Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 23 tháng 3, 2017

Phan Khôi, người Việt Nam đầu tiên đưa tin sự sụp đổ một thuyết Lysenko trong ngôn ngữ học xô-viết

Lại Nguyên Ân

 

Đây là có lẽ là cả một sự kiện rất hiếm có ở thời kháng chiến chín năm (1946-54) tại chiến khu Việt Bắc, nhưng đương thời ít ai ý thức được. Không phải sự kiện quân sự hay chính trị, chỉ là chuyện văn hóa, thậm chí hẹp hơn, chuyện chỉ liên can đến lý thuyết ngữ học, nhưng lại là sự kiện có quy mô quốc tế, hay ít nhất, quy mô phe dân chủ nhân dân (về sau sẽ gọi là phe XHCN), hoặc hẹp hơn nữa: quy mô Việt-Trung-Xô!

Nguyên là vào ngày 20.6.1950 báo “Pravda” tại Moskva đăng bài báo của Stalin nhan đề “Chủ nghĩa Mác và ngôn ngữ học”, được coi là động thái của nhà lãnh đạo tối cao Liên bang Sô viết và đảng Cộng sản Liên Xô trợ giúp một số nhà ngôn ngữ học trẻ nhằm lật đổ “học thuyết mới về ngôn ngữ” của Viện sĩ đã quá cố Nikolay Yakovlevich Marr (1865-1934) mà một trong những nội dung chính của thuyết này là khẳng định “bản chất giai cấp” của ngôn ngữ, do vậy đã dành được sự ủng hộ chính thống tại Liên Xô suốt từ khi được đề xuất (1923) đến thời điểm đó (1950).

Chỉ một tháng sau, bài của Stalin đã có bản dịch Hoa văn đăng báo “Đại Công” (số ra ngày 21.7.1950) ở Hương Cảng, khi đó đang thuộc quyền quản lý của Anh quốc, nhưng dịch giả là một cán bộ cấp cao Trung Quốc lục địa, Lý Lập Tam (1899-1967).

Ở Việt Nam, tại “thủ đô gió ngàn” Việt Bắc, ngay trong năm ấy, thường trực Ban ngôn ngữ văn tự của Hội Văn hóa Việt Nam đã nhận được số báo “Đại Công” Hương Cảng kể trên. Người phụ trách Ban ngôn ngữ văn tự lúc ấy là Phan Khôi đã bắt tay dịch ngay bài báo trên của Stalin ra tiếng Việt. Vừa lúc dịch xong, ông lại nhận được một bản dịch chữ Pháp đã đánh máy bài kể trên của Stalin, không ghi tên người dịch; ông đã đối chiếu một số điểm và thêm một vài chú thích vào bản dịch của mình.

Bản dịch của Phan Khôi được công bố dưới dạng sách in, đứng tên xuất bản là Ban Văn học Vụ Văn học nghệ thuật, Bộ Quốc gia Giáo dục. Sách in xong và phát hành ngay trong năm 1951 tại Việt Bắc.

Một thông tin học thuật về một lĩnh vực tri thức tương đối hẹp là ngữ học, mà được lan truyền từ Moskva qua Hồng Kông đến một vùng rừng núi Việt Bắc trong thời gian ngắn như trên, quả là việc hiếm thấy.

Tất nhiên, người ta biết, đương thời, uy danh của nhà lãnh đạo tối cao Liên Xô là cực lớn, hầu như mọi động thái phát ngôn của ông đều được truyền tin khắp Liên Xô và “phe” XHCN, lại cũng được các giới báo chí, truyền thông các nước phương Tây tư bản chủ nghĩa chú ý khai thác, đưa tin, bình luận. Bởi thế, có thể đoan chắc rằng tài liệu về phát ngôn này của Stalin cũng được các phái viên hải ngoại của nước Việt Nam kháng chiến ở Hồng Kông nhanh chóng phát hiện và gửi về trung ương.

Học giả Phan Khôi biết và được can dự công việc dịch thuật bài báo này của Stalin, chỉ vì khi đó ông đang làm việc tại Ban Ngôn ngữ văn tự Hội Văn hóa Việt Nam, đóng tại Việt Bắc.

***

Đến đây buộc phải tìm hiểu đôi nét tình hình học thuật Nga và Liên Xô liên quan đến việc Stalin đưa ra bài báo về ngữ học nói trên.

Có thể nói sự việc chủ yếu liên quan đến tên tuổi và hoạt động của một người cũng xuất thân từ nước Gruzia (như Josef Stalin), đó là Nikolay Yakovlevich Marr (1865-1934).

Đây là con trai của một người đàn ông Scottland già tên là James (hoặc Jamescob) Marr, sống ở vùng Kapkaz và lập ra vườn thực vật Kutaisi, với một phụ nữ Gruzia trẻ là Agafia Magularia.

Tốt nghiệp trung học tại Kutaisi, Nikolay Marr đến kinh đô Petersburg của đế chế Nga và sống đến tận cuối đời ở đấy.

Tại đại học Petersburg, N. Marr học đồng thời tất cả các ngành của khoa Đông phương học, cũng học tất cả các ngôn ngữ được dạy tại khoa này. Năm 1888 ông tốt nghiệp và trở thành một trong những nhà Đông phương học của Nga ở thời gian chuyển tiếp giữa hai thế kỷ, có những đóng góp được coi là đáng kể vào các ngành sử học, khảo cổ, dân tộc học về Gruzia, Armenia và vùng Kapkaz, đào tạo nhiều chuyên gia Đông phương học, trong đó có những người xuất sắc.

Tại Đại học Petersbug, N. Marr được bầu làm giáo sư (1902), trưởng ngành (1911) của Khoa Đông phương học. Tại Viện Hàn lâm Đế chế Nga ở Petersburg, N. Marr từ vị trí trợ tá ngành lịch sử ngữ văn (từ 1909), được bầu làm Viện sĩ đặc cách (14.1.1912), rồi Viện sĩ bình thường (từ 1.7.1912). Ông còn là trưởng xứ đạo; tham gia khối giáo sư cánh tả. Từ năm 1914 ông là cố vấn nhà nước thực thụ.

Sau cách mạng tháng 10.1917, N. Marr tiếp tục là giáo sư đại học, viện sĩ Viện Hàn lâm Nga. Những năm 1920-1930, N. Marr có uy tín lớn trong giới trí thức Liên Xô; ông sáng lập Viện nghiên cứu Japhetic tại Petrograd (sau là Viện ngôn ngữ và tư duy mang tên ông); tháng 3.1930 ông được bầu làm Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô; ông là chủ tịch hội hữu nghị Nga-Palestin (1929-1934); được tặng huân chương Lenin nhân 45 năm hoạt động khoa học (1933).

Trong di sản học thuật của N. Marr có một bộ phận mà nội dung và giá trị bị tranh luận kịch liệt, đó là “học thuyết mới về ngôn ngữ” do ông đề xuất ở thời kỳ hoạt động khoa học sau cách mạng 1917.

Vốn dĩ từ những năm đầu hoạt động khoa học, N. Marr đã quan tâm đến vấn đề liên hệ nguồn gốc giữa các ngôn ngữ vùng Kapkaz và đề xuất một loạt giả thuyết về sự thân thuộc giữa chúng về ngữ nghĩa, từ vựng. Ông đặt cho “gia đình ngôn ngữ” này một cái nhãn là thuật ngữ “những ngôn ngữ Japhet”, theo tên Japhet, con trai thứ ba của Noah, người mà, theo Kinh Thánh đạo Thiên Chúa, đã được chúa trời chỉ bảo nên đã cùng cả gia đình thoát khỏi nạn đại hồng thủy, cứu thoát loài người và phục sinh muôn loài trên mặt đất.

Người ta cho rằng, thế chiến thứ nhất (1914-18) và cách mạng (1917) đã tách N. Marr khỏi công việc khảo cổ thực địa ở Kapkaz, khiến ông chuyển trọng tâm sang hoạt động lý thuyết. Tháng 11.1923, ông công bố “học thuyết mới về ngôn ngữ”; thuyết này sẽ được N. Marr và một số học trò đồng thời là môn đồ của “chủ nghĩa Marr” (Marrizm) trình bày và diễn giải suốt nhiều năm sau, kể cả sau khi N. Marr đã qua đời (20.12.1934). Thuyết này còn được nhắc đến với những tên gọi: “thuyết Japhetic”, “Japhetologia”, “Marrizm”, “thuyết về tính giai đoạn”; nói gọn lại thì đó là lý thuyết về nguồn gốc, lịch sử và “bản chất giai cấp” của ngôn ngữ.

Xin nêu mấy nội dung chính của thuyết này, theo những lược thuật của một số nhà nghiên cứu Nga.

1/ Các ngôn ngữ Japhetic. Marr cho rằng có tồn tại cái mà ông gọi là “những ngôn ngữ Japhetic” (đặt theo tên Japhet, con trai thứ ba của Noah như nói trên); ông xếp và đây những thứ tiếng như tiếng Gruzia (là bản ngữ của ông và ông buộc học trò phải học) cùng với các ngôn ngữ Kartvelian vùng nam Kapkaz, rồi một số ngôn ngữ như Burushaki, Basque, v.v. Các ngôn ngữ Japhetic được Marr lý giải như một giai đoạn phát triển ngôn ngữ, hiện diện trên toàn thế giới, gắn với cấu trúc giai cấp của xã hội.

2/ Bản chất giai cấp của ngôn ngữ. Thuyết này khẳng định, ngôn ngữ có bản chất giai cấp, do nó là “thượng tầng” bên trên “hạ tầng” là các quan hệ kinh tế xã hội. Có thể phân chia ra các giai đoạn ngôn ngữ gắn với các giai đoạn phát triển xã hội theo chủ nghĩa Mác: xã hội tiền giai cấp, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ quân chủ phong kiến, chủ nghĩa tư bản; và do vậy, sẽ cần phải nảy sinh một ngôn ngữ mới của xã hội cộng sản chủ nghĩa, đó sẽ là “ngôn ngữ mới và duy nhất, ở đó cái đẹp đẽ cao nhất được hòa quyện với sự phát triển trí tuệ cao nhất”. Những ngôn ngữ đơn lập được cho là thuộc những giai đoạn sơ khai, những ngôn ngữ có biến hình là thuộc những giai đoạn cao hơn; trong quá trình chuyển giai đoạn này sang giai đoạn khác sẽ hình thành các bộ phận của ngôn từ và các phạm trù ngữ pháp. Các môn đồ học thuyết Marrizm còn muốn xác lập một biên niên về sự nảy sinh các bộ phận từ vựng (danh từ, sau đó là đại từ, sau đó là động từ, v.v.).

3/ Nguồn gốc của ngôn ngữ. Các ngôn ngữ đều có nguồn từ “những tiếng kêu trong lao động”, do “cách mạng âm thanh” và gắn với ngọn nguồn hoạt động lao động của con người. Nó có trước ngôn ngữ ra hiệu (ngôn ngữ cử chỉ). Mọi từ vựng của mọi ngôn ngữ đều chung nguồn gốc xuất xứ (monogenesis), đó chính là 4 yếu tố vốn là những tiếng kêu khởi đầu lao động: SAL, BER, ION, ROSH (thoạt tiên “không có bất cứ hàm nghĩa gì” và nhắm tới các mục đích ma thuật); bộ môn gọi là “cổ sinh học ngôn ngữ” có thể quy bất cứ từ vựng nào vào một trong số 4 yếu tố ấy.

Trái ngược hoàn toàn với những quan niệm thông thường về lịch sử ngôn ngữ, theo đó, một ngôn ngữ nguyên sơ (proto-language) duy nhất phân rã dần dần thành những ngôn ngữ đơn lẻ nhưng có liên hệ thân thuộc nhau về nguồn gốc; Marr cho rằng sự phát triển ngôn ngữ đi theo hướng ngược hẳn lại: từ đa dạng, đa bội đến thống nhất, duy nhất. Theo ông, các ngôn ngữ nảy sinh độc lập nhau: chẳng những tiếng Ukraina và tiếng Nga từ xa xưa không hề thân thuộc họ hàng với nhau, mà đến mỗi phương ngữ, biệt ngữ tiếng Nga trong quá khứ cũng đều là những ngôn ngữ nảy sinh độc lập. Về sau sẽ diễn ra quá trình gặp gỡ, giao cắt, lai ghép nhau, khi hai ngôn ngữ do những tương tác lẫn nhau mà biến thành một ngôn ngữ thứ ba, mới, là con cháu của hai ngôn ngữ kia; ví dụ tiếng Pháp là do ngôn ngữ Japhetic và ngôn ngữ Latin lai ghép nhau. Do nhiều giao cắt, lai ghép mà số lượng ngôn ngữ giảm dần xuống và đến xã hội cộng sản thì quá trình này hoàn tất bằng việc tạo ra một ngôn ngữ toàn thế giới, khác với mọi ngôn ngữ đã tồn tại. (1)

Trong học thuyết của Marr còn nhiều nội dung khác nữa, ở đây tạm không đề cập.

Các luận điểm do N. Marr đề xuất, hoặc đã không được củng cố bằng các luận chứng, hoặc chỉ dựa vào những sự khẳng định khó đứng vững trước sự phê bình; khối tài liệu rộng lớn các ngôn ngữ xứ lạ, tuy gây ấn tượng mạnh cho người không phải chuyên gia, song thực ra lại chứa đựng rất nhiều sai lầm, gượng gạo, thậm chí là hư ngụy. Các công trình của Marr thường có lối trình bày rối rắm, lại hay lướt từ đề tài này qua đề tài kia. Đôi khi những điều đó lại còn gắn với bệnh trạng tâm lý của Marr nữa. Thế nhưng cùng với những cái đó, trong các công trình của ông cũng bộc lộ những tư tưởng về tầm quan trọng cuả nghiên cứu đồng đại đối với ngôn ngữ, về loại hình học ngôn ngữ, xã hội học ngôn ngữ, v.v.

Tuy vậy, nhìn chung, “học thuyết mới về ngôn ngữ” của N. Marr hoàn toàn không xác đáng, xét theo quan điểm khoa học. Vậy mà trong nhiều năm nó đã dành được sự ủng hộ mang tính nhà nước, trở thành học thuyết chính thống.

Ngay sau khi học thuyết này xuất hiện (1923), nó lập tức thu được sự chú ý đặc biệt của nhiều quan chức cấp cao các ngành khoa học và giáo dục Liên Xô. Trong số những quan chức đã lên tiếng ủng hộ lý thuyết này ngay trong những năm 1920s có: A. Lunacharsky, M. Pokrovsky, P. Lebedev-Polyansky, V. Friche, V. Bryusov, v.v. Dân ủy (bộ trưởng) giáo dục A. Lunacharsky viết rằng, “bộ óc sáng tạo hiệu quả của nhà ngữ văn vĩ đại nhất Liên bang chúng ta và có lẽ là vĩ đại nhất trong số những nhà ngữ văn đang còn sống” chính là N. Marr. Nhà vật lý, viện sĩ hàn lâm Abram Ioffe thì truyền bá giai thoại rằng N. Marr có thể, trong một ngày, học xong một ngôn ngữ trước đó ông chưa biết. Chính giám đốc đại học MGU khi đó là A. Vyshinsky đã yêu cầu đưa học thuyết của Marr vào giảng dạy.

Đáp lại sự quan tâm của giới chức đầu ngành, từ cuối những năm 1920s, N. Marr bắt đầu đưa các trích dẫn Marx và Engels vào các bài viết của mình; sau đó, N. Marr đi đến chỗ khẳng định học thuyết của mình chính là “ngôn ngữ học Mác-xít”, quay lại lên án các bộ môn ngữ học đang có ở Tây Âu (mà chính N. Marr từng chịu ảnh hưởng), ví dụ, ngữ học so sánh lịch sử là “khoa học tư sản”, học thuyết về ngữ hệ Ấn-Âu là “sự hỗ trợ về tư tưởng cho chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa chủng tộc”. Trước những ý kiến phản đối, Marr và những môn đồ phái này thường đáp trả bằng sự đả kích thô bỉ, dùng lời lẽ quy kết chính trị, hơn là biện giải khoa học.

Năm 1930, N. Marr lên đọc báo cáo tại Đại hội 16 Đảng CSLX và ngay sau đó vào đảng; ông là viện sĩ duy nhất trong số các viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học đế chế cũ gia nhập đảng cộng sản, lại là trường hợp rất hiếm, được miễn thời gian là đảng viên dự bị. Kể từ đó, “học thuyết mới về ngôn ngữ” chẳng những được ủng hộ bởi những cá nhân lãnh đạo cấp cao mà còn được tuyên truyền tích cực khắp Liên Xô và được vận dụng như “một lý thuyết duy nhất đúng đắn về mặt giai cấp”. Cũng có những nhà khoa học tỏ ra xem thường thuyết này, hoặc tìm cách hạn chế trích dẫn thuyết này. Học giả N.S. Trubetzkoy từ nơi lưu vong lên tiếng đả kích kịch liệt lý thuyết này, nhưng nói chung giới khoa học châu Âu hoàn toàn im lặng lảng tránh nó, mặc dù N. Marr có một vài chuyến sang Tây Âu. Trong lúc đó, xung quanh N. Marr hình thành “trường phái” những người tuyên truyền học thuyết này, hay đúng hơn là tuyên truyền những khẩu hiệu giả danh Mác-xít. Các thành viên này hầu hết là những kẻ háo danh, những “chuyên gia trẻ” xuất thân công nhân, hoặc đến từ các vùng biên xa xôi; họ đôi khi không có chút học vấn nào về ngữ học, họ cũng không làm nghiên cứu mà chỉ chú trọng viết phỉ báng những ai phản đối lý thuyết của Marr bằng những quy chụp chính trị (“bọn theo Trotzkist”, “tư sản buôn lậu”, v.v.). Tiếc rằng vẫn có một số nhà khoa học có trình độ cao tỏ ra đồng tình với đám tuyên truyền viên này.

Cuối năm 1929 xuất hiện một bản báo cáo kịch liệt phê phán học thuyết ngữ học của N. Marr, do một học giả Nga, E.D. Polivanov viết, nhưng không được đồng nghiệp ủng hộ, hơn nữa, vì báo cáo này, ông bị phái đi Trung Á rồi tại đấy ông bị bắt, bị xử bắn (1938). Vụ hãm hại này là dấu hiệu đầu tiên cho thấy học thuyết của N. Marr trở thành một học thuyết bị áp đặt từ trên xuống. Một ý đồ nữa chống học thuyết của N. Marr là của nhóm “Mặt trận ngôn ngữ” (của T. Lomtev, P. Kuznetzov) nhưng đến đầu 1932 thì bị các môn đồ học thuyết Marr đè bẹp.

Những năm 1937-38, cả những người phê phán học thuyết Marrizm (E. Polivanov, N. Durnovo, G. Ilinsky, G. Danolov) lẫn những người tích cực “truyền bá” học thuyết này (V. Aptekar, S. Bykovsky, L. Bashindzhagian) đều trở thành nạn nhân các vụ thanh trừng.

Sau khi Marr qua đời (20.12.1934), và nhất là vào những năm 1940s, những người tự coi là học trò và kế tục Marr (I. Meshchaninov, S. Katznelson, M. Gukhman, v.v.) trên thực tế đã vứt bỏ những nét khả ố ở “học thuyết mới về ngôn ngữ” của ông thầy, từ bỏ việc dán nhãn chính trị, và trong phạm vi khoa học, đã phát triển các nghiên cứu loại hình ngôn ngữ, lý thuyết cú pháp, mô tả các ngôn ngữ thiểu số các dân tộc trong Liên bang. Một số luận điểm được cho là “diễn giải chưa hoàn chỉnh” của Marr, được họ tuyên bố bảo lưu; một số luận điểm đã lộ rõ là hoang tưởng thì họ đem gán cho không phải Marr mà là một số “kẻ dung tục” vô danh. Trong việc biên tập cho in lại các công trình của N. Marr, tuy những người kế tục không dám vi phạm các luận điểm của Marr, nhưng họ cũng bớt đi khá nhiều trích dẫn.

Trong phạm vi cuộc đấu tranh gọi là “chống chủ nghĩa thế giới” (“Kosmopolitizm”, chiến dịch chính trị diễn ra những năm 1948-1953, nhắm vào lớp trung lưu trí thức, bị coi là đại diện xu hướng hoài nghi và thân phương Tây), khá đông tuyên truyền viên của học thuyết Marrizm (như F. Filin, G. Serduchenko) đã mở chiến dịch chống “những kẻ giả danh của lý thuyết tư sản” trong ngữ học, trên thực tế, đây là đòn tấn công nhắm vào tất cả các nhà ngữ học lớn (V. Vinogradov, D. Bubrikh, thậm chí cả những người kế tục học thuyết của Marr). Lúc này, học thuyết Marrizm được coi như một lý thuyết “yêu nước”, các công trình của Marr được đưa vào dạy ở bậc đại học, thậm chí cả ở trường phổ thông.

Đầu năm 1950, Viện HLKHLX lập ra một ban trù bị cho việc kỷ niệm 15 năm mất N. Marr; một số người phản đối học thuyết của Marr bị buộc thôi việc (S. Bernstein, B. Serebrenikov, v.v.). Nhưng chiến dịch này bất ngờ bị đình chỉ “từ trên xuống” và chuyển hướng ngược lại.

Trong hai tháng 5 và 6.1950, nhật báo “Pravda” mở cuộc thảo luận công khai về “học thuyết mới về ngôn ngữ” của N. Marr. Mở đầu cuộc thảo luận là bài của A. Chikobava (lúc đó đang phụ trách khoa nghiên cứu Kapkaz, đại học Tbilisi), kịch liệt phê phán học thuyết Marrizm; cùng theo hướng đó là các ý kiến của L. Bulakhovsky, G. Kapantzyan, B. Serebrenikov. Báo cũng đăng các ý kiến bảo vệ học thuyết ấy (I. Meshchaninov, N. Chemodanov, F. Filin, V. Kudryavtzev), và những ý kiến nhân nhượng, điều hòa (V. Vinogradov, G. Sanzheev, A. Popov, S. Nikiforov).

Vào gần lúc kết thúc cuộc thảo luận thì xuất hiện bài báo của người đứng đầu đảng và nhà nước Liên Xô, J. Stalin. Ngày 20.6.1950 báo đăng bài có nhan đề “Về chủ nghĩa Mác trong ngữ học”; cuộc thảo luận thực ra đã kết thúc ngay từ hôm đó, mặc dù còn kéo dài vài tuần nữa. Ngày 4.6 báo đăng đoạn văn Stalin trả lời nữ phóng viên E. Krasheninnikova; ngày 2.8 báo đăng đoạn văn Stalin trả lời thư một bạn đọc. Sau đó, tất cả các phần đăng tải này được soạn thành một văn bản dưới nhan đề “Chủ nghĩa Mác và vấn đề ngữ học”, được xuất bản với số lượng in lớn và được tuyên bố là “tác phẩm thiên tài”.

Trong bài báo của Stalin, ý tưởng xem ngôn ngữ là “kiến trúc thượng tầng”, “tính giai cấp của ngôn ngữ” do N. Marr đề xuất, đều bị bác bỏ; ngôn ngữ được xem như công cụ giao tiếp toàn dân; “học thuyết mới về ngôn ngữ” của Marr được khẳng định “không phải là ngữ học Mác-xít”.

Người ta nhận ra rằng, từ 20 năm trước, việc để cho N. Marr trực tiếp đọc báo cáo trước đại hội 16 ĐCSLX, sau đó J. Stalin trong phát biểu tại đó có trích một số luận điểm của N. Marr (“…ngôn ngữ mới sẽ không phải tiếng Đại Nga, không phải tiếng Đức, mà là một ngôn ngữ hoàn toàn khác…”), – là sự kiện đã đóng vai trò chính thống hóa học thuyết này trong khoa học trên toàn Liên Xô. Đến lúc này, J. Stalin (có sự tư vấn của Chikobava) đã phê phán gay gắt “học thuyết mới về ngôn ngữ” của N. Marr, chỉ ra tính chất phản khoa học ở các luận điểm của nó, chỉ ra sự liên hệ máy móc giản đơn của nó với chủ nghĩa Mác.

Người ta cho rằng, cuộc thảo luận là do Stalin trù định như đoạn dạo đầu để ông phát biểu ý kiến của mình. Chikobava sau này kể lại rằng bài của ông đăng báo “Pravda” là do Stalin chỉ thị cho ông viết.(2) Trước đó Chikobava có thư gửi Stalin khi ông bị một số môn đồ học thuyết Marrizm săn đuổi. Sau nữa lại rõ ra rằng chính bức thư ấy là đề xuất của Bí thư thứ nhất BCH ĐCS Gruzia Kandid Nesterovich Charkviani (1907-1994) và qua ông ta được gửi cho Stalin. Vậy có thể đây là sáng kiến của Charkviani, người che chở nhà ngữ học Chikobava; trong trường hợp này, Chikobava chỉ thực hiện vai trò một chuyên gia.

Về lý do Stalin can thiệp sâu vào ngữ học như vụ này, người ta nêu ra vài giả thuyết. Một là với việc này ông có thể củng cố vinh dự một lý thuyết gia của chủ nghĩa Mác. Hai là tư tưởng của Marr vốn nhắm vào tâm trạng những năm 1920s, đã không còn tương thích với đường lối chính trị của Stalin thời hậu thế chiến.

Từ sau lúc xuất hiện bài báo của J. Stalin, hầu như mọi công trình ngữ học ở Liên Xô đều buộc phải trích dẫn bài báo này, đồng thời “học thuyết mới về ngôn ngữ” của N. Marr chính thức bị coi là phản khoa học và lập tức biến khỏi vũ đài. Những người là môn đồ của thuyết Marrizm tuy cũng bị đả kích đôi lúc quá đà, có người bị buộc thôi việc, hoặc buộc phải đi tỉnh lẻ tìm việc, nhưng nhìn chung không có sự trừng phạt nặng nề.

Hàng loạt nhà ngữ học theo các khuynh hướng khác nhau, tại Liên Xô và cả nước ngoài, trong đó có cả những người vốn không có thiện cảm với chế độ Liên Xô thời Stalin, đều đánh giá sự kiện này như sự giải cứu ngành ngữ học Xô-viết khỏi cái ách những lý thuyết ý thức hệ hóa phi lý. Song sự kiện này vẫn chưa làm cho ngành ngữ học Xô-viết được lành mạnh hóa một cách bình thường. Tạp chí “Language” của Mỹ nhận định rằng, với vụ việc này, “ngành ngữ học Xô-viết đã bước được một bước theo hướng đúng, nhưng vẫn còn chưa bước khỏi bóng tối để ra ánh sáng, bởi vì tư tưởng Stalin, bất kể nội dung nào của nó, vẫn là giáo điều được tuyên ngôn bằng văn kiện chính thống”.(3)

Một mặt, cái huyền thoại đang thống trị đã bị tan tành chỉ trong một ngày, phương pháp nghiên cứu so sánh lịch sử thôi bị coi là “phản động”, nhưng đồng thời, tính chất của mối quan hệ giữa chính quyền và khoa học vẫn không thay đổi. Mặc dù Stalin nói trong khoa học cần có tự do ý kiến, nhưng hệt như trước, từ phía chính thống vẫn áp dụng sự phân giới giữa khoa học “đúng đắn”, “mác-xít” với mọi khuynh hướng còn lại, bị coi là “tư sản”, “lệch lạc về tư tưởng”. Đến khi đó hầu như mới chỉ khôi phục quyền cho ngữ học thế kỷ XIX, chủ yếu là nghiên cứu so sánh lịch sử, trước hết là khoa học Nga trước cách mạng. Còn lại, khoa học tiên tiến phương Tây, nơi ngự trị các khuynh hướng khác nhau của chủ nghĩa cấu trúc, đều bị cự tuyệt, chính trong những năm 1948-1950 ấy. Tất nhiên điều này còn liên quan đến tình trạng “chiến tranh lạnh” chia thế giới làm hai phe đối đầu nhau về rất nhiều mặt, từ chính trị, quân sự, kinh tế đến tư tưởng, văn hóa, khoa học.

Từ sau đại hội 20 ĐCSLX (1956), việc bàn luận về học thuyết Marrizm mất hẳn tính thời sự. Vào những năm 1960s, liên quan đến việc phê phán Stalin cũng xuất hiện một số ý đồ phục hồi học thuyết Marrizm, nhưng không có kết quả gì. Người ta càng thấy rõ, khi không còn sự ủng hộ từ phía chính thống, học thuyết này sẽ biến mất khỏi chân trời khoa học. Một số môn đồ cũ của học thuyết Marrizm mau chóng thích ứng với hoàn cảnh mới (như Filin, những năm 1960 trở thành viện sĩ thông tấn, rồi đứng đầu Viện nghiên cứu tiếng Nga và tạp chí “Vấn đề ngữ học” đến tận khi mất, 1982).

Nói gọn lại, “học thuyết mới về ngôn ngữ” của N. Marr hoàn toàn không xác đáng về khoa học, nhưng chính nó lại khiến giới nghiên cứu ngữ học đương thời thấy không thể thỏa mãn với bộ môn nghiên cứu so sánh lịch sử, và thấy cần nghiên cứu tính quy luật đồng đại của ngôn ngữ, xã hội học ngôn ngữ, loại hình học ngôn ngữ.

Chính sự ủng hộ mang tính nhà nước đối với học thuyết này đã cản trở sự phát triển của khoa ngữ học Xô-viết. Có thể so sánh tác hại của thuyết này với tác hại của thuyết Lysenko trong sinh học và nông học Liên Xô.

***

Trở lại câu chuyện Phan Khôi dịch bài báo của Stalin tại Việt Bắc hồi 1950-51.

Có thể thấy, như Phan Khôi đã bộc lộ ít nhiều trong lời phụ thêm cuối bản dịch, ông không có thông tin nào khác ngoài bản dịch chữ Hán và một vài lời dẫn của Lý Lập Tam cũng ở bản dịch Hán ngữ ấy. Theo đó, người ta biết có cuộc thảo luận về vấn đề ngôn ngữ học trên báo “Pravda” (mà Phan Khôi dịch từ chữ Hán là báo “Chân lý”), về một vài vấn đề lý luận dường như cốt yếu, như có thể coi ngôn ngữ như “thượng tầng kiến trúc” bên trên “hạ tầng cơ sở” hay không? Ngôn ngữ có “bản chất giai cấp” hay không?

Thời gian đó, vùng Việt Bắc do phía Việt Nam dân chủ cộng hòa kiểm soát, tức là do đảng cộng sản Đông Dương lãnh đạo (tuy đã rút vào bí mật). Song trong điều kiện kháng chiến, các nội dung hệ tư tưởng cộng sản còn chưa được thiết lập đầy đủ.

Bản thân Phan Khôi, trong hoạt động viết báo và dạy học từ những năm 1910s cũng đã có những nghiên cứu cụ thể, so sánh một số nội dung ngữ pháp của tiếng Việt với chữ Hán, tiếng Pháp (ví dụ những bài giảng “Hán văn độc tu”, 1932, 1936-37, mục “Quốc văn nghiên cứu” trên báo “Sông Hương” 1936-37, v.v.) song, nghiên cứu ở phạm vi các quy luật khái quát về lịch sử ngôn ngữ, thì hầu như ông vẫn còn chưa quen biết. Về đôi nét xã hội Liên Xô thì qua báo chí dư luận trước 1945, Phan Khôi cũng có ít nhiều thông tin. Song đến đầu những năm 1950s, sống tại vùng mà chính quyền có liên lạc mật thiết với nước Trung Hoa mới và thông qua đó với Liên Xô, những học giả có “vốn sống” cũ như ông cố nhiên phải tự điều chỉnh các quan niệm của mình.

Quả thật, thái độ nhất quán của Phan Khôi trong và sau khi dịch bài này là cần rất mực thận trọng, rất mực dè dặt. Ông nhắc lại điều này ở lời ghi thêm cuối tập sách: “nhất là bạn nào để tâm về ngôn ngữ học nên đọc thật kỹ”.

Báo chí ở vùng kháng chiến thường chú trọng nhiều sự kiện và vấn đề khác, quan thiết hơn các chuyện học thuật, nên ta khó tìm thấy phản hồi nào về tập sách dịch này. Dù sao, Phan Khôi cũng đã thực hiện được một thông tin về một sự kiện hệ trọng đời sống học thuật mà khá lâu về sau người ta mới biết đến.

28/2/2017

LẠI NGUYÊN ÂN

Chú thích:

(1) Xem: V.M. Alpatov, Marr, Marrizm, Stalinism [Marr, học thuyết Marr, chủ nghĩa Stalin] // Filosofskiye Issledovahiya [Nghiên cứu triết học], 1993, № 4, tr. 271-288 [chữ Nga]

(2) Chikobava, A.S., Điều đó xảy ra lúc nào và như thế nào. // Niên giám Ngữ học Iberiisk-Kapkaz, XII, Tbilisi, 1985. [chữ Nga]; theo Alpatov, bài đã dẫn.

(3) Rubinstein H. The Recent Conflict in Soviet Linguistics.// Language. V.27, 1951, № 3. [chữ Anh]; theo Alpatov, bài đã dẫn.

Nguồn: FB Lại Nguyên Ân