Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 3 tháng 1, 2018

Trong giấc mơ tôi (kỳ 1)

Nguyễn Tuyết Lộc

*LOUISVILLE – HỘI NGỘ SAU 22 NĂM

1997.

Đây là lần đầu tiên tôi đi Mỹ thăm anh Hai tôi sau 22 năm xa cách kể từ 75.

Vào thời điểm này, không dễ dàng gì lấy được visa vào nước Mỹ. Thời Việt Nam đã “đổi mới” nhưng những ngăn trở, nghi ngại ở cả hai phía đối địch cũ chưa thể xóa nhòa. Những người vượt biên trước đây được nhà nước “xóa án phản bội Tổ quốc”, thậm chí họ được tiếp đón nồng hậu khi trở về thăm quê nhà với danh xưng rất đẹp: Việt Kiều Yêu Nước. Còn họ xác định thế nào là Việt kiều yêu hay không yêu nước thì thú thật tới giờ tôi vẫn chưa rõ. Bởi sau khi bộ đội cụ Hồ chiếm được miền Nam một thời gian ngắn ngủi thì hàng chục ngàn quân, dân, những người làm cho chế độ cũ phải vào tù, gọi là đi “học tập cải tạo”, với hàng loạt trại cải tạo tại rừng thiêng núi hiểm trên toàn quốc. Chính phủ Mỹ mất 8 năm trời điều đình với chính quyền Hà Nội để họ được trả tự do cùng gia đình sang định cư tại Mỹ, ưu tiên theo diện ODP (Orderly Departure Program) hay còn gọi là “Chương trình ra đi có trật tự”, với tư cách là những người tị nạn chính trị chứ không phải vì lý do nhân đạo. Mà thật, vì hầu hết ra đi do sợ chế độ khắt khe của Cộng sản, hoặc bế tắc kinh tế, mối lo cho tương lai học hành nghề nghiệp của con cái, hoặc do cha mẹ đi cải tạo trong tù, nhà trường không cho hoặc gây khó dễ việc học hành của con em họ. Mặt khác, họ cũng lao động hết sức mình nơi quê người để kiếm tiền gửi cho thân nhân ở quê nhà, đỡ một phần đất nước phải gánh vác.

Anh chị Hai đón tôi ở phi trường Kentucky, không có màn ôm nhau khóc hu hu, không mừng mừng tủi tủi, một phần tính anh Hai tôi nghiêm khắc, phần khác tôi vẫn còn rụt rè do hai anh em cách nhau hơn 20 tuổi, nhưng nhìn cách anh chuẩn bị đón em út rất chu đáo cũng biết là anh thương em lắm. Anh Hai cho biết anh Thạch cũng đang trên đường từ Paris bay qua New York rồi từ New York về thành phố này. Chiều mai anh Thạch sẽ đến, ba anh em sẽ được ở chung một nhà như hồi tôi còn nhỏ. Thích quá. Cuộc hội ngộ này chỉ có trong giấc mơ.

Trên đường về anh Hai lái xe “ngon lành” lắm, viu viu như thanh niên lái vậy. Tôi nhìn anh, nhìn chị. 22 năm! Bỗng dưng mắt tôi hoe hoe đỏ, mũi tôi phập phồng, có cái gì đó chặn nghẹn cổ tôi. Tôi muốn khóc òa lên nhưng không dám khóc. Tôi thương anh tôi quá.

Đây rồi xe dừng trước số nhà 8409 - Calm Lane - Louisville, địa chỉ mà tôi thường thấy trên những bức thư anh Hai tôi viết gửi về cho tôi với nét chữ thân thương. Anh chị dẫn tôi đi một vòng quanh nhà rồi bảo tôi lên phòng nghỉ ngơi.

Phòng anh chị ở basement, ba phòng ngủ tầng trên thì hai phòng dành cho tôi và anh Thạch. Anh Hai đã tự tay thay drap giường sạch sẽ tươm tất. Chuyến bay thật xa, mệt, tôi chỉ trông chui vào phòng để ngủ một giấc thẳng cẳng cho sướng cái đời.

Trời se lạnh. Đêm Louisville thật yên tĩnh.

Gần 12 giờ trưa thức dậy, tôi mở cửa đi bộ vòng vòng quanh nhà. Rất nhiều cây xanh trồng thành hàng ngăn nắp. Nhà này biệt lập với nhà kia bằng những khoảng sân cỏ rộng không có hàng rào ngăn cách, trước nhà là đường một làn dành cho xe hơi, sau lưng nhà nào cũng có một khoảng vườn lớn, người thì dùng khoảng đất trống này để dựng hồ bơi di động, hình dáng đủ kiểu thật đẹp mắt được lắp ráp bằng những thanh gỗ, keo gắn kết, dây kẽm to bản niềng lại rồi bơm nước vào, vườn nhà anh chị Hai thì để cỏ mọc hoang. Cuối biên vườn là con rạch nhỏ. Người Mỹ gắn tên tuổi mình với cuộc chiến mang tên Việt Nam, nước Mỹ gây ân oán khắp cả trên thế giới hoá ra rất yêu thiên nhiên, đất nước của không gian và lá xanh, xanh thật là xanh!

Tiếng lao xao gọi nhau trước sân nhà, khoảng năm sáu trẻ em độ chừng mười lăm tuổi, da đen có da trắng có, cả da vàng nữa đang chơi bóng chuyền, tôi cũng gia nhập, cũng hò hét. Bỗng tiếng anh Hai gọi:

- Tuyết Lộc, vô ăn sáng rồi đi mall.

Tôi ngồi vào bàn ăn nghe anh dặn dò:

- Chiều ni cả nhà đi đón chú Thạch, tối mới về. Ở đây o không nên lang thang ngoài đường, gặp bọn da đen kiếm chuyện nó đánh. Da trắng kỳ thị lắm, thấy da vàng hay đen nó khinh, cũng kiếm chuyện. O không được vào nhà người lạ cho dù họ có mời vào mình cũng đừng vào. Mình vào rồi họ đóng cửa lại gọi police tới, bảo mình đã vô nhà họ bất hợp pháp là o bị còng tay dẫn đi ngay. Tóm lại, muốn đi đâu o nói với anh, anh đưa đi. Nghe o và chú Thạch qua anh đã lên chương trình cho cả nhà rồi, nơi nào cần đi anh sẽ dẫn đi để biết văn hóa ở đây. O biết không, ở đây nhiều thứ căng thẳng lắm, ví dụ như trời đang nắng, ti vi báo sắp có mưa đá là mình phải lo tìm chỗ trú ẩn ngay. Vừa rồi anh được bảo hiểm đổi chiếc xe mới toanh vì trần xe của anh bị mưa đá làm thủng hết. Nhà phần nhiều làm bằng thứ dễ cháy chất liệu nhẹ, nếu cháy phải nhanh chóng thoát thân trước chứ ham lấy của cải cháy luôn cả người, nếu có lốc xoáy chạy tìm góc nào đó dưới basement ngồi niệm Phật, nhưng không may lốc đã đến nhà chỉ có cách cuốn theo nó mà thôi, Phật không kéo lại nổi. Mưa nữa, o thấy nhà cửa đẹp đẽ sang trọng ri chứ mưa lớn một trận là như lũ, nước tràn cả xuống tầng hầm, nước rút đi anh chị phải múc nước tát ra ngoài. Ống nước hư hay đường dây điện có vấn đề anh chị phải gọi người tới sửa chữa, tốn kém đã đành mà rất phức tạp, họ tháo banh mọi thứ ra, khi họ đi mình dọn dẹp cực lắm. Lúc còn trẻ, mình chịu được, lớn tuổi rồi cái chi cũng thấy mệt nên anh chị dùng đồ đạc phải rất cẩn thận, không hà tiện cũng như người hà tiện. Những ngày o và chú Thạch ở đây chị sẽ nấu cho cả nhà ăn, vì chỉ có chị dùng bếp ga, hỏng đâu chị biết đó. Tuyết Lộc đừng đụng vào bếp ga. Áo quần cũng để chị, hai, ba ngày chị bỏ máy giặt một lần, o rửa chén bát, anh làm tài xế nếu ngày đó anh không đi dạy, chú Thạch ưa cắt cỏ với anh thì cắt… Cỏ ở khu vườn sau nhà lên cao lắm rồi, anh chờ chú Thạch qua cắt đó.Anh lên chương trình xong cả nhà ra xe đến mall gần nhất. Mỗi người mua chi tùy thích. Anh nói đi chợ một lần để ăn hai ngày.

Anh Thạch vừa ra khỏi máy bay là đã có anh chị Hai và tôi đứng đón. Chị Hai cầm máy ảnh chụp lia lịa, tác nghiệp như nhà báo. Chị chụp nhiều kiểu để bảo đảm ba anh em Nguyễn Văn Hai nhà tôi có ảnh đẹp lưu niệm, tôi luôn giành đứng giữa. Chị dâu tôi có cái tên rất đẹp: Công Tằng Tôn Nữ Hà Lãnh. Chị có ánh mắt biết cười, đôi môi khi kể chuyện rất duyên, khuôn mặt chị thật sinh động. Xưa kia tôi còn nhỏ, tôi thích thú ngắm nhìn và bị thu hút mỗi lần ngồi nghe chị dâu tôi kể chuyện, đến bây giờ, hơn nửa thế kỷ rồi chị vẫn thế. Cái duyên ngầm đó làm chị như trẻ đẹp hoài dù đã trên 80. Trên xe hai anh bỏ rơi tôi và chị Hai, hỏi chuyện nhau không ngớt. Anh Thạch cũng phải 25 năm mới gặp lại anh Hai. Anh Thạch tốt nghiệp Tiến sĩ Vật lý tại Đại học Grenoble Pháp, là Khoa trưởng Khoa học tại Đại học Cần Thơ, 1972 anh đi tu nghiệp ở Pháp và sau 1975 không về được phải làm giấy tờ bảo lãnh vợ con, 10 năm sau chị Ngọc Bích (tiến sĩ Hoá cùng tốt nghiệp, cùng một trường Đại học với anh Thạch) và ba cháu mới qua Pháp định cư.

Tối đến cả nhà xúm nhau kể chuyện – chuyện cũ ôn lại là chính – rồi khóc cười với nhau, mà cũng không cần chuyện đời dâu bể loạn lạc, cứ nhớ tới ngày Ba Mẹ tôi ra đi cách nhau có 7 tháng, và nhìn mái tóc bạc của hai anh sau 20 năm xa cách, tôi không cầm được nước mắt.

Cứ đến 7 giờ tối sau giờ ăn cơm chị Hai hỏi ba anh em muốn ăn chè gì. Đậu ngự, hột sen, hay đậu xanh đánh? Có đêm anh Hai và anh Thạch thức đến gần sáng mới đi ngủ. Anh Hai kề những sách anh viết về Phật pháp, anh Thạch giải thích cách kiến trúc của Tòa Thánh Vatican… Hai anh nói thao thao bất tuyệt, đưa ra vấn đề rồi say mê tranh luận, bên hỏi, bên đáp… Tôi chẳng hiểu gì, nằm kê đầu trên chân anh Thạch nghe rồi ngủ lúc nào không biết. Đêm nào không nói về triết lý Phật, Chúa thì cả nhà xem phim. Những phim của Đài Loan sản xuất từ thập niên 60, Minh Hà, con gái đầu của anh chị Hai tìm mua gửi cho anh Hai xem. Nhất là những phim dựa theo cốt truyện Quỳnh Giao: “Hải âu phi xứ”, “Mùa thu lá bay”… Ai ngờ anh Hai lại “mê” truyện Quỳnh Giao như thế, những thứ mà ngày còn ở quê nhà anh không những anh không thèm liếc mắt tới mà còn cấm em út con cái không được đọc những loại tiểu thuyết uỷ mị như vậy. “Không lo học, ham đọc những thứ đó sau ni đi ăn mày”. Có lẽ cuộc sống cô đơn, xa xứ một phần, phần vì khoảng cách quá xa xôi về cả địa lý lẫn văn hoá, nên thế giới Á Đông, Đài Loan và Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ lại trở thành thân thuộc, có hơi hướng “homeland”.

clip_image002

Từ trái qua: Anh Thạch, Tuyết Lộc, anh Hai. Chụp năm 1997, tại nhà anh Hai, Louisville.

*VÀI THƯỚC PHIM KHÓ QUÊN

Đêm đầu tiên, tôi nhắc lại chuyện chạy giặc năm 75 ở Đà Nẵng cho hai anh nghe. Bấy giờ chỉ còn thành phố và phi trường, quân đội Miền Bắc chưa tiếp quản. Các gia đình công chức đổ xô vào sân bay. Binh lính tự động tan hàng tùy nghi di tản. Dân chúng bỏ nhà cửa mang theo đồ đạc chạy xuống bến tàu. Người chạy đằng này kẻ chạy đằng khác, chạy lui chạy tới chứ không biết chạy đâu. Sự hỗn loạn đến với Đà Nẵng nhanh không thể tưởng, cướp bóc như rươi. Quân thất trận, dân lánh nạn từ các nơi đổ về đây chật cả đường sá. Đà Nẵng giống như lòng chảo nằm chịu trận.

Trong lúc cấp bách đó, Thiếu tướng Nguyễn Văn Lạc hấp tấp vào gặp Ba Mẹ tôi. Ông cho biết theo lời gởi gắm của anh Hai thì ông bà cụ và hai em (tôi và Tịnh em tôi) lên gấp chuyến bay cùng ông đi Sài Gòn vì đây là chuyến bay cuối cùng, Việt cộng pháo kích rất dữ dội ở sân bay Đà Nẵng. Ba Mẹ tôi cảm ơn ông và từ chối. Cũng như năm 1954, mẹ tôi phải ở lại Đồng Hới – Quảng Bình – cho đến giờ phút chót, chuyến tàu hoả cuối cùng vào Huế là lúc đất nước sắp bị chia hai, để chờ thấy mặt anh Hoà tôi từ ngày gia nhập kháng chiến 1946 chưa về. Mẹ tôi hy vọng ngày đất nước thống nhất thế nào cũng sẽ tìm gặp lại con mình. Trong trái tim của người Mẹ – dù Mẹ tôi là một trí thức sắc sảo và cũng là một cư sĩ Phật giáo năng nổ với Phật sự từ thời tuổi trẻ – hoá ra chỉ chan chứa một tình cảm sâu sắc, bền vững qua bao năm tháng: TÌNH MẪU TỬ!

Nhưng rồi càng lúc tâm trạng dân chúng càng hoảng hốt, bấn loạn bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ của cải chạy lấy người, trước mắt là sợ cướp vào nhà giết, sau sợ Việt Cộng “tắm máu”. Tôi và Tịnh vội đưa Ba Mẹ đến nhà anh Ngô Đồng, Viện trưởng Viện Đại học Quảng Nam Đà Nẵng. Chị Công Huyền Tôn Nữ Thanh Châu, vợ anh Ngô Đồng, bảo anh bị kẹt trong sân bay từ tối hôm qua, pháo kích rát quá anh không ra ngoài được. Cả nhà chị đang chuẩn bị lên xe cam nhông do một trung úy binh vận lái, chị cho chúng tôi quá giang xuống bến sông Hàn. Tại đây nhiều xà lan đã chất người quá tải nhưng họ vẫn chen nhau xuống. Xà lan dao động theo từng đợt sóng, xáp vào rồi dạt ra. Có người đang bước qua, hay đang chuyền con trẻ, gặp lúc xà lan dạt ra, người rơi xuống sông, xà lan xáp vào lại thế là họ bị kẹp ở giữa hai xà lan mà chết. Không ai để ý đến ai cứ thế đạp lên nhau tìm đường sống. Có người nói tướng lên cứ cắt dây là xà lan tự động trôi ra biển, sẽ có Hạm đội thứ bảy của Mỹ vớt. Ra ngoài khơi xa hễ thấy ánh đèn sáng rực một vùng trời thì đó là hạm đội Mỹ. Họ đâu nghĩ ngay cả lính Mỹ ở Đà Nẵng còn không kịp “xa chạy cao bay”, nói gì chuyện chờ người Mỹ lo cho dân “An Nam” nhà mình.

Trong bóng đêm mịt mù mọi người cứ ngước dài cổ trông chờ mãi “ánh đèn sáng rực” của hạm đội Mỹ mà chẳng thấy đâu. Xà lan trôi thật nhưng trôi qua cảng Tiên Sa bên kia sông Hàn, trôi thật chậm ngoài khơi dưới ánh trăng đêm. Bên kia cầu cảng Tiên Sa quân lính Việt Nam Cộng Hoà đang khom mình rút chạy theo một hàng dài, bóng họ in rõ trên nền trời mỗi khi hoả châu loé sáng. Gần đến chiều hôm sau xà lan mới cập một bến nhỏ. Chúng tôi phụ nhau cõng Mẹ rời xà lan đi khoảng hai cây số thì vào một trường học, ở đây dân đứng rất đông ngoài sân, hai tay đưa lên đầu, mặt mày tái xanh không còn chút máu. Chúng tôi cũng líu ríu tấp vào, vội vã đưa hai tay lên đầu… hàng. Trước mặt chúng tôi là hai chiếc xe tăng đang trờ đến.

- Trời ơi, Việt Cộng! Việt Cộng! Trốn Việt Cộng bên tê lại gặp Việt Cộng bên ni. Răng ở mô cũng có Việt Cộng ri trời?

Một bà hốt hoảng.

Hai nòng súng xe tăng từ từ quay về hướng chúng tôi. Thế là hết đời, tôi hoảng hốt nghĩ ngay đến Tết Mậu Thân và bỗng ớn lạnh cả xương sống, chân tay run lẩy bẩy muốn khụy xuống, miệng mồm méo xệch, nước đái chảy cả quần, hơi nóng dọc theo hai ống chân. Một vị chỉ huy xe tăng chạy lên phía trước nhìn đám đông, giọng Quảng Nam:

- Các mẹ các chị, đồng bào đừng sợ, chúng ta đã hoàn toàn chiến thắng. Các em học sinh tình nguyện sẽ đưa gạo, sữa… cho đồng bào, rồi ai ở đâu thì về đó trình diện địa phương.

Đêm ấy tiếng pháo kích không còn, tiếng súng chỉ lác đác xa xa. Chúng tôi vào trường học sau khi dùng tạm mấy gói cơm ăn liền, kê ghế sát nhau mà ngủ.

- Hết đường sống rồi bà con ơi – một bà khẽ nói – ngày mai về lại nhà chắc chi sống được. Họ sẽ đem mình ra bắn hết thôi.

- Bà nói răng lạ rứa. Họ bắn mình hết rồi họ ở với ai. – Tiếng một ông ồm ồm – Sống chết chi tui cũng phải về lại nhà để tìm gặp thằng con trai của tui, hắn đi theo Việt Cộng từ năm Mậu Thân. Không lẽ hắn về hắn giết hết cha mạ, anh em hắn. Nhà tui mãi ở Duy Xuyên theo dòng người chạy giặc mà ra tận nơi ni, chừ mô cũng Việt Cộng rồi, mình ở chi chỗ lạ hoéc ni, mình phải về nhà mình chơ.

Tôi thầm nghĩ, thì ra không nhà này cũng nhà khác đều có người thân đi theo…Việt Cộng. Mỗi gia đình người Việt bị xé toang, loang lỗ chấn thương của một cuộc chiến tranh không ai mong muốn. Một cuộc chiến vừa phảng phất tính chất những cuộc chiến tranh vì độc lập tự chủ trong quá khứ vừa có đặc trưng “cuộc chiến tranh uỷ nhiệm” do những siêu thế lực muốn vẽ lại bản đồ quốc tế theo ý riêng và trước sự bất lực, đớn đau của người Việt.

Dọc ven đường đảo Tiên Sa người chết nằm la liệt, nhiều binh lính sĩ quan quân đội Sài Gòn cởi trần chỉ mặc chiếc quần đùi, ngồi bệt giữa đường, nét mặt ngơ ngác, không hồn, nhìn xót cả ruột. Hai chị em tôi thuê được một chiếc xe lam với giá cắt cổ đưa Ba Mẹ về lại nhà. Cửa nhà bị mở toang hoang nhưng trong nhà chẳng mất gì. Vài người trong xóm vác về từng bao tời tiền lấy từ kho bạc. Họ bảo trong hai ngày đêm tôi đóng cửa nhà “chạy giặc”, dân chúng có người thì phá kho gạo ở bến chợ Hàn, có người chạy đến phá kho bạc ở đường Yên Báy gần nhà tôi lấy tiền. Một vài nhà phố bị gài lựu đạn cửa ra vào… Người ta nhốn nháo đi mua vàng, máy móc hoặc bất cứ thứ gì có thể mua được, vì nghe đâu sẽ đổi tiền, có người đem đồ đạc trong nhà bày ra giữa hè phố bán kiếm chút tiền sống đắp đổi qua ngày. Cuộc sống vô cùng hổn loạn, nhếch nhác. Lính miền Bắc thì nhiều mà nhân lực chuyên môn tiếp quản lại thiếu. Dân có chuyện gì cũng không biết phải hỏi ai hay nhờ ai can thiệp. Thành phố giống như nhà không chủ, rắn mất đầu.

Việc đầu tiên của tôi là đến trường Cao đẳng Sư phạm ở An Hải, Mỹ Khê trình diện và ngày hôm sau tất cả giáo sư các trường trung học cũng như Cao đẳng Sư phạm hay Viện Đại học Quảng Đà đều tập trung tại trường Phan Châu Trinh để bắt đầu học tập chính trị. Ngồi bên tôi là anh Ngô Đồng (nhận chức Viện trưởng Viện Đại học Quảng Đà vừa được bốn tháng), anh nói nhỏ: “Em biết không, tụi mình sắp bị “tẩy não” rồi. Thứ chống Cộng quyết liệt như anh không sớm thì muộn cũng bị đem đi thủ tiêu”. Tôi tái mặt nhưng không dám hỏi lại. Hai tuần sau tôi được tin anh Ngô Đồng đã đem gia đình vượt biên ở Nha Trang. Thời gian lưu tại nhà anh Hai ở Mỹ, bạn bè điện kể cho tôi biết trong những năm đầu khi định cư tại đây, với bằng Tiến sĩ Côn trùng học do Đại học Mỹ cấp, anh Ngô Đồng vẫn không dễ dàng kiếm cho mình một chỗ dạy hay một việc làm nên anh phải sống bằng nghề tay trái là dạy karaté cho thanh niên Mỹ. Tiền bạc thiếu hụt, cuộc sống rất khó khăn. Chị Thanh Châu không biết Anh ngữ phải ở nhà, lâu ngày sinh quẫn trí và đã tuyệt vọng tới độ tự tử bằng súng lục, hai con trai của anh chị bị chết trong tai nạn giao thông, cuối cùng anh Ngô Đồng cũng qua đời do suy sụp tinh thần. Đúng là số phận cay nghiệt, thương tâm, mà cả anh và chị đều là những người có tài có sắc nổi tiếng một thời ở Huế.

Theo lời anh Hai thì những ngày cuối cùng ở Sài Gòn không khác gì Đà Nẵng mà tôi kể, mọi người nhốn nháo chạy xuôi chạy ngược. Từ Huế vào Sài Gòn gia đình anh được ông Nguyễn Cao Thăng (Tổng Giám đốc hãng bào chế thuốc tây OPV), bạn thân anh, dành riêng căn hộ của ông thuộc chung cư Yên Đổ đường Lý Chính Thắng, quận 3 để tá túc. Khi Ban Mê Thuột mất, ông Lê Thanh Minh Châu, Viện trưởng Viện Đại học Huế, chuẩn bị đi dự Hội nghị Giáo dục Quốc tế. Trước khi lên máy bay, ông nhờ người đưa về cho anh Hai một tấm ngân phiếu 50 ngàn đồng và bảo là ông Viện trưởng biếu giáo sư. Anh Hai ngạc nhiên không hiểu sao ông Lê Thanh Minh Châu lại cho mình tiền, nhưng rồi anh cũng ra ngân hàng ký thác vào trương mục của mình. Ngân hàng bảo chi phiếu ấy không tiền bảo chứng, nghĩa là trương mục của ông Viện trưởng không còn chi hết. Anh Hai phân vân thắc mắc mãi “không còn chi hết”, “không còn chi hết”??? Cho đến khi phải “chạy gấp rút” anh mới hiểu ông Lê Thanh Minh Châu muốn nói gì với mình.

Anh lên Bộ Giáo dục ở đường Lê Thánh Tôn nhờ anh Tôn Thất Thứ, học sinh cũ trường Bán Công Huế, làm việc tại Bộ, lục tìm bằng cấp cho anh. Vì ngoài bằng Tiến sĩ Toán tại Đại học Sorbonne, Pháp, anh còn bằng tiến sĩ Quản lý Giáo dục tốt nghiệp tại Mỹ nữa. Nghe người ta đồn bằng cấp học vị Mỹ của một người bấy giờ được xem như tờ giấy bảo lãnh, một điều kiện để được người Mỹ “bốc” đi bằng máy bay. Vào ngày cuối tháng 4. 75, nghe tin trực thăng Mỹ sẽ đáp trên sân thượng một building ở góc đường Mạc Đỉnh Chi và Trần Cao Vân để rước dân tỵ nạn, anh Hai chở gia đình đến đó nhưng người Hoa ở Chợ Lớn đến càng lúc càng đông nên Mỹ huỷ bỏ bãi đáp, gia đình anh Hai phải vòng xuống bến Bạch Đằng ở cột cờ Thủ Ngữ và ra đi bằng thuyền đến trại tị nạn Philippines.

Ngày nào cũng có rất nhiều người di tản đến đây bằng thuyền hay bằng máy bay. Anh Hai không chịu nổi nắng nóng gắt ở đảo nên bị đau, bị kiết lỵ, người ốm tong teo tưởng chết ở Phi rồi, may sao hôm các cháu đưa anh lên trạm xá cấp cứu, một sĩ quan người Việt nhận ra anh trước đây là thầy cũ của ông ta, ông hứa lo cho anh Hai định cư sớm. Một gia đình đạo Tin Lành ở Mỹ đứng ra bảo lãnh gia đình anh.

Anh nói sở dĩ đến ngày cuối cùng mới “chạy” vì anh nhớ lại những ngày còn làm dân biểu Quốc hội, anh thường cùng các Tỉnh trưởng đi khảo sát tình hình. Năm 73, đang là Trung tá Hải quân trong ban chỉ huy Trường Hải quân ở Nha Trang, ông Trần Văn Sơn, học trò cũ của anh Hai, chở anh đi xem căn cứ Cam Ranh, vào tận những nơi ít ai biết đến như chỗ huấn luyện người nhái hay chỗ đêm ngày nhận fax không biết phát xuất từ đâu. Ra về anh nghĩ là người Mỹ không bao giờ có thể rời bỏ đất nước này vì họ đã đầu tư quá nhiều tiền bạc để xây dựng những căn cứ rất đồ sộ, tân tiến, và tốn kém cho quân đội của họ ở đây.

Anh tự trách mình: Không hiểu sao ngày đó anh “ngây thơ” đến vậy. Tôi im lặng không dám cắt ngang tâm sự lớn của anh cũng không dám nói những lời suy nghĩ vừa thầm lặng bật lên trong cái đầu nhỏ bé, phi-chính-trị của mình: Anh tôi nói rõ chỗ “ngây thơ” của mình, nhưng ngay ở những địa chỉ xa xôi, chót vót mà có người Việt viện tới, mà dựa dẫm, mà tin cậy, lại có người khác nhắc lại tên để chỉ trích, nguyền rủa, tôi muốn nói tới những cái tên Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa, Hoa Thịnh Đốn, Luân Đôn, Ba Lê… liệu họ có phải là Thượng đế, Tạo hoá minh triết, tự chủ như chính họ tự đánh giá hay không. Hay tất cả đều là những kẻ “ngây thơ” trong mộng tưởng, lý tưởng chính trị, trong mớ giáo điều và cả những hô hào triết lý cao kỳ bay bổng!!! Và rút cuộc chỉ là mộng mơ, tất cả có khi đều không có thực – trừ nỗi đau của hàng triệu người Việt, hàng vạn người Pháp, và trên dưới sáu mươi ngàn xác lính Mỹ ở chiến trường mang tên Việt Nam là có thực!

Mà nghĩ cũng lạ thật, nếu so với “chương trình ra đi” thời kỳ 1954 khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ phải rút về nước thì quân đội họ cũng rút trật tự cho dù trong tư cách của kẻ thất bại và dân miền Bắc di cư vào Nam trong vòng ba trăm ngày lại có thời hạn cho phép rõ ràng được thế giới giúp đỡ tàu bè, nơi chốn định cư. Còn với Mỹ, với đội quân thế lực hùng mạnh nhất thế giới, khi rút quân lại “ba chân bốn cẳng” rút cấp bách vô trật tự. Trong vòng ba bốn ngày, nào hạm đội, nào phi cơ trực thăng hỗ trợ vậy chứ có người không kịp mặc quần tà lỏn mà… rút, nói chi đến chuyện Mỹ lo chuyện sống chết cho dân mình, mặc dân miền Nam hỗn loạn, thất thần chạy quanh chạy quẩn trong thành phố, từ thành phố này chạy sang thành phố khác và cùng đường vượt cả đại dương với những chiếc thuyền mong manh, bất chấp tính mạng chỉ để trốn… Cộng sản.

*MỖI NGƯỜI MỖI CHUYỆN

Việc đầu tiên khi đến Mỹ là anh gấp rút nộp bằng cấp xin dạy ở các trường Đại học, bất cứ bang nào. Anh nói, gia đình người Mỹ theo Tin Lành này rất tốt, họ giúp đỡ mình đầy đủ mọi thứ, chỉ có việc làm anh lúng túng là tuần nào họ cũng dẫn anh đến nhà thờ Tin Lành gần đó, hoặc để cầu nguyện hoặc để gặp gỡ các vị chức sắc. Ông Trần Văn Sơn – học trò cũ của anh – cùng ông Thái Doãn Ngà – cựu Hiệu trưởng Phan Châu Trinh và cựu Giám đốc Nha Học chánh Đà Nẵng – giúp anh tìm được việc làm ở Cali, cuối cùng Đại học Kentucky nhận anh Hai vào dạy. Cả gia đình anh lên máy bay sang Louisville ngay không chần chờ nữa, một là tránh khỏi áp lực vì việc họ giúp đỡ mình rất có thể quan hệ gợi ý về tín ngưỡng, cải đạo, điều mà về nguyên tắc, anh Hai không thể chấp nhận được. Hai là ổn định việc học hành cho các cháu, Minh Hà, Minh Phương, Hoài Nhơn, Việt Châu, Việt Anh, Minh Huyền. Còn Việt Sơn thì đã du học Mỹ từ 1970. Thời điểm tôi sang thăm, cháu nào cũng có công việc ổn định và đã yên bề gia thất. Anh cho biết Minh Phương Giám đốc một công ty với hơn trăm công nhân. Việt Châu làm tại Valley Silicon cũng vậy. Riêng con gái út là Minh Huyền sau khi tốt nghiệp bác sĩ hạng ưu tại Đại học Havard được lưu lại giảng dạy cho trường một thời gian, hiện làm giám đốc Viện Ung thư Fox Chase Cancer Center, Philadelphia. Còn Minh Hà là con gái đầu của anh sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ Văn chương ở nhà nuôi dạy con để chồng tập trung vào công việc ở giảng đường. Việt Sơn cũng xong Tiến sĩ Kinh tế từ những năm 75 nhưng lại thích ở nhà chơi piano hay ban đêm đi trình diễn piano tại các club. Hoài Nhơn tốt nghiệp dược, hằng ngày pha chế thuốc, luôn tiếp xúc với hoá chất độc hại thường bị stress, sống ẩn mình ít giao tiếp.

Xem ra dù với anh chị là cảnh “đất khách quê người”, nhưng còn hơn bao nhiêu gia đình trong nước, ngoài nước, anh chị lại trực tiếp thấy được sự thành công tốt đẹp của con cái.

Có con là bác sĩ nhưng anh Hai lại sợ bác sĩ nhất, chỉ khi nào đau chịu không nổi mới tìm đến bác sĩ. Anh nói ở Việt Nam mình nếu có đầy đủ máy móc, thuốc men hiện đại như bên ni, thì bác sĩ mình cũng giỏi không thua chi ai.

Tôi cười, nói với anh, anh đừng vội khen bác sĩ ở Việt Nam. Không phải ai mang danh xưng bác sĩ cũng giỏi, cũng có tâm giống nhau đâu. Tôi nhớ hồi đó đang đứng trên bục giảng bài thì lên cơn đau dạ dày dữ dội, đau tái mặt, mồ hôi lạnh vã ra. Học sinh đưa vào cấp cứu ở Bệnh viện C Đà Nẵng. Bác sĩ Tưởng Giám đốc bệnh viện, tốt nghiệp y khoa tại Liên Xô cũ, chẩn đoán tôi đau vùng thượng vị, phải chụp quang tuyến. Nhìn những tấm phim để trong khung đèn, bác sĩ Tưởng lấy cây bút và tờ giấy vẽ hình bao tử rồi cười nói với tôi:

- Không có gì để cháu lo. Cái bao tử của cháu chỉ cần cắt bỏ một phần ba thôi. Chú sẽ đục một lỗ nhỏ bên hông, nối ruột già vào đó để cháu có thể đi cầu, tức là hậu môn giả. Bây giờ là 11 giờ trưa, cháu về thu xếp việc nhà, đến đầu giờ chiều thì trở lại đây, tự tay chú sẽ giải phẫu cho cháu. Bây giờ hiện đại lắm, mổ ruột như cắt cổ gà không cần gây mê, chỉ chích thuốc tê vùng cần thiết. Chú mổ phần dưới bụng, cháu vẫn có thể trò chuyện được. Cháu đừng để lâu, đau lên đau xuống, mặt mày nhăn nhó, mất hạnh phúc gia đình.

Tôi bị “sốc” khi nghe bác sĩ nói vậy, chỉ trong chốc lát, người tôi rệu rã, không còn chút sức sống nào nữa.

Trên đường về tôi nghĩ mọi cách, cuối cùng tôi quyết định trốn qua Bệnh viện Đa Khoa, nơi chuyên khám cho cán bộ công nhân viên, gặp bác sĩ Thưởng là Giám đốc bệnh viện. Tôi đưa hết mấy tấm hình X quang vừa chụp tại Bệnh viện C cho bác sĩ xem. Bác sĩ Thưởng bảo tôi phải chụp X quang lại cho rõ ràng hơn rồi ký giấy cho tôi đi thử phân. Sau khi hội đủ giấy tờ xét nghiệm, phim ảnh dạ dày, bác sĩ Thưởng gọi hết bác sĩ khoa nội vào họp đột xuất. Ông chỉ từng tấm hình và nói:

- Nè, mấy anh xem nè, cái dạ dày của con người ta không bị chi hết mà chẩn bệnh trên lâm sàng xong bảo đem con người ta lên bàn mổ. Làm ăn kiểu ni là chết con người ta còn chi. Thấy chưa.

Các bác sĩ vừa theo dõi phim vừa hỏi:

- Ai vậy thưa bác sĩ Giám đốc?

- Hừ, anh Thưởng tui coi bên Bệnh viện C chứ còn ai vô đây nữa.

Mọi người trố mắt nhìn nhau, lắc đầu không dám có ý kiến. Bấy giờ tôi mới biết, hai vị bác sĩ Giám đốc hai bệnh viện lớn nhất Đà Nẵng, Tưởng và Thưởng, là hai anh em ruột.

Quay sang tôi, Bác Thưởng nói:

- Cái dạ dày của cháu không đau chi hết, không mổ xẻ chi hết. Cháu bị con sán móc nó hành, bây giờ chỉ xổ sán là xong!

Quên chuyện tài năng của các ông thầy thuốc, ba anh em trò chuyện đến hơn 2 giờ sáng mà trời ngoài kia còn ánh nắng như mới 5 giờ chiều. Louisville mùa này ngày dài hơn đêm. Anh Thạch xem bộ đã thấm mệt vì mấy hôm trước phải đổi qua nhiều chuyến bay, hai mí mắt tôi cũng trĩu nặng. Chúng tôi chia tay về phòng ngủ.

Đến 12 giờ trưa cả nhà mới bắt đầu dậy. Thay vì ăn sáng chị Hai sửa soạn bữa ăn trưa luôn. Anh Hai lên chương trình ăn xong sẽ đi ngân hàng đổi tiền lẻ cho anh Thạch. Ngày mai Chủ nhật, anh Hai sẽ chở cả nhà đến nhà thờ để anh Thạch dự lễ lúc 5 giờ sáng. Anh Thạch rất cảm động khi thấy anh Hai chu đáo lo cho em từng cái nhỏ. Cuối buổi lễ, người ta quyên tiền giáo dân từng dãy ghế với cái túi vải có cần dài, con chiên kín đáo bỏ tiền vào đó tùy hảo tâm. Nhà thờ ở đây không lớn lắm, giống Dòng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng Sài Gòn nhưng khung cảnh chung quanh rộng, thoáng, nhiều cây xanh rất đẹp, yên tĩnh. Vài ba người Việt đi lễ, còn hầu hết là dân bản xứ, thành phố này ít người Việt sinh sống. Trong nhà tôi chỉ mình anh Thạch theo đạo Thiên Chúa. Từ 75 anh qua dạy ở, Côte d’Ivoire – Phi Châu – vì ở đây họ trả tiền cho giáo sư thỉnh giảng về các môn khoa học cao hơn. Vào thời điểm đó anh Thạch cần nhiều tiền vừa để gửi về cho Ba Mẹ, hai em, vừa để phụ chị Thạch nuôi các cháu đang học Trung học, mặc dù chị Thạch vẫn tiếp tục dạy ở Đại học Cần Thơ từ sau 75. Khi chị qua Pháp, chị được nhận vào giảng dạy tại Đại học Paris ngay, anh Thạch cũng nghỉ dạy ở Côte d’Ivoire trở về dạy tại Pháp. Đến tuổi hưu trí, anh chị thường xuyên làm việc đạo. Ngoài bằng Tiến sĩ Khoa học, anh Thạch còn có bằng Tiến sĩ Thần học. Anh được cử làm Thầy Sáu có nhiệm vụ đến thăm nhà giáo dân nào đang cần sự giúp đỡ tinh thần, đôi khi anh ngồi lắng nghe họ nói giờ này qua giờ khác, rồi động viên an ủi tinh thần họ.

Anh Thạch kể:

Có một bà lớn tuổi chồng vừa mất, anh được cử đến đó để an ủi, chia sẻ nỗi đau của bà. Vừa bước chân vào nhà anh Thạch tự giới thiệu mình, chưa kịp ngồi xuống bà đã không ngừng kể lể, bao nhiêu tính xấu của ông được bà khai vanh vách, chửi ông không ra gì như muốn trút hết cơn giận ông vào anh Thạch. Ngày nào anh cũng đến chỉ để ngồi im nghe bà hằn học chửi. Khi nào quá mệt bà không chửi nổi nữa thì thôi, anh về rồi mai lại đến nghe bà chửi tiếp. Một tuần trôi qua, tật xấu của chồng bà kể đã hết, chửi ông cũng đã chửi quá nhiều rồi, không còn gì để chửi nữa, bà bắt đầu dịu giọng:

- Thầy ơi, lúc còn sống ông ấy nghiện rượu lắm nên khi ông ta chết, tôi tức quá mới nặng lời. Ngày nào không whisky không được, ông ấy uống say nhèm, nôn ọe cả nhà rồi đập bàn xô ghế. Uống đến nổi bị xơ gan cổ trướng. Tôi chịu hết nổi. Chỉ có cái tật đó thôi, chứ nghĩ đi nghĩ lại ông ta lo cho tôi nhiều thứ lắm. Khi tôi đau ông lái xe đi chợ một mình, rồi tự tay nấu cho tôi ăn. Tôi muốn gì ổng cũng chiều. Nghĩ lại mà thương ông, tội nghiệp ông lắm thầy ơi. – Bà bắt đầu khóc khi nhắc đến những kỷ niệm đẹp hơn bốn mươi năm chung sống của ông bà – Tôi nói thật với Thầy, nếu bây giờ còn sống, ông ấy cứ say mèm tôi cũng chịu, còn hơn lẻ loi một mình, tôi biết sống với ai? Con cái ở xa, nó có gia đình riêng của nó, lo cho gia đình nó còn không đủ nữa làm sao lo cho tôi.

Anh Hai nghe anh Thạch kể xong, gật gù:

- Tuổi già lắm cái nhiễu nhương thiệt. Anh đã nghĩ chuyện bán ngôi nhà này chuyển về ở gần Minh Huyền cho tiện việc nó chăm sóc.

Anh nói thật, anh có chuyện gì chị còn ở với con cái không đứa này thì đứa khác hay về Việt Nam ở với em út, gia đình của chị được, chứ chị đi trước anh, chắc anh vào nhà dưỡng lão. Tính anh không giống chú Hoà hay chú Thạch về già có thể sống với con cháu được mô.

Mà đúng như vậy. Tính anh Hai tôi cũng lạ, mỗi lần có bạn hay học trò cũ gọi cho anh, anh mừng tíu tít cứ như là con nít gặp mẹ đi chợ về. Anh bảo họ cúp máy để anh gọi lại. Anh sợ người ta tốn tiền gọi mình, nói chuyện không thoải mái. Mình nói nhiều, lần sau họ không gọi nữa thì mình biết nói với ai, chơi với ai. Mỗi tháng chỉ tiền điện thoại thôi cũng ngán rồi. Vừa nghe anh bệnh, vợ chồng giáo sư Nguyễn Văn Trường và chị Hồ Đắc A Trang, vợ chồng cựu Viện trưởng Viện Đại học Huế Lê Thanh Minh Châu và chị Tăng Thị Thành Trai, vài cặp vợ chồng khác nữa hẹn nhau cùng bay qua thăm anh. Họ quý mến nhau lắm.

Chưa hết, con cái đến thăm phải ở khách sạn. Anh sợ mệt, sợ mất tự do với cháu với dâu hay với rể. Khi chúng đến phải báo trước giờ giấc xem anh có tiếp được hay không. Còn bạn, anh mời bạn đến ở lại chơi. Với chị dâu không răng hết, ở mấy tuần mấy tháng cũng được miễn anh vui. Bữa ăn, họ kể chuyện, ăn xong ra phòng khách, kể chuyện, chán trong nhà kéo nhau ra sân đi dạo cũng kể chuyện, tiếp tục kể cho đến gần sáng không nói nổi nữa mới nhắm mắt ngủ chờ sáng hôm sau kể tiếp. Chị dâu phải ra chỗ khác ngủ, dành phòng riêng hai vợ chồng cho anh ngủ với bạn. Anh bảo lâu ngày gặp bạn hiền, nói chuyện cả ngày cả đêm cho đã, biết đâu sau đó không còn gặp nhau nữa. Anh quý bạn còn hơn quý vợ. Nói thì nói vậy, chứ đó là một nét đáng yêu và cảm động của ông anh Cả khó tính của chúng tôi: anh Hai rất quý bạn và đồng nghiệp, một tình cảm sâu sắc, bộc bạch và chân chất vô cùng!

*ANH HOÀ VÀ NGƯỜI CẬU NUÔI CỦA TÔI

Anh Hoà mà anh Hai tôi vừa nhắc là em kế anh Hai tức là anh thứ ba trong gia đình ngoài chị đầu là Thích Nữ Vi Diệu xuất gia theo Phật lúc bảy tuổi.

Ngày đầu tiên quân đội tiếp quản Đà nẵng, mỗi lần ra đường, nhìn các chú bộ đội khoác tấm áo mưa bằng nilon tôi nhớ đến hình ảnh anh Hòa ngày tôi còn nhỏ, ở Mỹ Lộc, Lệ Thủy - Quảng Bình. Anh Hòa đi Vệ Quốc Quân theo Việt Minh kháng chiến chống Pháp từ những năm 1945. Không biết anh Hòa đóng quân ở đâu mà tôi thấy anh thỉnh thoảng về nhà thăm Ba Mẹ khi trời chập choạng tối. Dáng anh cao, gầy, nét mặt thư sinh, Anh lẩn quẩn trong nhà một lát rồi đi, mang theo thức ăn và tiền Mẹ cho, quàng vội chiếc áo tơi bằng lá dày, mưa bên nào quay bên đó. Nụ cười hiền hòa, anh kể chuyện huyên thuyên, luôn là chuyện vui, không bao giờ nghe anh kể chuyện cực khổ, khó khăn. Anh về chỉ một ít thời gian hạn hẹp mà trong nhà như ấm hẳn lên, như vui hẳn lên. Mẹ biết con mình thoát ly đi kháng chiến là trăm bề thiếu thốn, gần gũi với chết chóc, súng đạn. Mẹ không nói ra nhưng Mẹ lo ngày lo đêm, nhất là mỗi khi nghe tiếng súng Tây bắn qua, Việt Minh bắn lại, Mẹ lại ngồi niệm Phật Quán Thế Âm. Dạo đó, cậu Nguyễn Ngọc Lễ (Trung tướng Nguyễn Ngọc Lễ Quân đội Việt Nam Cộng hòa) cũng hay đến thăm Ba Mẹ.

Cậu là em nuôi của Ba Mẹ. Nghe Mẹ nói cậu người Quảng Nam, có học hành đàng hoàng, vào thời đó mà đậu được bằng thành chung Pháp là khá lắm. Khi cậu nhập ngũ vào quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, không như người khác phải đi lính khố xanh khố đỏ, vì có học nên cậu được qua trường lớp đào tạo quân sự, cậu được đưa về Lệ Thuỷ - Quảng Bình, cấp bậc thiếu uý, làm trưởng đồn Mỹ Đức – một Đại đội Khinh binh Biệt lập – là nơi gần gia đình Ba Mẹ ở. Khi lính tráng của cậu bị thương hay chính bản thân cậu đau ốm đều đến nhờ Ba tôi điều trị. Tính cậu thẳng thắn, có tình nghĩa, lâu ngày Ba Mẹ xem như em út trong nhà, và chính Ba Mẹ là người đứng ra lo chuyện cưới hỏi cho cậu. Vợ cậu người Quảng Nam, con nhà gia giáo. Mợ là người rất đôn hậu. Sau khi sinh con gái đầu lòng cậu mợ đặt tên Nguyễn Thị Mỹ Đức để kỷ niệm nơi cậu đóng quân và lấy mợ. Gia đình cậu đổi vào Thừa Thiên Huế cho đến 1950, Quân đội Quốc gia chính thức thành lập cậu được cử làm Chủ tịch Ủy ban Bình định tỉnh Thừa Thiên. Khi Ba Mẹ tôi trở lại Huế, tôi vẫn thường vào nhà cậu chơi với Mỹ Đức. Đây là một dinh thự rộng lớn xây theo kiểu Pháp nằm trong Đại Nội gần điện Kiến Trung, nghe nói dinh thự này là chỗ ở của ông Khâm sứ Jean Charles thầy dạy của vua Bảo Đại hồi vua còn là Hoàng tử. Mỹ Đức thua tôi chừng ba, bốn tuổi mà xưng chị chị em em ngọt xớt. Mỗi lần có dịp ghé thăm Ba Mẹ và anh Hai, cậu hay giả giọng Huế gọi tôi và Tịnh: - Con Lộc mô, thằng Tịnh mô, ra cậu biểu. Tịnh nhảy phóc lên đùi cậu ngồi, tôi ngồi trên tay ghế, cậu rút tiền trong túi hào sảng phát cho cả hai. Da cậu đen mun, răng bịt vàng sáng chói. Mẹ tôi nói cậu không đẹp trai cao ráo như các tướng tá khác, nhưng đi mô cậu cũng có “nhà hai, nhà ba…”. Cậu mất năm 1972 tại Sài Gòn với cấp bậc Trung tướng đã nghỉ hưu. Sau 1975 mợ cùng các con định cư ở miền Nam nước Mỹ trong một trang trại trồng nho do chính mợ mua và thường liên lạc với anh Hai. Mợ mất tại đây khi đã về già. Sau này có bạn quen cho đọc ké tác phẩm Gọi thầm giữa Paris của nhà thơ, nhà hoạt động nhân quyền Thi Vũ, ông cho biết vào năm 1955 ông nuôi mộng xuất dương “tìm đường cứu dân”, nhưng trong túi không có tiền thì có hai quý nhân phò trợ. Ông viết: “Bà Vân ở đường Cầu Quẹo Đà Lạt, người xem tôi như con, nuôi tôi những năm học ở trường Yersin, và dì Lễ, bà và chồng là người cứu tôi thoát chết ở Huế cuối thập niên 40. Hai mẫu thân này cho tôi tiền mua vé máy bay đi Pháp. Khi nào tôi mới trả được ơn trời biển này?” (Câu hỏi 17 của Lê Thị Huệ phỏng vấn ông trong bài Người tri thức hành động và dẫn đường). Ông Thi Vũ nhấn mạnh tính nhân hậu của vợ chồng cậu Nguyễn Ngọc Lễ: “…Tôi bị bắt vì tham gia kháng chiến như mọi người dân yêu nước. Một người bạn học của cha tôi đã kịp thời can thiệp cứu tôi thoát khi cảnh chết bắn với năm người tù khác. Ông chính là tướng Nguyễn Ngọc Lễ. Sau ngày tôi ra tù, ông sợ lôi thôi với đủ thứ ban sở An ninh, Liêm phóng, Phòng nhì… nên đưa tôi về sống trong gia đình ông hai tháng ròng trước khi tôi phải rời thành phố Huế. … Đây là khoảng thời thơ mộng nhất của tình người giữa chiến tranh ác liệt mà Bác và dì Lễ nuôi nấng tâm hồn tôi.” (Thi Vũ 2015. Gọi thầm giữa Paris, tái bản lần thứ hai. Paris: Quê mẹ, trang 183). Nhận xét này của ông Thi Vũ đúng với ấn tượng của gia đình tôi về ông cậu nuôi, cũng đúng với một nhận xét trong một cuốn sách về các tướng lãnh trước 75 ở miền Nam, tôi quên nhan đề và tên tác giả, “Nguyễn Ngọc Lễ là viên tướng có tư cách”.

Ở Đồng Hới, có khi lính Tây là cậu Lễ và bộ đội Việt Minh là anh Hoà gặp nhau trong cùng một nhà, ăn cơm chung một mâm, ngồi chung một chiếu, chuyện nổ như bắp rang, xưng hô cậu cậu cháu cháu thân mật. Cậu còn đùa:

- Khi mô hành quân thấy người nào lùn, đen thùi lùi, giọng ồm ồm rổn rảng là cậu đó, con đừng bắn cậu nghe chưa?

- Còn con thì răng? Anh Hòa cười. Bộ đội cụ Hồ đứa mô cũng còm cõi như con làm răng cậu nhận ra con mà chừa không bắn? Rứa thì cậu thấy bộ đội, cậu tránh đừng bắn bộ đội hí.

clip_image003

Vợ chồng cậu Nguyễn Ngọc Lễ (Thi Vũ Võ Văn Ái 2010. Người trí thức hành động và dẫn đường. Paris: Quê mẹ, tr. 171).

Lần về cuối cùng anh Hòa không còn vui như trước. Đó là năm 1946. Anh Hoà vừa về Đồng Hới để báo tin cho Ba Mẹ hay anh sẽ Nam tiến cùng anh em kháng chiến chống Pháp cũng là lúc anh Hai về thăm Ba Mẹ ở Lệ Thuỷ vừa vào Huế. Hai anh em không còn thấy mặt nhau từ đó. Sau này anh Thạch học ở Toulouse và Grenoble liên lạc được với anh Hoà đang giảng dạy Đại học tại Hà Nội và được biết sau khi tập kết ra Bắc một thời gian thì được nhà nước cho đi học bộ môn Triết ở Nga – Liên Xô cũ.

Khi chia tay, anh ôm Mẹ mếu máo khóc, bồng tôi ngồi trên chân anh, giọng nghẹn lại:

- Anh thương em lắm. Ở nhà nghe lời Mẹ hí, mai mốt anh về.

Từ đó tôi không còn thấy anh, anh Hòa tôi không về nhà nữa cho đến 30 năm sau, 1975 anh từ Hà Nội về giảng dạy trường Cao đẳng Sư phạm Huế.

Anh Hai nghe vợ nhắc đến anh Hoà, giọng anh chùng xuống:

- Chú Hoà chịu khổ cực hơn anh nhiều. Hình như đời anh luôn có quý nhơn phù hộ.

Cuộc đời anh Hai tôi? Đó là câu chuyện chúng tôi vẫn chờ đợi nghe anh trực tiếp kể vì anh là người hoạt động xã hội nhiều, đời sống của anh liên quan đến những biến cố lịch sử qua nhiều thập kỷ.