến Văn
- Kiệt Anh Hùng
- Kiệt Tấn
- Kiều Duy Vĩnh
- Kiều Loan
- Kiều Mai Sơn
- Kiều Maily
- Kiều Phong
- Kiều Thị An Giang
- Kim Ân
- Kim Chi
- Kim Dung
- Kim Hạnh
- Kim Thúy
- Kim Trần
- Kinh Bắc
- Kính Hòa
- Klaus Wiegerefe
- Kúm
- Kurt-Martin Mayer
- Kỳ Duyên
- Kyoko Numano
- L. N. Tolstoy
- L. V. H.
- La Khắc Hoà
- La Khắc Hòa
- Lã Nguyên
- Lại Nguyên Ân
- Lam Điền
- Lam Hạnh
- Lam Ngọc
- Lam Thái Hòa
- Lan Nguyên
- Lang Anh
- Langston Hughes
- LAP
- Larry Diamond
- Lars Vargö
- Laura Cappelle
- Laurent Sagalovitsch
- Lawrence Ferlinghetti
- Lâm Chương
- Lâm Duyên
- Lâm Hạnh
- Lâm Lê
- Lâm Ngân Mai
- Lâm Quang Mỹ
- Lâm Thị Mỹ Dạ
- Leon Trotsky
- Leonard Cohen
- Lê An Thế
- Lê Anh Hoài
- Lê Anh Hùng
- Lê Ân
- Lê Bá Đảng
- Lê Bích Vượng
- Lê Chiều Giang
- Lê Công Định
- Lê Công Giàu
- Lê Công Tư
- Lê Ðình Nhất Lang
- Lê Dũng
- Lê Duy Nam
- Lê Đạt
- Lê Đăng Doanh
- Lê Đình Cai
- Lê Đình Khẩn
- Lê Đình Thắng
- Lê Đỗ Huy
- Lê Đức Dục
- Lê Đức Thôn
- Lê Giang Trần
- Lê Hải
- Lệ Hằng
- Lê Hiệp
- Lê Hoài Nguyên
- Lê Hoàng Diễm Trang
- Lê Hoàng Lân
- Lê Học Lãnh Vân
- Lê Hồ Quang
- Lê Hồng Hà
- Lê Hồng Hiệp
- Lê Hồng Lâm
- Lê Hùng
- Lê Hùng Vọng
- Lê Huyền Ái Mỹ
- Lê Huỳnh Lâm
- Lê Hữu
- Lê Hữu Khoá
- Lê Hữu Khóa
- Lê Hữu Nam
- Lê Kế Lâm
- Lê Khải
- Lê Kim Duy
- Lê Ký Thương
- Lê Lạc Giao
- Lê Luân
- Lê Mã Lương
- Lê Mai
- Lê Mai Lĩnh
- Lê Mạnh Chiến
- Lê Mạnh Đức
- Lê Minh Chánh
- Lê Minh Hà
- Lê Minh Hiền
- Lê Minh Khuê
- Lê Minh Phong
- Lê Ngân Hằng
- Lê Ngọc Luân
- Lê Ngọc Sơn
- Lê Nguyễn
- Lê Nguyễn Duy Hậu
- Lê Nguyễn Hương Trà
- Lê Nguyên Long
- Lê Nguyên Vỹ
- Lê Như Bình
- Lê Oa Đằng
- Lê Phan
- Lê Phú Khải
- Lê Quang
- Lê Quang Đức
- Lê Quảng Hà
- Lê Quang Hợp
- Lê Quang Thành
- Lê Quân
- Lê Quốc Anh
- Lê Quỳnh
- Lê Quỳnh Mai
- Lê Sa Long
- Lê Si Na
- Lê Sơn
- Lê Tất Đạt
- Lê Tất Điều
- Lê Thanh Dũng
- Lê Thanh Hải
- Lê Thanh Phong
- Lê Thanh Trường
- Lê Thân
- lê thi diem thuý
- Lê Thị Hồng Minh
- Lê Thị Huệ
- Lê Thị Hường
- Lê Thị Oanh
- Lê Thị Thấm Vân
- Lê Thiết Cương
- Lê Thiếu Nhơn
- Lê Thọ Bình
- Lê Thời Tân
- Lê Thời Thôi
- Lê Thu Hiền
- Lê Thúy Bảo Liên
- Lê Tiên Long
- Lê Trí Tuệ
- Lê Trinh
- Lê Trọng Nghĩa
- Lê Trọng Nguyễn
- Lê Trung Tĩnh
- Lê Trường Thanh
- Lê Tuấn Huy
- Lê Tuyết Hạnh
- Lê Văn Bỉnh
- Lê Văn Hảo
- Lê Văn Hiếu
- Lê Văn Hòa
- Lê Văn Luân
- Lê Văn Sơn
- Lê Văn Trung
- Lê Văn Tùng
- Lê Vĩnh Tài
- Lê Vĩnh Triển
- Lê Vũ Trường Giang
- Lê Xuân Khoa
- Lê Xuyên
- Li Edelkoort
- Li Zhongqin
- Liêu Diệc Vũ
- Liêu Thái
- Liễu Trương
- Linh Nguyên
- Linh Văn
- Linh Vân
- Linh-Chân Brown
- LKH
- Lorca
- Louis Aragon
- Louise Glück
- Lộc Vàng
- Luân Hoán
- Ludwig von Mises
- Luke Hunt
- Luke Turner
- Lữ Kiều
- Lữ Quỳnh
- Lương Đào
- Lương Thiệu Quân
- Lương Thư Trung
- Lưu Á Châu
- Lưu Bình Nhưỡng
- Lưu Diệu Vân
- Lưu Đức Trung
- Lưu Hà
- Lưu Hiểu Ba
- Lưu Khánh Thơ
- Lưu Mê Lan
- Lưu Minh Hải
- Lưu Na
- Lưu Nhi Dũ
- Lưu Quang Vũ
- Lưu Thuỷ Hương
- Lưu Thủy Hương
- Lưu Trọng Văn
- Lưu Uyên Khôi
- Lý Đợi
- Ly Hoàng Ly
- Lý Ngang
- Ly Phạm
- Lý Quang Hoàn
- Lý Thanh
- Lý Tiến Dũng
- Lý Toàn Thắng
- Lý Trực Dũng
- Lý Xuân Hải
- Lydia Davis
- Lynh Bacardi
- LysP
- M. Gorky
- M.L. Gasparov
- Mạc Phong Tuyền
- Mạc Văn Trang
- Mạc Việt Hồng
- Mạch Nha
- Mạch Quang Thắng
- Madeleine Riffaud
- Mai An Nguyễn Anh Tuấn
- Mai Anh Tuấn
- Mai Bá Ấn
- Mai Bá Kiếm
- Mai Chanh
- Mai Hiền
- Mai Khôi
- Mai Kim Ngọc
- Mai Nhật
- Mai Ninh
- Mai Quốc Ấn
- Mai Quỳnh
- Mai Quỳnh Nam
- Mai Sơn
- Mai Thái Lĩnh
- Mai Thanh Sơn
- Mai Thảo
- Mai Tú Ân
- Mai Văn Hoan
- Mai Văn Phấn
- Mai Văn Tính
- Maki Starfield
- Mamleev
- Mạnh Kim
- Mão Xuyên
- Marc Andrus
- Marcel Reich-Ranicki
- Marci Shore
- Marco Ferrarese
- Margarita Lyutova
- Maria Donovan
- Maria Ressa
- Mario Vargas Llosa
- Marion Hennebert
- Mark B. Hamilton
- Mark Binelli
- Mark Frankland
- Mark Osaki
- Mark Strand
- Marta Hillers
- Martin Jankowski
- Martin Kulldorff
- Marty Robbins
- Mary Morose
- Mary Walsh
- Mathias Mayer
- Matthew Clayfield
- Matthew Crawford
- Maurice Blanchot
- Maximilian Steinbeis
- May
- Maya Angelou
- Mặc Đỗ
- Mặc Lâm
- Mân Côi
- McAmmond Nguyễn Thị Tư
- Media Văn Việt
- Michael Burawoy
- Michael Scammell
- Miêng
- Mike Ives
- Mikhail Shishkin
- Mikhail Viktorovich Zygar
- Milan Kundera
- Mimmi Diệu Hường Bergström
- MInh Anh
- Minh Huệ
- Minh Hùng
- Minh Luật
- Minh Quang – Lê Chiên
- Minh Quang Ho
- Minh Tâm
- Minh Thùy
- Minh Thư
- Minh Toàn
- Minh Tuấn
- Monica Berlin
- Mỹ Hằng
- Mỹ Lan
- N. S. Khrushchev
- Nam Dao
- Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng
- Nam Đan
- Nam Đông
- Nam Nguyên
- Nam Sơn
- Naowarat Pongpaiboon
- Natalia lacovelli
- Nataliya Zhynkina
- Natsume Sōseki
- Nay Aung
- ng. anhanh
- Ng.Uyển Nicole Dương
- Ngải Vị VỊ
- Ngân Xuyên
- Nghệ thuật
- Nghiêm Lương Thành
- Nghiêm Phương Mai
- Nghiêm Xuân Hồng
- Nghiên Cứu Phê Bình
- Ngo Thu
- Ngọc Anh
- Ngọc Duy Phan
- Ngoc Hien Bui
- Ngọc Linh
- Ngô Anh Tuấn
- Ngô Bảo Châu
- Ngô Đình Thẩm
- Ngô Đồng
- Ngô Hương Giang
- Ngô Khắc Tài
- Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
- Ngô Liêm Khoan
- Ngô Mai Phong
- Ngô Minh
- Ngô Minh Khôi
- Ngô Ngọc Loan
- Ngô Ngọc Trai
- Ngô Nguyên Dũng
- Ngô Nhật Đăng
- Ngô Quốc Phương
- Ngô Quốc Thịnh
- Ngô Thế Vinh
- Ngô Thị Kim Cúc
- Ngô Thị Thanh Lịch
- Ngô Tùng Phong
- Ngô Tự Lập
- Ngô Văn
- Ngô Văn Giá
- Ngô Viết Nam Sơn
- Ngô Viết Trọng
- Ngô Việt Trung
- Ngô Vĩnh Long
- Ngô Xuân Hội
- Ngô Xuân Phúc
- Ngô Xuân Thảo
- Ngu Yên
- Nguyen Duc Thanh
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Anh Dũng
- Nguyễn Anh Tuấn
- Nguyễn Anh Tuấn - đạo diễn
- Nguyễn Bá Chung
- Nguyễn Bách Việt
- Nguyễn Bảo Chân
- Nguyễn Bắc Sơn
- Nguyên Bình
- Nguyễn Bính
- Nguyên Cầm
- Nguyên Cẩn
- Nguyên Chánh
- Nguyễn Chí Hoan
- Nguyễn Chí Thuật
- Nguyễn Chí Trung
- Nguyễn Chí Tuyến
- Nguyễn Chinh Trung
- Nguyễn Cung Thông
- Nguyễn Cường
- Nguyễn Danh Bằng
- Nguyễn Danh Huế
- Nguyễn Danh Lam
- Nguyễn Ðăng Thường
- Nguyễn Duy
- Nguyễn Dương Quang
- Nguyễn Đạt
- Nguyễn Đắc Kiên
- Nguyễn Đắc Xuân
- Nguyễn Đăng Điệp
- Nguyễn Đăng Hưng
- Nguyễn Đăng Khoa
- Nguyễn Đăng Mạnh
- Nguyễn Đăng Na
- Nguyễn Đăng Quang
- Nguyễn Đăng Thường
- Nguyễn Đình Ấm
- Nguyễn Đình Bin
- Nguyễn Đình Bổn
- Nguyễn Đình Chú
- Nguyễn Đình Cống
- Nguyễn Đình Đăng
- Nguyễn Đình Huỳnh
- Nguyễn Đình Thắng
- Nguyễn Đình Thi
- Nguyễn Đình Toàn
- Nguyễn Đổng Chi
- Nguyễn Đông Thức
- Nguyễn Đức
- Nguyễn Đức Dương
- Nguyễn Đức Hiệp
- Nguyễn Đức Mậu
- Nguyễn Đức Sơn
- Nguyễn Đức Thắng
- Nguyễn Đức Tiến
- Nguyễn Đức Tùng
- Nguyễn Đức Tường
- Nguyễn Gia Trí
- Nguyên Giác
- Nguyên Giác Phan Tấn Hải
- Nguyễn Hà Luân
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Hải Yến
- Nguyễn Hàn Chung
- Nguyễn Hiến Lê
- Nguyễn Hoa Lư
- Nguyễn Hoài Nam
- Nguyễn Hoài Văn
- Nguyễn Hoài Vân
- Nguyễn Hoàn
- Nguyễn Hoàn Nguyên
- Nguyễn Hoàng Ánh
- Nguyễn Hoàng Anh Thư
- Nguyễn Hoàng Diệu Thủy
- Nguyễn Hoàng Diệu Thúy
- Nguyễn Hoàng Giao
- Nguyễn Hoàng Linh
- Nguyễn Hoàng Trung
- Nguyễn Hoàng Văn
- Nguyễn Hồng Anh
- Nguyễn Hồng Giao
- Nguyễn Hồng Hưng
- Nguyễn Hồng Lam
- Nguyễn Hồng Nhung
- Nguyễn Hồng Thục
- Nguyễn Huệ Chi
- Nguyễn Hùng
- Nguyễn Huy Hoàng
- Nguyễn Huy Thiệp
- Nguyễn Huy Vũ
- Nguyên Hưng
- Nguyễn Hưng Quốc
- Nguyễn Hương
- Nguyễn Hữu Đễ
- Nguyễn Hữu Hồng Minh
- Nguyễn Hữu Liêm
- Nguyễn Hữu Nhật
- Nguyễn Hữu Sơn
- Nguyễn Hữu Thiết
- Nguyễn Hữu Việt Hưng
- Nguyễn Hữu Vinh
- Nguyễn kc Hậu
- Nguyễn Khải
- Nguyễn Khánh Duy
- Nguyễn Khánh Trường
- Nguyễn Khắc An
- Nguyễn Khắc Bình
- Nguyễn Khắc Mai
- Nguyễn Khắc Ngân Vi
- Nguyễn Khắc Phê
- Nguyễn Khắc Phi
- Nguyễn Khắc Phục
- Nguyễn Khiêm
- Nguyễn Khôi
- Nguyễn Kiến Phước
- Nguyễn Kiều Dung
- Nguyễn Kiều Hưng
- Nguyên Lạc
- Nguyễn Lãm Thắng
- Nguyễn Lan Phương
- Nguyễn Lân Bình
- Nguyễn Lân Thắng
- Nguyễn Lê Hồng Hưng
- Nguyễn Lệ Uyên
- Nguyễn Linh Giang
- Nguyễn Linh Quang
- Nguyễn Lộ Trạch
- Nguyễn Luận
- Nguyễn Lương Hải Khôi
- Nguyễn Lương Ngọc
- Nguyễn Lương Thịnh
- Nguyễn Lương Vỵ
- Nguyễn Mai
- Nguyễn Man Nhiên
- Nguyễn Mạnh An Dân
- Nguyễn Mạnh Côn
- Nguyễn Mạnh Đẩu
- Nguyễn Mạnh Tiến
- Nguyễn Manh Trinh
- Nguyễn Mạnh Trinh
- Nguyễn Mạnh Tuấn
- Nguyễn Mạnh Tường
- Nguyễn Minh Anh
- Nguyễn Minh Hòa
- Nguyễn Minh Kính
- Nguyễn Minh Nhị
- Nguyễn Minh Nhựt
- Nguyễn Minh Thuyết
- Nguyễn Mộng Giác
- Nguyên Ngọc
- Nguyễn Ngọc Chu
- Nguyễn Ngọc Giao
- Nguyễn Ngọc Hoa
- Nguyễn Ngọc Lanh
- Nguyễn Ngọc Liễm
- Nguyễn Ngọc Lung
- Nguyễn Ngọc Tâm
- Nguyễn Ngọc Thiện
- Nguyễn Ngọc Tú Anh
- Nguyễn Ngọc Tư
- Nguyên Nguyên
- Nguyễn Nguyên
- Nguyễn Nguyên Bình
- Nguyễn Nhật Tín
- Nguyên Nhi
- Nguyễn Như Huy
- Nguyễn Phạm Hùng
- Nguyễn Phan Quế Mai
- Nguyễn Phú Yên
- Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
- Nguyễn Phượng
- Nguyễn Phương Đình
- Nguyễn Phương Mai
- Nguyễn Phương Mạnh
- Nguyễn Quang
- Nguyễn Quang A
- Nguyễn Quang Bình
- Nguyễn Quang Duy
- Nguyễn Quang Dy
- Nguyễn Quang Đồng
- Nguyễn Quang Hồng
- Nguyễn Quang Hưng
- Nguyễn Quang Lập
- Nguyễn Quang Thạch
- Nguyễn Quang Thân
- Nguyễn Quang Thiều
- Nguyễn Quang VInh
- Nguyễn Quân
- Nguyễn Quốc Lâm
- Nguyễn Quốc Thái
- Nguyễn Quốc Toàn
- Nguyễn Quốc Trụ
- Nguyễn Quốc Tuấn
- Nguyên Sa
- Nguyễn Sĩ Dũng
- Nguyễn Sơn Lâm
- Nguyễn Sỹ Phương
- Nguyễn Sỹ Tế
- Nguyễn Tà Cúc
- Nguyễn Tài Cẩn
- Nguyễn Tấn Cứ
- Nguyễn Tất Nhiên
- Nguyễn Thạch Giang
- Nguyễn Thái Hòa
- Nguyễn Thái Hợp
- Nguyễn Thái Sơn
- Nguyễn Thái Tuấn
- Nguyễn Thanh Bình
- Nguyễn Thanh Châu
- Nguyễn Thanh Giang
- Nguyễn Thanh Hiện
- Nguyễn Thanh Hùng
- Nguyễn Thanh Huy
- Nguyễn Thanh Huyền
- Nguyễn Thanh Mỹ
- Nguyễn Thành Nam
- Nguyễn Thanh Nghị
- Nguyễn Thanh Nguyệt
- Nguyễn Thành Phong
- Nguyễn Thanh Sơn
- Nguyễn Thành Sơn
- Nguyễn Thanh Tâm
- Nguyễn Thành Thi
- Nguyễn Thanh Tuyền
- Nguyễn Thanh Văn
- Nguyễn Thanh Việt
- Nguyễn Thế Hùng
- Nguyễn Thế Thanh
- Nguyễn Thị Ái Tiên
- Nguyễn Thị Bích Hậu
- Nguyễn Thị Bích Ngà
- Nguyễn Thị Bình
- Nguyễn thị Cỏ May
- Nguyễn Thị Dư Khánh
- Nguyễn Thị Hải
- Nguyễn Thị Hậu
- Nguyễn Thị Hiền
- Nguyễn Thị Hoàng
- Nguyễn Thị Hoàng Bắc
- Nguyễn Thị Hồng
- Nguyễn Thị Khánh Minh
- Nguyễn Thị Khánh Trâm
- Nguyễn Thị Kim Chi
- Nguyễn Thị Kim Phụng
- Nguyễn Thị Minh Ngọc
- Nguyễn Thị Minh Thương
- Nguyễn Thị Ngọc Hải
- Nguyễn Thị Ngọc Nhung
- Nguyễn Thị Oanh
- Nguyễn Thị Phước
- Nguyễn Thị Thanh Bình
- Nguyễn Thị Thanh Hải
- Nguyễn Thị Thanh Lưu
- Nguyễn Thị Thanh Xuân
- Nguyễn Thị Thanh Yến
- Nguyễn Thị Thảo An
- Nguyễn Thị Thúy Hạnh
- Nguyễn Thị Thùy Linh
- Nguyễn Thị Thụy Vũ
- Nguyễn Thị Thuyền
- Nguyễn Thị Tịnh Thy
- Nguyễn Thị Từ Huy
- Nguyễn Thị Vinh
- Nguyễn Thiện Tống
- Nguyễn Thiện Tơ
- Nguyễn Thói Đời
- Nguyễn Thông
- Nguyễn Thu Quỳnh
- Nguyễn Thu Trang
- Nguyễn Thụy Anh
- Nguyễn Thùy Dương
- Nguyễn Thúy Hạnh
- Nguyễn Thụy Long
- Nguyễn Thuỵ Phương
- Nguyễn Thùy Song Thanh
- Nguyễn Thỵ
- Nguyễn Thy Anh
- Nguyễn Tiến Dũng
- Nguyễn Tiến Lập
- Nguyễn Tiến Trung
- Nguyễn Tiến Văn
- Nguyễn Trần Bạt
- Nguyễn Tri Phương Đông
- Nguyễn Triệu Nam
- Nguyễn Trọng Bình
- Nguyễn Trọng Chức
- Nguyễn Trọng Huân
- Nguyễn Trọng Khôi
- Nguyễn Trọng Tạo
- Nguyễn Trung
- Nguyễn Trung Bảo
- Nguyễn Trung Dân
- Nguyễn Trung Hiếu
- Nguyễn Trung Kiên
- Nguyễn Trung Thuần
- Nguyễn Trường Giang
- Nguyễn Trường Huy
- Nguyễn Trường Uy
- Nguyễn Tuấn
- Nguyễn Tuấn Anh
- Nguyễn Tuấn Khoa
- Nguyễn Tùng
- Nguyễn Tùng Linh
- Nguyễn Tuyết Lan
- Nguyễn Tuyết Lộc
- Nguyễn Tư Nghiêm
- Nguyễn Tử Siêm
- Nguyễn Tường Bách
- Nguyễn Tường Thiết
- Nguyễn Tường Thụy
- Nguyễn Ước
- Nguyễn Vạn An
- Nguyễn Vạn Phú
- Nguyễn Văn
- Nguyễn Văn Ba
- Nguyễn Văn Chính
- Nguyễn Văn Ðậu
- Nguyễn Văn Dũng
- Nguyễn Văn Đài
- Nguyễn Văn Gia
- Nguyễn Văn Hạnh
- Nguyễn Văn Hiệp
- Nguyễn Văn Hòa
- Nguyễn Văn Hùng
- Nguyễn Văn Huyên
- Nguyễn Văn Lợi
- Nguyễn Văn Lục
- Nguyễn Văn Miếng
- Nguyễn Văn Nghệ
- Nguyễn Văn Nho
- Nguyễn Văn Phong
- Nguyễn Văn Phú
- Nguyễn Văn Phước
- Nguyễn Văn Sâm
- Nguyễn Văn Sơn
- Nguyễn Văn Tao
- Nguyễn Văn Thiệu
- Nguyễn Văn Thọ
- Nguyễn Văn Trọng
- Nguyễn Văn Trung
- Nguyễn Văn Tuấn
- Nguyễn Văn Vĩnh
- Nguyễn Văn Xuân
- Nguyễn Vi Khải
- Nguyễn Vi Yên
- Nguyễn Viện
- Nguyễn Việt Anh
- Nguyễn Việt Chiến
- Nguyễn Viết Lãm
- Nguyễn Vĩnh Nguyên
- Nguyễn Vũ Hiệp
- Nguyễn Vũ Tiềm
- Nguyễn Vỹ
- Nguyễn Vy Khanh
- Nguyễn Xuân Diện
- Nguyễn Xuân Hằng
- Nguyễn Xuân Hoàng
- Nguyễn Xuân Hưng
- Nguyễn Xuân Khánh
- Nguyễn Xuân Khoát
- Nguyễn Xuân Nghĩa
- Nguyễn Xuân Nha
- Nguyễn Xuân Quang
- Nguyễn Xuân Thiệp
- Nguyễn Xuân Thọ
- Nguyễn Xuân Tiệp
- Nguyễn Xuân Tường Vy
- Nguyễn Xuân Xanh
- Nguyễn Ý Thuần
- Nguyên Yên
- Nguyễn-Chương Mt
- Nguyễn-hòa-Trước
- Nguyệt Chu
- Nguyệt Quỳnh
- Nguyệt Vi
- Ngự Thuyết
- Người Buôn Gió
- Ngyễn Trung Bảo
- Nh. Tay Ngàn
- Nhã
- Nhã Ca
- Nhã Duy
- Nhã Thuyên
- Nhan Do Thanh
- Nhân Hồng
- Nhật Chiêu
- Nhật Lệ
- Nhất Linh
- Nhật Tiến
- Nhật Tuấn
- Nhất Uyên
- Nhị Linh
- Nhị Ngã
- Nhóm Vì một Hà Nội xanh
- Như Huy
- Như Không
- Như Quỳnh
- Như Quỳnh de Prelle
- Như Ý
- Nhược Thủy
- Niall Ferguson
- Nick Hilden
- Nicolas Casey
- Nikulin
- Nina McPherson
- Ninh Dương
- Ninh Kiều
- Nobert Hummelt
- Nông Hồng Diệu
- NP Phan
- Obama
- Ocean Vương
- Octavio Paz
- Ogden Nash
- Oksana Zabuzhko
- Oleg Kashin
- Ondrej Slowik
- onggiaolang
- Orlando Figes
- Orwell
- Oscar Salemink
- Oscar Wilde
- Pablo Neruda
- Pablo Picasso
- Palmer
- Patrick Frater
- Patrick Lodge
- Paul Auster
- Paul Celan
- Paul Éluard
- Paul Hoover
- Paul Mendez
- Paul Mozur
- Paul Theroux
- Paul-François Paoli
- Paulus Lê Sơn
- Pavel Basinsky
- Pavlo Vyshebaba
- Paweł Kubiak
- Pawel Kuczynski
- Paweł Łepkowski
- Percy Mabandu
- Pervez Hoodbhoy
- Peter B. Zinoman
- Peter Hansen
- Peter Harvey
- Peter Kleiner
- Peter Singer
- Phạm Anh Tuấn
- Phạm Biểu Tâm
- Phạm Cao Hoàng
- Phạm Châu
- Phạm Chí Dũng
- Phạm Chi Lan
- Phạm Chu Sa
- Phạm Công Luận
- Phạm Công Thiện
- Phạm Công Trứ
- Phạm Công Út
- Phạm Duy
- Phạm Duy Nghĩa
- Phạm Đình Trọng
- Phạm Đình Vy
- Phạm Đoan Trang
- Phạm Hải Anh
- Phạm Hải Âu
- Phạm Hiền Mây
- Phạm Hoàng Quân
- Phạm Hồng Sơn
- Phạm Hùng Việt
- Phạm Huy Thông
- Phạm Khiêm Ích
- Phạm Kiều Tùng
- Phạm Kỳ Đăng
- Phạm Lệ Quyên
- Phạm Lê Vương Các
- Phạm Linh
- Phạm Lưu Vũ
- Phạm Minh Hoàng
- Phạm Minh Ngọc
- Phạm Minh Quân
- Phạm Minh Trung
- Phạm Ngọc Lư
- Phạm Ngọc Thái
- Phạm Ngọc Tiến
- Phạm Nguyên Trường
- Phạm Ngữ
- Phạm Phan Long
- Phạm Phú Cường
- Phạm Phú Hải
- Phạm Phú Minh
- Phạm Phú Phong
- Phạm Phú Thứ
- Phạm Phú Viết
- Phạm Phúc Thịnh
- Phạm Phương
- Phạm Quang Ái
- Phạm Quang Long
- Phạm Quang Trung
- Phạm Quang Tuấn
- Phạm Sỹ Sáu
- Phạm Tăng
- Phạm Thành
- Phạm Thành Hưng
- Phạm Thanh Nghiên
- Phạm Thảo Nguyên
- Phạm Thế Cường
- Phạm Thị
- Phạm Thị Anh Nga
- Phạm Thị Hoài
- Phạm Thị Kiều Ly
- Phạm Thị Ngọc
- Phạm Thị Phương
- Phạm Thiên Ân
- Phạm Thiên Thư
- Phạm Tín An Ninh
- Phạm Toàn
- Phạm Trần
- Phạm Trọng Chánh
- Phạm Trung Nghĩa
- Phạm Tuấn
- Phạm Tư Thanh Thiện
- Phạm Tường Vân
- Phạm Văn
- Phạm Văn Khoái
- Phạm Văn Quang
- Phạm Văn Tình
- Phạm Văn Vũ
- Pham Viem Phuong
- Phạm Viêm Phương
- Phạm Viết Đào
- Phạm Việt Hưng
- Phạm Vũ Lửa Hạ
- Phạm Xuân Đài
- Phạm Xuân Hùng
- Phạm Xuân Nguyên
- Phạm Xuân Trường
- Phan An Sa
- Phan Ba
- Phan Bội Châu
- Phan Cẩm Thượng
- Phan Châu Thành
- Phan Cự Đệ
- Phan Đạo
- Phan Đắc Lữ
- Phan Đình Diệu
- Phan Độc Lập
- Phan Hải-Đăng
- Phan Hồng Giang
- Phan Huy Dũng
- Phan Huy Đường
- Phan Huy Lê
- Phan Huyền Thư
- Phan Kế Toại
- Phan Khôi
- Phan Lặng Yên
- Phan Mạnh Quỳnh
- Phan Nam Sinh
- Phan Ngọc
- Phan Nguyên
- Phan Nhật Nam
- Phan Nhiên Hạo
- Phan Ni Tấn
- Phan Phương Đạt
- Phan Quang
- Phan Tấn Hải
- Phan Tấn Uẩn
- Phan Thanh Bình
- Phan Thắng
- Phan Thế Hải
- Phan Thị Hà Dương
- Phan Thị Kim Phúc
- Phan Thị Trọng Tuyển
- Phan Thị Vàng Anh
- Phan Thu Vân
- Phan Thúy Hà
- Phan Trang Hy
- Phan Trí Đỉnh
- Phan Trọng Hoàng Linh
- Phan Văn Giưỡng
- Phan Văn Song
- Phan Văn Thắng
- Phan Vũ
- Phan Xine
- Phan Xuân Sinh
- Phannguyên Psg
- Phanxipăng
- Phaolô VI
- Pháp Hoan
- Pháp Vân
- Phapxa Chan
- Phát biểu nhận giải Văn Việt
- Phil Caputo
- Philip Larkin
- Philip Roth
- Phong Âm
- Phong Linh
- Phong Nguyen
- Phong Quang
- Phố Văn
- Phú Quang
- Phù Sa
- Phúc Lai GB
- Phúc Tiến
- Phunchok Stobdan
- Phùng Anh Kiệt
- Phùng Hi
- Phùng Hoài Ngọc
- Phùng Học Vinh
- Phùng Ngọc Kiên
- Phùng Nguyễn
- Phùng Quán
- Phùng Thành Chủng
- Phùng Thị Hạ Nguyên
- Phùng Thị Như Hà
- Phuong Ta
- Phương Hương
- Phương Phương
- Phương Thảo
- Phương Thuý
- Phương Uy
- Pierre Darriulat
- Pierre Lemieux
- Prashanth Parameswaran
- Qladimir Pyljow
- Quách Hạo Nhiên
- Quách Tấn
- Quách Thoại
- Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
- Quang Dũng
- Quang Đức
- Quang Minh
- Quang Phan
- Quảng Tánh Trần Cầm
- Quậy Nguyễn
- Quế Hương
- Quốc Dũng
- Quốc Phương
- Quốc Toản
- Quyên Di
- Quyên Hoàng
- Quỳnh Dao
- Quỳnh Hợp
- Quỳnh Iris de Prelle
- Quỳnh Vi
- Rabindranath Tagore
- Rachel Adams
- Rainer Maria Rilke
- Ralph Chaplin
- Rebecca Mead
- Rebecca Solnit
- Reiner Traub
- Remo Verdickt
- Riccardo Gazzaniga
- Richard C. Paddock
- Richard Millet
- Richard Serra
- Robert Desnos
- Robert McCrump
- Roger Vu
- Roland Barthes
- Romain Rolland
- Ronald F. Inglehart
- Ruben David Gonzalez Gallego
- Russell Edson
- Ruth Ingram
- Ryszard Legutko
- Salman Rushdie
- Salvatore Babones
- Sam Dresser
- Sạn chữ
- Sandra Kerschbaumer
- Sara Teasdale
- Sarah Pulliam Bailey
- Sarah Thornton
- Sáu Nghệ
- Sergio Bitar
- Shakespeare
- Shannon Van Sant
- Sheikha A
- Sheila Fischman
- Sheila Ngoc Pham
- Sheri Berman
- Shigeeda Yutaka
- Shirin Ebadi
- Shukshin
- Simon Johnson
- Sire Apm Lukwesa
- Slavoj Žižek
- Sohaniim
- Son Kieu Mai
- Song Chi
- Song Hà
- Song Nguyễn
- Song Phạm
- Song Phan
- Song Thao
- Số đặc biệt
- Sơn Ca
- Sơn Hoàng Liên
- Sơn Kiều Mai
- Sơn Nam
- Stefan Dege
- Stefano Harney
- Stephan Koester
- Stephen B. Young
- Steve Earle
- Susan Sontag
- Suzuki Katsuhiko
- Sương Nguyệt Minh
- Sương Quỳnh
- Svetlana Alexievich
- Svetlana Alexievitch
- Svetlana Alexiévitch
- Sylvia Plath
- T. Đ.
- T.Vấn
- Tạ Anh Thư
- Tạ Chí Đại Trường
- Tạ Duy Anh
- Tạ Tỵ
- Tạ Văn Tài
- Tạ Văn Thông
- Tạ Xuân Hải
- Tadeusz Rósewicz
- Tam Ích
- Tamarchenko
- Tàn Tuyết
- Tanaami Keiichi
- Taras Shevchenko
- Tarik Khaldi
- Tawada Yoko
- Tăng Quang
- Tâm An
- Tâm Bình
- Tâm Chánh
- Tâm Don
- Tâm Thường Định
- Tâm Việt
- Tấn An
- Teolinda Gersão
- Teresa Mỹ Chúc
- Thạch Đạt Lang
- Thạch Quỳ
- Thạch Thảo
- Thái Bá Tân
- Thái Bá Vân
- Thái Bảo
- Thái Hà
- Thái Hạo
- Thái Kế Toại
- Thái Kim Lan
- Thái Ngọc San
- Thái Sinh
- Thái Thanh
- Thái Thăng Long
- Thái Tuấn
- Thái Văn
- Thái Văn Đào
- Thái Vũ
- Thạnh Đà
- Thanh Hằng - Anh Khoa
- Thành Lộc
- Thanh Nam
- Thanh Ngọc
- Thanh Phương
- Thanh Tâm Tuyền
- Thanh Thảo
- Thanh Thuỷ
- Thanh Trúc
- Thanh Tùng
- Thanh Xuân
- Thanhhà Lại
- Thảo Dân
- Thao Dinh
- Thảo luận
- Thảo Nguyên
- Thảo Trường
- Thảo Vy
- Thẩm Đống
- Thận Nhiên
- Thân Trọng Mẫn
- Thân Trọng Sơn
- Thế Dũng
- Thế Giang
- Thế Quân
- THẾ THANH
- Thế Uyên
- Thi Hoàng
- Thi Nguyên
- Thi sỹ ỦA
- Thi Vũ
- Thích Nhất Hạnh
- Thích Nữ Chân Không
- Thích Phước An
- Thierry Leclère
- Thierry Lentz
- Thiên Di
- Thiên Điểu
- Thiền Lâm
- Thiền Nguyễn
- Thiên Thai
- Thiện Tùng
- Thiện Ý
- Thiết Thạch
- Thiếu Khanh
- Thiều Mai Lâm
- Tho Nguyen
- Thomas A. Bass
- Thomas Bo Pedersen
- Thomas Mahler
- Thomas S. Mullaney
- Thông Đặng
- Thơ
- Thu Phong
- Thu Vàng
- Thuận
- Thuần Ngô
- Thuận Paris
- Thuận Thiên
- Thục Quyên
- Thụy An
- Thùy Dung
- Thụy Khuê
- Thùy Linh
- Thụy My
- Thủy Tiên
- Thư Bạn Đọc
- Thường Quán
- Thy An
- Tịch Ru
- Tiet Hung Thai
- Tiêu Dao Bảo Cự
- Tiêu Kiện Sinh
- Tiểu Tử
- Tillman Miller
- Timothy Brennan
- Timothy Garton Ash
- Timothy Snyder
- Tina Hà Giang
- Tom Fawthrop
- Tomas Tranströmer
- Tô Đăng Khoa
- Tô Hải
- Tô Hoàng
- Tố Hữu
- Tô Lan Hương
- Tô Ngọc Vân
- Tô Thẩm Huy
- Tô Thùy Yên
- Tô Văn Trường
- Tôi Đây
- Tôn Thất Thông
- Tống Văn Công
- Trà Đóa
- Trà Nhiên
- Tracy K. Smith
- Tran Dinh Dung
- Tran Nam Dung
- Trang Châu
- Trang Hạ
- Trang Thanh
- Trang Thế Hy
- Trangđài Glassey Trầnguyễn
- Trangđài Glasssey-Trầnguyễn
- Trao đổi
- Trầm Tử Thiêng
- Trần Anh Hùng
- Trần Bá Đại Dương
- Trần Bang
- Trần Bình Nam
- Trần C. Trí
- Trần Cao Lĩnh
- Trần Cao Tường
- Trần Công Tâm
- Trần Công Tín
- Trần Dạ Từ
- Trần Dần
- Trần Doãn Nho
- Trần Dũng Thanh Huy
- Trần Duy
- Trần Duy Phiên
- Trần Duy Trung
- Trần Đăng Khoa
- Trần Đăng Tuấn
- Trần Đĩnh
- Trần Đình Bút
- Trần Đình Hoành
- Trần Đình Lương
- Trần Đình Sơn Cước
- Trần Đình Sử
- Trần Đình Triển
- Trần Đình Trợ
- Trần Độ
- Trần Đồng Minh
- Trần Đức Anh Sơn
- Trần Đức Thảo
- Trần Đức Tiến
- Trần Đức Tín
- Trần Đức Toản
- Trần Gia Huấn
- Trần Gia Ninh
- Trần Hà Linh
- Trần Hạ Tháp
- Trần Hạ Vi
- Trần Hải
- Trần Hạnh
- Trần Hậu
- Trần Hoài Anh
- Trần Hoài Thư
- Trần Hoàng Phố
- Trần Hoàng Trúc
- Trần Hoàng Vy
- Trần Hùng
- Trần Huy Bích
- Trần Huy Minh Phương
- Trần Huy Quang
- Trần Huỳnh Duy Thức
- Trần Hữu Dũng
- Trần Hữu Khánh
- Trần Hữu Quang
- Trần Hữu Tá
- Trần Hữu Thục
- Trần Khánh Triệu
- Trần Kiêm Đoàn
- Trần Kiêm Trinh Tiên
- Trần Kim Trắc
- Trần Kỳ Trung
- Trần Lam
- Trần Lê Sơn Ý
- Trần Lương
- Trần Lý Trí Tân
- Trần Mạnh Hảo
- Trần Mạnh Tuấn
- Trần Minh Phi
- Trần Minh Quốc
- Trần Mộng Tú
- Trần Nam Bình
- Trần Ngân Hà
- Trần Nghi Hoàng
- Trần Ngọc Cư
- Trần Ngọc Hiếu
- Trần Ngọc Tuấn
- Trần Ngọc Vương
- Trần Nguyên Đán
- Trần Nhã Thụy
- Trần Nhương
- Trần Phong Giao
- Trần Phong Vũ
- Trần Quang Đức
- Trần Quang Lộc
- Trần Quốc Nam
- Trần Quốc Thuận
- Trần Quốc Toàn
- Trần Quốc Trọng
- Trần Quốc Vượng
- Trần Quyết Thắng
- Trân Sa
- Trần Song Hào
- Trần Thành
- Trần Thanh Ái
- Trần Thanh Cảnh
- Trần Thanh Huy
- Trần Thanh Vân
- Trần Thắng
- Trần Thế Vĩnh
- Trần Thị Băng Thanh
- Trần Thị Diệu Tâm
- Trần Thị Lai Hồng
- Trần Thị Lam
- Trần Thị NgH.
- Trần Thị Nguyệt Mai
- Trần Thị Phương Phương
- Trần Thị Thanh Thoả
- Trần Thị Trường
- Trần Thiện Đạo
- Trần Thùy Mai
- Trần Tiến
- Trần Tiễn Cao Đăng
- Trần Tiến Dũng
- Trần Tiễn Khanh
- Trần Tố Nga
- Trần Trọng Dương
- Trần Trọng Thức
- Trần Trọng Vũ
- Trần Trung Chính
- Trần Trung Đạo
- Trần Tuấn
- Trần Từ Mai
- Trần Vàng Sao
- Trần Văn Chánh
- Trần Văn Đỉnh
- Trần Văn Khê
- Trần Văn Minh
- Trần Văn Nam
- Trần Văn Thọ
- Trần Văn Thủy
- Trần Văn Tý
- Trần Vấn Lệ
- Trần Việt Hà
- Trần Viết Ngạc
- Trần Vinh Dự
- Trần Vũ
- Trần Vũ Hải
- Trần Vương Thuấn
- Trần Vương Thuận
- Trần Wũ Khang
- Trần Xuân Hoài
- Trần Xuân Linh
- Trần Xuân Lĩnh
- Trần Xuân Thảo
- Trần Yên Hòa
- Trần Yên Nguyên
- Trên
- Trên Facebook
- Trên Facebook/Minds
- Trên kệ sách
- Trên trang diaCRITICS
- Trí Hiệu Dân
- Triều Anh
- Triều Hoa Đại
- Triêu Nhan
- Triều Sơn
- Triệu Tử Dương
- Trịnh Anh Tuấn
- Trịnh Bá Phương
- Trịnh Bách
- Trịnh Cao Hòa Thanh
- Trịnh Chu
- Trịnh Công Sơn
- Trịnh Cung
- Trịnh Duy Kỳ
- Trịnh Hữu Long
- Trịnh Kim Tiến
- Trịnh Lữ
- Trịnh Minh Tuấn
- Trịnh Sơn
- Trịnh Thanh Thủy
- Trịnh Thu Tuyết
- Trịnh Vĩnh Phúc
- Trịnh Xuân Thuận
- Trịnh Xuân Thủy
- Trịnh Y Thư
- Trọng Anh
- Trọng Phú
- Trọng Thành
- Tru Sa
- Trúc Giang
- Trúc Thông
- Trúc Ty
- Trump
- Trung Bảo
- Trung Dũng Kqd
- Trùng Dương
- Trung Trung Đỉnh
- Trư Sa
- Trường An
- Trương Anh Ngọc
- Trương Anh Thụy
- Trương Chính
- Trương Duy Nhất
- Trương Đăng Dung
- Trương Điện Thắng
- Trương Đình Phượng
- Trương Hồng Quang
- Trương Huy San
- Trường Minh
- Trương Ngọc Chương
- Trương Nguyên
- Trương Nguyện Thành
- Trương Nhân Tuấn
- Trương Phượng
- Trương Quang
- Trương Quang Đệ
- Trương Quang Nhuệ
- Trương Quang Vĩnh
- Trương Thị Ngọc Hân
- Trương Thiên Phàm
- Trương Thu Hiền
- Trương Tố Hoa
- Trương Trọng Nghĩa
- Trương Tửu
- Trương Văn Dân
- Trương Văn Vĩnh
- Trương Vũ
- Trương Xuân Thiên
- Tú Mỡ
- Tù Quốc Hoài
- Tù Sâm
- Tú Trung Hồ
- Tuấn Duy
- Tuấn Khanh
- Tuân Nguyễn
- Tuấn Thảo
- Tuệ Anh
- Tuệ Đăng
- Tuệ Nguyên
- Tuệ Nhân
- Tuệ Nhật
- Tuệ Sĩ
- Tuệ Sỹ
- Tùng Dương Cola
- Tung Nguyen
- Turner
- Túy Hồng
- Tuyết Nghi
- Tư
- Từ Dung
- Tư liệu
- Tử Linh
- Từ Mai Trần Huy Bích
- Từ Quốc Hoài
- Từ Sâm
- Từ Thức
- Tưởng
- Tương Lai
- Umberto Eco
- Uông Tăng Kỳ
- Uông Triều
- Uyển Ca
- Uyên Nguyễn
- Uyên Thao
- Uyên Vũ
- V. Erofiev
- Vàng A Giang
- Varlam Shalamov
- Vasco Gargalo
- Vasily Makarovich
- Văn
- Văn Biển
- Văn Cao
- Văn Chinh
- Văn Công Hùng
- Văn Giá
- Văn học
- Văn học Miền Nam 54-75
- Văn Như Cương
- Văn Quang
- Văn Tâm
- Văn Việt
- Văn.
- Vấn đề hôm nay
- Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016
- Vân Hạ
- Vân Phi
- Velcrow Ripper
- Veronica Melkozerova
- Vi Lãng
- Vi Trần
- Vi Yên
- Viet Thanh Nguyen
- Viên Linh
- Việt Bách
- Việt Bình
- Việt Dzũng
- Việt Khang
- Việt Lang
- Việt Phương
- Viktor Maslov
- Vinh Anh
- Vĩnh Hảo
- Vĩnh Quyền
- Virginia Heffernan
- Virginia Woolf
- Vladimir Nabokov
- Võ An Đôn
- Võ Anh Minh
- Võ Anh Thơ
- Võ Bá Cường
- Võ Đắc Danh
- Võ Định Hình
- Võ Đức Phúc
- Võ Hồng
- Võ Huy Tâm
- Võ Hương Quỳnh
- Võ Kỳ Điền
- Võ Ngàn Sông
- Võ Phiến
- Võ Thị Hảo
- Võ Thị Thu Hằng
- Võ Tiến Cường
- Võ Tòng Xuân
- Võ Trí Hảo
- Võ Văn Quản
- Võ Văn Tạo
- Võ Văn Thôn
- Võ Xuân Quế
- Võ Xuân Sơn
- Volker Weidermann
- Volodymyr Vynnychenko
- Volodymyr Zelenskyy
- Vũ Bằng
- Vũ Biện Điền
- Vũ Cao Đàm
- Vũ Cát Tường
- Vũ Đình Hòe
- Vũ Đình Huỳnh
- Vũ Đình Liên
- Vũ Đình Phòng
- Vũ Đức Khanh
- Vũ Đức Phúc
- Vũ Đức Sao Biển
- Vu Gia
- Vũ Hà Văn
- Vũ Hạnh
- Vũ Hoàng Chương
- Vũ Hoàng Thư
- Vũ Hồng Ánh
- Vũ Huy Ngọc
- Vũ Huy Quang
- Vũ Khắc Hoè
- Vũ Khắc Khoan
- Vũ Kim Hạnh
- Vũ Kim Thu
- Vũ Lâm
- Vũ Lập Nhật
- Vũ My Lan
- Vũ Ngọc Giao
- Vũ Ngọc Hoàng
- Vũ Ngọc Tâm
- Vũ Ngọc Tiến
- Vũ Nho
- Vũ Oanh
- Vũ Quang Việt
- Vũ Quí Hạo Nhiên
- Vũ Quốc Ngữ
- Vũ Quỳnh Hương
- Vũ Quỳnh Nh.
- Vũ Thành Sơn
- Vũ Thanh Tâm
- Vũ Thanh Tùng
- Vũ Thành Tự Anh
- Vũ Thế Khôi
- Vũ Thị Hải
- Vũ Thị Nhuận
- Vũ Thị Phương Anh
- Vũ Thị Phương Lan
- Vũ Thị Thanh
- Vũ Thị Thanh Mai
- Vũ Thư Hiên
- Vũ Tiến Lập
- Vũ Trọng Khải
- Vũ Trọng Phụng
- Vũ Tuấn Hoàng
- Vũ Từ Trang
- Vũ Tường
- Vũ Viết Tuân
- Vũ Xuân Tửu
- Vương Bích Ngọc
- Vương Đan
- Vương Hỗ Ninh
- Vương Huy
- Vương Ngọc Minh
- Vương Tiểu Nhị
- Vương Trí Nhàn
- Vương Trọng
- Vương Trùng Dương
- Vương Trung Hiếu
- Vy Thảo
- W. H. Auden
- Wa Praong
- Walt Whitman
- Walter Isaacson
- Wayne Karlin
- Wells
- Wendy Barker
- Wilhelm Schmid
- Will Nguyen
- William Carlos Williams
- William Nee
- William Stafford
- William Stanley Merwin
- Winston Phan Đào Nguyên
- Wislawa Szymborska
- Wolf Biermann
- Wolfgang Borchert
- Wynn Gadkar Wilcox
- Xie Tao
- Xuân Ba
- Xuân Diệu
- Xuân Dương
- Xuân Đài
- Xuân Minh
- Xuân Phượng
- Xuân Sách
- Xuân Thọ
- Xuân Vũ
- Xương Văn
- Y Chan
- Ý Nhi
- Y Uyên
- Yanis Varoufakis
- Yevgeny Yevtushenko
- Yên Ba
- Yên Khắc Chính
- Yến Năng
- Yên San
- Yên San Thụy Miên
- Yên Thao
- Yiyun Li
- Yoko Ogawa
- Yōko Ogawa
- Yoko Tawada
- Young Sang Lee
- Yuliya Ilchuk
- Yuno Bigboi
- Yves Sintomer
- Yvette Tan
- Zac Herman
Lịch sử truyền giáo và chữ quốc ngữ (19)
Thụy Khuê
Chương 10
Vua Gia Long và Giám mục Bá Đa Lộc
Vua Gia Long
Khi Giám mục Bá Đa Lộc đưa hoàng tử Cảnh từ Pháp về tới Gia Định, vấn đề đạo Gia Tô được đề ra, trầm trọng và dứt điểm, chỉ vì một sự kiện nhỏ, nhưng có tấm vóc lớn: Tháng 7-1789, trong buổi lễ long trọng đón tiếp hoàng tử từ Pháp trở về, cậu bé chín tuổi, người sẽ nối nghiệp cha làm vua nước Việt, không chịu lạy trước bàn thờ tổ tiên.
Ngày hôm sau, Giám mục Bá Đa Lộc bị triệu hồi lên điều trần với vua về sự kiện này.
Nguyễn Vương thông báo cho Giám mục biết: điều kiện để đạo Gia-Tô được chấp nhận ở nước Việt là phải tôn trọng việc Thờ cúng tổ tiên.
Và đó là lý do chính của việc nhà Nguyễn bãi lệnh ân xá cho đạo Chúa của Định Vương Nguyễn Phước Thuần, ban hành năm 1774: kể từ tháng 7 năm 1789, Nguyễn Vương không công nhận đạo Gia Tô sau khi hoàng tử Cảnh không chịu lễ trước bàn thờ tổ. Quyết định này (tuy không có dụ cấm đạo đi kèm) kéo dài trong suốt triều đại nhà Nguyễn, từ Gia Long sang Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Các thừa sai cố tình không nhắc đến việc này, rồi sử gia thuộc địa đưa ra những thông tin hoàn toàn bịa đặt: Gia Long vì nhớ ơn Bá Đa Lộc và nước Pháp, đã đem quân đội và khí giới giúp ông khôi phục lại nhà Nguyễn, nên đã cho đạo Chúa được truyền giảng tự do. Sử gia Charles Gosselin còn tạo ra một Gia Long sẵn sàng “bán nước” cho Pháp vô điều kiện, và tỏ ý nuối tiếc vị vua “vĩ đại” này: nếu những người kế vị ông, không “ngu xuẩn”, thì nước Pháp đã chiếm được Việt Nam không cần chiến tranh và thực hiện “giấc mơ cao quý” của vị “giám mục yêu nước” Bá Đa Lộc, là Gia Tô hóa nước Nam.[1]
Sự thực lịch sử như thế nào?
Trước khi tìm hiểu xem đạo Chúa có được truyền giảng tự do dưới thời Gia Long hay không, chúng tôi xin tóm tắt lại việc truyền giáo ở nước ta, trong 160 năm, từ khi các giáo sĩ Dòng Tên đầu tiên vào Đàng Trong (1615) tới khi Giám mục Bá Đa Lộc được gửi đến Nam Hà (1775).
Các giáo sĩ Dòng Tên đến Đại Việt
Đàng Trong là nơi các giáo sĩ Dòng Tên Ý và Bồ đầu tiên đến Đại Việt, bắt đầu từ năm 1615, trải qua các thời: chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635), chúa Thượng Nguyễn Phước Lan (1635-1648), chúa Hiền Nguyễn Phước Tần (1648-1687), chúa Nghiã Nguyễn Phước Trăn (1687-1691), Quốc chúa Nguyễn Phước Chu (1691-1725), Định quốc Nguyễn Phước Trú (1725-1738), Võ Vương Nguyễn Phước Khoát (1738-1765) và Định Vương Nguyễn Phước Thuần (1765-1777), việc truyền giáo lần lượt được các giáo sĩ sau đây phụ trách:
Francesco Buzomi (Ý), khai trương việc truyền giáo ở Đàng Trong (1615) với Francesco de Pina (Bồ, 1617) và Cristoforo Borri (Ý, 1618). Buzomi quản trị việc truyền giáo ở Đàng Trong tới năm 1639, khi chúa Thượng ra lệnh trục xuất tất cả các giáo sĩ về Macao.
Alexandre de Rhodes (đến Đà Nẵng lần đầu năm 1624, ra Đàng Ngoài năm 1627, rồi bị gọi về Macao trong 10 năm). Kể từ 1640 đến 1645, trốn vào Đàng Trong bốn lần, đến 1645 bị bắt và bị trục xuất hẳn. Về tới Roma năm1649, de Rhodes in các sách thổi phồng việc “giết đạo” ở Đại Việt, tố cáo sự “độc hại” của Tam giáo, đặc biệt đạo Phật và xin Tòa thánh cho Pháp thay thế Bồ trong việc quản trị truyền giáo ở Đông Á.
Hè 1657, đại diện Bồ bị đuổi khỏi Roma. Năm sau, Giáo hoàng Alexandre VII duyệt y kế hoạch của de Rhodes: Ngày 27-8-1658, ra lệnh Pháp thay thế Bồ điều khiển việc truyền giáo ở Á đông, tấn phong ba Đại diện Tông tòa Pháp: Giám mục Pallu (Đàng Ngoài), Giám mục Lambert de la Motte (Đàng Trong) và Giám mục Cotolendi (Nam Kinh), nhưng Pallu không vào được Thăng Long, Cotolendi qua đời trên đường sang Trung Quốc. Năm năm sau, Hội Thừa Sai Paris được thành lập.
Ở Đàng Trong, những nhà truyền giáo sau đây thay phiên nhau hoạt động:
Giám mục Lambert de la Motte (1658-1679), Linh mục Mahot và de Courtaulin (1679-1682), Giám mục Mahot (1682-1684), Linh mục Labbé và Forget (1684-1691) điều hành cùng Giám mục Pérez (1687-1728), Giám mục Alexandre de Alexandris (1728-1738), Giám mục de la Baume, Khâm sai tuần duyệt (Visiteur apostolique) (1737-1741), Giám mục Lefèbvre (1741-1760), Giám mục Piguel (1760-1771), Giám mục Pigneaux de Behaine tức Bá Đa Lộc (1775-1799).
Ở Đàng Ngoài, năm 1664, chúa Trịnh Tạc (1657-1682) ra sắc lệnh cấm đạo đầu tiên, trả lời lệnh cấm Nghi lễ của Vatican truyền đi từ năm 1645. Tuy nhiên, các chúa Trịnh Căn (1682-1709), Trịnh Cương (1709-1729), Trịnh Giang (1729-1740), Trịnh Doanh (1740-1767), Trịnh Sâm (1767-1782), Trịnh Cán (làm chúa 2 tháng), Trịnh Khải (1783-1786), không chính thức ra dụ cấm, nên đạo Chúa vẫn phát triển ở miền Bắc và xây dựng được những vùng đạo nổi tiếng như Bùi Chu, Phát Diệm... là những trung tâm Công giáo lớn nhất của Việt Nam.
Việc quản trị giáo dân miền Bắc không có nhiều thay đổi: Pallu không đến được Thăng Long, nhưng giáo sĩ François Deydier vào lọt từ năm 1666, truyền đạo cùng với Jacques de Bourges. Năm 1693, Deydier mất ở Phố Hiến, Hưng Yên, de Bourges tiếp tục nhiệm vụ đến khi qua đời năm 1714. Giám mục Belot tiếp nối (1714-1717).
Cuốn Lịch sử truyền giáo ở Bắc kỳ của Launay có nói tới lệnh cấm đạo của quan Tổng trấn Phố Hiến năm 1694[2] và Launay dừng lại ở năm 1717, khi Giám mục Belot qua đời.
Cuốn La Cochinchine religieuse (Đạo giáo ở nước Nam) của Louvet không nói đến tình hình ngoài Bắc, cho nên ta có thể hiểu rằng, sau dụ cấm đạo 1664 của chúa Trịnh Tạc, các chúa Trịnh kế tiếp không ra lệnh cấm đạo.
Có mười sáu sự kiện quan trọng, cần được lưu ý:
1- Năm 1639 chúa Thượng Nguyễn Phước Lan (1635-1648) trục xuất tất cả giáo sĩ về Macao.
2- Năm 1649, Alexandre de Rhodes trở về Roma, viết ba lá thư cầu xin Pháp hoàng đem quân chinh phục Đại Việt, để Gia Tô hóa Đàng Ngoài và Đàng Trong. Ba lá thư này được công bố dưới hình thức Tựa ba cuốn sách: Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài, Cái chết vinh hiển của André và Du hành và truyền giáo, có nội dung xuyên tạc và phỉ báng Tam giáo, đặc biệt đạo Phật và tố cáo việc lạy xác mẹ cha và cúng giỗ tổ tiên là mê tín dị đoan, tôn thờ ma quỷ. Nhưng tồi tệ nhất là việc de Rhodes bịa đặt ra câu chuyện Thế tử Nguyễn Phước Tần, Trấn thủ Quảng Nam “xử tử” thầy giảng thiếu niên André Phú Yên để có vị “thánh tử đạo đầu tiên” ở Đại Việt[3].
3-Năm 1670, thầy giảng Lữ Y Đoan công bố tác phẩm thơ Nôm Sấm truyền ca, bản Kinh Thánh viết theo truyền thống tư tưởng Đông phương.
4- Năm 1675, chúa Hiền Nguyễn Phước Tần (1648-1687) cho phép Giám mục Lambert de la Motte đến Đàng Trong, tự do giảng đạo.
5- Năm 1690, chúa Nghiã Nguyễn Phước Trăn (1687-1691) ra dụ cấm đạo trở lại, nhưng không gắt gao, nên từ 1690 đến 1750, đạo Chúa vẫn được truyền giảng ở Đàng Trong.
6- Năm 1731, Giám mục Alexandre de Alexandris (1728-1738) ra lệnh tịch thu Sấm truyền ca của Lữ Y Đoan. Alexandris chết rất lạ lùng. Launay viết: “Cái chết của Alexandris gây tiếng đồn, hỡi ôi! đồn gì! Những người công giáo vẫn còn xầm xì... Thấy ông ta chết cứng trong giường; người ta đã đem chôn không kèn trống[4].”
7- Năm 1750, Võ Vương Nguyễn Phước Khoát (1738-1765) ra sắc lệnh cấm đạo, trục xuất giáo sĩ và bỏ tù các thầy tu không chịu bỏ đạo.
8- Ngày 22-4-1774, Định Vương Nguyễn Phước Thuần (1765-1777) ký sắc lệnh ân xá cho tất cả các giáo sĩ bị tù từ năm 1749 và cho họ được quyền tự do giảng đạo.
9- Sau lệnh ân xá của Định Vương, tháng 9-1774, Bá Đa Lộc được cử đi Nam Hà (tức Đàng Trong), ông đến Hà Tiên ngày 12-3-1775.
10- Năm 1777, Nguyễn Huệ diệt chúa Nguyễn: giết Tân Chính Vương (19-9-1777), giết Định Vương Nguyễn Phước Thuần (18-10-1777). Một mình Nguyễn Ánh trốn thoát, được linh mục Hồ Văn Nghị, người thân cận của Bá Đa Lộc cứu giúp. Bá Đa Lộc gặp Nguyễn Ánh.
11- Năm 1783, Nguyễn Ánh gửi hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện.
12- Tháng 1-1789, Vua Quang Trung đại phá quân Thanh.
13- Tháng 7-1789, Cách mạng Pháp lật đổ Vương quyền Công giáo. Hội Thừa Sai Paris phải chạy sang Anh. Các giáo sĩ Pháp trốn ra nước ngoài. Hoạt động thừa sai ở Đại Việt bị tê liệt.
14- Tháng 7-1789, Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh trở về Gia Định. Hoàng tử không chịu lạy trước bàn thờ tổ tiên: Nguyễn Vương không chấp nhận đạo Gia Tô.
15- Tháng 5-1802, Nguyễn Vương lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long. Năm 1804, đặt quốc hiệu là Việt Nam.
16- Năm 1804, Napoléon Bonaparte tái lập chế độ vương quyền, tuyên bố:
“Ta có ý lập lại Hội Thừa Sai; các giáo sĩ của hội này có thể phục vụ cho ý đồ thực dân của ta tại châu Á, châu Phi và châu Mỹ, ta sẽ gửi họ đi dò thám tình hình các nước. Chiếc áo chùng sẽ che chở cho họ và che giấu những ý đồ chính trị và thương mại của ta. Bề trên của họ không còn ở Rome nữa mà ở Paris[5].”
Từ đây, Hội Thừa Sai Paris chính thức trở thành công cụ của thực dân: các giáo sĩ làm nhiệm vụ do thám và thúc đẩy nhà nước Pháp trong việc đánh chiếm thuộc điạ ở Việt Nam.
Giám mục Bá Đa Lộc
Giám mục Bá Đa Lộc đến Nam Hà
Pierre Pigneaux (hoặc Pigneau) de Béhaine tức Bá Đa Lộc, sinh ngày 2-11-1741 tại Origny en Thiérache (Aisne) Pháp. Học tại Laon, rồi Paris. Gia nhập Hội Thừa Sai Paris năm 1765. Tới Pondichéry (Ấn Độ) tháng 9-1772, dạy học tại tu viện Saints-Angers. Tháng 3 năm 1774, ngày thánh Mathias, thọ chức Giám mục Adran tại Madras (Ấn Độ). Ngày 22-4-1774, Định Vương Nguyễn Phước Thuần (1765-1777) ký sắc lệnh ân xá cho tất cả các giáo sĩ bị tù, và cho phép tự do giảng đạo, Bá Đa Lộc được chỉ định đi Nam Hà (Đàng Trong). Ngày 16-9-1774, ông tới Macao, chờ lệnh đi Nam Hà và cho in cuốn Giáo lý đại cương (Catéchisme)[6]. Như vậy, từ khi Võ Vương ban hành lệnh cấm đạo năm 1750, Bá Đa Lộc là người đầu tiên được bổ nhiệm chức Giám mục Tông toà ở Nam Hà (Vicaire apstolique en Cochinchine).
Trong thư gửi cho cha mẹ từ Macao ngày 14-12-1774, Bá Đa Lộc cho biết nhiều thông tin quan trọng về tình hình đạo Chúa và hoàn cảnh của ông lúc bấy giờ:
Macao ngày 14 tháng 12 năm 1774,
Con tới đây ngày 16 tháng 9 vừa qua, và có lẽ con sẽ đi [Nam Hà] trong tháng giêng sắp tới. Thành phố này [Macao] vẫn ở dưới sự cai trị của vua Bồ, con đã được đón tiếp trân trọng như thường lệ, tại đây con hân hạnh được gặp hai bị giám mục khác, một người Bồ Đào Nha, giám mục chính ở Macao, và một người Y pha nho, vừa từ Nam Hà trở về. Tất cả mọi người đều vui mừng vì thấy cả ba giám mục hiện diện trong thành phố này, mà từ lâu người ta không thấy một vị nào cả.
Con vừa cho in một cuốn Giáo lý đại cương bằng chữ Nam Hà (un cathéchisme en langue cochinchinoise) [Trong chú thích số 1, trang 9, Launay ghi rằng: “Tác phẩm này viết bằng chữ Hán (caractères chinois) 1+4+1+63 trang. Trang đầu in huy hiệu của Giám mục Pigneaux (…) Bài Tựa ghi ngày tháng năm 1774 do Giám mục ký tên. Cuốn sách nhỏ này in ở Quảng Đông theo một chú thích ở cuối sách.”]. Tháp tùng con có 4 linh mục Âu châu và Pháp, 8 giáo sĩ Nam Hà, và một người Cam-bốt. Những người sau cùng này từ 28 đến 40 tuổi.
Con sẽ phong chức thêm cho nhiều người nữa khi đến Cam-bốt để gửi họ đi giảng đạo. Hiện nay ở Cam-bốt và Nam Hà, có 5 linh mục Bồ Đào Nha, 5 linh mục Tây Ban Nha, một linh mục người Ý, một người Đức, ba người Pháp và ba người Nam Hà, cộng với bốn người con đem theo, và một chủng viện [trường dạy đạo] gồm 40 người học đạo.
Con có tại Cam-bốt, nơi đạo [Chúa] được công khai, một nhà thờ chính, một tu viện nữ và một học viện. Ở Nam Hà còn nhiều con gái sống trong đoàn thể [công giáo]; nhưng sự đàn áp kéo dài từ 22 năm nay, đã cản trở việc học đạo của họ. Hiện tại, chúa [Định Vương] vừa cho phép giảng đạo trở lại, con tin rằng chẳng bao lâu con sẽ hồi phục lại được tình trạng cũ.
Tổng đốc Hà Tiên [Mạc Thiên Tứ, người Minh] là một trong những người cầm quyền vùng đất thuộc địa phận của con (ông ta có trong tay ba tỉnh khác, ngoài Hà Tiên) và vừa tìm hiểu đạo ta, sai người báo cho con biết ông ta nóng lòng chờ con đến. Ngày trước con đã quen biết ông ta, con đoán rằng ông ta muốn con làm lễ rửa tội, nguyện cầu cho ông ta và tất cả dân chúng trong miền. Ở Cam-bốt và Nam Hà hiện nay có hơn 100.000 giáo dân"[7].
Ngày 12-3-1775, Bá Đa Lộc đến Can Cao (Hà Tiên) tại địa điểm Hòn Đất[8].
Trong thư viết ngày 8-6-1775, gửi các Giám đốc trường đạo của Hội Thừa Sai (Directeurs du séminaire des ME [Missions Etrangères]), Bá Đa Lộc cho biết những chi tiết sau (tóm tắt):
“Tôi rời Maccao ngày 28-2-1775, lúc 10 giờ tối, nhưng đến 3 giờ khuya phải quay về vì biển động, và ngày 1-3, lại khởi hành. Phái đoàn gồm 15 người. Rất vất vả... Gặp nhiều sóng bão... Ngày thứ 11, nhìn thấy Bassac (Ba Thắc, Cà Mau) và được ông Grenier đem tầu của giáo xứ ra đón. Ngày hôm sau đến Can cao (Hà Tiên), được Tổng Đốc Hà Tiên [Mạc Thiên Tứ] và các con ân cần tiếp đón. Sau mấy buổi giảng đạo, tôi biếu họ Mạc nhiều sách chữ Hán, khiến họ rất hài lòng và cho tôi được phép đi Cam-bốt với điều kiện sẽ sớm trở lại đây...
Phái đoàn rời Hà Tiên ngày hôm sau và tới kinh đô Cam-bốt năm ngày sau đó...
Theo những tin tức nhận được từ Nam Hà, thì kinh đô [Huế] đã bị người Bắc [Hoàng Ngũ Phúc] xâm chiếm... Chúa [Định Vương] đang đi trốn và đã đến gần biên giới Cam-bốt. Tôi đợi cơ hội thuận tiện để trở về Nam Hà, đi thăm các tỉnh, mà từ 26 năm nay giáo dân không được thấy một vị giám mục nào[9].
Trong thư ngày 13-6-1775, từ thủ đô Cam-bốt gửi cha mẹ, Bá Đa Lộc viết:
Kinh đô Cam-bốt ngày 13-6-1755,
Con tới đây (Cam-bốt) khoảng trung tuần tháng ba vừa qua, và được nhà vua tiếp đãi nồng hậu...
Con vừa gửi ba giáo sĩ đi giảng đạo ở miền cao nguyên, con giữ lại đây 3 người với con. Khi tới nơi con thấy một nhóm khoảng 1000 giáo dân, họ có một nhà thờ đẹp làm bằng gỗ. Bên cạnh con, có một tu viện và một chủng viện [hoạt động] hăng hái.
Con khoẻ mạnh, và chỉ đợi hết chiến tranh ở Nam Hà để bắt đầu cuộc tuần hành giám mục...[10]
Tóm lại, Bá Đa Lộc rời Macao ngày 1-3-1775, 11 ngày sau tới Cà Mau (22-3-1775) ngày 23-3-1775 đến Hòn Đất (thuộc Hà Tiên), ở lại mấy ngày, rồi đi Cam-bốt, đợi hết chiến tranh sẽ trở lại Nam Hà, làm nhiệm vụ Giám mục Tông toà. Nhưng chiến tranh (với Tây Sơn) đã không sớm chấm dứt, cho nên, trong nhiều năm, Giám mục phải đi đi về về giữa Nam Vang và Gia Định. Năm 1777, Nguyễn Ánh gặp Bá Đa Lộc, từ đây bắt đầu một tình bạn lâu dài. Tháng 8 năm 1783, Nguyễn Ánh trao Hoàng tử Cảnh, ba tuổi, cho ông đưa sang Pháp cầu viện. Tháng 7-1789, Giám mục và Hoàng tử trở về Gia Định, xảy ra sự kiện quan trọng: Hoàng tử 9 tuổi, không chịu lạy trước bàn thờ tổ tiên[11], làm thay đổi thái độ của Nguyễn Vương đối với đạo Gia Tô. Nhưng trước khi đi xa hơn, chúng tôi thấy có mấy vấn đề quan trọng về văn bản của Giám mục Bá Đa Lộc cần phải xác định lại.
Cuốn Giáo lý đại cương do ai viết?
1-Cuốn Giáo lý đại cương mà Giám mục cho in khi đến Macao năm 1774, được ông ghi trong thư gửi cho cha mẹ từ Macao (14-12-1774) rằng bằng chữ Nam Hà (un cathéchisme en langue cochinchinoise) tức là chữ Nôm, nhưng Launay cho biết, ông đã thấy cuốn sách này, và ghi trong chú thích 1, trang 9, là sách viết bằng chữ Hán.
2- Launay còn cho biết: Tủ sách của Chủng viện Hội Thừa Sai có ba bản thảo của Pigneaux, trong đó có cuốn Catéchisme cochinchinois (Giáo lý đại cương bằng chữ Nam Hà), ông viết:
“Giáo lý đại cương do Giám mục Pigneaux soạn năm 1774, bằng chữ Việt của người có học (en annamite lettré). Sách này khổ: 0,152x 0,097, 82 trang.”[12] Câu này có nghiã là sách viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm (en annamite lettré). Nhưng không hiểu sao, liền sau những chữ en annamite lettré, Launay lại mở ngoặc viết thêm bốn chữ “écriture dite quốc ngữ” (chữ được gọi là quốc ngữ). Lời giải thích này sai, và gây hiểu lầm, bởi vì annamite lettré, nghiã là chữ của người Việt có học, tức là chữ Hán (hoặc chữ Nôm) chứ không thể là chữ Quốc ngữ, vì lúc đó chữ Quốc ngữ chưa được lưu truyền và giảng dạy ở Đại Việt.
Bản thảo sách Catéchisme cochinchinois này chính là bản thảo sách Giáo lý đại cương mà Bá Đa Lộc cho in khi ở Macao năm 1774, đã được Launay nói đến trong chú thích 1, trang 9, ở trên. Vì Launay mở ngoặc giải thích annamite lettré là chữ quốc ngữ, khiến mọi người hiểu lầm, tưởng Bá Đa Lộc biết rõ chữ quốc ngữ và đã viết sách quốc ngữ từ năm 1774, trước khi đến Hà Tiên, trong khi chính Launay đã nhìn thấy cuốn sách này viết bằng chữ Hán và ông đã ghi lại ở chú thích 1, trang 9.
Năm 1993, Nguyễn Văn Trung viết: “Thánh giáo yếu lý quốc ngữ (1774, tựa chữ Hán, nội dung chữ Nôm) của Pigneau de Béhaine”[13]. Như vậy Launay đã không đọc kỹ sách này mà chỉ lướt qua bài Tựa. Điều này chứng tỏ: cuốn Giáo lý đại cương viết bằng chữ Nôm, bài Tựa chữ Hán, ký tên Bá Đa Lộc.
Tóm lại, khi đến Macao năm 1774, Giám mục Bá Đa Lộc cho in sách Giáo lý đại cương bằng chữ Nôm (không phải chữ quốc ngữ) và ông ký tên bài Tựa chữ Hán, nhưng chắc chắn sách này do các thầy tu người Việt trong phái đoàn ông viết. Việc giảng đạo thời ấy không dùng chữ quốc ngữ và Bá Đa Lộc, năm 1774, chắc cũng chưa biết chữ quốc ngữ.
Bộ Tự điển Béhaine (1772/1773) do ai soạn?
Vì thế, bộ tự điển quốc ngữ, vẫn được gọi là Tự điển Taberd do Giám mục Taberd sưu tầm, soạn lại và cho in năm 1838, ở Ấn Độ, trang đầu ghi Tự điển Béhaine (1772/1773), cũng cần phải xem lại, vì những lẽ sau đây:
1- Năm 1772 và 1773, Pigneaux de Béhaine tức Bá Đa Lộc chưa đến Hà Tiên và không thấy chỗ nào ghi ông biết chữ quốc ngữ thành thạo để làm tự điển từ những năm 1772 và 1773, khi ông chưa đến Việt Nam.
2- Như trên đã nói, trong Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, tập III, Launay cho biết: Tủ sách của Chủng viện Hội Thừa Sai có ba bản thảo của Giám mục Pigneaux; ngoài cuốn Catéchisme cochinchinois, vừa nói ở trên, còn có 2 cuốn:
- Dictionarium anamitico-latinum của Giám mục Adran (Pigneaux) khổ 0,345x0,240, 732 trang (64+4+664).
- Dictionnaire chinois-annamite-latin của Giám mục Adran, bản thảo, khổ 0,285x0,190, 906 trang (852+16+38).[14]
Và Launay viết tiếp:
Sách đã in:
- Le Catéchisme như chúng tôi [Launay] đã nói ở trang 9.
- Dictionarium anamitico-latinum của Adran, Taberd in năm 1838.[15]
Như vậy, cuốn Dictionarium anamitico-latinum được Launay nhắc đến hai lần, trong phần “bản thảo” và trong phần “sách đã in”, chính là cuốn Tự điển Taberd soạn lại và ghi là Tự điển Pigneaux de Béhaine (1772/1773).
3- Một mặt khác, trong Bản chúc thư của Giám mục Bá Đa Lộc (Testament de Mgr Pigneaux) rất dài, do linh mục Le Labrousse viết tay ở Qui Nhơn[16], không có câu nào nói đến một bản thảo cuốn tự vị chữ quốc ngữ do giám mục Bá Đa Lộc soạn, để ở đâu, cho ai, mặc dù đức Giám mục dặn dò rất cẩn thận, từ chiếc áo, tấm khăn, mọi vật lớn, nhỏ, đều được ông ghi lại, tặng từ Vua, quan đến những người hầu cận. Ngoài ra, trong chúc thư này của đức Giám mục, còn có mấy điểm đáng chú ý:
- Tủ sách [của ông] sẽ dành cho trường sở của Giáo xứ[17].
- Đức Ông tặng Vua bộ bốn cuốn Bách Khoa Toàn Thư[18].
- Còn Tự điển chữ Nôm và chữ Hán, Đức Ông chuyển cho Trợ Giám mục [Liot hay Labartette] để lại ở trường sở Giáo xứ[19].
- Đức Ông dặn ông Le Labrousse, nếu có cơ hội, nhớ cho Tòa Thánh biết rằng đến chết Đức Ông vẫn giữ nguyên quan điểm về việc lạy trước thi hài cha mẹ đã qua đời[20].
Kết luận: Tự điển Pigneaux de Béhaine (1772/1773) mà Giám mục Taberd dựa vào để soạn Tự điển quốc ngữ, không thể do Pigneaux de Béhaine làm, bởi vì trong thời gian 1772-1773, Giám mục Pigneaux chưa đến Nam Hà, và cũng không thấy ông ghi trong chúc thư để lại bản thảo một bộ từ điển quốc ngữ nào do ông soạn.
Cuối cùng, ta có thể đặt câu hỏi: phải chăng bộ tự điển được Taberd ghi là Tự điển Pigneaux de Béhaine (1772/1773), là do linh mục Hồ Văn Nghị, một học giả thời ấy, rất thân cận Giám mục và Vua Gia Long, soạn ra. Nhưng lệ của đạo Công giáo, thường không đề tên tác giả, nhất là khi tác giả không nổi tiếng trong giới thừa sai. Giám mục Taberd đã tìm thấy bản thảo này trong tủ sách của Chủng viện Hội Thừa Sai, và ông “cho rằng” Bá Đa Lộc đã soạn năm 1772/1773, mà không tìm hiểu để biết năm 1772-1773, Giám mục chưa hề đến Việt Nam.
Tình cờ, sau đó, giáo sư Nguyễn Văn Trung đã trả lời dứt khoát câu hỏi này, khi ông viết: “Từ Điển mang tên Pigneau [Pigneaux] de Béhaine hay Taberd, nhưng chính những tác giả này thú nhận vai trò chủ chốt soạn thảo là do Linh mục Hồ Văn Nghị và Phan Văn Minh”.[21]
Những lời trên đây của Nguyễn Văn Trung giải thích tính cách hoàn chỉnh của chữ quốc ngữ trong Tự điển Taberd, không thể do một người Pháp là Taberd soạn lại, mà phải do một học giả kiêm nhà thơ người Việt, thế kỷ XIX, là Linh mục Philippe Phan Văn Minh, tác giả Phi Năng tập, trực tiếp biên tập lại.
Bá Đa Lộc và nguyện vọng Gia Tô hóa Nam Hà
Trong thư gửi Hội Thừa Sai, ngày 8-6-1775, Bá Đa Lộc cho biết: ông rời Macao ngày 28-2-1775, nhưng vì biển động, phải trở về, đến ngày 1-3-1775 mới thực sự khởi hành, phái đoàn gồm 15 người, ngày 11-3-1775, đến Bassac (Ba Thắc, thuộc Cà Mau); ngày 12-3-1775 đến Can Cao (Hà Tiên), tại địa điểm được gọi là Hòn Đất, và được quan trấn thủ Hà Tiên [Mạc Thiên Tứ] cùng các con, đều theo đạo, tiếp đãi rất tử tế, cấp phương tiện cho ông đi Cam-bốt, vẫn trong lá thư này, ông viết: "Tôi ở đây đợi thời cơ thuận tiện để vào lại đất Nam Hà và đi khắp các tỉnh mà từ 26 năm nay, giáo dân chưa được thấy giám mục"[22].
Như vậy, kể từ 1749, Võ Vương bắt đầu cấm đạo, giáo sĩ bị trục xuất hết, Nam Hà không có giám mục trong 26 năm, đến khi Bá Đa Lộc xuất hiện.
Trong thư viết ngày 10-7-1778 cho bề trên Steiner, Giám mục cho biết ông quen thân với Nguyễn Ánh và nói rõ nguyện vọng Gia Tô hóa Nam Hà của của mình:
"Xin cám ơn ngài đã gửi cho tôi hai giáo sĩ. Nếu dòng họ của nhà vua trở lại cầm quyền, có nhiều triển vọng như thế, tôi sẽ còn cần dùng thêm nhiều [giáo sĩ] hơn nữa; bởi vì tôi quen thân với ông hoàng [Nguyễn Ánh] sẽ lên trị vì và các quan lớn của ông ta. Xin hãy cầu nguyện Đức Chúa Trời cho việc này được thực hiện, bởi việc Gia Tô hóa Nam Hà sẽ tùy thuộc vào chuyện ấy."[23]
Đoạn thư ngắn ngủi này diễn tả mộng ước của Giám mục Bá Đa Lộc: ông cầu mong nhà Nguyễn trở lại cầm quyền, và vì ông quen thân với Nguyễn Ánh tức Nguyễn Vương, việc Gia Tô hóa Nam Hà sẽ được thực hiện dễ dàng hơn. Cho nên, khi Nguyễn Ánh nhờ ông đem Hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện là dịp may ngoài sức tưởng tượng của vị Giám mục:
- Ông sẽ có một hoàng tử để dạy dỗ theo phong cách Gia Tô. Hoàng tử sẽ kế nghiệp vua cha, và Giám mục sẽ thực hiện được mộng ước: Gia Tô hoá toàn bộ Nam Hà.
- Ổng sẽ ký một hiệp ước trong có điều khoản Nam Hà sẽ nhường cho Pháp các vùng hải cảng chính: Hội An, Đà Nẵng, Cù Lao Chàm (Điều số 8) và Côn Đảo (Điều số 10) nếu Pháp điều binh sang đánh giúp[24]. Như thế Pháp sẽ có tất cả những vị trí chiến lược cần thiết để làm bàn đạp chiếm Nam Hà. Hai điều này cũng là nguyện ước của vị tiền bối Alexandre de Rhodes từ thế kỷ XVII, cha đẻ của dự trình Gia Tô hoá và thuộc địa hóa nước Việt, và cũng là mục đích lâu dài của Hội Thừa Sai Paris.
Khi Giám mục Bá Đa Lộc đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp, mọi việc có vẻ diễn ra hoàn toàn theo ý muốn của ông, nhưng khi ông đưa hoàng tử trở về, vua Louis XVI đã đổi ý, không thi hành hòa ước cầu viện 1787, mà Giám mục đã ký[25]. May thay, việc thất hứa này lại trúng ý Nguyễn Vương, lúc đó đã chiếm lại được toàn bộ Gia Định, không cần cầu viện Pháp nữa, nên vua không giận vị Giám mục mà còn hết sức vui mừng khi đón con về mà không phải trả nợ nước Pháp.
Nhưng rồi giấc mộng Gia Tô hoá và thuộc địa hoá Nam Hà của vị Giám mục vẫn không thực hiện được, tại sao? Xin trở lại những năm về trước.
Nguyễn Vương gửi con cho Bá Đa Lộc
Tháng 8-1783, bị Nguyễn Huệ lùng bắt gắt gao, Nguyễn Ánh phải gửi con trai đầu lòng là hoàng tử Cảnh, 3 tuổi, cho Giám mục Bá Đa Lộc, cùng với phó vệ uý Phạm Văn Nhơn và cai cơ Nguyễn Văn Liêm, đi Chân Bôn (Chantabun), Xiêm La. Mới đầu, chỉ đễ lánh nạn, sợ bị Nguyễn Huệ tiêu diệt cả nhà. Đến tháng 2-1785, Nguyễn Huệ phá tan 20 vạn quân Xiêm do Nguyễn Ánh cầu cứu, tình hình hết sức khẩn cấp, Nguyễn Ánh mới thúc giục phái đoàn đem hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện.
Tới Pondichéry, có lẽ để giữ độc quyền hành động và giáo dục hoàng tử trong thời gian đi Pháp, Bá Đa Lộc đã cho ba người thân cận và là thầy dạy hoàng tử là Phạm Văn Nhơn, Nguyễn Văn Liêm và linh mục Hồ Văn Nghị[26] trở lại Việt Nam, chỉ mỗi Giám mục và hoàng tử, cùng bốn giáo sĩ người Pháp và 8 người hầu, lên tầu sang Pháp, tháng 7-1786.
Ba năm sau, tháng 7-1789, Giám mục và hoàng tử trở về Gia Định, Cảnh đã lên chín[27].
Giám mục giáo dục Hoàng tử trong 6 năm (1783-1789) cùng với các giáo sĩ Pháp, không có thầy giáo nho học bên cạnh. Nếu không có gì cản trở, khi Cảnh kế nghiệp cha, Việt Nam sẽ có một ông vua catholique, và đạo Gia Tô sẽ có một tương lai rực rỡ, như Giám mục mơ ước. Nhưng tất cả đã tiến hành ngược lại, tại sao?
Mọi sự bắt đầu bằng một việc rất nhỏ, xảy ra ba ngày sau khi hoàng tử trở về nước, nhưng lại là nguyên nhân sâu xa, đưa vua Gia Long từ chỗ thiên đạo trở nên chống đạo, chỉ vì hoàng tử không chịu lạy trước bàn thờ tổ tiên.
Hoàng tử Cảnh
Hoàng tử Cảnh không chịu lạy "quỷ"
Trong thư lgiáo sĩ Le Labrousse viết ngày 13-12-1790 gửi ông...[28], ông này là một linh mục ở Pháp, đã gặp hoàng tử tại Paris, để thuật lại sinh hoạt hàng ngày của hoàng tử sau khi về nước, có một sự việc quan trọng mà Le Labrousse kể lại với niềm tự hào rõ rệt:
"Nét đặc biệt xin ông lưu ý và để lên trên tất cả, bởi vì đó là cái gương đầu tiên mà hoàng tử nhỏ đã tỏ cho thấy phẩm chất của cậu, khi về lại triều đình.
Ba ngày sau khi tới nơi, người ta tổ chức lễ tiếp đón. Vua, hoàng hậu, các quan văn võ và toàn thể triều đình đều có mặt trong buổi lễ theo tập tục dị đoan này. Sau khi vua và hoàng hậu đã lễ xong, đến lượt hoàng tử, nhưng cậu nhất định không lạy trước bàn thờ tổ tiên. Bà mẹ hỏi tại sao con không làm như mọi người, ai bảo con như thế, hoàng tử trả lời: "Không ai bảo con hết; lẽ phải đã cấm con làm chuyện đó: làm sao mẹ bắt con lạy quỷ?"[29]
Mọi người xúm lại khuyên bảo dỗ dành hoàng tử, không ăn thua gì, hoàng hậu bực mình tát con ba, bốn cái. Hoàng tử không khóc. Vua làm thinh. Các quan nói với nhau: "Hoàng tử đã theo đạo". Bấy giờ vua mới lên tiếng: "Không, ông Thầy [Bá Đá Lộc] nói với ta là không. Ta tin ông ấy giữ lời"[30].
Trang sau, Le Labrousse kể một chuyện khác:
"Hoàng hậu có bức tượng Phật ở trong cung. Một hôm bà đi vắng. Hoàng tử lấy mực vẽ thánh giá lên tượng Phật. Hoàng Hậu về biết ngay là ai làm việc này. Bà gọi con lại và hỏi: "Tại sao con bôi nhọ bức tượng?". Hoàng tử trả lời: "Thưa mẹ, ông Phật đến từ Ấn Độ, con cũng từ Ấn Độ về. Con thấy tất cả dân Ấn Độ đều vẽ lên tượng Phật hình thánh giá. Con thấy tượng của mẹ không có, thiếu, nên con thêm vào. Mà dân Ấn Độ còn trát cả phân bò lên tượng Phật, tại sao mẹ không làm thế?". Việc này làm tôi [Le Labrousse] nhớ lại, khi dạo chơi ở Pondichéry, hoàng tử gặp khá nhiều tượng dị đoan [tượng Phật] bên đường. Lòng nhiệt thành thúc đẩy hoàng tử lượm đá ném vào. May mà chúng rất cứng nên không bị vỡ[31]."
Vẫn trong thư này, Le Labrousse kể tiếp: Bá Đa Lộc bị các quan phản đối, Giám mục bèn tâu vua không nên để cho hoàng tử gần ông như trước nữa, chỉ cuối tuần mới ra thăm ông, và khi gặp, hoàng tử luôn luôn khóc lóc than vãn:
"Con không bao giờ muốn làm vua, ngay ngày mai, nếu được, con xin trở lại Pháp; con ở lại đây chỉ vì mong muốn làm cho dân tộc con trở thành một nước Thiên chúa giáo".[32]
Ba mẩu chuyện này do linh mục Le Labrousse kể lại với giọng tự hào, chứng tỏ cậu bé 9, tuổi, sau 6 năm được Giám mục và các giáo sĩ dạy dỗ, đã trở thành một tín đồ theo sát tín điều: phỉ báng đạo Phật, coi linh hồn tổ tiên là ma quỷ! Và nhất là đã hứa: khi lên làm vua sẽ Gia Tô hóa nước Việt!
Hẳn bạn đọc còn nhớ, năm 1622, giáo sĩ Critoforo Borri có kể lại trong ký sự của ông[33], chuyện bà vợ quan đại sứ Đàng Trong ở Căm-Bốt và các thị nữ sau khi nhận lễ rửa tội, về nhà đập phá bàn thờ tổ tiên và tượng Phật, trước con mắt đồng tình của hai giáo sĩ Borri và Buzomi như thế nào. Nhưng sau đó, cha Buzomi đã khôn khéo đổi hẳn cách truyền giáo cho phù hợp với tinh thần người Việt, nên được chúa Sãi chấp nhận.
Nay, linh mục Le Labrousse cũng kể lại những chi tiết phỉ báng tổ tiên và đức Phật của cậu bé Cảnh, ở mức độ trầm trọng hơn: Hoàng tử không chịu lạy trước bàn thờ tổ tiên, vì coi tổ tiên là quỷ. Hoàng tử bôi nhọ tượng Phật, vì nghe người ta nói ở Ấn Độ mọi người trát phân bò lên tượng Phật, hoàng tử ném đá vào tượng Phật, và nhất là hứa sẽ Gia Tô hóa nước Việt.
Bá Đa Lộc bị gọi lên điều trần
Nhưng chỉ hai năm sau, trong thư viết cho linh mục Grinne tháng 6-1792[34], linh mục Le Labrousse đã tỏ vẻ thất vọng:
"Hoàng tử Cảnh vẫn chưa nhận lễ rửa tội".
Tại sao? Ông kể lại đầu đuôi câu chuyện, như sau:
Sau khi tóm tắt lại những việc đã kể trong thư viết ngày 13-12-1790, vừa trích dẫn ở trên, Le Labrousse viết tiếp: sau việc hoàng tử không chịu lạy trước bàn thờ tổ tiên, Giám mục Bá Đa Lộc bị triệu lên trần tình trước Nguyễn Vương, các quan và các giáo sĩ.
Trong buổi đối chất này, vẫn theo lời Le Labrousse (xin tóm tắt), Nguyễn Vương nói đại ý:
Ông rất buồn vì đã không liên kết được việc thờ cúng tổ tiên với đạo Chúa. Đó là trở ngại duy nhất khiến ông và các quan trong triều không theo đạo. Sau khi đưa ra những nhận định sâu sắc về những cái hay của đạo Gia Tô, Nguyễn Vương nói tiếp:
"Ta cũng như Thầy, không tin rằng linh hồn tổ tiên sẽ về ăn những thức ăn bầy trên bàn thờ, và càng không tin rằng người chết có thể ăn uống, nhưng khi cúng giỗ như vậy, ta không có ý gì hơn là chứng tỏ với quần chúng thô lậu và vô tín ngưỡng; lòng tưởng nhớ và biết ơn của ta đối với tổ tiên, nhân đó nói với họ rằng nếu các vị còn sống, ta cũng đối đãi như vậy".
Giám mục trả lời:
"Nếu các quan và dân chúng đều nghĩ như Hoàng thượng, thì không những thần không cấm con chiên thờ cúng, mà chính thần cũng thờ cúng tổ tiên".
Vua quay lại bảo hoàng tử: "Con có nghe lời Thầy nói đó không?"
Đoạn ông nói với Giám mục:
"Thầy nên suy nghĩ về vấn đề này, nếu chỉ cần chấp nhận đạo Gia Tô bằng cách thông báo cho thần dân ý định của ta, ta sẽ làm một dụ"[35].
Le Labrousse kể tiếp: Chúng tôi [các giáo sĩ] đã viết thư về về Rome và Sorbonne [xin phép được thờ cúng tổ tiên] nhưng Đại Hội Hồng Y không ưng thuận, đòi phải có thông tin thêm. Nhưng nhà vua đã dùng buổi đối chất này để "đánh lừa" con vì ông không nói gì đến điều kiện của Đức Giám mục, là phải xin phép Đại Hội Hồng Y đã, rồi mới được lạy. [Điều này Le Labrouse viết sai: Giám mục chỉ định hỏi Paris và Rome nhưng ông chưa hỏi, theo thư ông viết dưới đây].
Từ đó, hoàng tử lạy trước bàn thờ, vì nghĩ rằng đã được phép. "Giám mục quyết định giữ im lặng về vấn đề này, ông không còn được dạy hoàng tử nữa và cũng không thấy hoàng tử hỏi gì, vả lại, ông cũng biết, trước sau gì, hoàng tử cũng sẽ phải lạy"[36].
Nhưng vua đã đổi thầy, trao hoàng tử cho các thầy dạy người Việt [Đặng Đức Siêu, Ngô Tòng Châu, Phạm Văn Nhơn...], thỉnh thoảng (độ khoảng 8 đến 10 ngày) Cảnh đến thăm thầy cũ một lần, ở với ông một ngày một đêm. Đức Giám mục rất buồn vì hoàng tử đã dần dần ra khỏi tầm tay của ông[37].
Bá Đa Lộc tường thuật lại cuộc điều trần với vua
Sự kiện Giám mục Bá Đa Lộc bị triệu lên giải trình trước vua về việc hoàng tử không chịu cúng lạy trước bàn thơ tổ tiên, là một biến cố quan trọng không chỉ cho năm 1789, mà hậu quả còn kéo dài mãi mãi, đối với vị Giám mục, làm ông thay đổi hẳn lập trường giảng đạo, từ sự triệt để thi hành lệnh cấm Nghi lễ, ông chống lại con đường của Tòa thánh, cho đến lúc qua đời. Lá thư Giám mục viết cho linh mục Letondal, quản thủ tu viện Macao, ngày 17-8-1789, bắt đầu bằng câu (xin tóm tắt):
"Ngay sau ngày hoàng tử từ chối không lạy trước bàn thờ tổ tiên, tôi phải giải thích rất dài với vua về vụ này. Vua tỏ vẻ rất buồn vì cử chỉ của con ông và bảo tôi rằng: "Ta không thể hiểu tại sao đạo Chúa có thể cho phép con chiên quên tổ tiên".
Tôi trả lời ông rằng:
"Thần cũng ngạc nhiên khi thấy Hoàng thượng, biết thần từ lâu, đã rõ những tình cảm của thần, mà còn nghi ngờ thần có những nguyên tắc như vậy."
Và tôi nói với vua rằng:
"Đạo Thiên chúa cũng coi việc không nhớ ơn tổ tiên là tội hàng đầu, nhưng gạt bỏ những những hình thức tôn thờ mê tín dị đoan trải rộng ở các nước trên bán đảo Ấn Độ: người ngoại đạo tin rằng linh hồn cha mẹ được hưởng sự cứu rỗi đời đời nhờ được nuôi dưỡng phần tinh thần cao quý nhất bằng thịt cỗ hiến dâng, và các con, qua phương tịện này, có thể, đạt được cuộc đời giàu sang, sống lâu trăm tuổi. Vì vậy, nên chẳng ngạc nhiên gì mà việc thờ cúng này, với những ý định trái với chân lý, bị người công giáo chối bỏ."
Vua ngạc nhiên trả lời tôi rằng: "Ta cũng có cùng một nguyên tắc với Thầy. Ta thừa biết linh hồn người chết không bao giờ trở lại, lại càng không ăn uống gì cả, và các con không có lợi lộc gì trong việc cúng giỗ cha mẹ, nhưng ta coi lễ giỗ là bằng chứng lòng tưởng niệm và biết ơn tổ tiên đã khuất của người con.
Đễ giải thích rõ hơn ý nghĩ của mình, vua nói thêm: "Khi dự lễ giỗ, ta tự nhủ: "Nếu tổ tiên còn sống, ta cũng phụng dưỡng đúng y như vậy. Để chứng tỏ tình cảm của ta là chân thành và đích thực, ta muốn làm ở đây điều mà ta làm, đúng như khi tổ tiên còn sống, mặc dù ta biết rằng các cụ không còn nữa. Và những việc ta làm đây không có ích lợi gì cho các cụ lẫn cho ta, nhưng ta muốn tỏ cho mọi người biết ta không bao giờ quên tổ tiên, và ta muốn làm gương cho thần dân noi theo tình quyến luyến trong đạo làm con ..."
Tôi trả lời vua rằng: "Thần dân cũng chẳng nghĩ khác gì hoàng thượng [...] Nhưng tại sao có tục lệ chung của cả dân tộc, là ngày cuối năm, tiếp đón linh hồn tổ tiên, cho ăn cỗ trong tám, mười ngày, làm quần áo giấy... tất cả những thứ đó không phải là mê tín dị đoan sao? Rồi người ta đốt hương, đốt nến, trước bài vị, được coi như trú sở của linh hồn... Nếu tất cả mọi người dân Nam Hà đều có học như hoàng thượng và cũng muốn làm như hoàng thượng một lễ thuần tuý dân sự, thì người công giáo cũng sẽ tuân theo..."
Vua nói: "Ta rất mong tục lệ này hòa hợp với đạo Thiên chúa, bởi ta nghĩ không có trở ngại thực thụ nào ngăn cản người dân nước ta theo đạo này. Nếu ta tuyên bố ý định của ta cho thần dân biết chỉ nên cử hành lễ cúng giỗ, thuần túy theo quan niệm dân sự, như một chính sách, còn tất các hình thức tôn giáo ở đây là sai lầm... thì lời tuyên bố ấy có cho phép người công giáo thực hành tục lệ này không? [...]
"Ta đã cấm ma thuật, chiêm tinh, pháp thuật và ta coi việc thờ thánh thần là nhảm nhí, khôi hài, nhưng ta kiên trì gìn giữ việc thờ cúng tổ tiên, như ta đã nói với Thầy, bởi vì ta coi đó là một trong những nền tảng của giáo dục. Ta yêu cầu Thầy chú ý đến điều đó và cho giáo dân xích lại gần hơn nữa với phần còn lại của thần dân ta"[38].
Giám mục Bá Đa Lộc viết tiếp: "Ngay đêm ấy, vua đã thông báo cho quần thần và bảo họ rằng ngài rất mong muốn đạo Gia Tô chấp nhận việc thờ cúng tổ tiên và ngài nói thêm, nếu trở ngại này vượt qua được thì việc bỏ tập quán đa thê, trong chế độ đa thần, để người dân được nhập đạo công giáo cũng không khó khăn gì".
Sau đó Giám mục cho biết ông định viết thư về Rome, Paris và các xứ đạo khác về việc này, nhưng có một điều bất tiện bỗng dưng xảy ra khiến ông không thể làm được (ông không nói rõ là điều gì), nên ông đợi khi nào có dịp đi Pondichéry hay về Pháp, sẽ nói thẳng, và trong khi chờ đợi, ông mong muốn cha Ledontal phổ biến lá thư này của ông cho những người quan tâm được rõ[39].
Những suy nghĩ của linh mục Boisserat sau buổi điều trần
Ngày 11-8-1789, linh mục Boisserat viết thư cho linh mục Boiret, thuật lại buổi điều trần của Giám mục Bá Đa Lộc trước Nguyễn Vương, nội dung tương tự như trên. Rồi ông viết thêm:
"Sau đây là cách tôi suy nghĩ và lý giải vấn đề này với các bề trên: Một hành động mang tính dị đoan, thì không có gì để bênh vực, nhưng nay, việc thờ cúng cha mẹ sau khi họ qua đời có nghiã rằng ta yêu cha mẹ bằng những hành động cụ thể, thì chỉ có thể khen ngợi. Đúng là ở những người ngoại đạo viêc thờ cúng tổ tiên có khi xây dựng trên những ý tưởng sai trái, dị đoan; vì thế mà chúng ta cấm. Nhưng bây giờ, mọi người đều biết, vua đã có hành động và các quan đều nghe theo, để chứng tỏ việc thờ cúng tổ tiên không còn những ý tưởng sai trái và dị đoan nữa, mà đã trở thành, không phải là một hành động tôn giáo, mà là một hành động công dân, một chính sách, cách thực hành, ta có thể cho là khôi hài, nhưng không hề còn tính cách dị đoan.
Ở nước Pháp cũng thế, sau khi vua chết, người ta đặt vua trên giường bài trí phô diễn, người ta dâng vua các bữa ăn trong nhiều ngày, ta cũng thấy buồn cười vì tục lệ này, nhưng ta không kết án; bởi vì không ai tin rằng người chết có thể ăn uống, mà ta biết rằng đó chỉ là cử chỉ sùng kính sau khi vua qua đời. Khi ta thấy những người Pháp lịch sự ngả mũ chào bức tượng Henri IV trên cầu Pont Neuf ở Paris, ta có thể cười, nhưng ta biết hành động này xuất phát từ đáy niềm kính trọng anh hồn vị vua lớn. Khi đến Versailles, người ta bỏ mũ trước ngai vàng, điều đó không có gì là đức tin bí mật, mà chỉ là sự tôn kính nhà vua. Sau cùng, khi một đứa bé có hiếu nhỏ lệ hôn bức ảnh người cha, không phải là nó mê tín dị đoan hay nó tin rằng cha nó nằm trong ảnh.
Tất cả tuỳ thuộc ở ý định khi thực hiện những hành động này; nếu ta sợ bề ngoài mê tín, thì chỉ cần một sự cam đoan long trọng là đủ. Đó là trường hợp hiện nay. Niềm tin của vua trùng hợp với niềm tin đạo Chúa về điểm này; nhiều quan ở trong triều có cùng ý kiến với vua. Nhà vua đã dự trù một tuyên ngôn long trọng về niềm tin đạo Chúa, ngăn cấm các việc thờ cúng dị đoan, như ma thuật... thậm chí chấp nhận những giảm thiểu mà Giám mục Bá Đa Lộc đề nghị về việc thờ cúng tổ tiên như loại bỏ trên bài vị những câu: "Đây là trú sở của linh hồn người này, bảo vệ những vong linh, v.v."
Còn các ngài, các ngài làm gì nếu ở địa vị chúng tôi? Phải chăng đây là dịp để Triều đình La Mã cho phép việc thờ cúng tổ tiên? Phải trả lời rõ ràng theo những nguyên tắc mà không làm nặng nề thêm sự đè nén áp bức, bởi vì nếu hành động này [cấm thờ cùng tổ tiên] tiếp diễn, chúng ta sẽ phải chịu trách nhiệm việc đã làm chậm trễ hay ngăn cản sự cải đạo của cả một vương quốc. Thưa ngài, tôi khẩn cầu ngài hãy tham khảo ý kiến Sorbonne, Navarre và nhất là Rome, để trả lời rõ ràng và mau lẹ, và cho chúng tôi biết càng sớm càng tốt qua nhiều con đường khác nhau."[40]
Ngày 9-10-1790, Hội Thừa Sai gửi cho Bá Đa Lộc, lá thư viết bằng chữ La tinh, và Giám mục cũng trả lời bằng chữ La tinh[41], nên chúng tôi không đọc được, chỉ đoán là thư từ chối việc thờ cúng tổ tiên và thư phúc đáp của Giám mục Bá Đa Lộc.
Giáo sĩ thù ghét các quan
Sau khi Hoàng tử Cảnh được vua "lấy lại" trong tay Giám mục và các giáo sĩ, và trao lại cho các quan trong triều dạy dỗ, một làn sóng ganh tỵ, căm ghét các quan nho học và các vị thượng thư, nổi lên trong lòng các giáo sĩ.
Trong thư viết ngày 17-6-1792, cho M. Letondal, quản thủ tu viện Macao, linh mục Le Labrousse không ngần ngại viết những lời phỉ báng nặng nề:
"Cậu ta [ Hoàng tử Cảnh] lâu nay ở trong Triều đình dị giáo, dưới lệnh những thầy dạy học dị giáo, bao vây bởi đám Thượng thư quỷ Sa tăng, chúng chơi ngàn trò, dùng ngàn mánh khoé, để biến cậu thành đồi bại hư hỏng."[42]
"Nhận định" trên đây cho thấy ngàn trùng xa cách giữa đám giáo sĩ và các quan nho học, các vị Thượng thư, trong thời điểm "sống chung" này.
Năm 1793, hoàng tử Cảnh chính thức được lên ngôi Thái tử, nhưng không còn là người mà các giáo sĩ mong đợi nữa.
Trong thư gửi cho Giam đốc Hội Thừa Sai ngày 20-6-1795, giáo sĩ Liot viết:
"Vua Nam Hà không chống đạo Chúa, nhưng ông biết có dư luận chống đối. Ông thấy mình có bổn phận đối với các quan và cả giáo dân nữa. Vua vẫn kính trọng Đức Giám mục như xưa, nhưng không muốn cho triều đình thấy ông thiên vị đạo Chúa, vì sợ các quan không phục”[43] .
Kể từ năm 1797, các giáo sĩ đều đồng thanh cho rằng hoàng tử đã trở nên "sa đọa" (vì năm 18 tuổi được vua ban cho ba người thiếp) không còn hy vọng gì hoàng tử sẽ theo đạo, "không khí triều đình đã làm hư hỏng hoàng tử hoàn toàn".
Laurent Barisy, thanh niên Pháp phiêu lưu sang Á châu, năm 1793 trôi dạt đến Nam Hà, phò Nguyễn Vương cho tới khi qua đời năm 1802[44]; đã viết những dòng thư gửi cha Letondal, ngày 11- 4-1801, như sau:
"Trong khi Đức Vua chiến thắng ngụy quân [ở trận Thị Nại ngày 28-2-1801], treo cờ Hoàng triều thay thế cờ của bạo quyền, thì Hoàng tử nằm trên giường đớn đau, dường như chỉ chờ tin này để được mãn nguyện nhắm mắt; đang tuổi thanh xuân, tính tình hiền hoà và có lòng nhân ái, hoàng tử là thần tượng của toàn dân, là con người mà triều đình Nam Hà đặt những kỳ vọng êm ái nhất và thân thiết nhất; là người che chở công khai cho những người Âu vì hoàn cảnh khốn cùng hay vì sự tình cờ dẫn đến vương quốc Nam Hà. Người là ân nhân của chúng con, và nếu con dám nói một cách chân thật và thực tình, là bạn của chúng con, là người bênh vực đức tin và giáo lý của chúng con. Trời hỡi! Còn đâu sự phán đoán cao minh trên tất cả! Tưởng chừng như đây là dịp có thể nổi loạn chống lại mệnh lệnh của Thượng đế[45].
Hoàng tử mất ngày 20-3-1801, vì bệnh đậu mùa, ở tuổi 22, theo lời Barisy, chứ không phải vì “sa đọa” như các giáo sĩ ghi lại. Hoàng tử cũng không trở thành người “bỏ đi” vì không chịu rửa tội và học các thầy “dị giáo” và “sa tăng” như lời nguyền rủa của các vị thừa sai.
Giám mục Bá Đa Lộc chống lại quan điểm của Tòa Thánh
Giám mục Bá Đa Lộc, từ sau buổi điều trần với Nguyễn Vương, có lẽ vì ông nhận ra hậu quả giáo dục Gia Tô trên hoàng tử Cảnh, nên đã dần dần thay đổi thái độ, từ một người áp dụng triệt để chính sách cấm Nghi lễ của La Mã, ông chuyển sang chống lại đạo luật này của Toà Thánh. Đồng thời, kể từ năm 1789, Pháp bùng nổ cuộc cách mạng phá hủy chế độ vương quyền công giáo, các giáo sĩ hoạt động ở Á Châu rơi vào tình trạng bấp bênh lo sợ.
Sau khi Quang Trung diệt Trịnh, đại phá quân Thanh ở Bắc và sửa soạn đánh xuống miền Nam, Giám mục Bá Đa Lộc đã nghĩ đến giải pháp bỏ đi. Nhưng từ khi bị thất sủng vì lá sớ của Trần Đại Lộc (tháng 3 và 4, năm 1795), dâng vua xin chém đầu Bá Đa Lộc (vì cái hại của đạo Gia Tô)[46], Giám mục nhất quyết hơn, có thể ông nghĩ rằng: việc Tòa Thánh giữ lệnh chống Nghi lễ mà ông bắt buộc phải theo, đã đưa đến sự thể tàn tệ này. Cho nên trước khi thi hành ý định bỏ đi, ông muốn nói lên sự bất đồng ý kiến của ông đối với việc cấm thờ cúng tổ tiên.
Ngày 30-5-1795, Giám mục Bá Đa Lộc viết một thư ngắn cho giáo sĩ Boiret, như sau:
"Đã nhiều năm nay, các giáo sĩ tường trình với tôi về việc lạy xác những người thân vừa chết. Tôi vẫn muốn viết thư cho Đại Hội Hồng Y, nhưng những sắc lệnh đã ban ra ngăn cản tôi làm việc đó. Hiện nay có lẽ tôi sẽ bỏ nhiệm xứ, nên không thể giữ những ý tưởng này trong lòng lâu hơn.
Dù sao chăng nữa, chúng tôi đã tuân thủ những gì Toà Thánh quyết định, trừ khi chính Toà Thánh bãi bỏ những quyết định này.
Những điều tôi nói ở đây chỉ là để cất gánh nặng trong lương tâm mình. Nếu ông còn ở Rome, xin ông làm ơn nói cho Hồng y Giáo chủ biết rằng tôi chỉ nói tất cả những tập quán trong giáo khu do tôi trách nhiệm. Tôi nghĩ rằng ở Bắc Hà hay Trung Quốc, cũng giống như ở đây [Nam Hà], tuy nhiên tôi dám lên án những giáo sĩ ở các địa phận khác [không cho phép lạy xác cha mẹ đã chết]. Có thể người ta tìm thấy những hoàn cảnh không có ở đây, khiến họ hành xử như vậy[47]."
Trong thư viết ngày 5-6-1796 gửi Giám mục Labartette[48], quản trị địa phận Bắc Hà, lời Giám mục Bá Đa Lộc quả quyết hơn và có tính cách dứt điểm.
Đầu tiên, Bá Đa Lộc nhắc lại việc ông đã viết thư báo cho Labartette biết rằng ông đã trả lời Đại Hội Hồng Y như thế nào, và thư này cũng không có mục đích kéo Labartette "về phe" mình, mà chỉ mong Giám mục xem xét hoàn cảnh giáo dân ở Bắc Hà và cho ý kiến, nếu Rome có hỏi đến. Rồi Bá Đa Lộc viết tiếp:
"Xưa nay, từ ngày thành lập Hội Thừa Sai, người ta vẫn cho phép giáo dân lạy trước thi hài người thân đã chết; ngay cả thời Clément XI và Benoit XIV, dù có những tranh luận gay go về nghi lễ của người Tàu, người ta cũng không nghi ngờ việc lạy ấy có gì phản lại sự trong sạch của đạo Chuá. Chỉ từ năm 1760, một số giáo sĩ, đã mang những thành kiến về châu Âu, bắt đầu la ó chống lại việc thờ phụng này. Họ viết thư về Rome nói rằng việc quỳ lạy chính là một tín ngưỡng sùng bái linh hồn cha mẹ và khi làm như thế, kẻ ngoại đạo đã bẩm báo với cha mẹ nguyện ước của họ. Toà Thánh sau khi đọc những lời này đã truyền lệnh cho tất cả các giáo xứ bãi bỏ việc lạy cha mẹ đã chết.
Tôi là người đầu tiên đem sắc lệnh này đến đây năm 1775; tôi đã gặp sự chống đối mãnh liệt của một vài giáo sĩ và rất nhiều giáo dân. Vị tiền nhiệm của tôi, rất sùng đạo và nhút nhát, đã áp dụng sắc lệnh này với sự ghê tởm. Ông không ngừng phỉ báng những kẽ đã làm nên sắc lệnh này. Vị Giám mục Tông toà của ông, sau trở thành của tôi, không bao giờ tuân theo lệnh này. Một thời gian trước khi qua đời, ông viết thư bảo tôi rằng việc lạy này không có khía cạnh nào đáng kết tội, chỉ bọn chủ trương bỏ nó là đáng kết tội mà thôi... Cuối cùng, ông căn dặn kỹ càng tôi phải gửi tới Rome một bản tường trình khác, và đừng bắt giáo dân cư xử vô liêm sỉ với cha mẹ đã khuất, trước mắt những người Nam Hà.
Trong những năm đầu ở giáo phận này, vì không biết rõ ngọn ngành, tôi đã là một trong những người áp dụng sắc lệnh nhiệt thành nhất. Đến nỗi coi những người đồng hành đi trước xin khoan áp dụng, là ngoan cố, kiêu hãnh... và có lẽ tôi chính là nguyên do khiến không một người nào trong đám họ dám viết thư khiếu nại về Rome. Lúc đó, tôi không hề nghĩ sau này mình sẽ là kẻ đầu tiên làm việc đó. Chỉ sau 20 năm truyền giảng, qua bao nhiêu tranh cãi, tôi mới bắt đầu thấy sự ghê tởm của các giáo sĩ tiền bối có nền móng hơn tôi tưởng.
Tôi thấy bổn phận của tôi là phải đào sâu: tôi đọc các sách, nghe những trí thức Công giáo và ngoại đạo nói vế vấn đề này, và không tìm thấy điểm nào có thể dùng để tán trợ cho sắc lệnh này.
Tôi hầu như chắc chắn rằng sắc lệnh này xây dựng trên một bản báo cáo sai, đúng lúc tôi ở Pháp về, và bị bắt buộc phải biện hộ trước mặt vua và các quan, họ công kích tôi về việc này. Tôi đã thoát hiểm bằng những luận điểm biện hộ cho một chính sách sai lầm... Sau đó, trong nhiều năm tôi vẫn suy nghĩ về việc này và hôm nay, tôi không còn do dự gì mà không thông báo cho Đại Hội Hồng Y ý kiến của tôi. Tôi cũng xin báo cho ông biết, mặc dầu tôi cương quyết cho rằng việc lễ lạy không có gì chống lại sự trong sáng của đạo Chuá, tôi vẫn tiếp tục bảo vệ sắc lệnh này cho tới khi nào Triều đình La Mã quyết định khác đi"[49].
Tất cả những sai lầm của La Mã trong quyết định chống lại việc thờ cúng tổ tiên từ hơn hai thế kỷ nay, đã đưa đến thiệt hại như thế nào, được Bá Đa Lộc diễn tả độc sáng trong lá thư này. Vatican vì quyết giữ sắc lệnh cấm Nghi lễ độc đoán và thiển cận, đã mất đi cơ hội bằng vàng để có thể Gia Tô hóa cả một vùng Á Châu rộng lớn.
Đức Giám mục Bá Đa Lộc qua đời
Mười tháng sau khi viết những hàng trên đây, ngày 12-4-1797, đức Giám mục Bá Đa Lộc gửi về Rome bản tường trình lại cuộc điều trần của ông với Nguyễn Vương, tám năm về trước (1789) về việc thờ cúng tổ tiên, bằng tiếng La tinh.
Ngày 30-5-1798, trong thư viết cho linh mục Boiret, giám mục Bá Đa Lộc cho biết: ông đã nhận được thư trả lời của Rome: "Đại Hội Hồng Y (theo lời tường trình của họ) xác định lại một lần nữa sắc lệnh đã ban hành".[50]
Một năm sau, trong lá thư ngày 15-6-1798, viết cho linh mục Boiret, Giám mục Bá Đa Lộc vẫn bênh vực lập trường của mình:
"Việc lạy là một nghi lễ dân sự, được thể hiện mỗi ngày trước người sống, cho mỗi việc hợp pháp hay không hợp pháp. Một thần dân lạy vua để xin một ân huệ, cũng như để xin một tội ác. Cái lạy này, trong cả hai trường hợp, đều chỉ là sự kính trọng và sự tuân thủ, theo tục lệ ở đây, phải có, trước khi cầu xin. Lời cầu xin tốt hay xấu, cái lạy không làm thay đổi gì cả, nó hoàn toàn độc lập, nó chỉ là một thủ tục lịch thiệp nhưng cần thiết khi trình diện trước người trên."[51]
Đức Giám mục Bá Đa Lộc qua đời ngày 9-10-1799.
Ngày12-11-1800, Giám mục Labartette, quản trị địa phận Bắc Hà, viết thư cho giám đốc Hội Thừa Sai:
"Việc quỳ lạy người thân đã qua đời mà chúng ta gọi là lạy xác, không có gì là mê tín dị đoan, mà chỉ là nghi thức dân sự và dấu hiệu bề ngoài tỏ sự tôn kính và biết ơn của con người đối với cha mẹ, người trên, bạn bè, ân nhân; tôi đã hỏi nhiều người về vấn đề này, nhưng chưa bao giờ thấy ai nói gì khác với những điều tôi vừa nói. Vì vậy, tôi nghi là Triều đình La Mã đã được báo cáo sai lầm, khi cấm tục lệ này, vì cho là mê tín dị đoan."[52]
Đức Giám mục Bá Đa Lộc qua đời ở Quy Nhơn, tại nhà một thầy giảng, vì bệnh kiết lỵ, mắc phải ở Sen-da [?]. Sau ba tháng trời đớn đau, ông mất ở tuổi 57, bên cạnh có linh mục Le Labrousse và hai linh mục người Việt[53].
Nguyễn Vương lúc đó đang chiến đấu với Tây Sơn ở mặt trận Bình Định, gửi một tầu lớn đưa xác đức Giám mục về Gia Định giao cho Hoàng tử Cảnh tổ chức lễ an táng. Vua viết bài điếu văn đầy ơn nghiã, và dành cho đức Giám mục một nghi lễ hết sức trọng thể, đoạn xây lăng hoành tráng cho ông (Lăng Cha Cả), xứng đáng với người đã cứu sống con ông trong bước hiểm nghèo và cũng là bạn trung thành của nhà vua. Đó chính là cái lễ của đạo Nho và đạo Phật, và cũng là của người Việt. Hoàng tử Cảnh mất sau Thầy một năm rưỡi, ngày 20-3-1801, ở tuổi 22, vì bệnh đậu mùa.
Trong bản tường trình những ngày tháng cuối của đức Giám mục Bá Đa Lộc, linh mục Le Labrousse, kể lại:
"Đức Giám Mục dặn dò Le Labrousse, nếu có cơ hội, hãy cho Đại Hội Hồng Y biết rằng tới lúc chết, đức Giám mục vẫn giữ nguyên quan điểm của ông về việc lạy thi hài cha mẹ".[54]
Linh mục Paul Nghị tức Hồ Văn Nghị, người đã cứu Nguyễn Ánh thoát khỏi bàn tay Nguyễn Huệ, qua đời ngày 19-2-1801, tại Sài Gòn.
Linh mục Le Labrousse mất ở Nha Trang ngày 25-4-1801.[55]
Một thời đại đầy sóng gió đã trôi qua. Đây cũng là thời kỳ đạo Gia-Tô có cơ may lớn nhất để phát triển, nhờ sự ủng hộ của cả hai phe đối lập: Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Nếu không có sắc lệnh chống Nghi Lễ của La Mã, Giám mục Bá Đa Lộc có thể đã thực hiện được việc "Gia-Tô hoá Việt Nam" như ông hằng mơ ước, với sự đồng ý của Gia Long.
Linh mục Boisserat đã không ngần ngại xác định: "chúng ta sẽ phải chịu trách nhiệm việc đã làm chậm trễ hay ngăn cản sự cải đạo của cả một vương quốc".
Năm 2011, Claude Gendre viết:
"Chúng ta đã thấy tới mức nào Tín điều của Giáo hội đã không thể hòa hợp với cấu trúc nền tảng của xã hội Việt Nam, là đạo Phật, đạo Lão và nhất là đạo Khổng; những giáo sĩ đầu tiên đã không hề giấu giếm rằng đối với họ, sự tận diệt tư tưởng Khổng Mạnh là điều kiện cần thiết cho mọi truyền giảng Phúc Âm"[56].
Vua Gia Long và sắc lệnh 1804
Năm Giáp Tý (1804), sau khi ra Bắc nhận sắc phong của nhà Thanh, trên đường từ Thăng Long về Huế, vua hạ chiếu 5 điều, để định lại điều lệ hương đảng cho các xã dân ở Bắc Hà, vì vua nhận thấy "Gần đây giáo dục trễ nải, chính trị suy đồi, làng không tục hay, noi theo đã lâu, đắm chìm quá đỗi. Phẩm tiết ăn uống, lễ cưới xin, việc ma chay, thờ thần thờ Phật, nhiều việc quá trớn."[57]
Sau đây xin tóm tắt những điều khoản này:
1- Về tiết ăn uống: cấm xôi thịt, chè chén, làng xã...
2- Về lễ vui mừng: cũng hạn chế, không được vin vào lệ làng, làm tốn kém...
3- Về lễ giá thú: cũng châm chước không hội hè đình đám, không xa xỉ.
4- Việc tang tế: Đạo làm con cốt ở trong lòng, không cần phô trương tốn kém...
5- Việc thờ thần thờ Phật: Những việc thờ cúng mê muội dị đoan đều cấm:
"Thờ cha mẹ chẳng ra gì, dẫu có ăn chay niệm Phật cũng vô ích."
"Gần đây có kẻ sùng phụng đạo Phật, xây dựng chùa chiền quá cao, lầu gác rất là tráng lệ, đúc chuông tô tượng rất đỗi trang hoàng, cùng là làm chay, chạy đàn, mở hội, phí tổn về cúng Phật nuôi sư không thể chép hết, để cầu phúc báo viển vông, đến nỗi tiêu hao máu mỡ.
Vậy từ nay về sau, chùa quán có đổ nát mới được tu bổ, còn làm chùa mới và tô tượng đúc chuông, đàn chay hội chuà, hết thảy đều cấm. Sư sãi có kẻ chân tu thì lý trưởng sở tại phải khai rõ tính danh quán chỉ, đem nộp ở quan trấn để biết rõ số.
Lại đời sống của dân đều có định mệnh, tai không thể giải được, phúc không thể cầu đưọc, cái thuật cầu đảo giải trừ đều vô ích cả [...] Nay thời thờ quỷ thần mù quáng đã sâu [...] động đến là xin phù chú, kêu đồng bóng, lập đàn trường, khua chuông trống, như chiều gió lướt, tập tục theo nhau, làm cho mê hoặc. Kẻ có tà thuật đều giả thác ảo huyền, làm rối tai mắt. Thổi bùa vẽ khoán, tạ pháp án để sinh nhai; chuộc mệnh gọi hồn, xem nhà bệnh là hàng quý. Thậm chí phụ đồng thiếp tính, bịa đặt lời thán, cấm thuốc nhịn ăn, làm cho người bệnh không thể chữa được nữa. Lại còn ngựa rơm người giấy, đập cửa đốt nhà, cùng với mọi thứ bùa thuốc mê hoặc [...] Từ nay dân gian như có đau ốm, chỉ nên cầu thuốc để trị, cẩn thận sự đi đứng, nhất thiết chớ nên tin nghe bọn yêu tà mà cầu cúng xằng xiên. Những bọn thầy pháp cô đồng cũng không được sùng phụng hương lửa để nhương tai trừ hoạ. Nếu quen giữ thói cũ, ắt bị nghiêm trị.
Lại như đạo Gia Tô là tôn giáo nước khác truyền vào nước ta, bịa đặt ra thuyết thiên đường điạ ngục khiến kẻ ngu phu ngu phụ chạy vạy như điên, tiêm nhiễm thành quen, mê mà không biết. Từ nay về sau, dân các tổng xã nào có nhà thờ Gia Tô đổ nát thì phải đưa đơn trình quan trấn mới được tu bổ, dựng nhà thờ mới thì đều cấm. Những điều này, đều là nên cố đổi tệ cũ, kính giữ giáo điều. Nếu cứ quen theo thói làng, can phạm phép nước, có người phát giác thì xã trưởng phải đồ lưu đi viễn châu, dân hạng [?], nặng thì sung dịch phu, nhẹ thì xử roi hay trượng, đề bớt tổn phí cho dân, mà giữ phong tục thuần hậu[58]."
Về đạo Gia-Tô đây là dụ duy nhất của Gia Long trong có đoạn cảnh cáo đạo này. Dụ này sẽ có hiệu lực trong suốt triều đại Gia Long kéo dài sang những triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Những điều trên đây, bao gồm sự điều chỉnh lại các lề thói trong xã hội Việt Nam của vua Gia Long, sau khi lên ngôi hoàng đế, thấy những suy đồi trong xã hội, vua muốn giới hạn sự bành trướng thái quá của đạo Phật và đạo Chúa, đưa đến những tệ đoan không lường trước được. Về nghi lễ, ở đây vua xác định chi tiết hơn việc cấm mê tín dị đoan mà vua đã nói cho Bá Đa Lộc biết từ năm 1798: "Ta đã cấm ma thuật, chiêm tinh, pháp thuật và ta coi việc thờ thánh thần là nhảm nhí, khôi hài, nhưng ta kiên trì gìn giữ việc thờ cúng tổ tiên”.
Tóm lại, dù vua Gia Long chưa ra dụ cấm đạo, nhưng giới giáo sĩ hiểu rằng nhà nước Việt Nam "sẽ" cấm đạo, nên họ vẫn lo ngại, biết mình ở trong tình trạng cá nằm trên thớt: ngay khi Giám mục Bá Đa Lộc còn sống, ông vẫn phải đưa các giáo sĩ vào lậu[59]. Bởi vì, Bá Đa Lộc, các giáo sĩ và tất cả các quan dự buổi đại lễ đón Hoàng tử Cảnh ở Pháp về, đều được mục kích cảnh hoàng tử không chịu lạy trước bàn thờ tổ tiên, như một "xì-căng-đan" lớn, không thể chấp nhận được, và việc vua lập tức triệu tập Bá Đa Lộc lên điều trần, và đưa ra điều kiện tiên quyết: đạo nào cấm thờ cúng tổ tiên thì không được truyền bá ở Việt Nam.
Đạo Gia Tô ở Việt Nam, từ 1800 trở đi
Năm 1800 là năm đầu tiên, sau khi Giám mục Bá Đa Lộc qua đời. Theo báo cáo của Giám mục Labartette gửi linh mục Letondal, Quản thủ tu viện Macao, ngày 5-11-1800, thì:
Năm 1800: có 8 giáo sĩ người Âu, và 12 người Việt. Tổng cộng 20 người, gồm: 6 do Bá Đa Lộc phong chức linh mục, 3 do Labartette phong, và 3 được phong từ trước[60].
Giáo phận Nam Hà được phân phối như sau: Cha Liot ở Tòa Giám mục Đồng Nai, tức miền Nam, thay thế Giám mục Bá Đa Lộc đã qua đời. Cha Grillet ở địa phận Bà Rịa. Cha Jean, người Tây Ban Nha, ở Lái Thiêu. Cha Jourdain ở Tân Triều. Hai cha François và Clément, dòng Franciscain người Ý, ở vùng Tam Lạch. Các cha Dominique, André và Ngãi, ở vùng Sài Gòn, Đồng Nai. Các cha Marin và Nguôn ở giữa miền Nam. Và cha André, người Bắc, ở Cam-bốt.[61]
Năm 1803: Cha Jourdain qua đời tại Sài Gòn ngày 25-7-1803[62]. Nam Hà còn cha Liot là cha Bề trên và cha Grillet, hai cha François và Clément, người Ý, cha Jean, người Tây Ban Nha và 5 cha người Việt: André, Thomas, Dominique, Ngai và Nguon[63]. Tổng cộng :10 người.
Năm 1805: Có 10 giáo sĩ người Âu, sáu linh mục và năm thầy giảng (frères) người Việt, số giáo dân ở Nam Hà là 60.000.[64]
Thư Chaigneau gửi Ledontal ngày 30-5-1812, từ Huế, cho biết:
"Dần dần các giáo sĩ già cả, qua đời và không có người khác đến thay thế. Tình trạng tồi tệ của đạo giáo ở Châu Âu và nhất là ở Pháp, không tìm thấy lối thoát nào cho các giáo sĩ[65]."
Giám mục Labartette là người cuối cùng của Hội Thừa Sai, cùng thời với Giám mục Bá Đa Lộc còn sống tới năm 1823. Sau khi ông qua đời, đạo Gia Tô ở Việt Nam rơi vào tình trạng không người hướng dẫn[66].
Như trên đã nói: vua Gia Long giới hạn việc truyền bá đạo Phật và Chúa từ năm 1804. Vua áp dụng triệt để chính sách vương triều thế tục, không thiên vị đạo nào, giống như Quang Trung. Đạo Gia Tô bị cấm, nhưng Gia Long vẫn nhân nhượng, Giám mục Labartette, là Cha Bề Trên, vẫn chờ đợi vua ban hành sắc lệnh bênh vực đạo Gia Tô, nhưng sắc lệnh không đến. Trong khi chờ đợi, giáo đoàn vẫn tiếp tục tìm cách đưa giáo sĩ vào lậu, để thay thế những người đã qua đời. Năm 1806, vấn đề giáo sĩ ở Việt Nam là một đề tài được bàn bạc gay gắt trong triều. Trong thư viết ngày 2-5-1806 cho Letondal, Giám đốc Tu viện Macao, Giám mục Labartette kể rõ tình hình như sau:
“Năm 1806 có 5 giáo sĩ vào [lậu] Đà Nẵng, trong lúc khó khăn nhất: bốn người Tây ban Nha dòng dominicain và một người Ý dòng franciscain, mà Toà Thánh định gửi đi Trung Hoa. Họ đến đúng lúc trong triều đang bàn cãi sôi nổi về số phận các giáo sĩ: các quan, khi thì nhất định đòi phải đuổi và đàn áp cái đạo ngoại lai này, khi thì đòi đuổi cả chúng tôi... Vua chỉ lắng nghe, có vẻ đồng ý nhưng không nói gì cả. Tuy nhiên vua rất ngại tầu ngoại quốc, nhất là tầu Anh. May nhờ sự giúp đỡ của quan coi cửa khẩu là người công giáo, chúng tôi mới đưa được 5 giáo sĩ này lên bờ và đi trốn trong đêm... Vả lại, cũng nhờ hai ông Chaigneau và Vannier đã "đọc" những thư từ bị chặn mà vua bắt mở ra, theo chiều hướng thuận tiện cho chúng tôi”.[67]
Tóm lại, tình trạng các giáo sĩ bấy giờ rất khó khăn: bên Pháp, bị Cách mạng lùng bắt phải trốn ra ngoại quốc, và ở Việt Nam, vua Gia Long không cho phép tự do giảng đạo, tuy chưa ra lệnh trục xuất, nhưng đã cấm giáo sĩ vào lậu.
Số giáo sĩ đã vào lậu từ thời Bá Đa Lộc, còn ở lại, hoặc mới đến sau này, cũng già yếu, bệnh tật, chết dần: Giám mục Audermar qua đời ở Phuong Ruou [Phường Rượu?] Quảng Trị, ngày 8-8-1821, vì bệnh dịch hạch. Linh mục Jarot mất ở Phuong Ruou, Quảng Trị, ngày 22-5-1823, vì bệnh thổ tả. Giám mục Labartette qua đời ngày 6-8-1823 ở Cổ Vưu, Quảng Trị.
Khi vua Minh Mạng lên ngôi, năm 1820, ngoại trừ một số giáo sĩ người Việt, không rõ là bao nhiêu, nhưng người Pháp chỉ có hai Giám mục Audermar và Labartette còn sống, và họ đã qua đời hai, ba năm sau đó.
Người trách nhiệm việc truyền giáo ở Việt Nam lúc bấy giờ là: Linh mục de la Bissachère (ở Bắc Hà từ 1790 đến 1806), tác giả cuốn sách thời danh, xuyên tạc và bôi nhọ Quang Trung và Gia Long thậm tệ: Ký sự Bissachère[68]. Năm 1815, Bissachère trở thành chuyên gia của chính phủ Pháp về Việt Nam và Á Châu. Năm 1817, ông trở thành Giám đốc Hội Thừa Sai Paris.
Lịch sử công giáo do các giáo sĩ người Pháp như thế, điều khiển và viết ra, và những môn đồ của họ như Trương Vĩnh Ký phụ họa, không hề đả động đến lý do chính, tức là: vì Tòa Thánh triệt hạ tam giáo: Khổng, Mạnh, Phật, và cấm con chiên thờ cúng tổ tiên, cho nên đạo Chúa bị cấm ở Việt Nam; họ chỉ tố cáo việc cấm đạo như một hành động dã man vô cố, của nhà Nguyễn. Vì thế, nên chúng ta cần phải tìm lại nguồn cội mọi vấn đề.
Ba cuốn sách xuyên tạc lịch sử có ảnh hưởng lớn là: Ký sự Bissachère, tên đầy đủ La relation sur le Tonkin et la Cochinchine (Ký sự về Bắc Hà và Nam Hà) của de la Bissachère, in năm 1812 tại Paris, Cours d'Histoire Annamite (Giáo trình lịch sử An-Nam) của Trương Vĩnh Ký, in năm 1875, tại Sài gòn và La Cochinchine Religieuse (Đạo giáo ở nước Nam) của linh mục Louvet, in năm 1885, tại Paris. Ba tác giả de la Bissachère, Trương Vĩnh Ký và Louvet, tìm mọi cách để xuyên tạc chính sách tôn giáo của các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức; khuếch trương cái gọi là tàn sát đạo Gia Tô, do Alexande de Rhodes tạo ra từ thế kỷ XVII, và lấy đó làm cớ hiển nhiên thúc đẩy chính phủ Pháp tiến hành cuộc thánh chiến, cứu giáo dân tử vì đạo.
Trong ba tác giả này, Trương Vĩnh Ký có trách nhiệm hơn cả. Bởi vì ông là người Việt Nam đầu tiên, viết lịch sử bằng tiếng Pháp, cho dân Việt học, ngay sau khi Pháp chiếm xong Lục tỉnh, ông đã mô tả "bộ mặt tàn ác" của nhà Nguyễn, đặc biệt vua Minh Mạng, để gián tiếp chỉ ra rằng: Chính sự "tàn ác" này đã khiến người Pháp phải "can thiệp" vào nội bộ Việt Nam.
Chúng ta đã được học những "sự thực lịch sử" như thế trong hơn một trăm năm, và đã âm thầm chấp nhận cuộc xâm lăng của Pháp là "hợp lý".
(Còn tiếp)
[1] Charles Gosselin, L'Empire d'Annam (Vương quốc An Nam) nxb Perrin et Cie, Paris, 1904, BNF chụp và in lại, Avant-Propos (Nhập đề) trang XVIII-XIX.
[2] Histoire de la Mission du Tonkin, Documents historiques 1658-1717 (Lịch sử truyền giáo ở Bắc kỳ, Tài liệu lịch sử 1658-1717) của Launay, Librairie Orientale et Américaine, Nxb Maisonneuve Frères, 1927. Hội Thừa Sai Paris và Les Indes Savantes, tái bản, 2000, trang 503.
[3] Xem chương 5: Alexandre de Rhodes.
[4] Nguyên văn tiếng Pháp: “La mort de Mgr Alexandre a fait du bruit; hélas! quel bruit!... les chrétiens en murmurent encore... On l'a trouvé raid mort dans son lit; on l'a enterré sans pompe”, Launay, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Tập II, trang 44.
[5] Trích Opinions de Napoléon sur divers sujets de politique et d'administration, receuillis par un membre de son Conseil d'Etat, par le Baron Pelet (de la Lozère) membre de la chambre des députés (Firmin Didot Frères, 1883, Paris) trang 208-209. Tài liệu do Nguyễn Quốc Trị đưa ra trong Nguyễn Văn Tường, tập I, tác giả tự xuất bản, Maryland USA, 2013, trang 380.
[6] Những thông tin về tiểu sử Bá Đa Lộc, chúng tôi viết theo Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, Tập III, trang 1-4.
[7] Thư Giám mục Bá Đa Lộc gửi cho cha mẹ, viết tại Macao ngày 24-12-1774, in trong Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, III, trang 8-9.
[8] Viết theo những thông tin in trong Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, Tập III, trang 1-4.
[9] Thư Giám mục Bá Đa Lộc gửi các giám đốc Trường đạo của Hội Thừa Sai, ngày 8-6-1775, in trong Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ Launay, III, trang 10-11.
[10] Thư Bá Đa Lộc gửi cha mẹ ngày 3-6-1775, từ kinh đô Cam bốt, in lại trong Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ Launay, III, trang 11-12.
[11] Xem Vua Gia Long và người Pháp, Thụy Khuê, Công ty Saigon Books và Nxb Hồng Đức, 2017.
[12] Launay, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, tập III, trang 9-10.
[13] Nguyễn Văn Trung, Về một số sách cũ do người công giáo viết ra từ cuối thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX, in trong cuốn Về sách báo của Tác giả công giáo (Thế kỷ XVII-XIX), Tài liệu tham khảo, trường Đại học Tổng hợp Tp HCM, 1993, trang 96.
[14] Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, tập III, Launay, trang 9-10.
[15] Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, tập III, Launay, trang 9-10.
[16] Testament de Mgr Pigneaux, do Le Labrousse viết, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, III, trang 384-390.
[17] Testament de Mgr Pigneaux, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, III, trang 386.
[18] Testament de Mgr Pigneaux, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, III, trang 388.
[19] Testament de Mgr Pigneaux, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, III, trang 388.
[20] Testament de Mgr Pigneaux, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, III, trang 390.
[21] Nguyễn Văn Trung, Về một số sách cũ do người công giáo viết ra từ cuối thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX, in trong cuốn Về sách báo của Tác giả công giáo (Thế kỷ XVII-XIX), Tài liệu tham khảo, Trường Đại học Tổng hợp Tp HCM, 1993, trang 1)
[22] Thư Bá Đa Lộc viết cho Hội Thừa Sai ngày 8-6-1775, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay III, trang 10-11.
[23] Thư Bá Đa Lộc gửi cho ông Steiner ngày 10-7-1778, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay III, trang 17.
[24] Bản hòa uớc này được ghi là của triều đình làm năm 1782, nhưng có lẽ do Giám mục Bá Đa Lộc viết, được in lại trong Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 158-160.
[25] Giám mục Bá Đa Lộc được toàn quyền ký hiệp ước cầu viện ngày 28-11-1787, với de Montmorin, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp.
[26] Linh mục Hồ Văn Nghị hay Paul Nghị là người đã cứu Nguyễn Ánh khỏi sự lùng bắt của Nguyễn Huệ (xem Vua Gia Long và Người Pháp, Thụy Khuê, trang 131-142).
[27] Đại Nam Thực Lục, tập I, t. 218 và 226. Ngày 28-7-1787, phái đoàn về tới Vũng Tàu, gồm: Giám Mục, Hoàng tử, 4 giáo sĩ: Boisserant, Pillon, Tarin, Leblanc, một người anh/em họ của hoàng tử, 4 cận vệ, 2 đầu bếp và 2 người hầu Giám mục (Vua Gia Long và người Pháp, trang 350).
[28] Ông này có lẽ là linh mục Grinne, theo nội dung lá thư sau.
[29] Nguyên văn tiếng Pháp câu chót: "Personne ne me l'a dit; ma raison seule me le défend, pourquoi voulez-vous que je salue le diable?" Thư Le Labrousse gửi Ô..., ngày 13-12-1790, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 279.
[30] Thư Le Labrousse gửi Ô..., ngày 13-12-1790, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 279.
[31] Thư Le Labrousse gửi Ô..., ngày 13-12-1790, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 280.
[32] Thư Le Labrousse gửi Ô..., ngày 13-12-1790, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 281.
[33] Xem chương 3, phần III: Cristoforo Borri.
[34] Thư Le Labrousse viết cho linh mục Grinne, từ miền Nam, tháng 6-1792, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 281-283.
[35] Thư Le Labrousse viết cho Grinne tháng 6-1792, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 282.
[36] Thư Le Labrousse viết cho Grinne tháng 6-1792, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 282-283.
[37] Thư Le Labrousse viết cho Grinne tháng 6-1792, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 283.
[38] Thư Bá Đa Lộc gửi M. Letondal, ngày 17-8-1789, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 321.
[39] Thư Bá Da Lộc gửi Letondal, ngày 17-8-1789, in trong Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 320-322.
[40] Thư Boisserat viết cho Boiret, ngày 11-8-1789, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, III, trang 322-323.
[41] Thư Hội truyền giáo gửi Bá Đa Lộc và thư Bá Đa Lộc trả lời, bằng chữ La tinh, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 323-326.
[42] Nguyên văn tiếng Pháp: "Le voilà depuis longtemps dans une Cour de paienne, sous la dicipline de maitres paiens, environné d'une foule de ministres de Satan, qui jouent mille rôles et emploient mille artifices pour corrompre son inocence". Thư Le Labrousse gửi M. Létondal, ngày 17-6-1792, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, III, trang 284.
[43] Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 339.
[44] Xem cuộc đời Laurent Barisy, trong Vua Gia Long và người Pháp của Thụy Khuê, trang 535-546.
[45] Thư Larent Barisy gửi M. Letondal ngày 11- 4-1801, in trong tập tài liệu Les français au service de Gia Long, leurs correspondances (Những người Pháp giúp vua Gia Long, Thư từ của họ) của Cadière, BAVH, 1926, tập IV, t. 379, và in trong sách Vua Gia Long và người Pháp của Thụy Khuê, trang 543-544.
[46] Xem Vua Gia Long và người Pháp, Thụy Khuê, trang 470-474.
[47] Thư Bá Đa Lộc viết cho Boiret ngày 30-5-1795, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 327.
[48] Jean Labartette sinh ngày 31-1-1744 ở Ainhoa (Basses Pyrénées), đi truyền giáo ngày 29-11-1773, làm Giám mục và trợ giám mục từ năm 1784. Qua đời ở Co-vuu [Cổ Bưu hay Trí Bưu] Quảng Trị, ngày 6-8-1823. (Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, III, trang 12).
[49] Thư Bá Đa Lộc viết cho Labartette, 5-6-1796, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 328-329.
[50] Thư Bá Đa Lộc viết cho Boiret ngày 30-5-1798, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 331.
[51] Thư Bá Đa Lộc viết cho Boiret ngày 15-6-1798, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 332.
[52] Thư Giám mục Labartette gửi cho giám đốc Hội Thừa Sai ngày 12-11-1800, Launay, tập III, trang 333.
[53] Thư Giám mục Labartette gửi cho Boiret, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 374.
[54] Testament de Mgr Pigneaux (Di chúc của Giám Mục Bá Đa Lộc) do linh mục Le Labrousse soạn, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 390.
[55] Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 480, 481.
[56] Claude Gendre, La Franc-Maçonnerie, mère du colonialisme, le cas du Vietnam (Hội Tam Điểm, mẹ của chủ nghiã thực dân, trường hợp Việt Nam) L'Harmattan, 2011, trang 81).
[57] Đại Nam Thực Lục Chính Biên, trang 583-588.
[58] Đại Nam Thục Lục Chính biên, trang 586-587.
[59] Thư Labartette và Jarot gửi Giám đốc Thừa Sai Paris, ngày 7 và 12 tháng 10-1821 (Launay, III, trang 403)
[60] Thư Labartette gửi Letondal ngày 5-11-1800, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 413.
[61] Thư M. Jourdain gửi M. Letondal ngày 9-4-1802, Lịch sử truyến giáo ở Nam Kỳ, Launay, tập III, trang 413.
[62] Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, quyển III, trang 397.
[63] Thư Jourdain gửi Letondal, ngày 3-1-1803, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, III, trang 413.
[64] Mười giáo sĩ người Âu là: Liot, Doussain, Girard, Grillet, Jarot, Izoard, Labartette, Clément, và hai cha franciscain: François và Jean. Sáu linh mục người Việt: Marin, Hiền, Nhơn, Tín, Tuấn, Hiến, mới chết. Năm frères: An, Luy, Yen, Phuoc, Kim mới phong. Về 7 người do cha Bá Đa Lộc phong ở Đồng Nai, thì 2 người đã qua đời, còn 5: André Ton, André Ngai, Dominique Tan, Thomas Nam và Nhơn đều ở Đồng Nai. Hiện tất cả có 14 người. Các cha Liot, Girard, Jarot, đều già yếu bệnh tật.(Thư Labartette gửi Boiret, ngày 14-5-1805, Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, III, trang 413-414).
[65] Thư Chaigneau gửi Lédontal ngày 30-5-1812, (Documents relatifs à l'époque de Gia Long (Tài liệu liên quan đến thời Gia Long) của Cadière, in trong Bulletin de l'Ecole française d'Exxtrême-0rient (Tập san Trường Viễn Đông Bác Cổ), tome 12, 1912, trang 61.
[66] Danh sách các giáo sĩ đã qua đời: Dựa vào những ghi chép của Hội Thừa Sai Paris, chúng tôi ghi tên 18 giáo sĩ đã qua đời, từ 1801 đến 1823 (in trong Launay III, với số trang đi kèm):
Cha Paul Nghị tức Hồ Văn Nghị, người Việt, chết ngày 19-2-1801 tại Sài Gòn (Launay III, trang 480). Cha Le Labrousse, chết ở Nha Trang ngày 25-4-1801 (trang 481). Cha Jourdain, chết ở Sài Gòn ngày 25-7-1803 (trang 481). Cha Gire, chết ở Phú Yên ngày 20-6-1804 (trang 482). Cha Marin, người Việt, chết ở Phú Yên ngày 12-7-1804 (trang 482). Cha Izoard (đến Nam Hà 1805) chết tại Phuong Ruou [Phường Rượu?], Quảng Trị, ngày 16-7-1808 (t. 483). Giám mục Doussain, chết ở Mi-Cang, Bình Định ngày 14-12-1809 (t.485). Cha Liot chết ngày 28-4-1811, ở Đồng Nai, (trang 486). Cha Grillet chết ở Sài Gòn ngày 27-4-1812 (trang 486). Cha Girard, chết ở Di Loan [?], Quảng Trị ngày 6-12- 1812 (trang 487). Giám mục Audemar, trợ tá Giám mục Labartette từ 1817, chết tại Phường Rượu ngày 8-8-1821 (trang 488). Cha Jarot, chết ở Phường Rượu ngày 22-5-1823 (trang 489). Giám mục Labartette chết ở Cổ-Vưu (xóm đạo ở Quảng Trị) ngày 6-8-1823 (trang 490). Ngoài ra, còn có các cha người Việt: Hiền, Nhơn, Tín, Tuấn, Hiến, không được chính thức ghi tên.
Qua danh sách này, ta thấy Giám mục Labartette là một trong những người cuối cùng của Hội Thừa Sai, cùng thời với Giám mục Bá Đa Lộc, còn sống tới năm 1823; phần lớn các giáo sĩ khác đều đã qua đời.
[67] Thư Labartette gửi Letondal ngày 2-5-1806, in trong Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, III trang 403, chú thích 2.
[68] Xem Vua Gia Long và người Pháp, Thụy Khuê, trang 215-230.