Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 15 tháng 2, 2016

Hoàng Ngọc Biên với con đường tiểu thuyết mới và thời gian tìm thấy lại

Ngô Thế Vinh
Thiên đường thật là những thiên đường đã mất.
Les vrais paradis sont les paradis qu'on a perdus
Marcel Proust, Le Temps retrouvé
clip_image001
Hình 1: Hoàng Ngọc Biên và Ngô Thế Vinh trong garage sách
San Jose 02-05-2008 (photo by Nguyễn Xuân Hoàng)
TIỂU SỬ HOÀNG NGỌC BIÊN
Hoàng Ngọc Biên, tên thật cũng là bút hiệu, sinh ngày 18 tháng 1 năm 1938, làng Bích Khê, Phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.Học sinh trường Thánh Mẫu Teresa Quảng Trị. 1942, theo cha chuyển sở làm, cả gia đình vô Huế, sống ở Vĩ Dạ mấy năm, sau đó lại theo cha vào Tourane / Đà Nẵng một năm rồi trở ra Quảng Trị. Năm 1950 “du học” Huế. Năm 1952, trở về Quảng Trị học tiếp trung học.
1953, Biên theo gia đình vào Sài Gòn, học trường Kiến Thiết và bắt đầu kết thân với người bạn cùng lớp Nguyễn Đăng Thường, cũng từ đó nảy nở một tình bạn lâu dài cùng với Mark Frankland, nhà báo Anh cho tới những năm về sau này.
1954, Biên lần đầu tiên được gặp nhà văn Vũ Khắc Khoan di cư từ Hà Nội vào Sài Gòn, và mới được biết bác Khoan là anh em con dì với bên mẹ ruột của Biên.
(Kịch tác gia Vũ Khắc Khoan sinh ngày 27.02.1917 tại Hà Nội. Di cư vào Nam 1954, giáo sư các trường Chu Văn An, Văn Khoa, Vạn Hạnh và Quốc Gia Kịch Nghệ Sài Gòn. Thành viên nhóm Quan Điểm. Chủ trương tạp chí Vấn Đề, tác giả Thần Tháp Rùa và Thành Cát Tư Hãn... Mất tại Hoa Kỳ năm 1986, ở tuổi 69).
1958, thi vào Đại học Sư phạm Đà Lạt ban Pháp văn. Thời gian này, Biên quen với nhà biên khảo Tam Ích, lúc đó đang dạy Pháp văn tại trường trung học Việt Anh. Biên còn nhớ những núi sách báo ở nhà Tam Ích, ông cũng thường ghé thăm Biên và mượn đọc những số báo Le Figaro LittéraireArts et Spectacles mà Biên đặt mua dài hạn hàng tuần từ Pháp.
(Học giả Tam Ích Lê Nguyên Tiệp sinh ngày 11.12. 1917 tại Thanh Hoá, vào Nam từ 1937, giáo sư văn chương và dạy Pháp văn các trường trung học và Đại học Vạn Hạnh. Tác giả Nghệ Thuật và Nhân Sinh (Nxb Chân Trời Mới, 1941).Ông tự vẫn năm 1971 bằng cách treo cổ, năm ấy Tam Ích mới 54 tuổi).
Tại Đại học Sư phạm, Biên có cơ hội kết thân với Giáo sư Etiennette Poirson là người thầy Biên mãi mãi ngưỡng mộ, sau đó về Sài Gòn bà còn cung cấp cho Biên nhiều tài liệu viết về Proust. Biên bắt đầu say mê đọc bộ sách À la Recherche du Temps perdu.
1961, tốt nghiệp Đại học Sư phạm, về dạy Pháp văn Trung học Tống Phước Hiệp Vĩnh Long, cùng nhiệm sở với Nguyễn Thu Hồng, cùng khoá Đại học Sư phạm ban Pháp văn Sài Gòn và một năm sau cô giáo xuất thân từ Nhà Trắng Saint-Paul trở thành bạn đời của Hoàng Ngọc Biên cho tới bây giờ.
1964, thuyên chuyển về Trung học Tây Ninh, rồi Tân An. Bắt đầu viết “Viết Giữa Mùa Hè”. Tìm gặp và rồi thân thiết với nhà văn Võ Phiến, thường xuyên lui tới nhà anh chị Võ Phiến trong hẻm Trần Quang Diệu. Người viết gặp và quen Hoàng Ngọc Biên cũng trong khoảng thời gian này.
Chân dung Hoàng Ngọc Biên qua nét phác hoạ của Võ Phiến: “Anh Biên thì khuynh tả, khoái Che Guevara; chính anh thì râu ria tóc tai dài phủ tới ót. Ảnh mê M. Proust như tôi, nhưng sưu tầm về Proust đầy đủ chứ không tài tử như tôi; anh giỏi hội hoạ và âm nhạc. Anh chị Biên và vợ chồng tôi hợp tính tình, thường gần gũi tâm tình. Sau 4.1975 anh Biên vẫn giữ được râu tóc xum xuê suốt 16 năm. Tháng 10.91 anh rời Sài Gòn đi Mỹ, các con tôi như thiếu đi người chú ruột. Trong 16 năm qua, mọi việc lớn nhỏ trong gia đình các con tôi, gặp rắc rối là đều do chú thím Biên giải quyết cho. Hiện thời anh chị ấy ở Utah, Salt Lake City. (Tuyển tập Thư Võ Phiến, Los Angeles 4.12.1991)
clip_image002
Hình 2: từ trái: vợ chồng Võ Phiến, vợ chồng Hoàng Ngọc Biên
(tư liệu Hoàng Ngọc Biên)
1968, tại Trung Tâm Học Liệu, Biên kết thân với Cao Thanh Tùng, Nguyễn Đồng, Nguyễn Thị Hợp, Lê Thị Chí... Diễm Châu từ Indiana (Mỹ) về Sài Gòn tìm gặp Hoàng Ngọc Biên, bàn dự án cùng nhau làm tạp chí Trình Bầy. Đi lính 9 tuần Quang Trung. Xuất bản Tuyển tập Mười Nhà Văn Pháp Hiện đại, NxbTrình bầy. Giới thiệu những tên tuổi lẫy lừng của phong trào tiểu thuyết mới Pháp như Michel Butor, Alain Robbe-Grillet, Natalie Sarraute, Claude Simon...
1970, năm tạp chí Trình bầy ra mắt số đầu tiên. Biên được học bổng USAID về Book Design và Book Production McGraw-Hill đi Mỹ, sau được chuyển qua McGraw-Hill FEP Singapore. Xuất bản Đêm ngủ ở tỉnh, tập truyện ngắn, một thử nghiệm hình thức tiểu thuyết mới của Hoàng Ngọc Biên, Nxb Cảo Thơm.
1973, dạy Pháp văn ba niên khoá tại Đại học Bách khoa Sài Gòn.
1975, làm báo Tin Sáng sau 1975, là trưởng ban văn hoá xã hội, rồi kiêm trưởng ban kỹ thuật sau khi Nguyễn Đồng vượt biên, cùng làm việc với mấy bạn cũ như Nguyễn Đồng, Nguyễn Thị Hợp, Cao Thanh Tùng, Đinh Cường, và cả Nguyễn Xuân Hoàng.
1991, sang Mỹ định cư tháng 10.1991, ghi danh vào Salt Lake Community College cùng với hai con là Hoàng Tân Nhân và Hoàng Tân Dân, để trước tiên làm quen với máy móc tin học. Biên bắt đần vẽ tranh trên computer với kỹ thuật số/ digital art.
1993, vào làm việc cho tờ báo Salt Lake City Weekly từ tháng Bảy 1993 tới 1998 với vai trò Art Director; 1999 chuyển qua chuyển qua làm Production Coordinator.
2004, bắt đầu tham gia diễn đàn tienve.org qua bản dịch Chuyến đi mùa đông của George Perec (2003) Nguyễn Hưng Quốc đem về từ nhà anh Võ Phiến.
Bất ngờ cũng năm ấy, Biên bị méo một bên mặt trái và nói khó khăn. Bạn bè không an tâm vì nghĩ Biên bị tai biến mạch máu não/ stroke nhưng thực ra anh chỉ bị liệt dây thần kinh mặt ngoại biên / dây thần kinh sọ số VII hay Bell's Palsy (Charles Bell là nhà cơ thể học đầu tiên mô tả căn bệnh này). Biên được chữa trị bằng tây y kết hợp với châm cứu. Điều trị hay không, trong nhiều trường hợp Bell's Palsy có tiến trình tự hồi phục. Cùng năm, Biên chọn nghỉ hưu ở tuổi 66 và sau đó vợ chồng Biên dọn về San Jose sống với gia đình người con trai.
2011, sức khoẻ suy yếu, Biên được bác sĩ chẩn đoán bị xơ gan / cirrhosis giai đoạn cuối, và được đưa vào danh sách chờ bộ phận để được thay gan /waiting list for liver transplant.
2012, Biên được thay ghép gan tại Bệnh viện Đại học Stanford, Palo Alto 12.9.2012. Bệnh viện Đại học Stanford cũng là nơi Nguyễn Xuân Hoàng được điều trị bệnh sarcoma. Biên là trường hợp khá hiếm hoi được thay ghép gan ở ngưỡng tuổi đã quá thất thập cổ lai hy, năm ấy Biên cũng đã 74 tuổi. Vượt qua được dốc tử sinh, Biên dần dần hồi phục. Sau này được biết bộ gan mới của Biên là nhận từ một thanh niên Mỹ mới ngoài 30 tuổi.
Gởi Biên vừa thay gan
về nhà đội chiếc mũ dạ đỏ
clip_image003
Hình 3: từ phải, Hoàng Ngọc Biên - Đinh Cường San Jose 4. 2012 (tư liệu Đinh Cường)
Waiting list để được thay gan
rồi cũng đến. mừng hoàng ngọc biên
đã về nhà. gương mặt có gầy hơn
nhưng thần sắc an nhiên
nằm gối đầu tên chiếc gối sọc xanh
chiếc mũ dạ màu đỏ (thường màu xám sậm)
hàm râu lưa thưa như che nụ cười đùa
nghỉ đi biên nghỉ cho lại sức
rồi sẽ kể chuyện cùng anh em
không gì vui hơn hay tin bình yên
bạn đã rời bệnh viện về nhà
tay vẫn đeo vòng tràng hạt nhỏ
om mani padme hum hrih
quán thế âm như vầng trăng
với ánh sáng mát dịu dập tắt
những thiêu đốt của sinh tử (1)
tôi luôn đọc thì thầm
lời kinh trong đêm khuya
lời kinh không cầu xin
thấm đẫm tình nhân ái
bạn thay gan xong rồi, mùa thu này ghi nhớ …
Đinh Cường
Virginia, 19 Oct,2012
Hoàng Ngọc Biên đọc nhiều và tích luỹ. Sinh hoạt của Biên rất đa dạng, ngoài dạy học, Biên viết văn, làm thơ, dịch sách, vẽ tranh, và cả soạn nhạc, điều rất ít ai biết. Trong Ban biên tập tạp chí Trình bầy (1961-1975), phụ trách mỹ thuật cho các sách báo và nhà xuất bản ở Việt Nam (1975-1991) và tuần báo The Salt Lake City Weekly ở Mỹ (1993-2004).
Trước 1975 đã triển lãm tranh tại Viện Đại học Đà Lạt, Gœthe Institut, Alliance Française, Hội Họa sĩ Trẻ Việt Nam, Phòng Thông tin & Báo chí Sài Gòn, La Dolce Vita (Hotel Continental), Trung tâm Văn hóa Vũng Tàu, và đồ họa, Nxb McGraw-Hill, Singapore, 1972.
clip_image004
Hình 4: Triển lãm tranh của Hội Hoạ sĩ Trẻ Việt Nam, Alliance Francaise. Từ trái: Đinh Cường, Mai Chửng, Dương Nghiễm Mậu, Hoàng Ngọc Biên, Nguyên Khai, Nguyễn Trung, Hồ Thành Đức, Nguyễn Đồng (tư liệu Hội Hoạ Sĩ Trẻ)
XUẤT BẢN TRƯỚC 1975:
– Mười Nhà Văn Pháp Hiện Đại, Trình bầy, 1969;
– Đêm Ngủ ở Tỉnh, tập truyện ngắn, Cảo Thơm, Saigon, 1970;
– Marcel Proust - Con Người Xã Hội, Trình bầy, 1974;
XUẤT BẢN SAU 1975:
– Uống Trà Sớm Mai, thơ, Trình bầy, USA, 1996.
– Người Đạp Xe Vào Thành Phố Buổi Sáng, truyện, Trình bầy, USA, 1997.
– Chuyến Xe, truyện, Trình bầy, USA 1997.
– Đất và Người và Thần Thoại Việt Nam, thơ, Trình bầy, USA, 1997.
– Biển Ngày Đêm, thơ, Trình bầy, USA, 1999.
– Quê Hương, Người Về (hai đoản văn viết theo một tấm tranh dán của Nguyễn Đăng Thường), Trình bầy, USA, 2001.
– Chân Mây Cuối Trời, thơ (in chung với thơ Đỗ Trung Quân và tranh Nguyễn Quỳnh), Trình bầy, USA, 2003.
TÁC PHẨM DỊCH:
– Andrei Sinyavski: Thơ Pasternak, Con Người và Tác Phẩm Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1988.
– Tĩnh Vật và Những bài Thơ Khác, thơ Joseph Brodsky, Thuận Hóa, Huế, 1991;
– Mối Tình Đầu, truyện Samuel Beckett, Trình bầy, USA,1993.
– Thơ Mới Ba Lan, tuyển tập thơ mới Ba lan, Trình bầy, USA, 1993.
– Marcel Proust, tiểu luận Samuel Beckett, Trình bầy, USA, 1995.
– Thư Hà Nội, của Jean Tardieu (dịch chung với Nguyễn Thu Hồng), Trình bầy, USA, 2001.
– Chuyến Đi Mùa Đông, truyện Georges Perec, Trình bầy, USA, 2003.
– DJINN, truyện Alain Robbe-Grillet, Trình bầy, USA, 2003.
HOÀNG NGỌC BIÊN VÀ NHÓM TRÌNH BẦY
Diễm Châu tên Phạm Văn Rao, sinh ở Hải Phòng, di cư vào Nam 1954. Quen Thế Nguyên từ trại học sinh di cư Phú Thọ. Diễm Châu tốt nghiệp Đại học Sư phạm ban Anh Văn, được tu nghiệp ở Mỹ sau đó trở về Sài Gòn, tìm gặp Hoàng Ngọc Biên thuyết phục cùng làm tờ báo Trình bầy. Biên đã cùng Diễm Châu, ngồi nhiều tuần lễ bên một vách tường café vỉa hè đường Sương Nguyệt Anh Sài Gòn soạn bài Phi lộ với tiêu đề “Con Đường Đi Tới cho số báo ra mắt. Trích dẫn:
Con đường đi tới là con đường mưu cầu một nền hoà bình, trong đó mỗi một người Việt Nam, không kỳ thị ý thức hệ, sẽ có một chỗ đứng xứng đáng với phẩm giá con người trên quê hương mình. ...Không thể có hoà bình vô điều kiện. Một nền hoà bình Việt Nam nhất định sẽ không thể chấp nhận bất cứ một sự hiện diện nào của các lực lượng nước ngoài và đồng thời cũng không thể chấp nhận bất cứ một cơ cấu, một định chế hay một thế lực nào trong nước ngăn cản công cuộc giải phóng con người Việt Nam. Hết trích dẫn.
clip_image005
Hình 5: Hoàng Ngọc Biên và Diễm Châu (1937-2006), là hai bạn đồng hành trí tuệ trong Nhóm Trình bầy, Thế Nguyên đứng tên Chủ nhiệm (tư liệu Hoàng Ngọc Biên)
Trình bầy một tờ báo thiên tả, phản chiến giữa dông bão của cuộc chiến tranh Quốc Cộng, với Diễm Châu tổng thư ký, Diễm Châu còn một bút hiệu khác là Võ Hồng Ngự. Thế Nguyên là chủ nhiệm. Tờ báo đã quy tụ được nhiều cây viết thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau thời bấy giờ. Không phải chỉ có ở báo Bách Khoa, Trình bầy thực sự là một vùng xôi đậu với tên tuổi những nhà văn nhà thơ như Nguyên Sa, Diễm Châu, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Đăng Thường, Trùng Dương, Thảo Trường, Nguyễn Mộng Giác, Du Tử Lê, Mai Trung Tĩnh, Nguyễn Quốc Thái, Luân Hoán, Trần Hoài Thư, Ngô Thế Vinh... nhiều người xuất thân từ quân đội, bên cạnh đó là những cây bút thiên cộng Ngô Kha, Nguỵ Ngữ... hay cộng sản nằm vùng như Nguyễn Nguyên - Nguyễn Ngọc Lương, giống như trường hợp Vũ Hạnh bên tờ báo Bách Khoa.
Trình bầy hoạt động liên tục trong 2 năm 1970 - 1972, ra được 42 số báo cho tới khi bị đình bản. Để rồi, thực tế sau 30 tháng Tư, 1975 là sự vỡ mộng của những người trí thức thiên tả – theo ngôn ngữ thời thượng thì đó là thành phần thứ ba, trong số đó có Diễm Châu và Hoàng Ngọc Biên. Bởi vì sau thống nhất, không phải chỉ có miền Bắc mà nay là cả một đất nước phải sống trong một định chế bóp nghẹt mọi tự do của con người. Trí thức thiên tả nếu không bị tù đầy thì cũng bị trù dập bạc đãi và chỉ là những kẻ đứng bên lề. Cuối cùng họ trở thành những kẻ lưu vong nếu không ở nước ngoài thì cũng ngay trên chính quê hương mình. Diễm Châu sang Pháp 1983, Hoàng Ngọc Biên đi định cư ở Mỹ 1991. Ra hải ngoại rồi, cả Hoàng Ngọc Biên, Diễm Châu và Nguyễn Đăng Thường đều cố giữ sức sống cho cơ sở Trình bầy. Manchette Trình bầy đối với họ như hình ảnh một giấc mộng lỡ. Và trong sự thức tỉnh muộn màng, Diễm Châu trở thành rất hữu khuynh cho tới khi anh mất năm 2006.
clip_image006
Hình 6: Những mẫu bìa rất mỹ thuật của 42 số báo Trình bầy
đều do Hoàng Ngọc Biên vẽ và thiết kế (tư liệu Hoàng Ngọc Biên)
Tưởng cũng nên nhắc tới ở đây sự giác ngộ của cả những khuôn mặt trí thức lớn thiên tả Pháp như Jean Paul Sartre đối với cộng sản Việt Nam sau 1975, khi có xảy ra thảm trạng “boat people” trên Biển Đông; chính J.P. Sartre đã trở thành một “activist” vận động hiệu quả cho “Một con tàu cho Việt Nam/ Un bateau pour le Vietnam” đi cứu vớt các thuyền nhân. Kinh nghiệm với cộng sản Việt Nam cho đến nay vẫn là một bài học/ a lesson to learn cho thế giới.
VỚI M. PROUST ĐI TÌM THỜI GIAN ĐÃ MẤT
Từ 1959, Biên đã say mê trong nhiều năm đọc và dịch Marcel Proust;12 năm sau Biên cho xuất bản “Marcel Proust, Con Người Xã Hội”, nhân dịp 100 năm sinh của M. Proust.
M. Proust sinh ngày 10.7.1871, mất ngày 18.11.1922 năm ông 51 tuổi. M. Proust đã để lại một sự nghiệp đồ sộ với tác phẩm À la Recherche du Temps Perdu / Đi tìm Thời gian Đã Mất gồm 7 cuốn. Le Temps Retrouvé / Thời Gian Tìm Thấy Lại là tập cuối khép lại mấy ngàn trang sách. Proust đã trở thành một tượng đài văn học được ngưỡng mộ, tác phẩm của ông là đối tượng cho hàng trăm công trình nghiên cứu và luận án từ khi ông chết và cho tới mãi bây giờ.
Những trang sách của ông thế nào mà vẫn làm cho các thế hệ say mê. Chắc chắn chẳng phải chỉ là những ký ức về một ngôi làng, về một gia đình, hay về một thời thơ ấu của cậu bé với nội tâm dồn nén và cả ẩn ức với khuynh hướng đồng tính. M. Proust đã từng ví mình như Noé trong Kinh Thánh, vì cơn hồng thuỷ đã bị nhốt trong thuyền suốt bốn mươi ngày đêm. M. Proust viết: “Bấy giờ tôi mới hiểu được là không có chỗ nào Noé có thể nhìn cuộc đời rõ ràng bằng từ trong thuyền, cho dù thuyền đã đóng kín dù đang tối mịt mùng trên trái đất /Jamais Noé ne put si bien voir le monde que de l'arche malgré qu'elle fut close et qu'il fit nuit sur la terre.” M. Proust, A la Recherche du Temps Perdu.
M. Proust với một thể chất bệnh hoạn, bị giam hãm mình trong căn phòng kín, chủ yếu viết về ban đêm. Và từ không gian khép kín ấy, M. Proust đã viết về những cái cái vụn vặt của đời sống đâu đây có phiền muộn, có hoan lạc có những tiếng động, những mùi vị... tưởng như quá tầm thường quá quen thuộc nhưng đã được một thiên tài Proust ghi lại như một ký ức của trí tuệ / mémoire intellectuelbằng thứ ngôn ngữ kỳ diệu đẫm chất thơ và cả nhạc tính.
Trong Thời Gian Tìm Thấy Lại / Le Temps Retrouvé, M. Proust đã viết: “Những sự vật... ngay khi ta thấy được chúng, đã trở thành một cái gì vô hình trong ta.
Cao Thanh Tùng, một nhạc sĩ cello trong bài viết “Quê hương của Nhạc sĩ” đã ví À la Recherche du Temps Perdu như “một tác phẩm giao hưởng lớn trên dòng chuyển động luân lưu bất tận của thời gian. Thời gian tưởng đã mất, nhưng rồi qua ký ức trí tuệ của Proust thời gian tìm thấy lại, và đã trở thành thời gian bất tử.
clip_image007
Hình 7: bìa sách Marcel Proust, tiểu luận Hoàng Ngọc Biên,
Trình bầy, USA, 1995 và thủ bút Hoàng Ngọc Biên
Có thể nói chặng đường tiểu thuyết mới của Hoàng Ngọc Biên thực ra đã chịu ảnh hưởng rất sớm và sâu đậm từ M. Proust chứ không phải chờ tới thời kỳ “phong trào tiểu thuyết mới” với Michel Butor, Alain Robbe-Grillet, Samuel Beckett mà Biên được đọc ở những năm về sau này.
clip_image009
Hình 8: Bìa báo Văn 85 chủ đề Đọc văn Marcel Proust
do Hoàng Ngọc Biên phụ trách, mẫu bìa của hoạ sĩ Lê Thị Chí.
Năm 1967 tại Sài Gòn, Hoàng Ngọc Biên đã giúp Trần Phong Giao thực hiện hai số báo Văn 85-86 với chủ đề Đọc văn Marcel Proust. Hoàng Ngọc Biên được coi như ngòi bút chuyên khảo về M. Proust ở miền Nam lúc bấy giờ.
CON ĐƯỜNG TIỂU THUYẾT MỚI
Cho tới 1954, tiểu thuyết Việt Nam hầu như vẫn theo khuôn khổ cổ điển, có cốt truyện với diễn tiến theo trình tự thời gian. Trong khi đó, ở phương Tây đang có những bước đột phá của phong trào tiểu thuyết mới/ nouveau roman với các tên tuổi như: Alain Robbe-Grillet, Michel Butor, Claude Simon, Jacque Derrida, Nathalie Sarraute... Không còn mẫu mực xây dựng tiểu thuyết truyền thống đã có từ mấy thế kỷ trước. Có thể ví tiểu thuyết mới như một bước phá thể, như từ thơ niêm luật chuyển sang thơ tự do. Hình thức tiểu thuyết mới đã không còn thứ tự thời gian, người viết không còn dùng ngôi thứ ba đứng bên ngoài nhân vật. Cùng sự việc được ghi lại qua nhiều nhãn quan khác nhau và vai trò cốt truyện gần như bị loại bỏ. Michel Butor cũng đã phát biểu: “Tiểu thuyết như một tìm tòi, hình thức của tiểu thuyết có tầm quan trọng hàng đầu.
Phong trào tiểu thuyết mới của Pháp tuy rầm rộ nhưng ngắn ngủi và không tạo được những ảnh hưởng lâu dài, nhưng nó thành công là đã mở ra những khái niệm khoáng đạt hơn về kỹ thuật xây dựng tiểu thuyết.
Ở miền Nam Việt Nam, thập niên 1960s, một số tác giả trẻ bén nhạy với văn học đổi mới ở phương Tây, bắt đầu dấn thân thử nghiệm kỹ thuật tiểu thuyết mới. Trong số đó phải kể tới Nhóm Đêm Trắng bao gồm Huỳnh Phan Anh, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Nhật Duật, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Quốc Trụ. Ý kiến khởi đầu lập Nxb Đêm Trắng là từ Huỳnh Phan Anh, để chỉ xuất bản các sáng tác của nhóm, đa số xuất thân nhà giáo, trừ Nguyễn Đình Toàn và Nguyễn Quốc Trụ. Không tuyên ngôn, không đường lối, mỗi người sáng tác độc lập với quan niệm rộng mở hơn về viết tiểu thuyết.
Dương Nghiễm Mậu tuy không đọc các tác phẩm tiểu thuyết mới của Pháp nhưng Dương Nghiễm Mậu được Võ Phiến đánh giá là thành công nhất trong cách sử dụng các kỹ thuật tiểu thuyết mới. “Trong cuốn truyện dài Con Sâu chẳng hạn, 'tôi' không hẳn là một nhân vật nào, khi là nhân vật này, khi lại là nhân vật nọ; sự chuyển vị xảy ra thoăn thoắt làm nổi bật sự thay đổi đột ngột những quan điểm nhìn sự việc khác nhau. Ông Dương lại có cái hay là mặc dầu sử dụng kỹ thuật Tây phương ông vẫn giữ được cốt cách dân tộc: đọc ông người ta không hề cảm thấy dấu vết ảnh hưởng ngoại lai, người đọc ở bất cứ trình độ nào cũng thấy thoải mái, thấy một bầu không khí quen thuộc.” (Văn Học Miền Nam Tổng Quan, tr.260-262)
Nhưng theo Nguyễn Xuân Hoàng và Nguyễn Đình Toàn thì chính Hoàng Ngọc Biên mới thực sự là người khởi đầu nghiên cứu về phong trào Nouveau Roman của Pháp, dịch một số tác phẩm của Alain Robbe-Grillet, viết về 10 nhà văn Pháp hiện đại và cũng thể hiện quan niệm tiểu thuyết mới ấy qua tập truyện Đêm Ngủ ở Tỉnh do Cảo Thơm xuất bản Sài Gòn, 1970. Biên-Butor là một tên ghép bạn bè thân ái đặt cho Hoàng Ngọc Biên lúc đó, Michel Butor là một kiện tướng của phong trào tiểu thuyết mới của Pháp thời bấy giờ.
clip_image010
Hình 9: từ trái,bìa sách Mười Nhà Văn Pháp Hiện Đại, Trình bầy, 1969;
Đêm Ngủ ở Tỉnh, tập truyện ngắn, Cảo Thơm, Saigon, 1970
Trong các truyện, không có truyện của Hoàng Ngọc Biên, chỉ có cái nhìn lạnh lùng bên ngoài của sự việc, không có xen vào những suy tưởng, xúc động của người viết.
Một trích đoạn truyện ngắn Đêm Ngủ ở Tỉnh:
Anh cúi đầu bước những bước dài ngắn không đều nhau trên quốc lộ số 4 dẫn vào tỉnh lỵ. Dưới cơn mưa mùa hè đột ngột đổ mạnh xuống che kín một bầu trời cũng đột ngột xám đen, thấp trũng, rồi thưa dần, thưa dần – những hạt mưa nhỏ bay theo hướng ngọn gió chiều từ phía cầu sắt tạt mạnh vào mặt anh, lạnh ngắt – anh cẩn thận tránh những vũng nước sâu đọng lại sau mấy ngày mưa, những vạch nước dài chảy thẳng theo những đường cày chồng lên nhau của những chiếc xe hàng ngày vẫn thường chạy lấn hai bên lề, lăn bánh trên chỗ đất vàng. Anh đi qua một quán nước bên phải, rồi một quán nước nữa, mái thấp lẻ tè không qua khỏi tầm tay với, anh đi qua một trại lính bên trái, khung cửa sắt hoen rỉ giờ đây đứng chết lì không đóng lại được, anh đi qua một khu nhà thờ nằm sâu sau một khoảng đất rộng rợp bóng lá cây, những lá cây trong năm vẫn khoác một lớp bụi vàng bốc lên từ mặt quốc lộ – với những chuyến xe hàng, những đoàn xe chuyển binh chạy vụt qua liên miên từng phút từng giây – giờ đây lấp lánh một màu xanh tươi mát.
Anh đi qua ngôi trường tiểu học xây bên hông nhà thờ giờ đây vắng bóng ê a tập đọc của lũ trẻ theo giọng lên thánh thót của các soeurs cất cao sau mỗi nhịp thước gõ trên bàn. Anh đi qua khu đất vừa được đắp lên hơn một năm nay dùng làm nơi hạ cánh cho những chiếc trực thăng hành quân, những xe cần trục, những máy móc, những đống đá xanh còn nằm ngổn ngang la liệt bên những cây sắt dài chồng lên nhau, thẳng hàng, dáng chừng để hoàn thành một sân bay lớn hơn.
Tỉnh lỵ bắt đầu hiện ra với ngôi chùa im lìm ẩn kín sau những cây cảnh nhìn thấy giữa hai hàng dậu thưa, hai hàng chữ nho sơn vàng trên nền đỏ của hai trụ lớn được cơn mưa rửa sạch, rực rỡ hẳn lên. Anh đi qua những mái lá thấp xuống, ướt át, những mái ngói đỏ chói sau những cơn mưa lại đỏ chói hơn, nằm lẫn với hai ngôi chúa Cao Đài mới và cũ, với những hình chạm bay bướm loè loẹt, anh đi qua trạm kiểm soát - nhà ga cũ nhắc lại quá khứ những chuyến xe lửa ghé qua...
Qua suốt 40 trang sách Đêm Ngủ ở Tỉnh, vẫn một giọng văn đều đều như vậy, xuôi chảy theo dòng ý thức với giàu hình ảnh và cả chất thơ. Người đọc đi theo bước chân nhân vật không có tên, không có địa danh nơi đâu và cũng không biết nhân vật định đi về đâu. Cảnh tượng được ghi nhận như phản chiếu từ một tấm gương, cảm xúc nếu có là do tự người đọc chứ không do truyền đạt từ người viết.
Tuy rất thân thiết và quý trọng tài năng Hoàng Ngọc Biên nhưng Võ Phiến cũng có lúc băn khoăn tự hỏi, qua một lá thư riêng gửi Nguyễn Hưng Quốc: Cái viết của Hoàng Ngọc Biên, có cố gắng thoát khỏi thời 'tiền lý thuyết' Việt Nam? Liệu anh ấy có tìm ra được hướng lý thuyết nào không, đường hướng nào mới mẻ không?... (Santa Ana 5.6.2004)
Chính Hoàng Ngọc Biên, cả ở những năm về sau này, qua những sáng tác mới anh vẫn cứ bền bỉ và kiên trì đi trên con đường tiểu thuyết mới mà anh đã chọn. Truyện của Biên kén độc giả, Hoàng Ngọc Biên không phải là tác giả của đám đông nên tên tuổi của anh cũng ít được biết tới.
ĐỌC THƠ HOÀNG NGỌC BIÊN
Biên làm nhiều thơ. Đọc một bài thơ đầu trích từ tập thơ Biển Ngày Đêm, Trình bầy, USA, 1999, được mở đầu với câu trích dẫn:
When a man dies
His portraits change.
Anna Akhmatova
clip_image012
Một chỗ ngả lưng
một chút nắng
một chút mưa
một chút chiều êm ả
một chút phật
một chút chúa
một chút bão tố trong đêm
một chút mây
một chút gió
chút địa ngục
ta ghé chơi
một chút thiên đàng
ta ngả lưng nằm xuống
CÕI TẠO HÌNH HOÀNG NGỌC BIÊN
Hoàng Ngọc Biên chưa bao giờ tự nhận mình là trong số thành viên sáng lập Hội Hoạ Sĩ Trẻ, nhưng Biên có tranh tham dự triển lãm chung với các bạn Hội Hoạ Sĩ Trẻ; và theo Trịnh Cung thì Biên chính thức có tên trong danh sách hội viên Hội Hoạ Sĩ Trẻ từ thập niên 1970.
Nếu Nguyên Khai năm 1994, đã mạnh dạn mở rộng tầm nhìn của người nghệ sĩ vào thế giới kỹ thuật computer hiện đại: anh sáng tạo những bức tranh sơn dầu vẫn với đường nét tài hoa rất Nguyên Khai nhưng có sử dụng thêm cả những chip điện tử như chất liệu mới trong không gian hội hoạ của mình.
Thì Hoàng Ngọc Biên từ thập niên 1990, đã bắt đầu vận dụng kỹ thuật số digital, để sáng tạo nhiều bức đồ hoạ với đường nét thuần khiết bình dị nhưng bố cục và màu sắc thì đặc sắc.
Biên được du học Singapore về Book Design và Book Production McGraw-Hill sau đó là Nhật Bản. Tài hoa của Biên cũng được thể hiện qua những mẫu bìa báo Trình bầy và các bìa sách rất nghệ thuật theo cái nghĩa cổ điển và cũng rất Hoàng Ngọc Biên.
Rất sớm từ 1977, Hoàng Ngọc Biên đã phát biểu về quan niệm hội hoạ hay nghệ thuật nói chung: “Tôi thích nhìn công việc nghệ thuật tạo hình, trong bất cứ giai đoạn nào, đều là những thể nghiệm, cũng có thể gọi là những trò chơi thể nghiệm. Chỗ này, nghệ thuật tạo hình xích lại gần những nghệ thuật khác: nhạc, múa, văn chương, kiến trúc, điêu khắc, kể cả điện ảnh – và kể cả chuyện dịch thuật: mọi kết quả đều có thể được coi là một đề nghị, hay ít nữa trong tình trạng đề nghị. Một công trình nghệ thuật được công bố không bao giờ nên được nhìn như một sự hoàn chỉnh. Thái độ này không làm giảm giá trị của công việc nghệ thuật, trái lại, nó nâng cao cái nhìn của chúng ta về bản chất của công việc ấy. Ghi Chép về Công Việc Nghệ Thuật, Saigon 1977
clip_image014
Hình 10: Catalogue Triển lãm Goethe Institut của Hội Hoạ Sĩ Trẻ 1969, tranh Hoàng Ngọc Biên, Feux Rouges/ Đèn Đỏ, màu acrylic, 1972
(nguồn: Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại, Huỳnh Hữu Uỷ, VAALA 2008)
clip_image015
Hình 11: Mấy mẫu bìa sách của Hoàng Ngọc Biên
(tư liệu Hoàng Ngọc Biên)
clip_image016
clip_image017
Hình 12: Digital Arts. Trên, trái: Biển sâu 2014, phải: Dưới chân núi 2015
Dưới, trái: Trăng lạnh 2006; phải: Những bàn tay 2001
(tư liệu Hoàng Ngọc Biên)
Với Hoàng Ngọc Biên, một tác phẩm được công bố không bao giờ nên được nhìn như một sự hoàn chỉnh, suốt đời Biên luôn luôn là một cuộc hành trình đi tìm cái mới.
CHÂN DUNG HOÀNG NGỌC BIÊN
clip_image018
Hình 13: Chân dung Hoàng Ngọc Biên qua nét vẽ Nguyễn Quỳnh, (trái) Đinh Cường (giữa); Đỗ Trung Quân (phải)
clip_image020
Hoàng Ngọc Biên qua nét ký hoạ Nguyễn Đăng Thường
clip_image021
Hoàng Ngọc Biên qua nét ký hoạ Bùi Xuân Phái 25-10-1979
(tư liệu Hoàng Ngọc Biên)
phố phái
tặng bùi xuân phái
những bệt màu lam hồng
góc phố lạnh tanh
sắc xám
căn gác vuông
tro than ngày cũ
nét cọ đen kéo dài ký ức
nỗi buồn này
phố phái
ngàn năm
clip_image023
Hình 14: Sài Gòn 30.4, Digital art 2010 bức tranh đã khiến Hoàng Ngọc Biên rơi lệ (tư liệu Hoàng Ngọc Biên)
Biên còn nhớ từ tuổi nhỏ, nơi thị xã tỉnh Quảng Trị, đã có một ban hợp ca thiếu nhi 5 giọng, trong đó có hai chị em Hoàng Ngọc Biên, cùng hai người bạn đồng trang lứa và một người anh bà con Nguyễn Văn Dziệp – là ca sĩ Duy Khánh sau này. Biên bắt đầu học nhạc và kết anh em với Cao Cự Phúc tức nhạc sĩ Hoàng Nguyên, lúc đó 20 tuổi mới từ chiến khu về. Biên được anh Phúc chọn lĩnh xướng, và chỉ có một bài hát mà Biên còn nhớ là “Khúc hát sông Thao” của Đỗ Nhuận.
1955, vào Sài Gòn Biên học nhạc với nhạc sĩ Võ Đức Tuyết, em nhạc sĩ Võ Đức Thu. Ca khúc đầu tay Hồ Thu được Biên sáng tác năm 17 tuổi giữa những chuỗi ngày thơ mộng trong một chuyến đi Đà Lạt (1955). Biên làm nhạc sớm trước khi viết văn làm thơ; Hồ Thu là một ca khúc thu buồn nhẹ nhàng với ca từ trong sáng. Biên còn nhớ bản nhạc đã được nữ ca sĩ Tâm Vấn hát trên đài phát thanh Quốc Gia Sài Gòn.
HỒ THU (1955)
Hoàng Ngọc Biên
Gió lên rồi dường như nhắc mùa xưa
Tiếng thu về nhẹ rơi lá bên hồ
Buồn hiu hắt về hồ xưa chốn cũ
Hương xa rồi buồn tiếc chi ngày qua
Nước gương hồ lặng im cánh buồm mơ
Bước xưa về lặng nghe sóng bên bờ
Hoàng hôn xuống lạnh lùng hồ soi bóng
Cố nhân về lối cũ mong tìm thu
Mùa hết hương rồi lắng nghe u hoài
Hồ thu năm nay nhuốm màu tình năm cũ
Hoa lá phai tàn úa theo mây vàng
Rộn ràng nghe tiếng thu về tê tái
Gió thu về dường như nhắc mùa xưa
Lá thu vàng nhẹ rơi khắp gương hồ
Trời mây nước này ngàn năm thương nhớ
Hương thu về bối rối trên đường tơ.
Hoàng Ngọc Biên
1961, tổ chức “Récital de Guitare et Chants” trong khuôn viên Đại học
Đà Lạt – trong đó có Tam ca nữ hát “Hồ Thu”được Biên soạn thêm
bè.
Bạn bè thân không ai biết Hoàng Ngọc Biên có soạn nhạc. Bản Hồ Thu ít được phổ biến, và mới đây được ca sĩ trẻ Ngọc Mai hát. Ngọc Mai cũng sinh tại Quảng Trị, tốt nghiệp Nhạc viện TP HCM 2010, từng đoạt nhiều giải thưởng; hiện là giảng viên thanh nhạc của Nhạc viện TP HCM.
Tiền Vệ:
clip_image024
NGÔ THẾ VINH
California, 07.02.2016