Danh ngôn
Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.
We need, in every community, a group of angelic troublemakers.
(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)
Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.
It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.
(James Baldwin - No Name in the Street 1972)
Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.
While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.
(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)
Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.
There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.
(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)
Ban Biên tập
Địa chỉ liên lạc:
1. Thơ
tho.vanviet.vd@gmail.com
2. Văn
vanviet.van14@gmail.com
3. Nghiên cứu Phê Bình
vanviet.ncpb@gmail.com
4. Vấn đề hôm nay
vanviet.vdhn1@gmail.com
5. Thư bạn đọc
vanviet.tbd14@gmail.com
6. Tư liệu
vanviet.tulieu@gmail.com
7. Văn học Miền Nam 54-75
vanhocmiennam5475@gmail.com
Tra cứu theo tên tác giả
- A. A. Fadeev
- A. Puskin
- A. T.
- Abdulrazak Gurnah
- Abraham F. Lowenthal
- Ace Le
- Ace Lê
- Adam Gopnik
- Adonis
- Adrian Horton
- Agi Mishol
- Ajar
- Akiko Miki
- Alain Guillemin
- Alan Phan
- Alăng Văn Gáo
- Alăng Văn Giáo
- Aldous Huxley
- Aleksandr Griboedov
- Alesandr Blok
- Alex Marshall
- Alex Smith
- Alex Thai
- Alex-Thái Đình Võ
- Alexander Fadeev
- Alexander Solzhenitsyn
- Alexandra Alter
- Alexandre FERON
- Alice Munro
- Alina Lesik
- Alison Flood
- Allen Ginsberg
- Amanda Gorman
- Amartya Sen
- Amelia Glaser
- Amos Oz
- An Nam
- Anatole France
- Anatoly Gavrilov
- Anders Olsson
- André Breton
- André Menras
- André Menras – Hồ Cương Quyết
- André Menras Hồ Cương Quyết
- Andrea Hoa Pham
- Andrea Kendall-Taylor
- Andreas Fulda
- Andreas Wimmer
- Andrew Postman
- Andy Cao
- Anh Anh
- Anh Hồng
- Anh Hồng (nhà thơ)
- Ánh Liên
- Anh Nhi
- Anh Văn
- Anika Zeller
- Anna Akhmatova
- Anna Maria Bracale Ceruti
- Anna Mitchell
- Anne Carson
- Anne Hébert
- Anne Henochowicz
- Annie Ernaux
- António Jacinto
- Antôn Nguyễn Trường Thăng
- Archimedes L.A. Patti
- Arlette Quỳnh Anh Trần
- Arnold Schwarzenegger
- Arthur Koestler
- Arty Abel
- Arvind Subramanian
- Augustina
- Aurélie Coulon
- Aurelien Breeden
- Ba Sàm
- Bá Thụ Đàm
- Bạch Cúc
- Bạch Hoàn
- Bách Mỵ
- Bách Thân
- Bạch X. Phẻ
- Bạch Xuân Phẻ
- Bakhtin
- Ban Mai
- Bàn Văn Thòn
- Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
- Bảo Huân
- Bảo La
- Bảo Nhi Lê
- Bảo Ninh
- Bảo Phác
- Bão Vũ
- Barbara Demick
- Bashô
- Batrioldman
- Bauxite Việt Nam
- Bắc Đảo
- Bắc Phong
- Bằng Việt
- BB Ngô
- Bei Dao
- Benjamin Péret
- Benjamin Ramm
- Bertolt Brecht
- Bertrand Russell
- Bettina Rheims
- Bích Ngân
- Biếm họa
- Biên Cương
- Biệt Hiệu
- Bilahari Kausikan
- Billy Collins
- Bình Nguyên Lộc
- Brahma Chellaney
- Branko Milanovic
- Brett Reilly
- Brian Pascus
- Brian Wu
- Brice Pedroletti
- Brodsky
- Bryan
- Bùi An
- Bùi Bảo Trúc
- Bùi Bích Hà
- Bùi Chát
- Bùi Chí Trung
- Bùi Chí Vinh
- Bùi Công Thuấn
- Bùi Công Trực
- Bùi Đức Lại
- Bùi Giáng
- Bùi Hải Quảng
- Bùi Hoàng Tám
- Bùi Hoằng Vị
- Bùi Huệ Chi
- Bui Huy Hoi Bui
- Bùi Mai Hạnh
- Bùi Mạnh Hùng
- Bùi Mẫn Hân
- Bùi Minh Quốc
- Bùi Ngọc Tấn
- Bùi Quang Thắng
- Bùi Suối Hoa
- Bùi Thanh Hiếu
- Bùi Thanh Phương
- Bùi Thanh Tuấn
- Bùi Thụy Băng
- Bùi Tiến An
- Bùi Trân Phượng
- Bùi Trọng Hiền
- Bùi Văn Kha
- Bùi Văn Nam Sơn
- Bùi Việt Sỹ
- Bùi Vĩnh Phúc
- Bùi Xuân Bách
- Bùi Xuân Đính
- Bùi-Viết Văn Đức
- Bulgakov
- Bửu Chỉ
- C.D.
- Cái Lư Hương
- Cái Trọng Ty
- Cam Ly
- Cảnh Chánh
- Cao Bảo Vân
- Cao Bình Minh
- Cao Chi
- Cao Gia An
- Cao Hành Kiện
- Cao Huy Thuần
- Cao Kim Ánh
- Cao La
- Cao Quang Nghiệp
- Cao Tần
- Cao Thị Hồng
- Cao Thu Cúc
- Cao Việt Dũng
- Cao Xuân Hạo
- Cao Xuân Huy
- Carl Bildt
- Carl O. Schuster
- Carlos Assunção
- Carolyn Mary Kleefeld
- Cát Linh
- Cẩm Tú
- Cấn Thị Thêu
- Chan Phuong
- Chanh Tam
- Charles Bo
- Charles Bukowski
- Charles Simic
- Chau Doan
- Chân Minh
- Chân Pháp Xa
- Chân Phương
- Chân Xuân Tản Viên
- Châu Diên
- Châu Hải Đường
- Châu Hồng Thủy
- Châu Hữu Quang
- Chenn
- Chế Diễm Trâm
- Chế Lan Viên
- Chi Mai
- Chi Phương
- Chiêu Dương
- Chiêu Khiêm
- Chiharu Shiota
- Chim Hải
- Chim Trắng
- Chinh Ba
- Chính Tâm
- Chính Vĩ
- Chinua Achebe
- Chơn Không Cao Ngọc Phượng
- Christian Gampert
- Christian Welzel
- Christina Mary Hjortlund
- Christoph Giesen
- Christoph Sator
- Christopher Balding
- Christopher Goscha
- Christy Wampole
- Chu Dương
- Chu Hảo
- Chu Hoạch
- Chu Kim
- Chu Mộng Long
- Chu Quang Tiềm
- Chu Tử
- Chu Văn Lễ
- Chu Văn Sơn
- Chu Vĩnh Hải
- Chu Vương Miện
- Chu Xuân Diên
- Chung Le
- Claire Simon
- Clay Phạm
- Concepcion de Leon
- Connie Hoàng
- Cora Engelbrecht
- Costica Bradatan
- Cổ Ngư
- Cù An Hưng
- Cù Huy Hà Vũ
- Cù Mai Công
- Cù Tuấn
- Cung Minh Huân
- Cung Tích Biền
- Cung Trầm Tưởng
- D. S. Likhachev
- Da Màu
- Dạ Ngân
- Dạ Thảo Phương
- Dã Tượng
- DAD
- Dadolin Murak
- Damien Keown
- Dan Bilefsky
- Dan Slater
- Dana Gioia
- Danh ngôn
- Dani Rodrik
- Daniel Halpern
- Daniel Hautzinger
- Daron Accemoglu
- David Brown
- David Gascoyne
- David Marchese
- David Weinberger
- Ðặng Thơ Thơ
- Demetrio Paparoni
- DEUTSCHE WELLE
- Di
- Di Li
- Diêm Liên Khoa
- Diễm Thi
- Diễm Tường
- Diễn đàn Thế kỷ
- Diệp Duy Liêm
- Diệp Huy
- Ðinh Cường
- Dino Buzatti
- Dipanjan Roy Chaudhury
- Dmitri Prokofyev
- Dmitry Burago
- Dmitry Muratov
- Doãn Cẩm Liên
- Doãn Mạnh Dũng
- Doãn Mẫn
- Doãn Quốc Sỹ
- Dominique Lemieux
- Donald Inglehart
- Donna Ashworth
- Ðỗ Quang Nghĩa
- Ðỗ Quyên
- Du Tử Lê
- Dung Nguyễn
- Dũng Phan
- Dũng Trung Kqd
- Dũng Vũ
- Duy Lam
- Duy Tân
- Duy Thanh
- Duy Thông
- Duyên Anh
- Dư Hoa
- Dư Kiệt
- Dư Thị Hoàn
- Dư Thu Vũ
- Dương Đại Triều Lâm
- Dương Đình Giao
- Dương Khánh Phương
- Dương Kiền
- Dương Ngạn
- Dương Nghiễm Mậu
- Dương Ngọc Thái
- Dương Như Nguyện
- Dương Phương Vinh
- Dương Thắng
- Dương Thiệu Tước
- Dương Thu Hương
- Dương Thuấn
- Dương Tú
- Dương Tường
- Dương Văn Ba
- Dylan Suher
- Đà Văn
- Đàm Hà Phú
- Đàm Hách Thành
- Đào An Khánh
- Đào Anh Kha
- Đào Công Tiến
- Đào Duy Anh
- Đào Hiếu
- Đào Lê Na
- Đào Ngọc Chương
- Đào Nguyên
- Đào Nguyễn
- Đào Nguyên Phương Thảo
- Đào Như
- Đào Phương Liên
- Đào Quang Toản
- Đào Tấn Phần
- Đào Thái Tôn
- Đào Thị Hương
- Đào Tiến Thi
- Đào Trung Đạo
- Đào Trường Phúc
- Đào Tuấn
- Đào Tuấn Ảnh
- Đào Văn Thuỵ
- Đào Văn Tiến
- Đào Vũ Anh Hùng
- Đặng Anh Đào
- Đặng Bích Phượng
- Đặng Chương Ngạn
- Đặng Đình Cung
- Đặng Đình Mạnh
- Đặng Hà
- Đặng Hải Sơn
- Đặng Hoàng Giang
- Đặng Hồng Nam
- Đặng Hùng Võ
- Đặng Hương Giang
- Đặng Hữu
- Đặng Mai Lan
- Đặng Mậu Tựu
- Đăng Nguyên
- Đặng Phùng Quân
- Đặng Quốc Thông
- Đặng Sơn Duân
- Đặng Thái
- Đăng Thành
- Đặng Thân
- Đặng Thị Hảo
- Đặng Thơ Thơ
- Đặng Tiến
- Đặng Tiến (Thái Nguyên)
- Đặng Trung Nghĩa
- Đặng Túy
- Đặng Văn Dũng
- Đặng Văn Hùng
- Đặng Văn Ngữ
- Đặng Văn Sinh
- Đặng Vũ Vương
- Đặng Xuân Thảo
- Đặng Xuân Xuyến
- Đằng-Giao
- Điểm Thọ
- Đinh Bá Anh
- Đinh Cường
- Đinh Hoàng Thắng
- Đinh Hùng
- Đình Kính
- Đinh Linh
- Đinh Ngọc Thu
- Đinh Phương
- Đinh Phương Thảo
- Đinh Quang Anh Thái
- Đinh Thanh Huyền
- Đinh Thị Như Thúy
- Đinh Trường Chinh
- Đinh Từ Bích Thuý
- Đinh Từ Bích Thúy
- Đinh Văn Đức
- Đinh Vũ Hoàng Nguyên
- Đinh Ý Nhi
- Đinh Yên Thảo
- Đoàn Ánh Thuận
- Đoàn Bảo Châu
- Đoàn Cầm Thi
- Đoàn Công Lê Huy
- Đoàn Hồng Lê
- Đoàn Huy Giao
- Đoàn Huyền
- Đoàn Khắc Xuyên
- Đoàn Lê Giang
- Đoàn Nhã Văn
- Đoàn Thanh Liêm
- Đoan Trang
- Đoàn Tùng Nguyễn
- Đoàn Tử Huyến
- Đoàn Việt Hùng
- Đoàn Xuân Kiên
- Đỗ Anh Hoa
- Đỗ Anh Tuấn
- Đỗ Cao Bảo
- Đỗ Duy Ngọc
- Đỗ Đức
- Đỗ Đức Đông Ngàn
- Đỗ Đức Hiểu
- Đỗ Hòa
- Đỗ Hoàng Diệu
- Đỗ Hồng Ngọc
- Đỗ Hồng Nhung
- Đỗ Hữu Chí
- Đỗ Kh
- Đỗ Kh.
- Đỗ Khiêm
- Đỗ Kim Thêm
- Đỗ Lai Thuý
- Đỗ Lai Thúy
- Đỗ Lê Anh Đào
- Đỗ Mạnh Hoàng
- Đỗ Minh Tuấn
- Đỗ Nghê
- Đỗ Ngọc
- Đỗ Ngọc Thống
- Đỗ Quang Nghĩa
- Đỗ Quang Vinh
- Đỗ Quý Toàn
- Đỗ Quyên
- Đỗ Quỳnh Dao
- Đỗ Thắng Cảnh
- Đỗ Thị Thu Trà
- Đỗ Thiên Anh Tuấn
- Đỗ Trí Vương
- Đỗ Trọng Khơi
- Đỗ Trung Quân
- Đỗ Trường
- Đỗ Tuyết Khanh
- Đồng Chuông Tử
- Đông Hoài
- Đông Hồ
- Đông Kha
- Đông Ngàn Đỗ Đức
- Đông Nghi
- Đức Ban
- Đức Đàm
- Đức Flying Bay
- Đức Hoàng
- Đức Lê
- Đức Phổ
- Đức Tâm
- Đức Tiến
- E.E. Cummings
- E.M. Chernoivanenko
- Eamonn Butler
- Eckart Kleßmann
- Eduardo Galeano
- Edward Hirsch
- Elena Pucillo Truong
- Elias Canetti
- Ellen Bass
- Eloisa Amezcua
- Emiel Roothooft
- Emmanuelle Jardonnet
- Eric Weiner
- Erica Frantz
- Erik Harms
- Erik Korling
- Euan Ward
- Evgheni Dobrenko
- F.N.
- Federico García Lorca
- Feliks Kuznesov
- Filip Lech
- Flanny O’Connor
- Florence Noiville
- Florian Altenhöner
- Francis Fukuyama
- Francis Fukuyma
- Frank Dikötter
- Frank O'Hara
- Frankfurt
- Fred Hiatt
- Friedrich Dürrenmatt
- Friedrich Nietzsche
- Fritz J. Raddatz
- Gabriel García Márquez
- Gaither Stewart
- Gaiutra Bahadur
- Gary Leupp
- Gặp gỡ và trò chuyện
- Georg Bönisch
- Georg Trakl
- George Burchett
- George Orwell
- George Perreault
- George Siemens
- Gerhard Will
- Germain Droogenbroodt
- Giang Dang
- Giang Lại Đức
- Giang Nam
- Giáng Vân
- Giáp Văn Dương
- Gideon Rachman
- Giuse Lê Công Đức
- Goethe
- Gonçalo Fernandes
- Gottfried Benn
- Graham Allison
- Grigory Yudin
- Günter Kunert
- Gyảng Anh Iên
- Hà Duy Phương
- Hà Dương Tuấn
- Hà Dương Tường
- Hà Đình Nguyên
- Hạ Đình Nguyên
- Hà Huy Sơn
- Hà Hương
- Hà Lệ Minh
- Hà Ngọc Hòa
- Hạ Nguyên
- Hà Nguyên Du
- Hà Nhân
- Hà Nhật
- Hà Phạm Phú
- Hà Quang Vinh
- Hà Sĩ Phu
- Hà Thanh Vân
- Hà Thế
- Hà Thị Minh Đạo
- Hà Thúc Sinh
- Hà Thủy Nguyên
- Hà Tùng Long
- Hà Tùng Sơn
- Hà Văn Thịnh
- Hà Văn Thùy
- Hà Vũ Trọng
- Hagi Kenaan
- Hai An Vu
- Hải Hạc
- Hải Ngọc
- Hai Thanh
- Han Dang
- Hàn Giang
- Han Kang
- Hàn Vĩnh Diệp
- Hạnh Nguyên
- Hạnh Phước
- Hạnh Viên
- Hannah Beech
- Hào Thiện Nhân
- Haruki Murakami
- Hân Hương
- Heiko Buschke
- Heinrich Heine
- Henri Michaux
- Henry David Thoreau
- Henry Wadsworth Longfellow
- Heriberto Araújo
- Hermann Hesse
- Hiền Trang
- Hiệp Ikaria
- Hiệu Minh
- Hiếu Tân
- Ho Lai-Ming
- Hòa Bình Lê
- Hoa Níp
- Hoài Hương
- Hoài Nam
- Hoài Phương
- Hoài Thanh
- Hoài Việt
- Hoài Ziang Duy
- Hoan Doan
- Hoàn Nguyễn
- Hoàng Ánh
- Hoàng Anh Tuấn
- Hoàng Cát
- Hoàng Cầm
- Hoàng Chí Hiếu
- Hoàng Chính
- Hoàng Cường Long
- Hoàng Dũng
- Hoàng Dương Tuấn
- Hoàng Đăng Khoa
- Hoàng Đỗ
- Hoàng Đông
- Hoàng Đức Truật
- Hoàng Hà
- Hoàng Hải Thủy
- Hoàng Hải Vân
- Hoảng Hãn
- Hoàng Hưng
- Hoàng Khởi Phong
- Hoàng Kim Oanh
- Hoàng Lại Giang
- Hoàng Lan
- Hoàng Lan Anh
- Hoàng Lan Chi
- Hoàng Lê
- Hoàng Lệ
- Hoàng Linh
- Hoàng Long
- Hoàng Mai Ðạt
- Hoàng Mạnh Hải
- Hoàng Minh Trí
- Hoàng Minh Tường
- Hoàng Nam
- Hoàng Nga
- Hoàng Ngọc Biên
- Hoàng Ngọc Hiến
- Hoàng Ngọc Nguyên
- Hoàng Ngọc Tuấn
- Hoàng Nguyễn
- Hoàng Nguyên Vũ
- Hoàng Nhơn
- Hoàng Nhuận Cầm
- Hoàng Phong Tuấn
- Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Hoàng Quân
- Hoàng Quốc Hải
- Hoàng Thị Hường
- Hoàng Thị Thu Thủy
- Hoàng Thu Phố
- Hoàng Thúy
- Hoàng Thuỵ Anh
- Hoàng Tiến
- Hoàng Trung Thông
- Hoàng Tuấn Công
- Hoàng Tuấn Phổ
- Hoàng Tùng
- Hoàng Tuỵ
- Hoàng Văn Sơn
- Hoàng Việt
- Hoàng Vũ Thuật
- Hoàng Xuân Phú
- Hoàng Xuân Sơn
- Hoàng Xuân Tuyền
- Hoàng Yến
- Horst Bienek
- Howard Gardner
- Hồ Anh Thái
- Hồ Bạch Thảo
- Hồ Bất Khuất
- Hồ Diệu Vân
- Hồ Dzếnh
- Hồ Đắc Vũ
- Hồ Đình Nghiêm
- Hồ Hải Thụy
- Hồ Hữu Tường
- Hồ Minh Tâm
- Hồ Ngọc Đại
- Hồ Như
- Hồ Phú Bông
- Hồ Tịnh Tình
- Hồ Trường An
- Hồ Tú Bảo
- Hội những người ủng hộ GS. Chu Hảo
- Hồng Anh
- Hồng Hoang
- Hồng Lê Thọ
- Hồng Phú
- Huệ Hương Hoàng
- Huguette Bertrand
- Huong Nguyen
- Huy Cận
- Huy Đức
- Huy Tưởng
- Huyền Thương
- Huỳnh Duy Lộc
- Huỳnh Hoa
- Huỳnh Hữu Uỷ
- Huỳnh Hữu Ủy
- Huỳnh Kim Báu
- Huỳnh Kim Quang
- Huỳnh Lê Nhật Tấn
- Huỳnh Liễu Ngạn
- Huỳnh Ngọc Chênh
- Huỳnh Như Phương
- Huỳnh Sơn Phước
- Huỳnh Tấn Mẫm
- Huỳnh Thế Du
- Huỳnh Thục Vy
- Huỳnh Trọng Khang
- Huỳnh Tuấn Anh
- Hứa Chương Nhuận
- Hương Lan
- Hường Thanh
- Hương Thủy
- Hữu Danh
- Hữu Đông
- Hữu Loan
- Hữu Mai
- Hữu Phương
- Ian Bui
- Ian Johnson
- Igor Poglazov
- Ilza Burchett
- Inrasara
- Iris Radisch
- Isabella Kwai
- Issa
- Issac Bashevis Singer
- Italo Calvino
- Iya Kiva
- J. M. Lotman
- J.B Nguyễn Hữu Vinh
- Jacques Attali
- Jacques Prévert
- Jake Johnson
- James Borton
- James Daniel Spears
- James G. Zumwalt
- James Grossman
- James Joyce
- James Poniewozik
- James Stavridis
- James WrightJuan Felipe Herrera
- Janos Kornai
- Jared Carters
- Jason Lopata
- Jason Morris-Jung
- Jay Nordlinger
- Jaya K.
- Jean Chesnaux
- Jean d'Ormesson
- Jean Piaget
- Jean Przyluski
- Jean Toomer
- Jean-Jacques Brochier
- Jean-Jacques Roth
- Jean-Louis Rocca
- Jean-Luc Chalumeau
- Jean-Marc Roberts
- Jean-Patrick Géraud
- Jean-Paul Sartre
- Jefferson Cowie
- Jeffrey Hanfover
- Jeffrey Nall
- Jessica Swoboda
- Jessie Yeung
- Jiayang Fan
- Jimmy Carter
- Joan Hua
- João Guimarães Rosa
- Joaquin Nguyễn Hòa
- John Barrow
- John Cheever
- John Freeman
- John Keane
- John McCain
- Jon Fosse
- Jonathan Dee
- Jonathan London
- Jörg Wischermann
- Jorge Amado
- Jorge Luis Borges
- Joschka Fischer
- Josée Lapointe
- Joseph Wong
- Joseph Wright
- Josh Rogin
- Joshua Rothman
- Juan Pablo Cardenal
- Juan Pablo Cardenal & Heriberto Araújo
- Julia Cagé
- Julio Cortázar
- Jun’ichiro Tanizaki
- Kahil Gibral
- Kai Hoàng
- Kale
- Kalynh Ngô
- Kamel Daoud
- Kao Phú
- Kap Seol
- Karel Appel
- Karen Tongson
- Kate Chopin
- Kazuo Shiraga
- Kenneth Nguyen
- Keorapetse Kgositsile
- Kerstin Holm
- Kều Jang
- Kha Lương Ngãi
- Khái Hưng
- Khaly Chàm
- Khang Quốc Ngọc
- Khánh
- Khánh Bình
- Khánh Duy
- Khánh Ly
- Khánh Mai
- Khanh Nguyen
- Khanh Pham
- Khánh Phương
- Khánh Trâm
- Khánh Trường
- Khét
- Khế Iêm
- Khiêm Nhu
- Khổng Đức Thiêm
- Khuất Đẩu
- Khuê Phạm
- Khuyết Thư
- Kiệm Hoàng
- Kiến Văn
- Kiệt Anh Hùng
- Kiệt Tấn
- Kiều Duy Vĩnh
- Kiều Loan
- Kiều Mai Sơn
- Kiều Maily
- Kiều Phong
- Kiều Thị An Giang
- Kim Ân
- Kim Chi
- Kim Dung
- Kim Hạnh
- Kim Thúy
- Kim Trần
- Kinh Bắc
- Kính Hòa
- Klaus Wiegerefe
- Kúm
- Kurt-Martin Mayer
- Kỳ Duyên
- Kyoko Numano
- L. N. Tolstoy
- L. V. H.
- La Khắc Hoà
- La Khắc Hòa
- Lã Nguyên
- Lại Nguyên Ân
- Lam Điền
- Lam Ngọc
- Lam Thái Hòa
- Lan Nguyên
- Lang Anh
- Langston Hughes
- LAP
- Larry Diamond
- Lars Vargö
- Laura Cappelle
- Laurent Sagalovitsch
- Lawrence Ferlinghetti
- Lâm Chương
- Lâm Duyên
- Lâm Hạnh
- Lâm Lê
- Lâm Ngân Mai
- Lâm Quang Mỹ
- Lâm Thị Mỹ Dạ
- Leon Trotsky
- Leonard Cohen
- Lê An Thế
- Lê Anh Hoài
- Lê Anh Hùng
- Lê Ân
- Lê Bá Đảng
- Lê Bích Vượng
- Lê Chiều Giang
- Lê Công Định
- Lê Công Giàu
- Lê Công Tư
- Lê Ðình Nhất Lang
- Lê Dũng
- Lê Duy Nam
- Lê Đạt
- Lê Đăng Doanh
- Lê Đình Cai
- Lê Đình Khẩn
- Lê Đình Thắng
- Lê Đỗ Huy
- Lê Đức Dục
- Lê Đức Thôn
- Lê Giang Trần
- Lê Hải
- Lệ Hằng
- Lê Hiệp
- Lê Hoài Nguyên
- Lê Hoàng Diễm Trang
- Lê Hoàng Lân
- Lê Học Lãnh Vân
- Lê Hồ Quang
- Lê Hồng Hà
- Lê Hồng Hiệp
- Lê Hồng Lâm
- Lê Hùng
- Lê Hùng Vọng
- Lê Huyền Ái Mỹ
- Lê Huỳnh Lâm
- Lê Hữu
- Lê Hữu Khoá
- Lê Hữu Khóa
- Lê Hữu Nam
- Lê Kế Lâm
- Lê Khải
- Lê Kim Duy
- Lê Ký Thương
- Lê Lạc Giao
- Lê Luân
- Lê Mã Lương
- Lê Mai
- Lê Mai Lĩnh
- Lê Mạnh Chiến
- Lê Mạnh Đức
- Lê Minh Chánh
- Lê Minh Hà
- Lê Minh Hiền
- Lê Minh Khuê
- Lê Minh Phong
- Lê Ngân Hằng
- Lê Ngọc Luân
- Lê Ngọc Sơn
- Lê Nguyễn
- Lê Nguyễn Duy Hậu
- Lê Nguyễn Hương Trà
- Lê Nguyên Long
- Lê Nguyên Vỹ
- Lê Như Bình
- Lê Oa Đằng
- Lê Phan
- Lê Phú Khải
- Lê Quang
- Lê Quang Đức
- Lê Quảng Hà
- Lê Quang Hợp
- Lê Quang Thành
- Lê Quân
- Lê Quốc Anh
- Lê Quỳnh
- Lê Quỳnh Mai
- Lê Sa Long
- Lê Si Na
- Lê Sơn
- Lê Tất Đạt
- Lê Tất Điều
- Lê Thanh Dũng
- Lê Thanh Hải
- Lê Thanh Phong
- Lê Thanh Trường
- Lê Thân
- lê thi diem thuý
- Lê Thị Hồng Minh
- Lê Thị Huệ
- Lê Thị Hường
- Lê Thị Oanh
- Lê Thị Thấm Vân
- Lê Thiết Cương
- Lê Thiếu Nhơn
- Lê Thọ Bình
- Lê Thời Tân
- Lê Thời Thôi
- Lê Thu Hiền
- Lê Thúy Bảo Liên
- Lê Tiên Long
- Lê Trí Tuệ
- Lê Trinh
- Lê Trọng Nghĩa
- Lê Trọng Nguyễn
- Lê Trung Tĩnh
- Lê Trường Thanh
- Lê Tuấn Huy
- Lê Tuyết Hạnh
- Lê Văn Bỉnh
- Lê Văn Hảo
- Lê Văn Hiếu
- Lê Văn Hòa
- Lê Văn Luân
- Lê Văn Sơn
- Lê Văn Trung
- Lê Văn Tùng
- Lê Vĩnh Tài
- Lê Vĩnh Triển
- Lê Vũ Trường Giang
- Lê Xuân Khoa
- Lê Xuyên
- Li Edelkoort
- Li Zhongqin
- Liêu Diệc Vũ
- Liêu Thái
- Liễu Trương
- Linh Nguyên
- Linh Văn
- Linh Vân
- Linh-Chân Brown
- LKH
- Lorca
- Louis Aragon
- Louise Glück
- Lộc Vàng
- Luân Hoán
- Ludwig von Mises
- Luke Hunt
- Luke Turner
- Lữ Kiều
- Lữ Quỳnh
- Lương Đào
- Lương Thiệu Quân
- Lương Thư Trung
- Lưu Á Châu
- Lưu Bình Nhưỡng
- Lưu Diệu Vân
- Lưu Đức Trung
- Lưu Hà
- Lưu Hiểu Ba
- Lưu Khánh Thơ
- Lưu Mê Lan
- Lưu Minh Hải
- Lưu Na
- Lưu Nhi Dũ
- Lưu Quang Vũ
- Lưu Thuỷ Hương
- Lưu Thủy Hương
- Lưu Trọng Văn
- Lưu Uyên Khôi
- Lý Đợi
- Ly Hoàng Ly
- Lý Ngang
- Ly Phạm
- Lý Quang Hoàn
- Lý Thanh
- Lý Tiến Dũng
- Lý Toàn Thắng
- Lý Trực Dũng
- Lý Xuân Hải
- Lydia Davis
- Lynh Bacardi
- LysP
- M. Gorky
- M.L. Gasparov
- Mạc Phong Tuyền
- Mạc Văn Trang
- Mạc Việt Hồng
- Mạch Nha
- Mạch Quang Thắng
- Madeleine Riffaud
- Mai An Nguyễn Anh Tuấn
- Mai Anh Tuấn
- Mai Bá Ấn
- Mai Bá Kiếm
- Mai Chanh
- Mai Hiền
- Mai Khôi
- Mai Kim Ngọc
- Mai Nhật
- Mai Ninh
- Mai Quốc Ấn
- Mai Quỳnh
- Mai Quỳnh Nam
- Mai Sơn
- Mai Thái Lĩnh
- Mai Thanh Sơn
- Mai Thảo
- Mai Tú Ân
- Mai Văn Hoan
- Mai Văn Phấn
- Mai Văn Tính
- Maki Starfield
- Mamleev
- Mạnh Kim
- Mão Xuyên
- Marc Andrus
- Marcel Reich-Ranicki
- Marci Shore
- Marco Ferrarese
- Margarita Lyutova
- Maria Donovan
- Maria Ressa
- Mario Vargas Llosa
- Marion Hennebert
- Mark B. Hamilton
- Mark Binelli
- Mark Frankland
- Mark Osaki
- Mark Strand
- Marta Hillers
- Martin Jankowski
- Martin Kulldorff
- Marty Robbins
- Mary Morose
- Mary Walsh
- Mathias Mayer
- Matthew Clayfield
- Matthew Crawford
- Maurice Blanchot
- Maximilian Steinbeis
- May
- Maya Angelou
- Mặc Đỗ
- Mặc Lâm
- Mân Côi
- McAmmond Nguyễn Thị Tư
- Media Văn Việt
- Michael Burawoy
- Michael Scammell
- Miêng
- Mike Ives
- Mikhail Shishkin
- Mikhail Viktorovich Zygar
- Milan Kundera
- Mimmi Diệu Hường Bergström
- MInh Anh
- Minh Huệ
- Minh Hùng
- Minh Luật
- Minh Quang – Lê Chiên
- Minh Quang Ho
- Minh Tâm
- Minh Thùy
- Minh Thư
- Minh Toàn
- Minh Tuấn
- Monica Berlin
- Mỹ Hằng
- Mỹ Lan
- N. S. Khrushchev
- Nam Dao
- Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng
- Nam Đan
- Nam Đông
- Nam Nguyên
- Nam Sơn
- Naowarat Pongpaiboon
- Natalia lacovelli
- Nataliya Zhynkina
- Natsume Sōseki
- Nay Aung
- ng. anhanh
- Ng.Uyển Nicole Dương
- Ngải Vị VỊ
- Ngân Xuyên
- Nghệ thuật
- Nghiêm Lương Thành
- Nghiêm Phương Mai
- Nghiêm Xuân Hồng
- Nghiên Cứu Phê Bình
- Ngo Thu
- Ngọc Anh
- Ngọc Duy Phan
- Ngoc Hien Bui
- Ngọc Linh
- Ngô Anh Tuấn
- Ngô Bảo Châu
- Ngô Đình Thẩm
- Ngô Đồng
- Ngô Hương Giang
- Ngô Khắc Tài
- Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
- Ngô Liêm Khoan
- Ngô Minh
- Ngô Minh Khôi
- Ngô Ngọc Loan
- Ngô Ngọc Trai
- Ngô Nguyên Dũng
- Ngô Nhật Đăng
- Ngô Quốc Phương
- Ngô Quốc Thịnh
- Ngô Thế Vinh
- Ngô Thị Kim Cúc
- Ngô Thị Thanh Lịch
- Ngô Tùng Phong
- Ngô Tự Lập
- Ngô Văn
- Ngô Văn Giá
- Ngô Viết Nam Sơn
- Ngô Viết Trọng
- Ngô Vĩnh Long
- Ngô Xuân Hội
- Ngô Xuân Phúc
- Ngô Xuân Thảo
- Ngu Yên
- Nguyen Duc Thanh
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Anh Dũng
- Nguyễn Anh Tuấn
- Nguyễn Anh Tuấn - đạo diễn
- Nguyễn Bá Chung
- Nguyễn Bách Việt
- Nguyễn Bảo Chân
- Nguyễn Bắc Sơn
- Nguyên Bình
- Nguyên Cầm
- Nguyên Cẩn
- Nguyên Chánh
- Nguyễn Chí Hoan
- Nguyễn Chí Thuật
- Nguyễn Chí Trung
- Nguyễn Chí Tuyến
- Nguyễn Chinh Trung
- Nguyễn Cung Thông
- Nguyễn Cường
- Nguyễn Danh Bằng
- Nguyễn Danh Huế
- Nguyễn Danh Lam
- Nguyễn Ðăng Thường
- Nguyễn Duy
- Nguyễn Dương Quang
- Nguyễn Đạt
- Nguyễn Đắc Kiên
- Nguyễn Đắc Xuân
- Nguyễn Đăng Điệp
- Nguyễn Đăng Hưng
- Nguyễn Đăng Khoa
- Nguyễn Đăng Mạnh
- Nguyễn Đăng Na
- Nguyễn Đăng Quang
- Nguyễn Đăng Thường
- Nguyễn Đình Ấm
- Nguyễn Đình Bin
- Nguyễn Đình Bổn
- Nguyễn Đình Chú
- Nguyễn Đình Cống
- Nguyễn Đình Đăng
- Nguyễn Đình Huỳnh
- Nguyễn Đình Thắng
- Nguyễn Đình Thi
- Nguyễn Đình Toàn
- Nguyễn Đổng Chi
- Nguyễn Đông Thức
- Nguyễn Đức
- Nguyễn Đức Dương
- Nguyễn Đức Hiệp
- Nguyễn Đức Mậu
- Nguyễn Đức Sơn
- Nguyễn Đức Thắng
- Nguyễn Đức Tiến
- Nguyễn Đức Tùng
- Nguyễn Đức Tường
- Nguyễn Gia Trí
- Nguyên Giác
- Nguyên Giác Phan Tấn Hải
- Nguyễn Hà Luân
- Nguyễn Hải Hoành
- Nguyễn Hải Yến
- Nguyễn Hàn Chung
- Nguyễn Hiến Lê
- Nguyễn Hoa Lư
- Nguyễn Hoài Nam
- Nguyễn Hoài Văn
- Nguyễn Hoài Vân
- Nguyễn Hoàn
- Nguyễn Hoàn Nguyên
- Nguyễn Hoàng Ánh
- Nguyễn Hoàng Anh Thư
- Nguyễn Hoàng Diệu Thủy
- Nguyễn Hoàng Diệu Thúy
- Nguyễn Hoàng Giao
- Nguyễn Hoàng Linh
- Nguyễn Hoàng Trung
- Nguyễn Hoàng Văn
- Nguyễn Hồng Anh
- Nguyễn Hồng Giao
- Nguyễn Hồng Hưng
- Nguyễn Hồng Lam
- Nguyễn Hồng Nhung
- Nguyễn Hồng Thục
- Nguyễn Huệ Chi
- Nguyễn Hùng
- Nguyễn Huy Hoàng
- Nguyễn Huy Thiệp
- Nguyễn Huy Vũ
- Nguyên Hưng
- Nguyễn Hưng Quốc
- Nguyễn Hương
- Nguyễn Hữu Đễ
- Nguyễn Hữu Hồng Minh
- Nguyễn Hữu Liêm
- Nguyễn Hữu Nhật
- Nguyễn Hữu Sơn
- Nguyễn Hữu Thiết
- Nguyễn Hữu Việt Hưng
- Nguyễn Hữu Vinh
- Nguyễn kc Hậu
- Nguyễn Khải
- Nguyễn Khánh Duy
- Nguyễn Khánh Trường
- Nguyễn Khắc An
- Nguyễn Khắc Bình
- Nguyễn Khắc Mai
- Nguyễn Khắc Phê
- Nguyễn Khắc Phi
- Nguyễn Khắc Phục
- Nguyễn Khiêm
- Nguyễn Khôi
- Nguyễn Kiến Phước
- Nguyễn Kiều Dung
- Nguyễn Kiều Hưng
- Nguyên Lạc
- Nguyễn Lãm Thắng
- Nguyễn Lan Phương
- Nguyễn Lân Bình
- Nguyễn Lân Thắng
- Nguyễn Lê Hồng Hưng
- Nguyễn Lệ Uyên
- Nguyễn Linh Giang
- Nguyễn Linh Quang
- Nguyễn Lộ Trạch
- Nguyễn Luận
- Nguyễn Lương Hải Khôi
- Nguyễn Lương Ngọc
- Nguyễn Lương Vỵ
- Nguyễn Mai
- Nguyễn Man Nhiên
- Nguyễn Mạnh An Dân
- Nguyễn Mạnh Côn
- Nguyễn Mạnh Đẩu
- Nguyễn Mạnh Tiến
- Nguyễn Manh Trinh
- Nguyễn Mạnh Trinh
- Nguyễn Mạnh Tuấn
- Nguyễn Mạnh Tường
- Nguyễn Minh Anh
- Nguyễn Minh Hòa
- Nguyễn Minh Kính
- Nguyễn Minh Nhị
- Nguyễn Minh Nhựt
- Nguyễn Minh Thuyết
- Nguyễn Mộng Giác
- Nguyên Ngọc
- Nguyễn Ngọc Chu
- Nguyễn Ngọc Giao
- Nguyễn Ngọc Hoa
- Nguyễn Ngọc Lanh
- Nguyễn Ngọc Liễm
- Nguyễn Ngọc Lung
- Nguyễn Ngọc Tâm
- Nguyễn Ngọc Thiện
- Nguyễn Ngọc Tú Anh
- Nguyễn Ngọc Tư
- Nguyên Nguyên
- Nguyễn Nguyên
- Nguyễn Nguyên Bình
- Nguyễn Nhật Tín
- Nguyên Nhi
- Nguyễn Như Huy
- Nguyễn Phạm Hùng
- Nguyễn Phú Yên
- Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
- Nguyễn Phượng
- Nguyễn Phương Đình
- Nguyễn Phương Mai
- Nguyễn Phương Mạnh
- Nguyễn Quang
- Nguyễn Quang A
- Nguyễn Quang Bình
- Nguyễn Quang Duy
- Nguyễn Quang Dy
- Nguyễn Quang Đồng
- Nguyễn Quang Hồng
- Nguyễn Quang Hưng
- Nguyễn Quang Lập
- Nguyễn Quang Thạch
- Nguyễn Quang Thân
- Nguyễn Quang Thiều
- Nguyễn Quang VInh
- Nguyễn Quân
- Nguyễn Quốc Lâm
- Nguyễn Quốc Thái
- Nguyễn Quốc Toàn
- Nguyễn Quốc Trụ
- Nguyễn Quốc Tuấn
- Nguyên Sa
- Nguyễn Sĩ Dũng
- Nguyễn Sơn Lâm
- Nguyễn Sỹ Phương
- Nguyễn Sỹ Tế
- Nguyễn Tà Cúc
- Nguyễn Tài Cẩn
- Nguyễn Tấn Cứ
- Nguyễn Tất Nhiên
- Nguyễn Thạch Giang
- Nguyễn Thái Hòa
- Nguyễn Thái Hợp
- Nguyễn Thái Sơn
- Nguyễn Thái Tuấn
- Nguyễn Thanh Bình
- Nguyễn Thanh Châu
- Nguyễn Thanh Giang
- Nguyễn Thanh Hiện
- Nguyễn Thanh Hùng
- Nguyễn Thanh Huy
- Nguyễn Thanh Huyền
- Nguyễn Thanh Mỹ
- Nguyễn Thành Nam
- Nguyễn Thanh Nghị
- Nguyễn Thanh Nguyệt
- Nguyễn Thành Phong
- Nguyễn Thanh Sơn
- Nguyễn Thành Sơn
- Nguyễn Thanh Tâm
- Nguyễn Thành Thi
- Nguyễn Thanh Tuyền
- Nguyễn Thanh Văn
- Nguyễn Thanh Việt
- Nguyễn Thế Hùng
- Nguyễn Thế Thanh
- Nguyễn Thị Ái Tiên
- Nguyễn Thị Bích Hậu
- Nguyễn Thị Bích Ngà
- Nguyễn Thị Bình
- Nguyễn thị Cỏ May
- Nguyễn Thị Dư Khánh
- Nguyễn Thị Hải
- Nguyễn Thị Hậu
- Nguyễn Thị Hiền
- Nguyễn Thị Hoàng
- Nguyễn Thị Hoàng Bắc
- Nguyễn Thị Khánh Minh
- Nguyễn Thị Khánh Trâm
- Nguyễn Thị Kim Chi
- Nguyễn Thị Kim Phụng
- Nguyễn Thị Minh Ngọc
- Nguyễn Thị Minh Thương
- Nguyễn Thị Ngọc Hải
- Nguyễn Thị Ngọc Nhung
- Nguyễn Thị Oanh
- Nguyễn Thị Phước
- Nguyễn Thị Thanh Bình
- Nguyễn Thị Thanh Hải
- Nguyễn Thị Thanh Lưu
- Nguyễn Thị Thanh Xuân
- Nguyễn Thị Thanh Yến
- Nguyễn Thị Thảo An
- Nguyễn Thị Thúy Hạnh
- Nguyễn Thị Thùy Linh
- Nguyễn Thị Thụy Vũ
- Nguyễn Thị Thuyền
- Nguyễn Thị Tịnh Thy
- Nguyễn Thị Từ Huy
- Nguyễn Thị Vinh
- Nguyễn Thiện Tống
- Nguyễn Thiện Tơ
- Nguyễn Thói Đời
- Nguyễn Thông
- Nguyễn Thu Quỳnh
- Nguyễn Thu Trang
- Nguyễn Thùy Dương
- Nguyễn Thúy Hạnh
- Nguyễn Thụy Long
- Nguyễn Thuỵ Phương
- Nguyễn Thùy Song Thanh
- Nguyễn Thỵ
- Nguyễn Thy Anh
- Nguyễn Tiến Dũng
- Nguyễn Tiến Lập
- Nguyễn Tiến Trung
- Nguyễn Tiến Văn
- Nguyễn Trần Bạt
- Nguyễn Tri Phương Đông
- Nguyễn Triệu Nam
- Nguyễn Trọng Bình
- Nguyễn Trọng Chức
- Nguyễn Trọng Huân
- Nguyễn Trọng Khôi
- Nguyễn Trọng Tạo
- Nguyễn Trung
- Nguyễn Trung Bảo
- Nguyễn Trung Dân
- Nguyễn Trung Hiếu
- Nguyễn Trung Kiên
- Nguyễn Trung Thuần
- Nguyễn Trường Giang
- Nguyễn Trường Huy
- Nguyễn Trường Uy
- Nguyễn Tuấn
- Nguyễn Tuấn Anh
- Nguyễn Tuấn Khoa
- Nguyễn Tùng
- Nguyễn Tùng Linh
- Nguyễn Tuyết Lan
- Nguyễn Tuyết Lộc
- Nguyễn Tư Nghiêm
- Nguyễn Tử Siêm
- Nguyễn Tường Bách
- Nguyễn Tường Thiết
- Nguyễn Tường Thụy
- Nguyễn Ước
- Nguyễn Vạn Phú
- Nguyễn Văn
- Nguyễn Văn Ba
- Nguyễn Văn Chính
- Nguyễn Văn Ðậu
- Nguyễn Văn Dũng
- Nguyễn Văn Đài
- Nguyễn Văn Gia
- Nguyễn Văn Hạnh
- Nguyễn Văn Hiệp
- Nguyễn Văn Hòa
- Nguyễn Văn Hùng
- Nguyễn Văn Huyên
- Nguyễn Văn Lợi
- Nguyễn Văn Lục
- Nguyễn Văn Miếng
- Nguyễn Văn Nghệ
- Nguyễn Văn Nho
- Nguyễn Văn Phong
- Nguyễn Văn Phú
- Nguyễn Văn Phước
- Nguyễn Văn Sâm
- Nguyễn Văn Sơn
- Nguyễn Văn Tao
- Nguyễn Văn Thiệu
- Nguyễn Văn Thọ
- Nguyễn Văn Trọng
- Nguyễn Văn Trung
- Nguyễn Văn Tuấn
- Nguyễn Văn Vĩnh
- Nguyễn Văn Xuân
- Nguyễn Vi Khải
- Nguyễn Vi Yên
- Nguyễn Viện
- Nguyễn Việt Anh
- Nguyễn Việt Chiến
- Nguyễn Viết Lãm
- Nguyễn Vĩnh Nguyên
- Nguyễn Vũ Hiệp
- Nguyễn Vũ Tiềm
- Nguyễn Vỹ
- Nguyễn Vy Khanh
- Nguyễn Xuân Diện
- Nguyễn Xuân Hằng
- Nguyễn Xuân Hoàng
- Nguyễn Xuân Hưng
- Nguyễn Xuân Khánh
- Nguyễn Xuân Khoát
- Nguyễn Xuân Nghĩa
- Nguyễn Xuân Nha
- Nguyễn Xuân Quang
- Nguyễn Xuân Thiệp
- Nguyễn Xuân Thọ
- Nguyễn Xuân Tiệp
- Nguyễn Xuân Tường Vy
- Nguyễn Xuân Xanh
- Nguyễn Ý Thuần
- Nguyên Yên
- Nguyễn-Chương Mt
- Nguyễn-hòa-Trước
- Nguyệt Chu
- Nguyệt Quỳnh
- Nguyệt Vi
- Ngự Thuyết
- Người Buôn Gió
- Ngyễn Trung Bảo
- Nh. Tay Ngàn
- Nhã
- Nhã Ca
- Nhã Duy
- Nhã Thuyên
- Nhan Do Thanh
- Nhân Hồng
- Nhật Chiêu
- Nhật Lệ
- Nhất Linh
- Nhật Tiến
- Nhật Tuấn
- Nhất Uyên
- Nhị Linh
- Nhị Ngã
- Nhóm Vì một Hà Nội xanh
- Như Huy
- Như Không
- Như Quỳnh
- Như Quỳnh de Prelle
- Như Ý
- Nhược Thủy
- Niall Ferguson
- Nick Hilden
- Nicolas Casey
- Nikulin
- Nina McPherson
- Ninh Dương
- Ninh Kiều
- Nobert Hummelt
- Nông Hồng Diệu
- NP Phan
- Obama
- Ocean Vương
- Octavio Paz
- Ogden Nash
- Oksana Zabuzhko
- Oleg Kashin
- Ondrej Slowik
- onggiaolang
- Orlando Figes
- Orwell
- Oscar Salemink
- Oscar Wilde
- Pablo Neruda
- Pablo Picasso
- Palmer
- Patrick Frater
- Patrick Lodge
- Paul Auster
- Paul Celan
- Paul Éluard
- Paul Hoover
- Paul Mendez
- Paul Mozur
- Paul Theroux
- Paul-François Paoli
- Paulus Lê Sơn
- Pavel Basinsky
- Pavlo Vyshebaba
- Paweł Kubiak
- Pawel Kuczynski
- Paweł Łepkowski
- Percy Mabandu
- Pervez Hoodbhoy
- Peter B. Zinoman
- Peter Hansen
- Peter Harvey
- Peter Kleiner
- Peter Singer
- Phạm Anh Tuấn
- Phạm Biểu Tâm
- Phạm Cao Hoàng
- Phạm Châu
- Phạm Chí Dũng
- Phạm Chi Lan
- Phạm Chu Sa
- Phạm Công Luận
- Phạm Công Thiện
- Phạm Công Út
- Phạm Duy
- Phạm Duy Nghĩa
- Phạm Đình Trọng
- Phạm Đình Vy
- Phạm Đoan Trang
- Phạm Hải Anh
- Phạm Hải Âu
- Phạm Hiền Mây
- Phạm Hoàng Quân
- Phạm Hồng Sơn
- Phạm Hùng Việt
- Phạm Huy Thông
- Phạm Khiêm Ích
- Phạm Kiều Tùng
- Phạm Kỳ Đăng
- Phạm Lệ Quyên
- Phạm Lê Vương Các
- Phạm Linh
- Phạm Lưu Vũ
- Phạm Minh Hoàng
- Phạm Minh Ngọc
- Phạm Minh Quân
- Phạm Minh Trung
- Phạm Ngọc Lư
- Phạm Ngọc Thái
- Phạm Ngọc Tiến
- Phạm Nguyên Trường
- Phạm Ngữ
- Phạm Phan Long
- Phạm Phú Cường
- Phạm Phú Hải
- Phạm Phú Minh
- Phạm Phú Phong
- Phạm Phú Thứ
- Phạm Phú Viết
- Phạm Phúc Thịnh
- Phạm Phương
- Phạm Quang Ái
- Phạm Quang Long
- Phạm Quang Trung
- Phạm Quang Tuấn
- Phạm Sỹ Sáu
- Phạm Tăng
- Phạm Thành
- Phạm Thành Hưng
- Phạm Thanh Nghiên
- Phạm Thảo Nguyên
- Phạm Thế Cường
- Phạm Thị
- Phạm Thị Anh Nga
- Phạm Thị Hoài
- Phạm Thị Kiều Ly
- Phạm Thị Ngọc
- Phạm Thị Phương
- Phạm Thiên Ân
- Phạm Thiên Thư
- Phạm Tín An Ninh
- Phạm Toàn
- Phạm Trần
- Phạm Trọng Chánh
- Phạm Trung Nghĩa
- Phạm Tuấn
- Phạm Tư Thanh Thiện
- Phạm Tường Vân
- Phạm Văn
- Phạm Văn Khoái
- Phạm Văn Quang
- Phạm Văn Song
- Phạm Văn Tình
- Phạm Văn Vũ
- Pham Viem Phuong
- Phạm Viêm Phương
- Phạm Viết Đào
- Phạm Việt Hưng
- Phạm Vũ Lửa Hạ
- Phạm Xuân Đài
- Phạm Xuân Hùng
- Phạm Xuân Nguyên
- Phạm Xuân Trường
- Phan An Sa
- Phan Ba
- Phan Bội Châu
- Phan Cẩm Thượng
- Phan Châu Thành
- Phan Cự Đệ
- Phan Đạo
- Phan Đắc Lữ
- Phan Đình Diệu
- Phan Độc Lập
- Phan Hải-Đăng
- Phan Hồng Giang
- Phan Huy Dũng
- Phan Huy Đường
- Phan Huy Lê
- Phan Huyền Thư
- Phan Kế Toại
- Phan Khôi
- Phan Lặng Yên
- Phan Mạnh Quỳnh
- Phan Nam Sinh
- Phan Ngọc
- Phan Nguyên
- Phan Nhật Nam
- Phan Nhiên Hạo
- Phan Ni Tấn
- Phan Phương Đạt
- Phan Quang
- Phan Tấn Hải
- Phan Tấn Uẩn
- Phan Thanh Bình
- Phan Thắng
- Phan Thế Hải
- Phan Thị Hà Dương
- Phan Thị Kim Phúc
- Phan Thị Trọng Tuyển
- Phan Thị Vàng Anh
- Phan Thu Vân
- Phan Thúy Hà
- Phan Trang Hy
- Phan Trí Đỉnh
- Phan Trọng Hoàng Linh
- Phan Văn Giưỡng
- Phan Văn Song
- Phan Văn Thắng
- Phan Vũ
- Phan Xine
- Phan Xuân Sinh
- Phannguyên Psg
- Phanxipăng
- Phaolô VI
- Pháp Hoan
- Pháp Vân
- Phapxa Chan
- Phát biểu nhận giải Văn Việt
- Phil Caputo
- Philip Larkin
- Philip Roth
- Phong Linh
- Phong Nguyen
- Phong Quang
- Phố Văn
- Phú Quang
- Phù Sa
- Phúc Lai GB
- Phúc Tiến
- Phunchok Stobdan
- Phùng Anh Kiệt
- Phùng Hi
- Phùng Hoài Ngọc
- Phùng Học Vinh
- Phùng Ngọc Kiên
- Phùng Nguyễn
- Phùng Quán
- Phùng Thành Chủng
- Phùng Thị Hạ Nguyên
- Phùng Thị Như Hà
- Phuong Ta
- Phương Hương
- Phương Phương
- Phương Thảo
- Phương Thuý
- Phương Uy
- Pierre Darriulat
- Pierre Lemieux
- Prashanth Parameswaran
- Qladimir Pyljow
- Quách Hạo Nhiên
- Quách Tấn
- Quách Thoại
- Quảng Diệu Trần Bảo Toàn
- Quang Dũng
- Quang Đức
- Quang Minh
- Quang Phan
- Quảng Tánh Trần Cầm
- Quậy Nguyễn
- Quế Hương
- Quốc Dũng
- Quốc Phương
- Quốc Toản
- Quyên Di
- Quyên Hoàng
- Quỳnh Iris de Prelle
- Quỳnh Vi
- Rabindranath Tagore
- Rainer Maria Rilke
- Ralph Chaplin
- Rebecca Mead
- Rebecca Solnit
- Reiner Traub
- Remo Verdickt
- Riccardo Gazzaniga
- Richard C. Paddock
- Richard Millet
- Richard Serra
- Robert Desnos
- Robert McCrump
- Roger Vu
- Roland Barthes
- Romain Rolland
- Ronald F. Inglehart
- Ruben David Gonzalez Gallego
- Russell Edson
- Ruth Ingram
- Ryszard Legutko
- Salman Rushdie
- Salvatore Babones
- Sam Dresser
- Sạn chữ
- Sandra Kerschbaumer
- Sara Teasdale
- Sarah Pulliam Bailey
- Sarah Thornton
- Sáu Nghệ
- Sergio Bitar
- Shakespeare
- Shannon Van Sant
- Sheikha A
- Sheila Fischman
- Sheila Ngoc Pham
- Sheri Berman
- Shigeeda Yutaka
- Shirin Ebadi
- Shukshin
- Simon Johnson
- Sire Apm Lukwesa
- Slavoj Žižek
- Sohaniim
- Son Kieu Mai
- Song Chi
- Song Hà
- Song Nguyễn
- Song Phạm
- Song Phan
- Song Thao
- Số đặc biệt
- Sơn Ca
- Sơn Hoàng Liên
- Sơn Kiều Mai
- Sơn Nam
- Stefano Harney
- Stephan Koester
- Stephen B. Young
- Steve Earle
- Susan Sontag
- Suzuki Katsuhiko
- Sương Nguyệt Minh
- Sương Quỳnh
- Svetlana Alexievich
- Svetlana Alexievitch
- Svetlana Alexiévitch
- Sylvia Plath
- T. Đ.
- T.Vấn
- Tạ Anh Thư
- Tạ Chí Đại Trường
- Tạ Duy Anh
- Tạ Tỵ
- Tạ Văn Tài
- Tạ Văn Thông
- Tạ Xuân Hải
- Tadeusz Rósewicz
- Tam Ích
- Tamarchenko
- Tàn Tuyết
- Tanaami Keiichi
- Taras Shevchenko
- Tarik Khaldi
- Tawada Yoko
- Tăng Quang
- Tâm An
- Tâm Chánh
- Tâm Don
- Tâm Thường Định
- Tâm Việt
- Tấn An
- Teolinda Gersão
- Teresa Mỹ Chúc
- Thạch Đạt Lang
- Thạch Quỳ
- Thạch Thảo
- Thái Bá Tân
- Thái Bá Vân
- Thái Bảo
- Thái Hà
- Thái Hạo
- Thái Kế Toại
- Thái Kim Lan
- Thái Ngọc San
- Thái Sinh
- Thái Thanh
- Thái Thăng Long
- Thái Tuấn
- Thái Văn
- Thái Văn Đào
- Thái Vũ
- Thạnh Đà
- Thanh Hằng - Anh Khoa
- Thành Lộc
- Thanh Nam
- Thanh Ngọc
- Thanh Phương
- Thanh Tâm Tuyền
- Thanh Thảo
- Thanh Thuỷ
- Thanh Trúc
- Thanh Tùng
- Thanh Xuân
- Thanhhà Lại
- Thảo Dân
- Thao Dinh
- Thảo luận
- Thảo Nguyên
- Thảo Trường
- Thảo Vy
- Thẩm Đống
- Thận Nhiên
- Thân Trọng Mẫn
- Thân Trọng Sơn
- Thế Dũng
- Thế Giang
- Thế Quân
- THẾ THANH
- Thế Uyên
- Thi Hoàng
- Thi Nguyên
- Thi sỹ ỦA
- Thi Vũ
- Thích Nhất Hạnh
- Thích Nữ Chân Không
- Thích Phước An
- Thierry Leclère
- Thierry Lentz
- Thiên Di
- Thiên Điểu
- Thiền Lâm
- Thiền Nguyễn
- Thiên Thai
- Thiện Tùng
- Thiện Ý
- Thiết Thạch
- Thiếu Khanh
- Thiều Mai Lâm
- Tho Nguyen
- Thomas A. Bass
- Thomas Bo Pedersen
- Thomas Mahler
- Thomas S. Mullaney
- Thông Đặng
- Thơ
- Thu Phong
- Thu Vàng
- Thuận
- Thuần Ngô
- Thuận Paris
- Thuận Thiên
- Thục Quyên
- Thụy An
- Thùy Dung
- Thụy Khuê
- Thùy Linh
- Thụy My
- Thủy Tiên
- Thư Bạn Đọc
- Thường Quán
- Thy An
- Tịch Ru
- Tiet Hung Thai
- Tiêu Dao Bảo Cự
- Tiêu Kiện Sinh
- Tiểu Tử
- Tillman Miller
- Timothy Brennan
- Timothy Garton Ash
- Timothy Snyder
- Tina Hà Giang
- Tomas Tranströmer
- Tô Đăng Khoa
- Tô Hải
- Tô Hoàng
- Tố Hữu
- Tô Lan Hương
- Tô Ngọc Vân
- Tô Thẩm Huy
- Tô Thùy Yên
- Tô Văn Trường
- Tôi Đây
- Tôn Thất Thông
- Tống Văn Công
- Trà Đóa
- Trà Nhiên
- Tracy K. Smith
- Tran Dinh Dung
- Tran Nam Dung
- Trang Châu
- Trang Hạ
- Trang Thanh
- Trang Thế Hy
- Trangđài Glassey Trầnguyễn
- Trangđài Glasssey-Trầnguyễn
- Trao đổi
- Trầm Tử Thiêng
- Trần Anh Hùng
- Trần Bá Đại Dương
- Trần Bang
- Trần Bình Nam
- Trần C. Trí
- Trần Cao Lĩnh
- Trần Cao Tường
- Trần Công Tâm
- Trần Công Tín
- Trần Dạ Từ
- Trần Dần
- Trần Doãn Nho
- Trần Dũng Thanh Huy
- Trần Duy
- Trần Duy Phiên
- Trần Duy Trung
- Trần Đăng Khoa
- Trần Đăng Tuấn
- Trần Đĩnh
- Trần Đình Bút
- Trần Đình Hoành
- Trần Đình Lương
- Trần Đình Sơn Cước
- Trần Đình Sử
- Trần Đình Triển
- Trần Đình Trợ
- Trần Độ
- Trần Đồng Minh
- Trần Đức Anh Sơn
- Trần Đức Thảo
- Trần Đức Tiến
- Trần Đức Tín
- Trần Đức Toản
- Trần Gia Huấn
- Trần Gia Ninh
- Trần Hà Linh
- Trần Hạ Tháp
- Trần Hạ Vi
- Trần Hải
- Trần Hạnh
- Trần Hậu
- Trần Hoài Anh
- Trần Hoài Thư
- Trần Hoàng Phố
- Trần Hoàng Trúc
- Trần Hoàng Vy
- Trần Hùng
- Trần Huy Bích
- Trần Huy Minh Phương
- Trần Huy Quang
- Trần Huỳnh Duy Thức
- Trần Hữu Dũng
- Trần Hữu Khánh
- Trần Hữu Quang
- Trần Hữu Tá
- Trần Hữu Thục
- Trần Khánh Triệu
- Trần Kiêm Đoàn
- Trần Kiêm Trinh Tiên
- Trần Kim Trắc
- Trần Kỳ Trung
- Trần Lam
- Trần Lê Sơn Ý
- Trần Lương
- Trần Lý Trí Tân
- Trần Mạnh Hảo
- Trần Mạnh Tuấn
- Trần Minh Phi
- Trần Minh Quốc
- Trần Mộng Tú
- Trần Nam Bình
- Trần Ngân Hà
- Trần Nghi Hoàng
- Trần Ngọc Cư
- Trần Ngọc Hiếu
- Trần Ngọc Tuấn
- Trần Ngọc Vương
- Trần Nguyên Đán
- Trần Nhã Thụy
- Trần Nhương
- Trần Phong Giao
- Trần Phong Vũ
- Trần Quang Đức
- Trần Quang Lộc
- Trần Quốc Nam
- Trần Quốc Thuận
- Trần Quốc Toàn
- Trần Quốc Trọng
- Trần Quốc Vượng
- Trần Quyết Thắng
- Trân Sa
- Trần Song Hào
- Trần Thành
- Trần Thanh Ái
- Trần Thanh Cảnh
- Trần Thanh Huy
- Trần Thanh Vân
- Trần Thắng
- Trần Thế Vĩnh
- Trần Thị Băng Thanh
- Trần Thị Diệu Tâm
- Trần Thị Lai Hồng
- Trần Thị Lam
- Trần Thị NgH.
- Trần Thị Nguyệt Mai
- Trần Thị Phương Phương
- Trần Thị Thanh Thoả
- Trần Thị Trường
- Trần Thiện Đạo
- Trần Thùy Mai
- Trần Tiến
- Trần Tiễn Cao Đăng
- Trần Tiến Dũng
- Trần Tiễn Khanh
- Trần Tố Nga
- Trần Trọng Dương
- Trần Trọng Thức
- Trần Trọng Vũ
- Trần Trung Chính
- Trần Trung Đạo
- Trần Tuấn
- Trần Từ Mai
- Trần Vàng Sao
- Trần Văn Chánh
- Trần Văn Đỉnh
- Trần Văn Khê
- Trần Văn Minh
- Trần Văn Nam
- Trần Văn Thọ
- Trần Văn Thủy
- Trần Văn Tý
- Trần Vấn Lệ
- Trần Việt Hà
- Trần Viết Ngạc
- Trần Vinh Dự
- Trần Vũ
- Trần Vũ Hải
- Trần Vương Thuấn
- Trần Vương Thuận
- Trần Wũ Khang
- Trần Xuân Hoài
- Trần Xuân Linh
- Trần Xuân Lĩnh
- Trần Xuân Thảo
- Trần Yên Hòa
- Trần Yên Nguyên
- Trên
- Trên Facebook
- Trên Facebook/Minds
- Trên kệ sách
- Trên trang diaCRITICS
- Trí Hiệu Dân
- Triều Anh
- Triều Hoa Đại
- Triêu Nhan
- Triều Sơn
- Triệu Tử Dương
- Trịnh Anh Tuấn
- Trịnh Bá Phương
- Trịnh Bách
- Trịnh Cao Hòa Thanh
- Trịnh Chu
- Trịnh Công Sơn
- Trịnh Cung
- Trịnh Duy Kỳ
- Trịnh Hữu Long
- Trịnh Kim Tiến
- Trịnh Lữ
- Trịnh Minh Tuấn
- Trịnh Sơn
- Trịnh Thanh Thủy
- Trịnh Thu Tuyết
- Trịnh Vĩnh Phúc
- Trịnh Xuân Thuận
- Trịnh Xuân Thủy
- Trịnh Y Thư
- Trọng Anh
- Trọng Phú
- Trọng Thành
- Tru Sa
- Trúc Giang
- Trúc Thông
- Trúc Ty
- Trump
- Trung Bảo
- Trung Dũng Kqd
- Trùng Dương
- Trung Trung Đỉnh
- Trư Sa
- Trường An
- Trương Anh Ngọc
- Trương Anh Thụy
- Trương Chính
- Trương Duy Nhất
- Trương Đăng Dung
- Trương Điện Thắng
- Trương Đình Phượng
- Trương Hồng Quang
- Trương Huy San
- Trường Minh
- Trương Ngọc Chương
- Trương Nguyên
- Trương Nguyện Thành
- Trương Nhân Tuấn
- Trương Phượng
- Trương Quang
- Trương Quang Đệ
- Trương Quang Nhuệ
- Trương Quang Vĩnh
- Trương Thị Ngọc Hân
- Trương Thiên Phàm
- Trương Thu Hiền
- Trương Tố Hoa
- Trương Trọng Nghĩa
- Trương Tửu
- Trương Văn Dân
- Trương Văn Vĩnh
- Trương Vũ
- Trương Xuân Thiên
- Tú Mỡ
- Tù Quốc Hoài
- Tù Sâm
- Tú Trung Hồ
- Tuấn Duy
- Tuấn Khanh
- Tuân Nguyễn
- Tuấn Thảo
- Tuệ Anh
- Tuệ Đăng
- Tuệ Nguyên
- Tuệ Nhân
- Tuệ Nhật
- Tuệ Sĩ
- Tuệ Sỹ
- Tùng Dương Cola
- Tung Nguyen
- Turner
- Túy Hồng
- Tuyết Nghi
- Tư
- Từ Dung
- Tư liệu
- Tử Linh
- Từ Mai Trần Huy Bích
- Từ Quốc Hoài
- Từ Sâm
- Từ Thức
- Tưởng
- Tương Lai
- Umberto Eco
- Uông Tăng Kỳ
- Uông Triều
- Uyển Ca
- Uyên Nguyễn
- Uyên Thao
- Uyên Vũ
- V. Erofiev
- Vàng A Giang
- Varlam Shalamov
- Vasco Gargalo
- Vasily Makarovich
- Văn
- Văn Biển
- Văn Cao
- Văn Chinh
- Văn Công Hùng
- Văn Giá
- Văn học
- Văn học Miền Nam 54-75
- Văn Như Cương
- Văn Quang
- Văn Tâm
- Văn Việt
- Văn.
- Vấn đề hôm nay
- Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016
- Vân Hạ
- Vân Phi
- Velcrow Ripper
- Veronica Melkozerova
- Vi Lãng
- Vi Trần
- Vi Yên
- Viet Thanh Nguyen
- Viên Linh
- Việt Bách
- Việt Bình
- Việt Dzũng
- Việt Khang
- Việt Lang
- Việt Phương
- Viktor Maslov
- Vinh Anh
- Vĩnh Hảo
- Vĩnh Quyền
- Virginia Heffernan
- Virginia Woolf
- Vladimir Nabokov
- Võ An Đôn
- Võ Anh Minh
- Võ Anh Thơ
- Võ Bá Cường
- Võ Đắc Danh
- Võ Định Hình
- Võ Đức Phúc
- Võ Hồng
- Võ Huy Tâm
- Võ Hương Quỳnh
- Võ Kỳ Điền
- Võ Ngàn Sông
- Võ Phiến
- Võ Thị Hảo
- Võ Thị Thu Hằng
- Võ Tiến Cường
- Võ Tòng Xuân
- Võ Trí Hảo
- Võ Văn Quản
- Võ Văn Tạo
- Võ Văn Thôn
- Võ Xuân Quế
- Võ Xuân Sơn
- Volker Weidermann
- Volodymyr Vynnychenko
- Volodymyr Zelenskyy
- Vũ Bằng
- Vũ Biện Điền
- Vũ Cao Đàm
- Vũ Cát Tường
- Vũ Đình Hòe
- Vũ Đình Huỳnh
- Vũ Đình Liên
- Vũ Đình Phòng
- Vũ Đức Khanh
- Vũ Đức Phúc
- Vũ Đức Sao Biển
- Vu Gia
- Vũ Hà Văn
- Vũ Hạnh
- Vũ Hoàng Chương
- Vũ Hoàng Thư
- Vũ Hồng Ánh
- Vũ Huy Ngọc
- Vũ Huy Quang
- Vũ Khắc Hoè
- Vũ Khắc Khoan
- Vũ Kim Hạnh
- Vũ Kim Thu
- Vũ Lâm
- Vũ Lập Nhật
- Vũ My Lan
- Vũ Ngọc Giao
- Vũ Ngọc Hoàng
- Vũ Ngọc Tâm
- Vũ Ngọc Tiến
- Vũ Nho
- Vũ Oanh
- Vũ Quang Việt
- Vũ Quí Hạo Nhiên
- Vũ Quốc Ngữ
- Vũ Quỳnh Hương
- Vũ Quỳnh Nh.
- Vũ Thành Sơn
- Vũ Thanh Tâm
- Vũ Thanh Tùng
- Vũ Thành Tự Anh
- Vũ Thế Khôi
- Vũ Thị Hải
- Vũ Thị Nhuận
- Vũ Thị Phương Anh
- Vũ Thị Phương Lan
- Vũ Thị Thanh
- Vũ Thị Thanh Mai
- Vũ Thư Hiên
- Vũ Tiến Lập
- Vũ Trọng Khải
- Vũ Tuấn Hoàng
- Vũ Từ Trang
- Vũ Tường
- Vũ Viết Tuân
- Vũ Xuân Tửu
- Vương Bích Ngọc
- Vương Đan
- Vương Huy
- Vương Ngọc Minh
- Vương Tiểu Nhị
- Vương Trí Nhàn
- Vương Trọng
- Vương Trùng Dương
- Vương Trung Hiếu
- Vy Thảo
- W. H. Auden
- Wa Praong
- Walt Whitman
- Walter Isaacson
- Wayne Karlin
- Wells
- Wendy Barker
- Wilhelm Schmid
- Will Nguyen
- William Carlos Williams
- William Nee
- William Stafford
- William Stanley Merwin
- Winston Phan Đào Nguyên
- Wislawa Szymborska
- Wolf Biermann
- Wolfgang Borchert
- Wynn Gadkar Wilcox
- Xie Tao
- Xuân Ba
- Xuân Diệu
- Xuân Dương
- Xuân Đài
- Xuân Minh
- Xuân Phượng
- Xuân Sách
- Xuân Thọ
- Xuân Vũ
- Xương Văn
- Y Chan
- Ý Nhi
- Y Uyên
- Yanis Varoufakis
- Yevgeny Yevtushenko
- Yên Ba
- Yên Khắc Chính
- Yến Năng
- Yên San
- Yên San Thụy Miên
- Yên Thao
- Yiyun Li
- Yoko Ogawa
- Yōko Ogawa
- Yoko Tawada
- Young Sang Lee
- Yuliya Ilchuk
- Yuno Bigboi
- Yves Sintomer
- Yvette Tan
- Zac Herman
Cái yếm, cái khố và cái quyền kể chuyện
Nguyễn Hoàng Văn
Nhiều người đã sôi máu khi, một lần nữa, cái tên Việt Nam bị lôi ra bêu nhục và lần này, sự thể, là do Lại, một “thị vệ nhân dân”, tại một khách sạn ở Chile, lúc tháp tùng Chủ tịch nước trong chuyến viếng thăm chính thức. [1]
Trò chuyện với dịch giả Nguyễn Phố
Trần Hữu Thục
Dịch giả Nguyễn Phố
Nguyễn Phố là bạn học lâu năm của tôi, từ khi còn là học sinh Quốc Học (Huế) vào những năm đầu thập niên 1960. Tuy không học cùng lớp, lại khác nhau nhiều mặt về hoạt động xã hội và quan điểm sống, nhưng chúng tôi rất thân nhau vì đều cùng yêu thích văn chương và triết lý. Sau này, vào những năm giữa thập niên 1980, cả hai chúng tôi lại có cùng một sở thích khác vừa phát sinh: học chữ Hán. Lý do thật đơn giản: Huế là nơi nhiều đền đài lăng tẩm, nhìn đâu cũng thấy toàn là chữ Hán, thế mà có mắt cũng như mù, chẳng hiểu chúng nói gì, đâm ra bực mình. Thế là chúng tôi khuyến khích nhau tìm cách học thứ ngôn ngữ vừa rất quen lại vừa rất lạ này. Chẳng sách hướng dẫn cũng không thầy dạy, chúng tôi bắt đầu bằng cách mày mò viết và học từng chữ một, bất kể chữ gì. Hễ gặp nhau là chúng tôi đem những chữ vừa học được, viết ra để “đố” nhau. Chẳng khác gì chương trình “Đố vui để học” trên đài truyền hình Sài Gòn ngày xưa. Không ngờ nhờ thế mà chúng tôi vượt qua được những khó khăn trong bước đầu học chữ Hán. Dần dà, chúng tôi có thể đọc được một số câu đối, rồi những văn bia ở trong Đại Nội hay ở lăng Tự Đức và lõm bõm đọc truyện Tam Quốc Chí và một vài tờ báo Hoa ngữ từ Hồng Kông hay từ Chợ Lớn kiếm được ở các chỗ bán sách báo cũ. Cá nhân tôi, có lúc tôi còn cả gan “dịch” (đúng ra là phỏng dịch) vài bài báo Hồng Kông gửi đăng ở tờ “Kiến Thức Ngày Nay” (sau 1975 ở Sài Gòn) kiếm tiền tiêu. Chúng tôi cũng theo học một lớp học “nói” tiếng Quan Thoại (Mandarin) do một người quen đã từng theo học tại một trường đại học ở Bắc Kinh nhiều năm, hướng dẫn. Không những thế, chúng tôi còn học viết chữ Hán bằng bút lông nữa.
Tiến tới kỷ niệm 100 năm Trường Mỹ thuật Đông Dương - Yết Kiêu (2)
Đông Ngàn Đỗ Đức
THI VÀO YẾT KIÊU
Thi vào Yết Kiêu rất khó. Hầu như chẳng ai thi một lần mà đậu. Lịch sử cho biết đã có người thi đến lần thứ 9 mới đỗ. Đó là họa sĩ Hoàng Tích Chù danh tiếng thời còn ông Tây Tac-đi-ơ làm Hiệu trưởng. Còn chuyện thi dăm ba năm mới vào được trường như bây giờ thì là thường lắm, nó như là sự tất yếu của cuộc sống, chẳng có gì đáng nói. Chỉ thi một lần đỗ ngay mới là bất bình thường.
Thơ Thái Hạo
THÁNG 12 NHẢM NHÍ
Chúa nhật
em không về thành phố
anh không về thành phố
nắng trắng trên tàn cây
mình đã hẹn với ngày mai cách biệt
những dòng sông trôi đi bên bờ mất ngủ
tình yêu
như sương mù trên đá
anh buồn vì những lời nói dối
anh buồn vì chiếc vòng số 8 trên cổ tay người đàn bà xấu số
trên cổ chúng mình
đất nước chưa bao giờ buồn thế
dưới những rừng khẩu hiệu
ngang dọc
như vét chém trong mắt những con bò lạc mẹ
kêu khản chiều quê
Đọc Nơi trú ẩn thời gian
Trần Thùy Mai
(Time Shelter, tiểu thuyết nhận giải International Booker 2023. Tác giả: nhà văn người Bulgaria Georgi Gospodinov)
Tiểu thuyết bắt đầu từ một buổi sáng ở Vienna, nước Áo và chấm dứt ở một thư viện tại New York. Câu chuyện lướt qua rất nhiều thành phố, nhiều quốc gia, tại rất nhiều thời điểm trong quá khứ.
Đọc sách “Hội họa Trung Quốc” của dịch giả Nguyễn Phố
Trần Hữu Thục
Bìa trước dịch phẩm “Hội họa Trung Quốc”
“Hội họa Trung Quốc”, nguyên bản chữ Hán của Từ Kiến Dung, do Nguyễn Phố dịch, xuất bản tại Huế, Việt Nam, năm 2013. Trong “Lời nói đầu”, dịch giả cho biết, nội dung tác phẩm “trình bày những nét cơ bản về hội họa Trung Quốc một cách hệ thống, mạch lạc theo dòng lịch sử của Trung Hoa, có đầy đủ những kiến giải, những dẫn chứng xác đáng” giúp người đọc “nắm bắt hoặc hiểu rõ những góc cạnh của hội họa Trung Quốc mà một người bình thường có lòng yêu thích môn nghệ thuật này quan tâm.”
Tác phẩm khá dày, 558 trang, chia làm sáu chương, mỗi chương bàn về một khía cạnh của hội họa Trung Quốc qua dòng lịch sử như: khái lược về lịch sử hội họa, khí vận, kỹ pháp, phân loại và hình thức, tàng trữ và thị trường, nghiên cứu và biên soạn. Mỗi chương có cái hay riêng của nó. Nhưng lý thú nhất, đối với tôi, là chương “Khí vận trong hội họa Trung Quốc”.
Xin tóm lược một số điểm chính qua hai tiết trong chương này: một, bàn về “Nhân phẩm và họa phẩm”; và hai, bàn về “Thơ văn và hội họa”.
Nhân phẩm và họa phẩm
Trong sự tu dưỡng của các họa gia Trung Quốc xưa, mối quan hệ giữa nhân phẩm và họa phẩm được đặt lên hàng đầu. Đây là quan hệ gián tiếp, vô hình, nhìn vào tranh không thể thấy được, nhưng phong cách của bức họa như thế nào, khí cục của nó ra sao thì thực sự có liên quan đến nhân phẩm của họa gia. Điều này thuộc về “đạo”.
Khác với Tây phương, hội họa Trung Quốc không chỉ là công việc của kỹ năng, mà còn là sự tu tâm dưỡng tánh của người nghệ sĩ. Kỹ thuật thì chỉ cần bỏ một thời gian để học tập là nắm bắt được, còn việc tu dưỡng thì chắc chắn không thể chỉ thông qua học tập mà thành công. Lão Tử đã từng so sánh chuyện “học” và chuyện “đạo” như sau:
Vị học nhật tăng, vi đạo nhất tổn, tổn chi hựu tổn, dĩ chí vu vô vi
(Theo học thì ngày một tăng, theo đạo thì ngày một giảm, giảm rồi lại giảm nữa cho đến vô vi)
Mà:
Vô vi nhi vô bất vi
(Không làm mà không có gì là không làm)
Việc tu dưỡng “đạo”, từ đó, có liên hệ đến nhân phẩm. Và nhân phẩm hình thành căn cứ vào quan điểm và lối sống lâu dài của một người nào đó liên quan đến luân lý đạo đức.
Vì thế, đối với truyền thống hội họa Trung Quốc, thì “vấn đề quan hệ giữa nhân phẩm và họa phẩm là vô cùng quan trọng, ý nghĩa chính của nó có thể khái quát thành ba điểm sau: thứ nhất, nhân phẩm thì do sinh ra đã có, nó không thể do học tập mà có; thứ hai, họa phẩm có liên quan đến nhân phẩm, nhân phẩm cao thì họa phẩm có giá trị cao, nhân phẩm thấp thì họa phẩm có giá trị kém; thứ ba, nhân phẩm của đại sĩ phu cao hơn nhân phẩm của họa công chuyên nghiệp.”
Nhân phẩm cao nhã phản ảnh trong hội họa, biểu hiện trong họa phẩm, nhưng cũng cần nhấn mạnh là họa sĩ phải có kỹ năng thành thục thì mới bàn đến chuyện nhân phẩm cao hay thấp. Theo Tô Đông Pha, “Tuy nói có đề tài thì có kỹ năng, nhưng có đề tài mà không có kỹ năng thì vật chỉ ở trong ý, chứ không thể hiện hình ra nơi đôi tay được.”
Lịch sử hội họa Trung Quốc thường gọi họa phẩm tối thượng thừa là “dật phẩm”. Nhân phẩm tương ứng với “dật phẩm” là “dật khí”. Chữ “dật” (逸) có ba hàm nghĩa:
- ẩn cư, thoát tục, xa rời xã hội bình thường, thoát ly nguyên tắc hội họa bình thường;
- tự do phóng túng, tự tỏa sáng;
- an nhàn thư sướng.
“Lệ chi đồ trục”, tranh Ngô Xương Thạc đời nhà Thanh
(Hình: TDN chụp từ trong sách)
“Khỏa nữ đồ sách”, tranh của Lâm Phong Miên đời nhà Thanh
(Hình chụp từ trong sách)
Chữ “dật phẩm” lấy từ sách “Họa phẩm” của Trương Hoài Quán đời Đường. Ông này xếp hội họa thành ba hạng: thần (xuất thần), diệu (đẹp), năng (khéo tay, tinh xảo). Mỗi hạng gắn liền với một bậc: “thần” là bậc thượng, “diệu” bậc trung và “năng” bậc hạ. Vượt qua ba hạng kia thì một họa họa phẩm mới được xem là dật phẩm.
Một trong một số rất ít người được suy tôn “họa gia dật phẩm” là Tôn Vị dựa trên con người và phong cách vẽ của ông. Con người ông có “tính tình khoáng đạt, không câu nệ lễ tiết, tâm hồn thanh thoát, tuy thích uống rượu, nhưng không quá say sưa, thầy chùa đạo sĩ thường hay lui tới, kẻ giàu người sang thường đến mời mọc, lấy lễ tiếp đãi, không hay ngạo mạn, dù được ngàn vàng cũng không giữ cho mình một món.” Còn phong cách vẽ tranh của ông thì “thể bút sinh động”, “chỉ cần năm bảy nét là thành”.
Thực ra, hội họa Trung Quốc được chia làm hai loại dựa trên hai quan điểm khác nhau, do đó, việc đánh giá họa phẩm cũng khác nhau:
- loại tranh của những người vừa viết vừa vẽ tranh gọi là “văn nhân”
- loại tranh của những người chỉ biết vẽ gọi là “họa công”
Phái “văn nhân” cho “dật phẩm” là cao, còn phái “họa công” thì xem “thần phẩm” (vẽ xuất thần, vẽ theo cảm hứng) là cao. Nhưng nói chung thì người ta vẫn đặt phái “văn nhân” trên phái “họa công”. Điều này cho thấy rằng “giới họa gia văn nhân áp đảo giới họa gia của họa viện và sẽ trở thành xu thế chủ lưu trong lịch sử hội họa.” Vì thế, khi bàn về nhân phẩm và họa phẩm, người ta chỉ chú trọng đến họa phẩm của phái “văn nhân”. Theo tác giả, “Nhân phẩm và họa phẩm sở dĩ được suy tôn và vì họ là văn nhân sĩ đại phu của xã hội phong kiến Trung Qưốc, dù làm quan ở triều hay làm dân ở quê, phần lớn đều không có cách gì thực hiện được hoài bão “đạt thì cứu giúp thiên hạ” của mình, bất đắc dĩ “cùng thì lo tu dưỡng cái thân”, nên cần quay về với tự nhiên sống trong cảnh siêu trần thoát tục, đồng thời tự hoàn thiện nhân cách của mình. Họa phẩm của văn nhân đời nhà Nguyên đuợc đánh giá cao nhất, nên đều được xem là “dật phẩm”, do ở chỗ, các văn nhân này “có tâm hồn bình dị, ẩn cư ở chốn sơn lâm, hoặc thân tại cung khuyết nhưng tâm tại sông hồ, mặt khác, những sáng tác của họ cũng sùng thượng sự bình đạm hồn nhiên,” khác với sự buông thả phóng túng.
Tuy nhiên, việc đề cao quá đáng quan niệm dật phẩm có cái không hay, thậm chí nguy hại, theo Đổng Kỳ Xương trong “Họa thiền thất bút ký”. Ông vốn là người suy tôn tranh của văn nhân và chỉ trích tranh của họa công, nhưng ông tuyệt đối không mù quáng, ca ngợi tất cả các dật phẩm. Ông không “cường điệu dật phẩm một cách phiến diện, dẫn đến chỗ qua loa trong phong cách vẽ.” Theo ông, trước hết “phải vẽ tranh của mình một cách cẩn thận, nghiêm túc, sau đó mới từ cái tinh tế vi diệu để đi vào cảnh giới phóng dật, đi từ cái xán lạn rực rỡ để vào cảnh giới bình đạm.” Ở đây, ông không bàn đến nhân phẩm mà căn cứ vào mối quan hệ thống nhất giữa nhân phẩm và họa phẩm, nghĩa là trước tiên “phải học cho biết cách làm người một cách nghiêm chỉnh, sau đó mới có thể vẽ tranh một cách nghiêm chỉnh.”
Thơ văn và hội họa
Tiết này bàn về liên hệ giữa bốn lãnh vực nghệ thuật trong lịch sử hội họa Trung Quốc, đó là: THI (thơ), THƯ (thư pháp), ẤN (ấn triện) và HỌA (vẽ).
Theo tác giả Từ Kiến Dung, trong lúc liên hệ giữa “nhân phẩm” và “họa phẩm” tương đối mơ hồ, thì mối liên hệ giữa hội họa với thơ văn, thư pháp và ấn triện là điều rất rõ ràng. Mối liên hệ đó phản ảnh một cách hữu hình, cụ thể trong hội họa. “Ý cảnh của một bức họa như thế nào, cấu tứ ra sao, bút pháp thế nào, bố cục ra sao, tất cả đều có mối quan hệ nhất định với thi, thư, ấn.” Nó đi đôi với sự phát triển của hội họa Trung Quốc qua lịch sử.
Tranh: Quách Huy đời Bắc Tống
(Hình chụp từ trong sách)
Nhưng đặc biệt nhất là liên hệ giữa thơ văn (THI) và hội họa (HỌA).
Mối liên hệ này đã diễn ra từ thời Thượng Cổ, vì văn học và hội họa đều là “công cụ tuyên truyền của lễ giáo.” Đối với triết lý trừu tượng thì dùng văn học để diễn tả. Nhưng đối với “sự phối hợp hình tượng thuyết giáo công cụ tuyên truyền luân lý,” phải dùng hội họa mới miêu tả được. Lục Cơ cho rằng, “Miêu tả sự vật không gì bằng ngôn ngữ, lưu giữ hình ảnh không gì bằng hội họa.”
Có sự khác nhau giữa Tây Phương và Trung Quốc khi đề cập đến mối liên hệ này.
Trong lịch sử mỹ học Tây phương, có sự tương thông và bất tương thông giữa hai lãnh vực. Theo G.E. Lessing (1729-1781), hội họa xem cái đẹp là “tối cao” và chối bỏ hình tượng của cái “xấu”; còn văn học thì có miêu tả cái xấu, nhưng “miêu tả cái xấu cũng không đem đến cảm giác xấu cho người đọc.” Mặt khác, hội họa Tây phương lấy “không gian” làm đặc điểm, tuy nhiên, “phần lớn các tác phẩm là những bức vẽ một tấm, nên chỉ biểu hiện không gian trong một thoáng chốc nào đó mà thôi”; còn văn học Tây phương lấy sự “liên tục của thời gian” làm đặc điểm, cho nên, tính tự sự rất mạnh. Nói chung, vấn đề “không gian” và “thời gian” được coi như là “giới hạn có tính kinh điển giữa họa và thơ.”
Trong lúc đó, văn học Trung Quốc không “chú trọng đến tính liên tục của thời gian tự sự; còn hội họa thì ngoài loại tranh treo một bức ra, còn có tranh theo dạng trường quyển, nên có thể triển khai tính liên tục về thời gian, do đó, làm tan biến giới hạn giữa văn thơ và hội họa.” Hai nhà thơ lớn kiêm họa sĩ đã đem lại “những cống hiến to lớn trong việc xác lập mối quan hệ giữa thơ và họa,” đó là Vương Duy đời nhà Đường và Tô Thức đời nhà Tống. Mỗi người đóng một vai trò: Vương Duy là người mở đầu; Tô Thức là người khai phá.
Vương Duy (699-759) tự là Ma Cật, người huyện Kỳ, thuộc phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây. Cha mất sớm, mẹ là một tín đồ thờ Phật suốt ba mươi năm nên Vương Duy chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật. Ông tài hoa từ nhỏ, đàn hay, vẽ giỏi, chữ đẹp, văn chương xuất chúng. Ông tự nhận: “Ta hiện đương là kẻ làm thi từ lếu láo, nhưng vốn tiền thân ta là một họa gia.” Ông là người có “tư tưởng sâu xa, mắt chưa từng thấy tranh vẽ mà luôn luôn trong thơ từ đầy ắp những họa ý, bởi vì ông chỉ biết có tranh hiện ra trong ý, có lẽ xuất phát từ bẩm tính không cần bắt buộc phải cầm bút vẽ ra, tức vốn sinh ra là đã biết rồi vậy.” Do đó, những bài thơ của ông được gọi là “thi trung hữu họa” (trong thơ có họa). Chẳng hạn những câu thơ sau:
- Lạc hoa tịch mịch đề sơn điểu
Dương liễu thanh thanh độ thủy nhân
(Hoa rơi lặng lẽ chim rừng hót
Dương liễu xanh xanh người qua sông)
- Hành đáo thủy cùng xứ
Tọa khan vân khởi thời
(Đi đến nơi cuối bãi
Ngồi ngắm lúc mây lên)
- Bạch vân hồi vọng hợp
Thanh ái nhập khán vô
(Mây trắng nhìn tan hợp
Mù dày chẳng thấy chi)
Tranh: Tôn Vị đời Đường
(Hình chụp từ trong sách)
Những câu thơ như thế cho người ta thấy “một thứ họa ý bình lặng, đạm bạc như hiện ra trước mắt.” Tranh vẽ của ông thất truyền, nhưng theo sử sách ghi chép thì người ta đã tôn xưng tranh sơn thủy bình viễn của ông là “văn phong thạch sắc, tuyệt tích thiên cơ” (dáng mây sắc đá, tuyệt bút thiên bẩm) hay “bút mặc uyển lệ, khí vận thanh cao” (bút mực uyển chuyển, khí vận thanh cao). Tuy nhiên, Vương Duy chỉ dừng ở chỗ thực tiễn mà chưa truyền đạt “cái tâm đắc của ông cho mọi người cùng cảm nhận.” Phải đợi đến gần 300 năm sau, thì quan điểm “thi trung hữu họa” mới được triển khai mạnh mẽ qua một nhà thơ khác, đó là Tô Thức.
Tô Thức (1037-1101) tự Tử Chiêm, hiệu Đông Pha cư sĩ, nên thường gọi là Tô Đông Pha, người My Sơn, nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Ông cùng với cha là Tô Tuân và em là Tô Triệt, cả ba đều là các đại gia thi văn được người đương thời gọi là “Tam Tô” (ba người họ Tô). Thái độ của ông rất hào sảng lạc quan, tuy ông làm quan thăng giáng nhiều lần, song ông không để ý, vẫn ưu du tự tại, đọc sách làm vui. Ông là người giàu tình cảm, phản ánh trong văn thơ của ông, vừa hào phóng lại vừa tình tứ. Tô Thức rất tôn sùng Vương Duy. Ông nói: “Đọc thơ Ma Cật (tức là Vương Duy) thì rõ trong thơ có họa, xem tranh Ma Cật thì rõ trong họa có thơ.” Lấy Vương Duy làm điển hình, Tô Thức viết ra rất nhiều thơ văn, ra sức xiên dương mối quan hệ giữa thi và họa, tóm lược trong bốn chữ “Thi họa nhất luật” (Thơ Họa là một).
Trong bài thơ nổi tiếng có nhan đề “Thư Yên Lăng Vương Chủ bạ sở họa triết chi nhị thủ”, ông cho rằng “ý nghĩa chính của hội họa không phải ở cái vẻ bề ngoài (hình thể) giống thực hay không mà là ở chỗ “tài năng trời phú và nét thanh tân” của hình thể bề ngoài ấy; do vậy, thơ họa tuy chất truyền dẫn khác nhau nhưng bản chất thì giống nhau.” Theo ông, “trong tranh Vương Duy đã có ý cảnh của thơ văn, chứ không giống như chất tỉ mỉ công phu của một họa công bình thường.”
Đó là trong thơ có họa. Còn trong họa có thơ thì như thế nào?
“Phần lớn chúng là những đối tượng, những cảnh thực được vẽ ra một cách tỉ mỉ, tinh tế toát lên một không khí trữ tình, dù cho bản thân họa gia không đề câu thơ nào trên bức họa, nhưng ý họa tình thơ như nước sữa hòa tan, thực cảnh khó nói liệt bày trước mắt, hàm ý bất tận tràn ra trên tranh. Tuy là họa công tả thực, nhưng không có một chút dung tục của hơi hướng người thợ khắc bản mà lại tràn trề không khí thư họa, ưu nhã thanh tân, thưa nhạt khéo đều, phẩm cách cực cao.” [...] “Như vậy, có thể thấy có sự tu dưỡng thơ văn hoặc không có sự tu dưỡng thơ văn đều phản ảnh trong sáng tác hội họa, phân biệt rõ cao thấp, nhã tục của một họa phẩm, nó hiện ra rõ ràng rất dễ nhận biết.”
Như thế là có hai phái:
- Văn nhân hay “họa gia văn nhân”: người làm thơ mà có họa trong thơ, hay vừa làm thơ vừa vẽ tranh.
- Họa công hay họa gia: người chỉ biết vẽ, mà trong bức vẽ có hàm chứa ý thơ.
Tuy có liên hệ, nhưng cách thể hiện trong tác phẩm giữa hai phái có khác nhau. Sáng tác của họa công chú ý đến khách thể, còn sáng tác của văn nhân chú trọng đến chủ thể. Họa gia mang tính thơ thường vẽ những cảnh thực tỉ mỉ, tinh tế, toát lên tình, dù không đề một câu thơ nào. Họ tu dưỡng về thơ văn nên phản ảnh trong họa. Một bức họa có tính thơ thường cao nhã hơn những bức họa chỉ là để họa. Người họa sĩ văn nhân, khác hẳn. Với họ, hội họa chỉ là nghiệp dư. Họ vẽ không thể đẹp bằng họa gia và chỉ giới hạn trong một số đề tài như sơn thủy, mai lan cúc trúc và gửi gắm tâm tình vào trong đó.
Nhưng nói chung, quan điểm “thơ họa là một” gặp nhau ở chữ “tâm”: “thơ là tiếng nói của tâm, họa là bức tranh của tâm”. Có thể nói sự khởi xướng mối quan hệ này là từ văn nhân, đúng hơn, là của họa gia văn nhân, nhà thơ biết vẽ. “Họ vốn giỏi về thơ văn không hình sắc mà lại vụng về hội họa tạo tranh ảnh, cho nên họ ra sức đề xướng việc lấy thi cảnh làm họa cảnh, lấy vô hình để tạo ra hình, chứ họ không có y khoe cái giỏi, tránh cái vụng của mình.” Hơn nữa, văn nhân được xem là “tấm gương của người có địa vị văn hóa trong xã hội, nên ảnh hưởng của họ lan đến trong các họa phẩm của họa công.”
*
Dịch giả Nguyễn Phố sinh năm 1942 tại xã Vinh Mỹ, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế, tốt nghiệp Đại học Văn Khoa Huế (Cử nhân Triết) và Đại học Sư phạm Huế (ban Việt Hán), nguyên là giáo sư Việt Văn trường trung học Thành Nội Huế, hiện đã về hưu, cư ngụ ở Huế. Ông tự học chữ Hán, chuyên dịch các tác phẩm Hán Văn về nhiều thể loại khác nhau, kể cả tự điển. Trong vòng gần 30 năm qua, ông đã dịch và biên soạn hơn 20 tác phẩm, trong đó có: Con đường tơ lụa (của Xa Mộ Kỳ), Ngữ pháp Hán ngữ thực dụng (của Phòng Ngọc Thanh), Từ lâm Hán Việt từ điển (đồng tác giả với Vĩnh Cao), Mạn đàm về Hồng Lâu Mộng (của Trương Khánh Thiện và Lưu Vĩnh Lương), Từ điển Hán Việt (đồng tác giả với Vĩnh Cao; do Lê Quý Ngưu hiệu đính), ... Công trình biên soạn lớn nhất của ông là cuốn Đại tự điển Hán Việt dày hàng ngàn trang, bản thảo hiện đã hoàn tất, sẽ xuất bản trong thời gian gần đây.
(12/2022 – 11/2024)Tiến tới kỷ niệm 100 năm Trường Mỹ thuật Đông Dương - Yết Kiêu (1)
Đông Ngàn Đỗ Đức
THÁP NGÀ
Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương trước đây luôn đuọc coi là tháp ngà nghệ thuật. Chỉ những con nhà gia thế nơi thành thị mới dám mơ ước. Nông thôn thì tèo!
Từ mở rộng biên cương trên bản đồ đến xây dựng đảo nhân tạo: Lịch sử 100 năm tranh chấp biển Đông (16)
Thơ Mão Xuyên
Bi ca
tặng Mach, Dũng và Nhân
Làm cách nào anh có thể nhận ra em trong tất cả
Chúng ta là ai và chúng ta chấp nhận những câu hỏi
Và câu trả lời chỉ là một kí ức, một viễn cảnh
Một trân trọng chúng ta nhận ra nhau
Dòng nhạc kỷ niệm với nhạc cũ miền Nam (kỳ 312): Tuyển Tập Nhạc – Nhạc Tiền Chiến –Bản Đàn Xuân – Lê Thương
Ngưỡng thấp của văn học Việt Nam
Phạm Xuân Nguyên
Sau 50 năm từ khi chiến tranh kết thúc (1975), thống nhất đất nước, và gần 40 năm đổi mới, quy mô nền kinh tế Việt Nam đang bước vào nhóm các nước có ngưỡng trung bình cao trên thế giới.
Còn văn học Việt Nam đang ở ngưỡng nào của thế giới?
Câu trả lời của tôi là: Ở ngưỡng thấp, dưới trung bình.
Ai mang bụi đỏ đi rồi!
Phạm Hiền Mây
I/ PHẠM THIÊN THƯ
Sinh năm một ngàn chín trăm bốn mươi, tính đến năm nay, Phạm Thiên Thư đã tám mươi tư, tám mươi lăm tuổi.
Tên thật là Phạm Kim Long, ông từng là sinh viên khoa Phật học tại Viện Đại học Vạn Hạnh. Năm một ngàn chín trăm sáu mươi tư, ông đi tu, trở thành Đại Đức có pháp danh Thích Tịnh Không, tu tại các chùa Kỳ Quang, Từ Vân, Vạn Thọ, từ năm một ngàn chín trăm sáu mươi tư đến một ngàn chín trăm bảy mươi ba. Những năm gần đây, nghe nhiều bạn bè văn nghệ nói, ông bị nghễnh ngãng vì hội chứng quên, alzheimer, sau những lần tai biến. Gặp bạn bè xưa, ông chỉ cười, cùng ánh mắt trống không, nhìn vào chân trời vô định.
Từ Phát triển đến Dân chủ - Sự Biến đổi của châu Á Hiện đại (kỳ 5)
Tác giả: Dan Slater và Joseph Wong
Việt dịch: Nguyễn Quang A
Nhà Xuất bản Princeton University Press, 2022
Một tập thơ lận đận
Lê Hoàng Lân
Đây là tập thơ chép tay của mấy chàng lính văn nghệ Liên khu lll thời chín năm.
Tập thơ được nhà thơ Tạ Phương Hiển, Yên Thao, Tất Vinh viết tại nhà ông Lê Văn Trương lúc đó (Đầm Đa - Hoà Bình, Vô Hốt - Nho Quan).
Thơ Mỹ – một thời đáng nhớ (kỳ 43 – hết)
Khế Iêm dịch
Từ mở rộng biên cương trên bản đồ đến xây dựng đảo nhân tạo: Lịch sử 100 năm tranh chấp biển Đông (15)
Tác giả: Lê Oa Đằng
Việt dịch: Phạm Văn Song
從地圖開疆到人工造島:百年南海紛爭史
黎蝸藤
CÔNG TY SÁCH NGŨ NAM
ĐÀI BẮC-2017
Chàng chó của Tawada Yoko – Biểu tượng về “khoảng cách”
Nguyễn Thị Ái Tiên
Nhà nghiên cứu các tác giả văn học nữ cận hiện đại Yonaha Keiko đã viết: “Tawada Yoko là một nhà văn không ngừng sáng tạo những tiểu thuyết mà trong đó “ngôn từ” như thể hình thành nên một nhân cách riêng biệt”. Tawada từng chia sẻ rằng bà rất thích câu nói của Walter Benjamin: “Nếu đèn, núi non và loài cáo không thể truyền đạt bản thân mình cho con người, thì làm sao con người có thể đặt tên cho chúng được?”. Trong các tác phẩm của Tawada, có thể nói, bà hướng đến việc biểu đạt làm sao để bản chất của “sự vật” như tự mình lên tiếng, khiến ngôn từ hiện hữu. Điều này dẫn dắt đến một hành vi biểu đạt gần như thuộc về thế giới linh hồn vạn vật, nơi mọi thứ tự kể câu chuyện của mình.
Nghệ thuật hay trò bịp: Nhân chuyện một quả chuối được bán với giá 6,2 triệu Mỹ kim
Trịnh Y Thư
Một tác phẩm Nghệ thuật Khái niệm gồm một quả chuối đơn giản, được dán bằng băng keo lên tường, đã được bán với giá 6,2 triệu đô-la tại một cuộc đấu giá ở New York vào thứ Tư, 20 tháng 11 năm 2024.
Thơ Đặng Tiến (Thái Nguyên)
ĐÊM ĐẦU ĐÔNG...
[Nỗi niềm lão bạn già. Tặng Trung Nguyễn]
Đêm đầu đông trong vắt
Ta thăm thẳm cùng trời thăm thẳm
Bạn đang ở nơi nao mênh mông vũ trụ
Nơi ấy là đêm?
Nơi ấy là ngày?
Từ mở rộng biên cương trên bản đồ đến xây dựng đảo nhân tạo: Lịch sử 100 năm tranh chấp biển Đông (14)
Tác giả: Lê Oa Đằng
Việt dịch: Phạm Văn Song
從地圖開疆到人工造島:百年南海紛爭史
黎蝸藤
CÔNG TY SÁCH NGŨ NAM
ĐÀI BẮC-2017
“Quần-đảo-tráo-tên”, không thể đọc một lần…
Nguyễn Nguyên
Đó là thực tế khi tôi tiếp cận trường ca thời sự Quần-đảo-tráo-tên, từ thời điểm đọc từng phần cho đến lần đọc liền mạch trọn vẹn. Cần nói rằng, không chỉ một lần mà còn phải đọc chậm, nhất là có thể phải đọc nhiều lần.
Từ Phát triển đến Dân chủ - Sự Biến đổi của châu Á Hiện đại (kỳ 4)
Tác giả: Dan Slater và Joseph Wong
Việt dịch: Nguyễn Quang A
Nhà Xuất bản Princeton University Press, 2022
Các Đặc điểm Chủ chốt của các Cụm
Tuy vậy, bốn kiểu tín hiệu này không hề vét cạn nhiều cơ chế qua đó sự tạo thành cụm kiến tạo-phát triển có thể xác định các hình mẫu về sự tạo thành cụm dân chủ. Thế giới thực luôn luôn phức tạp hơn các bộ công cụ lý thuyết rất nhiều, mà chúng tôi xây dựng để hiểu ý nghĩa của nó. Mỗi cụm có một lịch sử chính trị chung, với các đặc điểm nào đó định hình các triển vọng cho dân chủ hóa trơn tru, một chuyển đổi gập nghềnh, hay sự vắng mặt dai dẳng hoàn toàn của thử nghiệm dân chủ. Mặc dù chúng tôi đề cập đến các đặc điểm đặc thù-trường hợp và đặc thù-cụm này chi tiết hơn nhiều trong các chương tiếp theo, chúng tôi phải có nghĩa vụ giới thiệu vài thí dụ đặc biệt nổi bật cho mỗi cụm.
Để bắt đầu, cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển có được vài lợi thế dân chủ vượt xa hơn sự giàu có của nó và sức mạnh đáng chú ý của các định chế chính trị của nó. Tất cả ba nước đã tiến hành cải cách đất đai cực kỳ toàn diện ngay sau Chiến Tranh Thế giới II.10 Điều này đã giúp tạo ra các xã hội quân bình hơn, mà tiêm chủng chúng (miễn dịch) một chút khỏi loại các xung đột tái phân phối khó xử lý mà có thể làm trật đường ray hay cản trở sự nổi lên của các nền dân chủ. Điều này đặc biệt đúng ở Đài Loan, nơi sự chia rẽ sắc tộc giữa những người đại lục và những người Đài Loan bản địa đã khiến cho xung đột tái phân phối hoàn toàn dễ bùng nổ và gây mất ổn định hơn nếu giả như bất bình đẳng kinh tế đã nghiêm trọng. Cũng nên lưu ý rằng trong tất cả ba trường hợp, cải cách đất đai sau chiến tranh được tiến hành bởi liên minh cầm quyền mà rốt cuộc bắt đầu dân chủ hóa. Điều này minh họa các cải cách kinh tế sớm đã tạo ra sức mạnh và sự ủng hộ toàn quốc (kể cả từ nông thôn) ra sao cho các chế độ định hướng kiến tạo-phát triển ở Nhật Bản, Hàn Quốc, và Đài Loan sau chiến tranh, cuối cùng dựng sân khấu cho sự thừa nhận dân chủ từ các vị trí sức mạnh bảo thủ.
Cụm nhà nước chủ nghĩa của châu Á kiến tạo-phát triển cũng được lợi từ sự ngoại hiện (thể hiện ra bên ngoài) mối đe dọa cộng sản trong Chiến tranh Lạnh. Trong tất cả ba trường hợp, chủ nghĩa cộng sản đã là một mối nguy hiểm lớn hơn nhiều từ bên ngoài so với từ bên trong. Điều này là đặc biệt đúng về Đài Loan và Hàn Quốc, nơi các cuộc nội chiến đã để lại một biên giới chính trị theo nghĩa đen giữa các chế độ chống cộng này và các đối thủ cộng sản của chúng ở Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Độ nhẹ tương đối của mối đe dọa cộng sản trong nước ở tất cả ba trường hợp đã có nghĩa là các lực lượng chính trị bảo thủ đương nhiệm có được sự tự tin ổn định hơn sau khi mở hệ thống cho nền dân chủ đầy đủ so với trong hầu hết láng giềng của chúng.
Vài đặc điểm chung trong cụm Britannia cũng đáng sự nhắc đến đặc biệt lúc đầu. Việc chia sẻ một di sản thuộc địa Anh đã có nghĩa rằng Singapore, Malaysia, và Hồng Kông đã chia sẻ cả một hệ thống bầu cử kiểu-Westminster và một hệ thống pháp lý được phát triển cao. Không ở đâu trên thế giới những người bảo thủ độc đoán có nhiều kinh nghiệm với các cuộc bầu cử cạnh tranh dựa vào-luật lệ như ở Britannia kiến tạo-phát triển. Và không ở đâu những người đương nhiệm đã được lợi nhiều hơn từ các quy tắc bầu cử ai được nhiều phiếu nhất thì thắng (FPTP) mà đã cho các đảng cầm quyền như UMNO của Malaysia và PAP của Singapore tỷ lệ ghế siêu đa số trong các cơ quan lập pháp tương ứng của chúng, ngay cả khi tỷ lệ phiếu phổ thông của chúng suy sụp.
Các công dân của Singapore, Malaysia, và Hồng Kông nói chung đã có thể tính đến các cuộc bầu cử cạnh tranh cũng như một hệ thống pháp lý hữu hiệu và chuyên nghiệp một cách hợp lý như sự bù cho những kiểm soát độc đoán đôi khi nghẹt thở của hệ thống của họ. Do một luật trị (rule of law) (hay chí ít “sự cai trị bằng luật-rule by law”)11 mạnh hơn trong các trường hợp Britannia, tham nhũng, mặc dù còn xa mới vắng mặt, được giảm đi hơn trong ba cụm khác nhiều.
Cũng hãy xét sự định vị địa-chính trị đặc biệt của cụm Britannia kiến tạo-phát triển. Một sản phẩm-phụ bị đánh giá thấp có gốc rễ thuộc địa Anh là các trường hợp trong cụm Britannia kiến tạo-phát triển ít phụ thuộc vào Hoa Kỳ hơn các trường hợp nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc rất nhiều. Hơn nữa, không đúng rằng sự phụ thuộc vào nước Mỹ được thay thế bằng sự phụ thuộc vào Anh quốc. Do thế đứng toàn cầu yếu hơn nhiều của Anh quốc, các chế độ cụm lại trong Britannia kiến tạo-phát triển đã có được một tập hợp cân bằng của các sự phụ thuộc toàn cầu ngăn cản bất kể cường quốc bên ngoài duy nhất nào khỏi việc thống trị chúng.
Các sự phụ thuộc được cân bằng và phân tán cũng có nghĩa rằng những cú sốc địa-chính trị ít có khả năng hơn để phá vỡ status quo (nguyên trạng) độc đoán. Nhật Bản, Liên Âu, và Australia đều đóng các vai trò hỗ trợ lớn trong Britannia kiến tạo-phát triển, ngoài chủ nghĩa can thiệp nói chung nặng tay của các siêu cường toàn cầu, Hoa Kỳ và Trung Quốc, ra. Thật vậy, mối quan hệ ngày càng bão tố giữa nhân dân Hồng Kông và chính phủ Trung quốc là ngoại lệ chứng minh quy tắc này. Ngay cả sau khi Trung Quốc giành được sự kiểm soát chủ quyền theo nghĩa đen đối với Hồng Kông, những gốc rễ Anh và những sự phụ thuộc toàn cầu cân bằng đã làm khó cho ĐCSTQ của Bắc Kinh để khuất phụ nó hoàn toàn, ngoài việc tăng cường đàn áp.
Các đặc điểm chung nổi bật cũng đặc trưng cho hai cụm yếu hơn của châu Á kiến tạo-phát triển. Cụm quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của Indonesia, Thái Lan, và Myanmar đều đã thấy quân đội đóng một vai trò quá cỡ trong công việc chính trị quốc gia, đảm bảo sự tự tin ổn định dứt khoát hơn trong việc thúc đẩy dân chủ hóa hơn sự tự tin chiến thắng của các chế độ. Sự yếu tương đối của các đảng độc đoán trong cụm quân phiệt chủ nghĩa đã đi cùng với các nhà nước tương đối yếu dễ thiên về chủ nghĩa gia sản. Sự phát triển kinh tế đã dựa nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài và quá phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên. Tham nhũng là nghiêm trọng trong cụm quân phiệt chủ nghĩa. Tuy nhiên, nó có những người bảo thủ đương nhiệm trong cụm quân phiệt chủ nghĩa và không trong cụm Britannia mà đôi khi đã thử nghiệm với rủi ro về sự dỡ bỏ các sự kiểm soát độc đoán và đã thử duy trì địa vị cầm quyền của họ giữa sự không chắc chắn vội vã của sự cạnh tranh dân chủ tự do.
Một phần của lý do nằm trong các hình mẫu lịch sử về bạo lực đã trải nghiệm trong cụm quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển. Hãy nhớ lại rằng mối đe dọa bạo lực chủ yếu đối với các trường hợp nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển (Nhật Bản, Đài Loan, và Hàn Quốc) bắt nguồn từ bên ngoài—từ các đối thủ cộng sản láng giềng. Trong cụm quân phiệt chủ nghĩa, ngược lại, mối đe dọa bạo lực lại đến từ bên trong, dưới dạng các cuộc nổi loạn vùng. Trong phần lớn lịch sử của chúng như các nước độc lập, Indonesia, Thái Lan, và Myanmar đã đối mặt với một mối nguy hiểm lớn hơn của sự chia cắt bởi những kẻ ly khai có vũ trang bên trong hơn là sự xâm chiếm của hoặc những đối thủ bên ngoài hay những kẻ nổi loạn hướng-tâm.
Các mối đe dọa này đã biện minh cho vai trò lãnh đạo liên tục của quân đội trong chính trị ở Indonesia, Thái Lan, và Myanmar.12 Tuy nhiên chúng cũng đã tương thích hơn với các cải cách dân chủ, theo nghĩa rằng việc đưa các cuộc bầu cử tự do và công bằng vào đã chẳng bao giờ có nghĩa là để cho các lực lượng có tổ chức, mà các quân đội sợ nhất, giành được quyền lực quốc gia. Hết lần này đến lần khác trong cụm quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, dân chủ hóa đã đi cùng với sự tự tin ổn định tăng lên, đặc biệt khi một sự rút lui quân sự khỏi chức vụ quốc gia đã không đe dọa xé nhà nước-quốc gia lãnh thổ rời ra.
Cuối cùng, cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển có các đặc điểm chung cũng nên được nhấn mạnh ngay từ đầu. Hiển nhiên nhất là ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Chắc chắn, Trung Quốc, Việt Nam, và Cambodia đã đều quăng tính chính thống cộng sản sang một bên để theo đuổi chủ nghĩa tư bản do nhà nước-tài trợ như một con đường mới tới sức mạnh quốc gia. Tuy nhiên ý thức hệ xã hội chủ nghĩa tiếp tục tác động đến sự đối kháng của các nước này với nền dân chủ bầu cử, cho dù đã từ từ theo chủ nghĩa tư bản nhà nước chủ nghĩa. Một cách cụ thể, chủ nghĩa xã hội hứa một con đường thay thế tới một loại nền dân chủ khác với nền dân chủ bầu cử và tự do, nhấn mạnh sự cung cấp các hàng hóa xã hội phổ quát dưới sự giám hộ không bao giờ-chấm dứt của một đảng cầm quyền duy nhất, được hợp pháp hóa bởi vai trò lãnh đạo của nó trong đặc tính cách mạng của quốc gia.
Mặc dù nó chắc chắn là ích kỷ, nó không chỉ là ích kỷ cho các nhà lãnh đạo của các đảng cầm quyền xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc, Việt Nam, và Cambodia để cho rằng các nước của họ đang xây dựng rồi một loại nền dân chủ tốt hơn cái tồn tại ở phương Tây thù nghịch.13 Từ một quan điểm ý thức hệ, người ta có thể cho rằng nền dân chủ tự do đa đảng là không tương thích với DNA của các nước này, khiến cho một điều tra về các triển vọng dân chủ của chúng là viển vông. Thế mà, chủ nghĩa tư bản về mặt ý thức hệ còn thậm chí không tương thích với chủ nghĩa xã hội hơn nền dân chủ, như thế không nên đánh giá thấp các năng lực thích nghi của các chế độ xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển này.
Có lẽ thậm chí còn quan trọng hơn, các nước trong cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển chia sẻ một lịch sử bạo lực cách mạng mà đã định hình các triển vọng cho dân chủ hóa cho đến tận ngày nay. Các mức tàn phá khổng lồ của bạo lực chính trị đã đi trước tất cả ba chế độ, kể cả Chiến Tranh Thế giới II và nội chiến tiếp sau ở Trung Quốc; các cuộc chiến tranh giải phóng ở Việt Nam chống lại những người Pháp và những người Mỹ, cộng thêm một cuộc chiến tranh vì sự thống nhất Bắc Nam; và ở Cambodia, sự cai trị cách mạng diệt chủng của Khmer Đỏ, tiếp theo bởi việc Việt Nam xâm lấn và áp đặt đảng cầm quyền xã hội chủ nghĩa mà vẫn cai trị hơn bốn thập niên sau.
Do đó người ta không thể phủ nhận tính chính danh hobbesian* mà tất cả ba chế độ xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển Á châu đã thu được đơn giản từ việc cung cấp một chút ổn định chính trị, ngay cả trước khi xem xét tầm quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, các lịch sử bạo lực này có nghĩa rằng các chế độ này đối mặt với các lực lượng đối lập được tổ chức yếu và ít tín hiệu lôi thôi mà có thể thúc đẩy các cải cách dân chủ—với sự ngoại lệ to lớn của các cuộc biểu tình 1989 trên Quảng Trường Thiên An Môn. Nói chung chúng thiếu các tín hiệu cả rõ ràng nhất (tín hiệu bầu cử) và các tín hiệu mạnh mẽ nhất (tín hiệu lôi thôi) về sự suy sụp chớm nở của các chế độ. Tuy nhiên điều này cũng có nghĩa chúng phải có sự tự tin chiến thắng đáng kể nếu giả như nhiều đảng có bao giờ được phép hình thành từ đầu và cạnh tranh vì chức vụ đối lại các Đảng Xã hội chủ nghĩa cầm quyền được xác lập và lâu bền này.
Từ các Thiên hướng đến Chính trị
Chương này đã đưa ra lý lẽ rằng châu Á kiến tạo-phát triển là một khu vực thế giới có thể nhận diện được, một khu vực có thể được chia một cách hữu ích thành các cụm kiến tạo-phát triển khác biệt. Sự tập hợp thành cụm này giúp hết sức trong việc giải thích vì sao một số nước ở châu Á kiến tạo-phát triển đã có một thiên hướng lớn để dân chủ hóa qua sức mạnh hơn các nước khác. Nhưng các thiên hướng không phải là chính trị; chúng đơn giản dựng sân khấu mà trên đó dramatis personae (các nhân vật) của chính trị đóng vai. Trong các chương tiếp theo, chúng tôi cho thấy làm thế nào các chế độ độc đoán với các sức mạnh ấn tượng nào đó nhận được các tín hiệu rằng status quo độc đoán không thể kéo dài mãi mãi. Việc này thúc họ suy ngẫm và tiến hành các thử nghiệm chính trị vụ lợi mới mà trong một số trường hợp đi xa đến mức dân chủ hóa đầy đủ.
Phần lớn sự chú ý của chúng tôi trong cuốn sách này được dành cho cụm mẫu mực cho dân chủ qua sức mạnh: cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của Nhật Bản (chương 3), Đài Loan (chương 4), và Hàn Quốc (chương 5). Chính các trường hợp này, nhất là Đài Loan, trình bày logic và để lộ ra động học của dân chủ qua sức mạnh như chúng tôi đã lập thuyết trong hai chương mở đầu. Các trường hợp này sau đó được đặt cạnh Trung Quốc và ĐCSTQ cho đến 1989 (chương 6), nơi chúng tôi cho rằng một sự thiếu sức mạnh kiến tạo-phát triển đã có nghĩa ĐCSTQ đối mặt với một sự lựa chọn giữa sự đàn áp thẳng tay và sự sụp đổ đối mặt với những người biểu tình trên Quảng Trường Thiên An Môn và khắp đất nước. Chế độ, tất nhiên, đã chọn đàn áp thẳng tay.
Rồi chúng tôi đưa ra hai chương so sánh mở rộng logic nhân quả từ các trường hợp tốt nhất của lý thuyết của chúng tôi sang các trường hợp ranh giới của nó. Đầu tiên, chúng tôi xem xét một cụm kiến tạo-phát triển mà đã thấy những kinh nghiệm dân chủ phòng ngừa từ các vị trí sức mạnh kém hơn cụm nhà nước chủ nghĩa rất nhiều—cụ thể là, cụm quân phiệt chủ nghĩa kiến tạo-phát triển của Indonesia, Thái Lan, và Myanmar (chương 7). Rồi chúng tôi phân tích một cụm mà đã không thấy sự thử nghiệm như vậy bất chấp sức mạnh ấn tượng tương tự với sức mạnh của cụm nhà nước chủ nghĩa: cụm Britannia kiến tạo-phát triển của Singapore, Malaysia, và Hồng Kông (chương 8). Vì số phận của nền dân chủ trong cụm xã hội chủ nghĩa kiến tạo-phát triển phụ thuộc quá áp đảo vào Trung Quốc, và xem xét các hệ lụy to lớn của dân chủ hóa Trung quốc cho cả dân cư lớn nhất trên trái đất và toàn bộ thế giới, chúng tôi dành chương 9 chủ yếu cho trường hợp Trung quốc, trước khi chuyển sự chú ý của chúng tôi theo kiểu lướt qua hơn đến Việt Nam và Cambodia.
Chính tại giai đoạn này trong cuốn sách mà, về cơ bản, khoa học chính trị bắt đầu ngồi ghế sau của lịch sử chính trị. Mặc dù chúng tôi tin rằng lý thuyết dân chủ qua sức mạnh của chúng tôi cho cái nhìn sâu sắc vào các hình mẫu dân chủ hóa và chủ nghĩa độc đoán của châu Á kiến tạo-phát triển hơn bất kể lý thuyết hiện có khác nào, chúng tôi không có ý định gợi ý rằng lý thuyết của chúng tôi có lẽ có thể miêu tả chính xác lĩnh vực phức tạp này của các trường hợp lịch sử.
Mục tiêu chủ yếu của chúng tôi trong các chương tiếp là để hiểu đúng các lịch sử của sự phát triển và dân chủ hóa trong 12 trường hợp này, và bằng cách ấy đưa chúng vào các thảo luận rộng hơn về vì sao nền dân chủ xuất hiện khắp thế giới nói chung. Cho dù bạn đọc thấy ít giá trị gia tăng trong lý thuyết cảnh ngộ (conjunctural) mà chúng tôi đề xuất để hiểu nền dân chủ và chủ nghĩa độc đoán ở châu Á kiến tạo-phát triển, có nhiều để học trong các lịch sử mà chúng tôi cố gắng nhất để giám tuyển (chọn). Các lý thuyết của chúng ta về dân chủ hóa vẫn bị suy nhược tồi tệ nếu chúng ta không tính đầy đủ các lịch sử phức tạp như vậy.
Phân tích của chúng tôi bắt đầu với trường hợp dân chủ hóa lớn nhất trong lịch sử thế giới mà các nhà khoa học chính trị đơn giản đã chẳng bao giờ xem là phù hợp để lý thuyết hóa, đối xử với nó như một ví dụ không đáng quan tâm về nền dân chủ bị các lực lượng Mỹ chiếm đóng áp đặt bằng vũ lực từ bên ngoài: Nhật Bản.
3. Nhật Bản
NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ KIẾN TẠO-PHÁT TRIỂN ĐẦU TIÊN CỦA CHÂU Á
NHẬT BẢN CHÍNH THỨC ĐƯA Chiến Tranh Thế giới II đến Thái Bình Dương trong 1941, khi các máy bay quân sự Nhật tấn công căn cứ hải quân Mỹ tại Pearl Harbor (Trân Châu Cảng). Các cường quốc đồng minh nhanh chóng chuyển sự chú ý của chúng đến việc giao chiến trong Chiến tranh Thái Bình Dương, ngoài các chiến dịch đang diễn ra của chúng ở châu Âu. Việc ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki trong đầu tháng Tám 1945 đã thúc đẩy sự đầu hàng vô điều kiện của thiên hoàng Nhật bản vào ngày 15 tháng Tám. Vào cuối chiến tranh, hơn hai triệu lính Nhật đã bị giết. Kể cả những cái chết dân sự, lên đến ba triệu người Nhật đã chết trong chiến tranh.
Trong vòng vài tuần sau khi Nhật Bản bị đánh bại, các nước chiến thắng—các Đồng minh do Hoa Kỳ lãnh đạo—đã thiết lập một chính quyền chiếm đóng kéo dài từ 1945 đến 1952. Mục tiêu chính giữa các mục tiêu của nước Mỹ trong sứ mệnh hậu chiến của nó là để “phi quân sự hóa và dân chủ hóa” Nhật Bản. Sử gia John Dower mô tả các tham vọng của nước Mỹ như một “sự biểu hiện đáng chú ý của chủ nghĩa lý tưởng ngạo mạn—cả tự cho là đúng đắn và thực sự có tầm nhìn.” Sự chiếm đóng, dưới sự cai trị với bàn tay sắt của Tướng Douglas MacArthur, dự định không chỉ cải cách các định chế chính trị Nhật bản mà để biến đổi hoàn toàn xã hội Nhật bản và nền chính trị của nó.1
Theo nhiều cách, cuộc chiếm đóng đã tìm cách để tái tạo Nhật Bản bị chiến tranh tàn phá theo hình ảnh dân chủ riêng của nước Mỹ. Sự ban hành hiến pháp dân chủ của Nhật Bản đã phần nhiều phản ánh sự kiêu ngạo chiến thắng của Hoa Kỳ cũng như là một hậu quả của sức mạnh quân sự và kinh tế ghê gớm của nó trong thời khắc sau chiến tranh đó. Hãy tưởng tượng: hiến pháp hậu chiến của Nhật Bản có hiệu lực trong tháng Năm 1947 tại một buổi lễ trước Cung điện Hoàng gia khi một dàn nhạc Nhật biểu diễn hành khúc “Stars and Stripes Forever” (hành khúc chính thức của Hoa Kỳ). Trong bối cảnh này, người ta có thể xem nền dân chủ của Nhật Bản—mà đã kéo dài với sự ổn định đáng chú ý cho đến tận ngày nay—như chẳng gì phức tạp hay gây bối rối hơn một sáng tác nước ngoài được áp đặt lên một nước Nhật Bản yếu. Nói một cách đơn giản, nền dân chủ của Nhật Bản là một nền dân chủ bị áp đặt.
Chúng tôi không tranh cãi với hình ảnh chuẩn về Nhật Bản sau 1945 như bị đánh bại hoàn toàn. Chiến Tranh Thế giới II đã tàn phá nước này. Hàng triệu binh lính và công dân Nhật bị giết trong chiến tranh. Các bom nguyên tử ném xuống Hiroshima và Nagasaki đã gây ra sự tàn phá to lớn cho quốc gia và các định chế của nó. Chính phủ bị hỗn loạn. Chiến tranh đã phá hủy nền kinh tế một thời-phát đạt của Nhật Bản. Năng suất công nghiệp ngay sau chiến tranh đã quay lại các mức trước-1930. Choáng váng vì cả sự tàn phá và sự xấu hổ, tâm thần của đất nước đã dễ vỡ. Vì thế, người ta có thể kết luận một cách hợp lý rằng bởi vì Nhật Bản đã yếu và dễ bị tổn thương, nó đã có ít lựa chọn trừ chấp nhận và làm theo một sự chuyển đổi dân chủ bị một nước Mỹ hùng mạnh áp đặt từ bên ngoài. Trường hợp Nhật bản có vẻ là trường hợp hoàn hảo của dân chủ qua sự yếu kém, và lạc lõng với một cuốn sách về dân chủ qua sức mạnh.
Nhật Bản đã không dân chủ hóa mình, theo chuyện kể thông thường này; Hoa Kỳ đã dân chủ hóa Nhật Bản. Như Mary Alice Haddad tóm tắt một cách phê phán sự giải thích quá đơn giản hóa và thông thường này, “Nhật Bản đã thua chiến tranh trong 1945. Hoa Kỳ đã cho nó một hiến pháp dân chủ. Nhật Bản đã trở thành một nền dân chủ.”2 Giống Haddad, chúng tôi bác bỏ sự giải thích chuẩn, đơn giản hóa, và hoàn toàn bên ngoài này, trong đó các chính trị gia Nhật bản đã đóng một vai trò tối thiểu và tầm thường trong việc dẫn đến một nền dân chủ ổn định và lâu bền ở Nhật Bản. Chuyển đổi dân chủ của Nhật Bản đã vẫn chưa được lý thuyết hóa một cách đáng đáng thương, được hiểu đơn giản như một câu chuyện về nền dân chủ qua sự áp đặt.
Đây là lý lẽ của chúng tôi: các elite dân sự bảo thủ Nhật, những người đã tích lũy các nguồn quyền lực chính trị hay “các sức mạnh có trước” trong các thập niên trước chiến tranh, đã không hề bị xóa sổ ngay sau Chiến Tranh Thế giới II. Nhiều người cộng tác trong chế độ phát xít quả thực đã bị kết án vì tội ác chiến tranh và không còn liên quan nữa. Tuy nhiên nhiều elite bảo thủ, mà ban đầu đã ủng hộ các thử nghiệm dân chủ sớm của Nhật Bản trong các năm 1920, đã không bị truy tố. Các elite bảo thủ đó, mà đã tìm được cách để “luồn qua,” như sử gia Andrew Gordon diễn đạt, cuối cùng đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra và củng cố sự chuyển đổi dân chủ của Nhật Bản với các lãnh đạo chiếm đóng.3 Nền dân chủ hậu chiến ở Nhật Bản vì thế phần lớn đã là sự sáng tác của các chính trị gia bảo thủ Nhật, những người, giống Quốc Dân Đảng ở Đài Loan, các nhà độc tài ở Hàn Quốc, và thậm chí đảng Golkar độc đoán ở Indonesia, cuối cùng đã thấy nền dân chủ là một cách để lấy lại và duy trì quyền lực chính trị.
Chúng tôi cho rằng, các elite chính trị bảo thủ Nhật đã không hề yếu và bất lực trong 1945 như hầu hết mọi người giả định; khi họ tìm được cách để nổi lên từ đống đổ nát của chiến tranh, cũng thế là các nguồn lực về sức mạnh chính trị và kinh tế có trước. Trong khi bản thân Nhật Bản bị làm yếu đi kinh khủng về mặt tuyệt đối, sức mạnh tương đối của những người bảo thủ dân sự được nâng cao đột ngột bởi sự hủy bỏ quân đội Nhật Bản và sự giảm bớt của Nhật hoàng sau chiến tranh. Các chính trị gia bảo thủ cũng đã giữ lại các mối quan hệ sâu với bộ máy quan liêu nhà nước hướng dẫn sự phát triển công nghiệp và kinh tế xuất sắc của Nhật Bản bắt đầu trong thế kỷ thứ mười chín. Họ đã vẫn liên hệ với các nhà lãnh đạo công nghiệp trước chiến tranh, những người sẵn sàng làm sống lại sự phát triển công nghiệp của Nhật Bản. Quan trọng nhất, elite chính trị đã làm sống lại các đảng bảo thủ, mà họ đã thành lập hàng thập niên trước nhưng rơi vào chủ nghĩa phát xít trong các năm 1930. Bằng việc làm sống lại các đảng và hệ thống đảng, các chính trị gia bảo thủ đã chuẩn bị sẵn sàng để cai quản trong một nền dân chủ mới.
Nói cách khác, trong tiến trình chiếm đóng của nước Mỹ từ 1945 đến 1952, những người bảo thủ đã trở nên ngày càng tự tin rằng sự đưa nền dân chủ vào sẽ không làm xói mòn các cơ sở quyền lực chính trị và kinh tế của họ. Họ nhận ra rằng sự cạnh tranh dân chủ, trong đó các đảng bảo thủ có được các lợi thế đáng kể đối với những đối thủ cạnh tranh của họ bên cánh tả, thực ra sẽ giúp củng cố sự nắm quyền của họ, tuy trên một sân chơi bằng phẳng hơn. Sức mạnh của bộ máy quan liêu nhà nước, mà đã vẫn nguyên vẹn sau chiến tranh, đã trấn an các chính trị gia bảo thủ về sự ổn định chính trị và kinh tế cần để phục hồi quỹ đạo phát triển của Nhật Bản trước chiến tranh. Theo ngôn ngữ lý thuyết của chúng tôi, các chính trị gia bảo thủ đã có cả sự tự tin chiến thắng và sự tự tin ổn định, dựa vào độ bền của các nguồn lực sức mạnh trước chiến tranh của họ. Nền dân chủ vì thế đã không đơn giản bị áp đặt lên Nhật Bản, như sự hiểu biết thông thường gợi ý. Đúng hơn, các elite bảo thủ Nhật thừa nhận và cuối cùng đi theo nền dân chủ bởi vì họ đã tự tin nó phục vụ các lợi ích của họ để làm vậy.
Chúng tôi không tìm cách viết lại lịch sử trong chương này, khẳng định sai rằng sự chiếm đóng Mỹ đã không phải là một điều kiện trước quan trọng cho nền dân chủ để bén rễ ở Nhật Bản hậu chiến. Sự chiếm đóng rõ ràng đã là cần thiết cho sự biến đổi dân chủ của Nhật Bản; mà không có nó, thì nền dân chủ sẽ không được thiết lập mau chóng như vậy. Tuy vậy, bản thân sự can thiệp Mỹ đã là không đủ để giải thích đầy đủ sự chuyển đổi hậu chiến và sự củng cố dân chủ cuối cùng trong dài hạn của Nhật Bản, nó cũng chẳng thể giải thích sự ổn định đáng chú ý của nó sau các năm 1950.
Nhật Bản đã không trở thành nền dân chủ ổn định dài nhất của châu Á đơn giản bởi vì nước Mỹ đã muốn và cung cấp nó. Như sự giải thích của chúng tôi trong chương này cho thấy, elite bảo thủ ở Nhật Bản đã có thể đảo ngược thử nghiệm dân chủ sau chiến tranh nhiều lần, và đặc biệt một khi sự chiếm đóng Mỹ chấm dứt, nhưng họ đã chọn không đảo ngược bởi vì nền dân chủ đã có lợi cho những người bảo thủ. Chúng tôi cho rằng, trong khi nền dân chủ đã phục vụ các lợi ích địa-chính trị của nước Mỹ, nó cũng phục vụ các lợi ích chính trị và kinh tế của các elite Nhật, và một cách cụ thể elite bảo thủ còn lại từ thời kỳ trước chiến tranh. Như chúng ta sẽ thấy trong trường hợp Hàn Quốc trong các năm 1960 (chương 5), những người bảo thủ đương nhiệm trong cụm “nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển” đã có khả năng hoàn hảo để đảo ngược các thử nghiệm dân chủ khi họ dưới sự ép buộc cùng cực, bất chấp các quan hệ mạnh của họ với Washington.
Trong chương này, chúng tôi khẳng định rằng các elite bảo thủ của Nhật Bản đã thừa nhận dân chủ một cách chiến lược để bảo toàn sức mạnh chính trị và kinh tế của họ, và rằng các sức mạnh trước đó của họ được thừa kế từ các thập niên phát triển đã cho họ sự tự tin chiến thắng và sự tự tin ổn định cần thiết để khởi động và cuối cùng duy trì con đường dân chủ. Kinh nghiệm sau chiến tranh của Nhật Bản chuyển từ sự phát triển đến nền dân chủ, trong khi không phải là tấm gương về dân chủ qua sức mạnh—vai trò quan trọng đó thuộc về Đài Loan (được khảo sát kỹ trong chương 4)—cung cấp cẩm nang cho các chế độ chuyên quyền tại châu Á kiến tạo-phát triển để chọn một cách chiến lược và phát đạt trong nền dân chủ. Nhật Bản cung cấp một thí dụ tích cực về việc kết hợp sự phát triển với nền dân chủ, và các nước dân chủ hóa muộn hơn trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển—cụ thể là, Đài Loan và Hàn Quốc—đã mô phỏng kinh nghiệm Nhật bản.
Hiện đại hóa Nhật Bản
Nhật Bản ngày nay là một cường quốc kinh tế mạnh. Với tư cách nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, nó chắc chắn đã là một phép màu phát triển thế kỷ thứ hai mươi sau chiến tranh, một nước dẫn đầu giữa các đầu tàu kinh tế của châu Á kiến tạo-phát triển. Tuy nhiên Nhật Bản thực ra đã bắt đầu nỗ lực của nó tới tính hiện đại trong giữa thế kỷ thứ mười chín. Câu chuyện về Nhật Bản hiện đại bắt đầu trước tất cả các trường hợp khác được khảo sát trong cuốn sách này. Các nguồn gốc của nó nằm trong các năm 1860 với Minh trị Duy tân.
Nhật Bản đối mặt lần đầu tiên với phương Tây và công nghệ ưu việt của nó trong 1853, khi Hoa Kỳ phái một hạm đội tàu chiến vào Vịnh Edo. Việc này đã buộc Nhật Bản, trước kia bị cô lập với nền kinh tế thế giới, để mở các cảng của nó. “Các tàu chiến đen,” như chúng được biết đối với những người Nhật, đã là một sự phô trương đáng sợ của tính hiện đại và sức mạnh quân sự nước ngoài. Sự lạc hậu của Nhật Bản đối mặt với sức mạnh nước ngoài đã dẫn đến những sự nhượng bộ và các hiệp định thương mại Nhật bản. Sức mạnh Mỹ đã cạy các cảng Nhật bản để mở cho thương mại quốc tế, mà khơi mào những cố gắng của Nhật Bản để nhanh chóng hiện đại hóa và bắt kịp phương Tây.
Sự chạm trán của Nhật Bản với phương Tây đã thúc đẩy các cải cách nội bộ để hiện đại hóa nền chính trị và xã hội Nhật bản, cũng như nền kinh tế của nó. Minh trị Duy tân đã là một “cuộc cách mạng từ trên xuống,” một sự sự biến đổi cách mạng do elite-lãnh đạo hơn là một cuộc nổi dậy nhân dân từ dưới lên.4 Bắt đầu trong năm 1868, các nhà cai trị Nhật bản đã từ bỏ hệ thống chính trị phong kiến của họ, dỡ bỏ hệ thống giai cấp daimyo (đại danh [điền], 大名[田], lãnh chúa phong kiến) của nó và chế độ bảo hộ shogunate (mạc phủ, 幕府, các chiến binh phong kiến) của nó.
Trong sự phản ứng lại với các tàu chiến đen, quân đội Nhật cũng đã hiện đại hóa. Chế độ Minh trị đã lập ra một quân đội quốc gia, phát triển những năng lực hải quân của nó, và đưa nghĩa vụ quân sự vào. Quan niệm về một “quốc gia” Nhật bản đã bén rễ trong Minh trị Duy tân, với sự đưa vào một phương ngữ ngôn ngữ tiêu chuẩn và một hệ thống giáo dục quốc gia. Về mặt phát triển chính trị, triều đình (朝廷) đã ban hành hiến pháp Minh trị trong 1889, mà đã dẫn đến sự tạo ra một cơ quan lập pháp quốc gia, Đế quốc Nghị hội (Imperial Diet帝国議会), tức là Quốc hội, trong năm 1890.
Sự hình thành một bộ máy nhà nước quan liêu hiện đại đi cùng với sự củng cố quyền lực hành chính trong chế độ Minh trị. Trước kia, các lãnh chúa daimyo đã quản lý các vấn đề nhà nước như phần của một nhóm elite phong kiến. Hành chính công trước Minh trị Duy tân đã phục vụ các lợi ích của giai cấp địa chủ quý tộc và duy trì một sự cân bằng giữa các lãnh chúa phong kiến. Sự nổi lên của một nhà nước hiện đại và bộ máy quan liêu mạnh, tuy vậy, đòi hỏi một ngành dân chính chuyên nghiệp, kỹ trị, và, thật quan trọng, khắp toàn quốc.
Trong 1887, các nhà cải cách Minh trị đã đưa vào cuộc thi công chức quốc gia đầu tiên của Nhật Bản. Sự tuyển dụng theo chế độ nhân tài (meritocratic) đã đảm bảo các quan chức nhà nước được chọn từ giữa những người giỏi nhất và sáng dạ nhất, có kỹ năng với tài chuyên môn kỹ trị. Bộ máy quan liêu theo chế độ nhân tài của Nhật Bản Minh trị đã là một đặc điểm chính của mô hình nhà nước kiến tạo-phát triển Á châu được mô phỏng trong thời kỳ sau chiến tranh bởi các nước phát triển muộn trong cụm nhà nước chủ nghĩa kiến tạo-phát triển, Đài Loan và Hàn Quốc.5
Bộ máy quan liêu hiện đại của Nhật Bản đã tập trung vào sự phát triển kinh tế và công nghiệp hóa đuổi kịp. Sự chạm trán của nó với phương Tây đã thừa nhận nền kinh tế Nhật Bản bị tụt lại phía sau đến thế nào trong quan hệ với các cường quốc đang công nghiệp hóa khác. Dựa vào tài chuyên môn kỹ trị của những người được tuyển dụng vào nhà nước kiến tạo-phát triển, chế độ Minh trị đã sửa hệ thống tài khóa của chính phủ, và một cách cụ thể năng lực của nó để thu thuế và phân bổ các nguồn lực công cho sự phát triển kinh tế quốc gia.
Với khả năng để đánh thuế và chi tiêu, nhà nước Minh trị đã đầu tư vào cơ sở hạ tầng cứng như đường sắt, các xưởng đóng tàu, và các cảng. Giữa năm 1880 và 1900, chẳng hạn, đường sắt quốc gia đã tăng gần ba lần rưỡi về độ dài, tăng tốc khả năng của Nhật Bản để phát triển một nền kinh tế được tích hợp toàn quốc và trên cơ sở thương mại. Chính phủ cũng đầu tư vào cơ sở hạ tầng mềm, nhất là với sự đưa giáo dục công và chăm sóc sức khỏe hiện đại vào.
Các khoản đầu tư chính phủ đã mang lại kết quả. Tổng thể, sản xuất chế tác ở Nhật Bản đã tăng hai lần rưỡi giữa 1895 và 1915, vượt qua sự tăng trưởng ở Hoa Kỳ. Tuy vậy, nhà nước đã không đầu tư bừa bãi vào bất cứ và tất cả các khu vực công nghiệp,. Nhà nước kiến tạo-phát triển đã áp dụng một chiến lược chọn những kẻ thắng. Nó đầu tư các nguồn lực công vào các khu vực được bộ máy quan liêu nhận diện là có tầm quan trọng chiến lược cho nền kinh tế Nhật bản, như thép và đóng tàu trong các khu vực công nghiệp nặng, cũng như vào các ngành chế tác thâm dụng-lao động. Sản xuất trong khai mỏ, một công nghiệp chiến lược ở Nhật Bản, đã tăng bảy lần trong phần tư cuối cùng của thế kỷ thứ mười chín. Chính phủ và khu vực-tư nhân đầu tư vào các xưởng dệt làm tăng sản xuất tơ, mà đã là quan trọng cho nền kinh tế xuất khẩu đang phát triển nhanh của Nhật Bản.
Nhà nước kiến tạo-phát triển cũng đã nhúng tay vào việc nuôi dưỡng và tổ chức các hãng công nghiệp. Bộ máy quan liêu đã giám sát và tích cực khuyến khích đầu tư vào các hãng zaibatsu (tài phiệt, 財閥), các công ty công nghiệp tổng hợp đồ sộ của Nhật Bản. Các hãng lớn, hơn là các doanh nghiệp nhỏ, chi phối phong cảnh công nghiệp của Nhật Bản. Các hãng zaibatsu như Mitsubishi và Mitsui đã tận dụng đòn bẩy tiết kiệm do quy mô và tích hợp các chuỗi cung quốc gia để giành được sự thống trị kinh tế ở trong nước và một địa vị chắc chắn trong thương mại quốc tế. Các hãng Nhật nhanh chóng leo lên các bậc thang công nghệ, bắt kịp với phương Tây và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Trong một thời gian tương đối ngắn, Nhật Bản đã trở thành một nhà chế tác công nghiệp có sức cạnh tranh toàn cầu.6
Vào lúc chuyển giao thế kỷ, Nhật Bản đã là một quốc gia công nghiệp hiện đại: tự-túc, được hội nhập toàn cầu, và an toàn về mặt quân sự. Nó đã là một “quốc gia giàu” với một “quân đội mạnh.” Nhật Bản hiện đại đã bắt kịp phương Tây và bắt đầu diễu võ dương oai trong khu vực. Nhật Bản đã đánh bại Trung Quốc trong một cuộc chiến tranh để kiểm soát bán đảo Triều Tiên trong 1895. Dẫn đến hiệp ước nhượng Đài Loan cho Nhật Bản, mà nó đã cai trị như một chế độ thuộc địa cho đến sự kết thúc của Chiến Tranh Thế giới II. Trong 1910 Nhật Bản sáp nhập Triều Tiên, và dựng sân khấu cho chương trình nghị sự đế quốc chủ nghĩa và bành trướng của Nhật Bản trong các năm 1930.
Thử nghiệm với nền Dân chủ
Lý thuyết hiện đại hóa nói cho chúng ta rằng hiện đại hóa xã hội, kinh tế, và chính trị sinh ra những sự bất bình của chính nó và tạo ra một xã hội đòi hỏi khắt khe hơn. Những kỳ vọng cho sự tham gia chính trị dân chúng mau chóng xuất hiện ở Nhật Bản đang hiện đại hóa. “Các thần dân” đế quốc của chế độ Minh trị ngày càng xem mình như “các công dân” hiện đại. Sự phản kháng dân chúng và sự huy động cho cải cách chính trị, như Phong trào các Quyền và sự Tham gia Chính trị, xuất hiện trong cuối thế kỷ thứ mười chín và kết tinh thành một văn hóa chính trị bất đồng ở Nhật Bản Minh trị.
Các công dân Nhật bắt đầu thách thức quyền lực chuyên chế của nền quân chủ và triều đình. Họ đòi tiếng nói và sự tham gia lớn hơn vào việc họ bị cai trị thế nào trong đầu các năm 1900. Sự bất bình chính trị lan ra khắp quốc gia. Khi Nhật Bản đã hiện đại hóa, các công nhân công nghiệp tổ chức và huy động trên đường phố và trên sàn xí nghiệp. Các cuộc nổi loạn, đình công công nhân, và các cuộc biểu tình dân chúng đã trở nên ngày càng phổ biến. Các công dân tìm kiếm cơ quan lập pháp quả quyết hơn được hứa hẹn, nhưng không được thực hiện, trong hiến pháp Minh trị. Họ đòi chính phủ mở rộng quyền bỏ phiếu, mà chính phủ đã phải mở rộng từ từ suốt các năm 1910 và các năm 1920, lên đỉnh điểm trong Đạo Luật quyền Bầu cử Phổ quát năm 1925. Nói đơn giản, khi xã hội Nhật bản và nền kinh tế của nó hiện đại hóa, các công dân đã đòi và nhận được nhiều dân chủ chính trị hơn.
Chế độ Minh trị, mà về mặt chính trị đã khá tiến bộ theo nhiều cách, đáp ứng lại các đòi hỏi dân chúng cho cải cách bắt đầu vào lúc chuyển giao thế kỷ. Trong các năm 1910, Nhật Bản bắt đầu mở hệ thống chính trị của nó, thử nghiệm với các hình thức dân chủ về chia sẻ quyền lực và các định chế cho sự quản trị tham gia dựa vào công dân hơn. Các chính sách cứu trợ xã hội và chống nghèo cũng được phát triển. Thời kỳ cải cách ban đầu này, trải từ các năm 1910 đến suốt các năm 1930, được biết đến như thời đại dân chủ Taisho, được đặt tên theo Thiên Hoàng Taisho (Đại chính), người cầm lái triều đình lúc đó.
Đặc điểm chính của thử nghiệm dân chủ Nhật ban đầu là sự xuất hiện của các đảng trên vũ đài chính trị. Một tờ báo có ảnh hưởng, Osaka Asahi Shimbun (Triêu Nhật Tân Văn Osaka-Báo buổi sáng Osaka), có một bài xã luận trong 1924 tuyên bố, “Các đảng chính trị nên thiết kế các chính sách quốc gia cho các công dân như một toàn thể và hỏi các công dân liệu các chính sách của họ là đúng hay sai.” Ngay từ đầu, các đảng chính trị ở Nhật Bản đã không chỉ là một cơ-chế thể-chế để tổ chức và huy động quyền lực chính trị; chúng được xem như các diễn viên chính trị hợp pháp bởi vì chúng phản ánh và đại diện ý chí và các sở thích của các công dân. Bài xã luận tiếp tục, “Nếu các nguyên tắc của nó [của đảng] không còn thống nhất với ý chí của các công dân nữa, nó phải chuyển giao chính phủ cho một đảng đối lập.”7 Quan niệm rằng quyền lực chính trị phải được chia sẻ và có khả năng được chuyển giao giữa các đảng tranh đua với nhau phản ánh một sự hiểu về những sự luân phiên dân chủ trong chính phủ cũng như một cam kết với sự cạnh tranh bầu cử hơn sự thoáng qua rất nhiều. Các công dân Nhật đã kỳ vọng các đảng chính trị cạnh tranh vì quyền lực.
Các nguyên tắc dân chủ cơ bản đã bén rễ ở Nhật Bản trước chiến tranh. Với sự ngoại lệ của hai năm từ 1922 đến 1924, các đảng chính trị đã thành lập tất cả các nội các chính phủ giữa 1918 và 1932 trong thời nền dân chủ Taisho, thử nghiệm dân chủ đầu tiên của Nhật Bản. Nội các do đảng-lãnh đạo mở đầu được Thủ tướng Hara Takeshi thành lập trong 1918, người đã là nhà lãnh đạo đầu tiên được chọn từ cơ quan lập pháp được bàu. Cho đến đầu các năm 1930, một nội các được dân bàu, do đảng-lãnh đạo (ngược với do quân đội- hay độc đoán-lãnh đạo) đã là hình thức chính phủ phổ biến nhất trong thời kỳ này của nền dân chủ đế quốc.
Tuy vậy, nền dân chủ Taisho đã không tương đương với dân chủ đầy đủ của Nhật Bản. Rốt cuộc, nền dân chủ đế quốc đã là một thử nghiệm có thể đảo ngược, báo trước các thử nghiệm khác có thể đảo ngược mà xuất hiện khắp châu Á kiến tạo-phát triển—bắt đầu với bản thân Nhật Bản—trong thời kỳ sau chiến tranh. Hiến pháp Minh trị phản ánh một sự hỗn hợp của sự cai trị độc đoán với một số đặc trưng của sự tham gia dân chủ và sự chia sẻ quyền lực chính trị. Ví dụ, hiến pháp đã trao quyền cho thiên hoàng để là quyền lực chính trị tối cao ở Nhật Bản đế quốc, mặc dù nó cũng cho phép sự hoạt động của các định chế chính trị tham gia như Hội nghị quốc gia (Diet), cơ quan lập pháp được bàu. Nền dân chủ Taisho đã dựa vào sự cân bằng mỏng như lưỡi dao cạo giữa các truyền thống độc đoán Minh trị và một quỹ đạo dân chủ mới chớm nở.8
Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng thử nghiệm dân chủ ban đầu của Nhật Bản—được nhắc tới như “nền dân chủ đế quốc”—được xây dựng trên nền tảng của sự chia sẻ quyền lực chính trị giữa các diễn viên được bàu và không-được bàu. Trong ngôn ngữ của chương của chúng tôi về chủ nghĩa quân phiệt kiến tạo-phát triển, nó đã là một loại “sống chung.” Mặc dù các công dân đã bàu các thành viên của cơ quan lập pháp, các quyền lực lập pháp của Diet bị ràng buộc bởi các diễn viên không-được bàu khác trong hệ thống chính trị phức tạp. Chẳng hạn, Viện Quý tộc (House of Peers, 貴族院), thượng viện của cơ quan lập pháp, có chức năng kiểm tra nội các. Viện Xu [Cơ] Mật (Privy Council枢密院) được thiên hoàng bổ nhiệm trực tiếp, có quyền phủ quyết sự lập pháp. Để đảm bảo duy trì một bàn tay trực tiếp trong việc quản trị Nhật Bản, thiên hoàng chỉ định Genro (Nguyên lão元老), một đoàn nhỏ của các elite chính trị trung thành với quốc vương khuyên ngài về các vấn đề chính sách. Genro đã có quyền bổ nhiệm thủ tướng, đảm bảo triều đình có một tiếng nói về ai lãnh đạo chính phủ. Quân đội hiện đại đã đóng một vai trò đáng kể trong việc duy trì trật tự và sự ủng hộ chế độ đế quốc khi nói đến việc dập tắt các mối đe dọa khởi nghĩa dân chúng.
Như thế, khái niệm nền dân chủ đế quốc thể hiện một sự căng thẳng giữa một nền quân chủ hùng mạnh và được kính yêu và một chính phủ dân sự được dân bàu. Nhiều sử gia kết luận rằng nền dân chủ thời Taisho giỏi nhất chỉ là một nền dân chủ hời hợt và thiếu sót sâu sắc chắc chắn sẽ sụp đổ. Các khai niệm “đế quốc” và “nền dân chủ” là mâu thuẫn, họ chỉ ra, và khó để hòa giải trong thực tiễn. “Đế quốc” ngụ ý uy quyền tối cao của nền quân chủ, mà vi phạm điều kiện tiên quyết tự do về “chính phủ của nhân dân” nội tại của nền dân chủ.
Andrew Gordon, thừa nhận các mâu thuẫn này, tuy nhiên chỉ ra rằng cái gọi là các nhà dân chủ đế quốc trong thời kỳ này đã “ủng hộ-thiên hoàng, ủng hộ-đế chế,” thế nhưng đồng thời “đã cam kết với các quan niệm khó nắm bắt về chính phủ và sự can dự dân chúng trong chính trị” như thế nào. Nền dân chủ đế quốc trong thời Taisho, theo Gordon, đã giải quyết các mâu thuẫn của nó và đã kéo dài vì một sự quyến rũ bởi vì các mục tiêu của thiên hoàng, quân đội, bộ máy quan liêu, và các đảng chính trị dân chủ “đã liên quan một cách logic với nhau.” Nói cách khác, các diễn viên chính trị này đã cùng tồn tại—và quả thực đã chia sẻ quyền lực—ở Nhật Bản thời Taisho bởi vì họ được liên kết và ràng buộc bởi một khát vọng quốc gia để hiện đại hóa nhanh chóng Nhật Bản.9
Tuy vậy, sự liên kết này đã không kéo dài. Sau gần một thập niên rưỡi của các chính phủ do đảng-lãnh đạo ở Nhật Bản thời Taisho, thử nghiệm dân chủ đã sụp đổ, được thay thế bằng một chế độ quân sự phát xít sau 1932. Các khủng hoảng kinh tế khác nhau, bị suy thoái toàn cầu tàn phá sau 1929 làm cho nổi bật, đã vạch trần các chính phủ do đảng-lãnh đạo vì sự bất lực của chúng để quản lý sự rối loạn kinh tế. Sự đổ lỗi chính trị phải được đặt ở đâu đó, ai đó phải gánh chịu: các đảng chính trị, và một cách cụ thể các chính phủ do đảng-lãnh đạo.10
Ngay từ 1927, khu vực ngân hàng Nhật bản, bị lượng lớn nợ xấu công nghiệp đè nặng, đe dọa một khủng hoảng không trả được nợ, dẫn đến sự hoảng loạn lan rộng. Các công dân Nhật đã chỉ trích chính phủ do đảng-lãnh đạo vì việc xử lý khủng hoảng ngân hàng của nó, đòi Viện Cơ Mật ban hành các sắc lệnh khẩn cấp để chặn một sự sụp đổ tài chính hoàn toàn. Vài năm muộn hơn, khi Đại Suy Thoái lan ra trong 1929, nền kinh tế Nhật từ từ ngừng lại, như nhiều nền kinh tế khác quanh thế giới. Lại bất chấp mong muốn của chính phủ, các ngân hàng đã lợi dụng Suy Thoái bằng việc đầu cơ đồng yen, kiếm lợi trong đầu các năm 1930 trong khi những người Nhật bình thường đau khổ. Nhật Bản đã trải qua một khủng hoảng kinh tế cũng như một khủng hoảng quản trị.
Trong khi những kẻ đầu cơ trục lợi trở nên giàu có trong Suy Thoái, lương giảm và hoạt động công đoàn và sự bất ổn định chính trị tăng khắp Nhật Bản. Số tranh chấp lao động bùng nổ từ 282 vụ trong 1920 lên 906 vụ trong 1930. Ít người được tha trong Suy Thoái. Giá cả hàng hóa lao xuống, mà đã có một tác động gây tê liệt lên khu vực nông nghiệp của Nhật Bản. Thu nhập trung bình hộ gia đình canh nông đã mất một nửa hầu như một sớm một chiều, từ một trung bình 1.366 yen trong 1929 xuống chỉ còn 641 yen trong 1931. Số tranh chấp tá điền-địa chủ đã tăng hơn sáu lần trong thời gian này, từ 408 vụ trong 1920 lên 2.478 vụ trong 1930, và lại tăng lên hơn 6.800 vụ trong 1935.
Sự bất ổn định chính trị, kinh tế, và xã hội lan rộng trong các năm 1920 và vào các năm 1930 đã làm mất uy tín hệ thống đảng và các chính phủ do đảng-lãnh đạo. Các đảng bị coi như bất lực để lãnh đạo đất nước. Cái chúng tôi gọi là “sự tự tin ổn định” đổ nhào bên đường. Trong khi đó, chủ nghĩa dân tộc sô vanh đã lan ra khắp Nhật Bản, một tầm nhìn được truyền bá giữa các chính trị gia ngang phổ ý thức hệ, bởi những kẻ phát xít cánh hữu cũng như các tổ chức lao động thiên tả mà đã từ bỏ đấu tranh giai cấp để ủng hộ chủ nghĩa dân túy dân tộc chủ nghĩa. Giữa khủng hoảng chính trị kinh tế cuối các năm 1920 và các năm 1930, thiên hoàng mất sự tự tin vào khả năng của các đảng chính trị để cai quản Nhật Bản, làm bùng nổ các mâu thuẫn của nền dân chủ đế quốc non nớt của Nhật Bản.11
Sự mất tính chính danh của chính phủ do đảng-lãnh đạo đã mở một cửa sổ cơ hội cho quân đội để giành giật quyền lực chính trị khỏi các chính trị gia được bàu và các đảng của họ. Sự đổ vỡ dân chủ hiện ra lù lù trên đường chân trời. Thử nghiệm dân chủ có thể đảo ngược sắp bị đảo ngược.
Trong đầu các năm 1930, quân đội công khai coi thường chính phủ dân sự. Trong 1931, chẳng hạn, quân đội đã xâm chiếm Trung Quốc và thiết lập một chế độ bù nhìn ở vùng Mãn Châu, bất chấp những mối lo ngại bên trong nội bộ các đảng về các khát vọng bành trướng của Nhật Bản. Vụ “hãm hiếp Nam kinh” khét tiếng 1937 đã là một tình tiết đặc biệt tàn bạo. Hàng trăm ngàn người Trung quốc bị tàn sát, kể cả hàng chục ngàn phụ nữa và con gái bị hãm hiếp và bị giết, khi các lực lượng Nhật chiếm thành phố cảng Trung quốc. Ở trong nước, chính phủ ngày càng bị các chính trị gia phát xít và chống-dân chủ thâm nhập, những người đã liên kết với quân đội, vây bắt các nhà hoạt động đối lập. Đóng chiếc đinh cuối cùng vào quan tài của nền dân chủ Taisho, các phái cánh hữu của quân đội Nhật bản đã ám sát Thủ tướng Inukai Tsuyoshi trong 1932. Ông đã là người đứng đầu cuối cùng của chính phủ dân sự của Nhật Bản cho đến khi sự kết thúc của chiến tranh gần một thập niên rưỡi sau đó.12
Tuy vậy, trước khi đóng lại phần cuốn sách về cố gắng đầu tiên của Nhật Bản với cái đã là một nền dân chủ thất bại ngoạn mục, thật quan trọng để thừa nhận các di sản lâu dài của nền dân chủ Taisho và dự án hiện đại hóa Minh trị, và tác động của chúng lên sự biến đổi dân chủ sau chiến tranh của Nhật Bản.
Thứ nhất, hiến pháp Minh trị đã đảm bảo rằng sự chia sẻ quyền lực chính trị là một đặc điểm mấu chốt của hệ thống chính trị Nhật hiện đại, cho dù thực tiễn của nó cuối cùng đã thua chủ nghĩa quân phiệt phát xít. Cũng đã rõ rằng chừng nào quân đội có được quyền lực áp đảo, sân chơi chính trị chẳng bao giờ có thể là ngang bằng, và như thế tầm nhìn của nền dân chủ đế quốc thời-Taisho bị thiếu sót cơ bản trừ phi nó có thể được cải cách sâu sắc hơn.
Thứ hai, Minh trị Duy tân đã phá hủy các vết tích của chủ nghĩa phong kiến ở Nhật Bản đế quốc. Từ đây xuất hiện một đội ngũ elite chính trị và kinh tế mà cuối cùng đã trở thành các quán quân Nhật bản cho sự phát triển và nền dân chủ sau 1945.
Thứ ba, các cố gắng hiện đại hóa trong thời kỳ cải cách Minh trị đã tạo ra một bộ máy quan liêu quốc gia hiện đại mà đã tìm được cách vẫn còn nguyên vẹn trong sự chuyển đổi sau chiến tranh. Tính liên tục quan liêu đã là một nguồn tự tin rằng việc dân chủ hóa hệ thống chính trị sau chiến tranh sẽ không tự động dẫn đến sự bất ổn định. Đúng hơn, sự phục hồi kinh tế do nhà nước-lãnh đạo có thể ổn định hóa Nhật Bản, và bộ máy quan liêu, nếu còn nguyên vẹn, đã là cốt yếu cho sự phục hồi này.
Thứ tư, thử nghiệm dân chủ ban đầu của Nhật Bản đã đưa vào các đảng như một tổ chức chính trị khả thi, dù lúc đó bị yếu, để huy động các công dân và tạo ra tính chính danh đại chúng cho chính phủ. Các di sản này, mà có thể có vẻ tầm thường khi đối mặt với chủ nghĩa phát xít, đã dựng sân khấu cho sự biến đổi dân chủ cuối cùng—và thành công tuyệt vời—của Nhật Bản.
Xây dựng nền Dân chủ hậu chiến
Thiên hoàng Hirohito đưa ra đề nghị đầu hàng của Nhật Bản vào ngày 15 tháng Tám 1945, vài ngày sau khi các bom nguyên tử của nước Mỹ san bằng Hiroshima và Nagasaki. Sự tàn phá và sự phá hủy của các bom nguyên tử đã là quá sức chịu đựng, và sự đầu hàng của Nhật Bản được chính thức ký vào ngày 2 tháng Chín 1945. Theo nghĩa đen trong vòng mấy ngày, sự chiếm đóng do Hoa Kỳ-lãnh đạo đã đảm nhiệm quyền lực hành chính, với mục tiêu rõ ràng để phi quân sự hóa và dân chủ hóa Nhật Bản.
Tuyên bố Potsdam, bản kế hoạch cho sự đầu hàng và sự tái kiến thiết sau chiến tranh của Nhật Bản, quy định rất rõ ràng rằng “các quyền tự do ngôn luận, tín ngưỡng, và tư tưởng, cũng như sự tôn trọng các quyền con người cơ bản, sẽ được thiết lập.” Đoạn 10 của tuyên bố nêu rõ rằng “chính phủ Nhật bản sẽ dỡ bỏ tất cả các trở ngại cho sự hồi sinh và việc tăng cường các xu hướng dân chủ giữa nhân dân Nhật bản.”
Đáng chú ý rằng các nhà lãnh đạo chiếm đóng đã không xem nền dân chủ như một khái niệm hoàn toàn mới hay ngoại lai ở Nhật Bản. Thay vào đó, họ thừa nhận các hạt giống của thử nghiệm dân chủ được gieo hàng thập niên trước và các di sản tích cực của nền dân chủ Taisho cho Nhật Bản sau chiến tranh. Mục tiêu của lực lượng chiếm đóng như thế là để phục hồi và cuối cùng củng cố nền dân chủ ở Nhật Bản, hơn là sáng chế ra nó một lần nữa.
Tướng Douglas MacArthur đứng đầu cuộc chiếm đóng do Hoa Kỳ-lãnh đạo. Trong vai trò của mình như Chỉ huy tối cao cho các Cường quốc Đồng minh (SCAP), ngay lập tức ông khởi động một chương trình nghị sự cải cách dân chủ. Chịu trách nhiệm chiếm đóng, MacArthur đã sử dụng quyền lực chính trị và thẩm quyền to lớn của mình ở Nhật Bản. Một lần ông đã tự châm biếm rằng ông là người cầm quyền chính trị tối cao mới của Nhật Bản, thậm chí hùng mạnh hơn nền quân chủ và cơ quan lập pháp. Các công dân Nhật bản đã nhắc tới tướng MacArthur như shogun với đôi mắt xanh.
Thật quan trọng, chính quyền chiếm đóng đã không cai trị trực tiếp Nhật Bản. Thay vào đó, nó đã quản trị “gián tiếp,” chọn để hợp tác với các nhà lãnh đạo Nhật bản để tiến hành cải cách. Từ một quan điểm chính trị, đã là nhạy cảm về việc tỏ ra quá nặng tay trong cách tiếp cận của nó để cải cách hệ thống chính trị của Nhật Bản. Nó đã không muốn được xem như đang áp đặt nền dân chủ qua vũ lực hay sự ép buộc. Lực lượng chiếm đóng, chẳng hạn, đã cố ý định khung chương trình nghị sự cải cách dân chủ của SCAP như “khuyến nghị riêng của chính phủ [Nhật bản]” nhằm để nuôi dưỡng tính chính danh trong nước.13 Như nhà khoa học chính trị Nhật bản Sodei Rinjero cho rằng thành công của các nỗ lực cải cách của lực lượng chiếm đóng một phần là do “sự hợp tác bản địa” mà GHQ (Tổng Hành dinh của lực lượng chiếm đóng) đã tìm kiếm và nhận được từ các chính trị gia Nhật bản.14
Chiến lược cai trị gián tiếp, tuy vậy, đã không chỉ được chính trị thúc đẩy. Từ quan điểm thực tiễn và hành chính, lực lượng chiếm đóng đã cần các chính trị gia Nhật bản để dẫn đầu cải cách dân chủ. Trong vòng vài tuần sau sự đầu hàng của Nhật Bản, lực lượng chiếm đóng đã toan tính để bổ nhiệm ngay lập tức một thủ tướng để thành lập một chính phủ lâm thời có thể thực hiện chính xác cải cách dân chủ. Ban đầu SCAP đã chọn một thành viên của hoàng gia để đóng vai trò đó. MacArthur nhanh chóng bỏ kế hoạch đó vì ứng viên đầu tiên đã tỏ ra không hợp tác.
Ban lãnh đạo chiếm đóng đã đòi hỏi các đối tác Nhật bản đáng tin cậy và có năng lực nếu nó phải xây dựng một nền dân chủ mới. MacArthur quay sang chính trị gia và nhà ngoại giao kỳ cựu Kijuro Shidehara để hợp tác với và thực hiện kế hoạch cải cách của lực lượng chiếm đóng. Trước chiến tranh, Shidehara đã là bộ trưởng ngoại giao, một người bảo thủ ôn hòa bênh vực nền dân chủ đế quốc do đảng-lãnh đạo và phản đối các chính sách bành trướng của Nhật Bản trong các năm 1930. Bị chế độ phát xít thời chiến gạt sang bên, ông tiếp tục là một thành viên của thượng Viện Quý tộc, nhưng không còn là phần của cơ quan lập pháp hay nội các Nhật bản nữa. Mặc dù ông dự định về hưu khỏi chính trị sau chiến tranh, Shidehara được MacArthur bổ nhiệm làm thủ tướng lâm thời trong tháng Mười 1945, và ông ngay lập tức thành lập một nội các lâm thời. Trong cuối 1945, chính phủ Shidehara bảo thủ đã cải cách các luật quyền bỏ phiếu, mở rộng quyền bỏ phiếu cho phụ nữ và hạ thấp tuổi bỏ phiếu, một báo hiệu về các cải cách dân chủ sắp tới.
Như trong các trường hợp dân chủ qua sức mạnh khác mà chúng tôi khảo sát trong cuốn sách này, tính liên tục trong sự lãnh đạo chính trị đã là một đặc tính chủ chốt của chuyển đổi dân chủ Nhật bản. Mặc dù Nhật Bản bị đánh bại trong chiến tranh và sau đó bị cường quốc nước ngoài chiếm đóng, chiến tranh đã không xóa bỏ giai cấp lãnh đạo chính trị của Nhật Bản. Như chúng tôi đã lưu ý sớm hơn trong chương này, một di sản quan trọng của nền dân chủ thời-Taisho đã là sự tạo ra và sự kéo dài của một đội ngũ chính trị gia bảo thủ mà đã là các quán quân của nền dân chủ đế quốc.
Các chính trị gia này là sản phẩm của Minh trị Duy tân. Họ giữ các quan điểm bảo thủ và truyền thống về vai trò của nền quân chủ, chắc chắn, tuy nhiên họ đã là những người chủ trương chính phủ do đảng-lãnh đạo, được dân chúng bàu. Bị gạt sang bên lề trong chế độ phát xít của các năm 1930, các chính trị gia này—như thủ tướng lâm thời Shidehara—đã tìm được cách vượt qua sự chuyển đổi sau chiến tranh. Họ đã không chỉ sống sót cuộc chiến tranh; họ đã vẫn xác đáng về mặt chính trị đối với các công dân Nhật bản, một di tích quan trọng của các thử nghiệm dân chủ ban đầu của Nhật Bản. Với quân đội bị què và nền quân chủ bị kiềm chế, các chính trị gia này đã thấy sức mạnh tương đối của họ trong hệ thống cai trị Nhật bản được mở rộng đáng kể.
Các chính trị gia bảo thủ đã trở thành các đối tác quan trọng của lực lượng chiếm đóng trong việc cải cách hệ thống chính trị Nhật. Về khía cạnh này, cuộc chiếm đóng đã trao quyền cho họ để lãnh đạo cải cách dân chủ ở Nhật Bản. Họ chắc chắn đã hợp tác với các nhà lãnh đạo chiếm đóng, nhưng các chính trị gia bảo thủ này cũng đã giúp định hình tiến trình cải cách dân chủ. Họ đã không là các tác nhân thụ động mà thay vào đó là các tác nhân tích cực của sự thay đổi chính trị ở Nhật Bản.
Hiến pháp dân chủ đã xảy đến như thế nào minh họa quá trình hai bên này. Sự chấp nhận hiến pháp dân chủ của Nhật Bản trong mùa xuân 1946 và sự ban hành nó trong 1947 là trung tâm của các cố gắng của cuộc chiếm đóng để dân chủ hóa Nhật Bản. Hiến pháp đã tạo ra và đã tăng cường các định chế dân chủ, kể cả sự mở rộng các quyền và các quyền tự do cho tất cả các công dân. Diet quốc gia được trao quyền như định chế chính cho việc hoạch định chính sách công. Sân chơi chính trị trở nên bằng phẳng hơn. Vai trò của thiên hoàng bị hạ xuống một vai trò tượng trưng. Quan trọng nhất, quân đội bị ràng buộc nghiêm ngặt, hạn chế quy mô của nó và khả năng của nó để mua vũ khí. Hiến pháp dân chủ được nhắc đến như hiến pháp “hòa bình,” để phản ánh mức độ mà quân đội đã bị nhổ nanh.
Sự hiểu biết thông thường là, bởi vì các cố vấn của MacArthur đã soạn hiến pháp, quá trình làm hiến pháp đã gồm ít đến không input (đầu vào) nào từ những người Nhật. Nó đã cứ như, như Mary Alice Haddad diễn đạt, lực lượng chiếm đóng do Mỹ-lãnh đạo đơn giản “đã cho” và áp đặt một hiến pháp dân chủ lên Nhật Bản. Đúng là một nhóm nhỏ chuyên gia Mỹ được SCAP chỉ định đã soạn hiến pháp cuối cùng được Nhật Bản chấp nhận và ban hành. Cũng đúng là các nhà đàm phán của lực lượng chiếm đóng đã đe dọa để đưa dự thảo hiến pháp ra công khai nhằm gây áp lực lên chính phủ lâm thời Nhật bản để chấp nhận phiên bản Mỹ.
Tuy vậy, không đúng rằng phía Nhật bản, và một cách cụ thể các chính trị gia bảo thủ được lực lượng chiếm đóng bổ nhiệm để giúp lãnh đạo cải cách dân chủ, đã không có tiếng nói hay năng lực hành động (agency) nào trong quá trình. Bên dưới sự tường thuật thông thường về nền dân chủ qua sự áp đặt có một câu chuyện sâu hơn về sự tranh cãi, thương lượng, và sự nhượng bộ ở cả hai bên: một mặt, bên chiếm đóng, và, mặt khác, các nhà lãnh đạo chính trị bảo thủ của Nhật Bản, kể cả các thành viên nội các của Shidehara.15
Không lâu sau khi sự chiếm đóng bắt đầu, SCAP đã mời chính phủ Nhật để soạn một hiến pháp mới cho Nhật Bản. Những người bảo thủ do là những người bảo thủ, chính phủ lâm thời Nhật bản đã đề xuất một hiến pháp giữ lại nhiều yếu tố độc đoán của chế độ Minh trị, đáng chú ý là một vai trò chính trị nổi bật cho thiên hoàng. Nói đơn giản, họ đã tìm cách để hồi sinh nền dân chủ đế quốc, mặc dù không có đế chế hải ngoại.
Các nhà lãnh đạo chính trị bảo thủ Nhật đã không chịu khuất phục tầm nhìn Mỹ về nền dân chủ mà không có một cuộc đấu tranh. Họ đã tin, hóa ra là một cách ngây thơ, lực lượng chiếm đóng có thể chấp nhận dự thảo hiến pháp của họ, hay ít nhất xem xét nó trong các cuộc thương lượng. Chính khi đó MacArthur, hoài nghi rằng chính phủ lâm thời Nhật bản đã có sự táo bạo để đề xuất một hiến pháp như vậy, đã chỉ định một nhóm nhỏ bên trong GHQ để soạn một phiên bản mới. Nói cách khác, chỉ sau khi Nhật Bản đã có một sự rạn nứt trong việc soạn ra hiến pháp riêng của nó thì lực lượng chiếm đóng do Hoa Kỳ-lãnh đạo mới bắt tay vào việc soạn một phiên bản sửa đổi.
Dự thảo hiến pháp ban đầu từ chính phủ lâm thời Nhật bản làm rõ rằng chính phủ sẽ không chấp nhận một hiến pháp “nước ngoài” mà không đầu tiên có một tiếng nói về Nhật Bản có thể được quản trị thế nào. Quả thực, MacArthur, nhờ công trạng của ông, đã không bỏ qua thực tế chính trị Nhật bản. Ông đã nhận ra tầm quan trọng của thiên hoàng và nền quân chủ như một lực lượng tạo sự thống nhất ở Nhật Bản. Thiên hoàng đã không thể bị loại bỏ hoàn toàn, dù đáng ghét như khái niệm về một nền quân chủ đối với những người Mỹ và bản thân MacArthur. MacArthur đã buộc phải nhượng bộ vì các triển vọng của nền dân chủ dựa một phần vào vai trò của thiên hoàng trong việc tạo sự cố kết và sự ổn định quốc gia ngay sau chiến tranh, cũng như trong việc hợp pháp hóa một hiến pháp mới. MacArthur đã miễn cưỡng thừa nhận rằng một hiến pháp có thể chấp nhận được cho Nhật bản cần duy trì nền quân chủ.
Như thế, khi tướng Mỹ Courtney Whitney viếng thăm các nhà lãnh đạo Nhật bản cấp cao trong tháng Hai 1946 để thảo luận hiến pháp, ông trình bày một dự thảo giữ lại một vai trò biểu tượng cho thiên hoàng và nền quân chủ, một sự nhượng bộ chiến lược từ phía Mỹ cho chính phủ lâm thời bảo thủ của Nhật Bản. Bất chấp những sự nhượng bộ của MacArthur, phản ứng Nhật bản là thù địch một cách có thể dự đoán được. Đoàn đại biểu Nhật bản, do bộ trưởng ngoại giao (và thủ tướng tương lai) Shigeru Yoshida dẫn đầu, cho rằng hiến pháp chịu số phận thất bại ở Nhật Bản và “đơn giản là không thể chấp nhận được.” Học giả pháp lý Nhật xuất chúng Matsumoto Joji cảnh cáo bằng những từ kinh khủng nhất rằng “sự bạo ngược và sự rối loạn nảy sinh khi hiến pháp không phù hợp với hoàn cảnh quốc gia.”16 Nhiều người trong chính phủ và các đồng minh bảo thủ của nó đã xem hiến pháp là một sự sỉ nhục và một mưu toan của lực lượng chiếm đóng để dùng vũ lực chống lại Nhật Bản.
Tuy vậy, một số tiếng nói nổi bật bên trong elite bảo thủ đã tham gia quá trình lập hiến pháp với một cách tiếp cận chiến lược, và cuối cùng mang tính vụ lợi. Các chính trị gia này lập luận rằng việc thừa nhận hiến pháp sẽ tạo ra một sự đền đáp chính trị cho chính phủ bảo thủ đương nhiệm. Chẳng hạn, Ashida Hitoshi, một nhà lãnh đạo chính phủ cấp cao, cho rằng việc phản đối hay bác bỏ hiến pháp có thể dẫn đến những thất bại bảo thủ trong các cuộc bầu cử sắp tới. Ông còn lập luận thêm rằng bằng việc thừa nhận dự thảo hiến pháp do Whitney trình bày, các chính trị gia bảo thủ, mà nhiều trong số họ giữ ghế đương nhiệm trong cơ quan lập pháp, có thể kỳ vọng làm tốt trong các cuộc bầu cử tương lai, và một cách cụ thể trong tranh đua bầu cử Diet tháng Tư 1946. Các chính trị gia bảo thủ có thể giành được sự ủng hộ cử tri từ các cử tri ủng hộ dân chủ. Nói cách khác, việc thừa nhận hiến pháp đã làm tăng sự tự tin của những người bảo thủ rằng họ có thể giành được một cơ sở đáng kể của sự ủng hộ dân chúng. Việc bác bỏ nó, mặt khác, sẽ gây ra các vấn đề cho các chính trị gia đương nhiệm tìm cách giữ lại ghế của họ trong Diet.
Những người khác trong phe bảo thủ lấy một quan điểm chiến lược dài hạn hơn nhưng tương tự. Một số người tin chính phủ lâm thời có ít lựa chọn trừ chấp nhận dự thảo hiến pháp của lực lượng chiếm đóng lúc đó. Các áp lực chính trị để làm vậy, như chúng tôi đã lưu ý trước, đã đơn giản là quá lớn để bỏ qua. Tuy vậy, cùng các chính trị gia này cũng tin rằng “vào một thời điểm muộn hơn, sẽ là có thể để hủy bỏ phần lớn những gì đã được làm.” Việc thừa nhận hiến pháp không loại trừ việc chính phủ sửa đổi nó muộn hơn, sau khi sự chiếm đóng chấm dứt. Thủ tướng tương lai Yoshida, người đã có mặt trong cuộc họp 1946 với Whitney, đã thú nhận, “Tôi đã có ý tưởng này trong đầu lúc đó rằng bất kể những gì cần xét lại sau khi chúng ta lấy lại sự độc lập của mình, thì có thể được xét lại.”17 Việc thừa nhận hiến pháp đã cho chính phủ lâm thời không chỉ một sự đẩy mạnh tiềm năng tại các thùng phiếu trong cuộc bầu cử Diet sắp tới mà cả cơ hội để cuối cùng duyệt lại hiến pháp, mà không có sự can thiệp Mỹ. Giống các trường hợp khác, muộn hơn của dân chủ qua sức mạnh ở châu Á kiến tạo-phát triển, sự thừa nhận dân chủ ban đầu của Nhật Bản đã là một thử nghiệm có thể đảo ngược.
Cuối cùng, chính phủ Nhật bản thừa nhận hiến pháp dân chủ từ một logic chiến lược của sự tự-bảo tồn chính trị. Áp lực Mỹ chắc chắn là quan trọng, dù các chính trị gia Nhật bảo thủ cũng thấy rằng bằng việc chấp nhận hiến pháp, họ có cơ hội tốt nhất để giữa quyền lực của họ qua các phương tiện dân chủ: bằng việc giành được phiếu. Các chính trị gia trong chính phủ lâm thời có thể thừa nhận dân chủ, nhưng họ đã không thừa nhận thất bại hay sự lỗi thời chính trị. Thay vào đó, họ thừa nhận dân chủ để thắng. Các chính trị gia bảo thủ đã phục hồi hệ thống đảng mà có sẵn trong các năm 1910 và các năm 1920 để huy động cơ sở cử tri của những người bảo thủ. Các luật cải cách quyền bỏ phiếu của thủ tướng Shidehara cuối 1945 tương tự được thúc đẩy bởi niềm tin của ông rằng các cử tri vẫn ủng hội các chính trị gia bảo thủ. Việc mở rộng quyền bỏ phiếu “giúp sự tiếp tục của các lực lượng bảo thủ,” sẽ không đánh bại hay thậm chí làm què chính phủ đương nhiệm.18
Chiến lược thừa nhận-để-thắng của những người đương nhiệm mang lại kết quả nhanh chóng. Trong tháng Tư 1946 Nhật Bản tổ chức cuộc tổng tuyển cử đầu tiên sau chiến tranh của nó cho Diet quốc gia. Đảng Tự do và Đảng Tiến bộ, hai đảng chính trị bảo thủ lớn nhất của Nhật Bản, đã huy động cơ sở của chúng và giành được tổng cộng 258 trong số 464 ghế, hay 56 phần trăm của cơ quan lập pháp. Hai đảng bảo thủ tiến hóa từ các tiền thân bảo thủ của chúng, tuyển mộ những người kỳ cựu và các chính trị gia từ các đảng chính trị thời-Taisho để ứng cử trong cuộc bầu cử 1946. Đảng lớn thứ ba trong Diet sau bầu cử, Đảng Xã hội, giành được chỉ 96 ghế lập pháp. Tỷ lệ cử tri đi bàu cho cuộc bầu cử 1946 đã hơn 70 phần trăm, bằng chứng thêm về cơ sở ủng hộ dân chúng rộng của những người bảo thủ.
Ngược với sự hiểu biết thông thường, các lực lượng chính trị bảo thủ trong thời kỳ ngay sau chiến tranh đã không yếu, và chẳng hề là một lực lượng chính trị tàn lụi và không thích đáng chút nào. Quá trình, theo đó hiến pháp xảy ra ở Nhật Bản sau chiến tranh, minh họa mức độ mà elite chính trị Nhật bản—và một một cách cụ thể, đội ngũ các chính trị gia bảo thủ mà đã tìm được cách để vượt qua sự chuyển đổi sau chiến tranh—đã sử dụng rất nhiều năng lực hành động chiến lược trong việc soạn những điều khoản hiến pháp của thử nghiệm dân chủ Nhật sau chiến tranh. Họ thừa nhận dân chủ để bảo đảm sự đương nhiệm tiếp tục của họ. Chính phủ lâm thời và các đồng minh bảo thủ của nó đặt cược lớn vào các sức mạnh được thừa kế của họ—và trong cuộc bầu cử 1946 đầu tiên sau chiến tranh của Nhật Bản, họ đã thắng.
Thừa nhận với sự Tự tin
Sự không chắc chắn bầu cử là một dấu xác nhận phẩm chất của nền dân chủ, như nhà lý thuyết dân chủ Adam Przeworski nhắc nhở chúng ta.19 Sự tranh cãi dân chủ tự do và công bằng có nghĩa rằng các kết cục chính trị chẳng bao giờ có thể được định trước hay, còn tồi hơn, bị thao túng và được sắp xếp bởi các lực lượng chính trị thối nát, cưỡng bức. Sự không chắc chắn bầu cử không có nghĩa, tuy vậy, rằng các diễn viên chính trị không thể tự tin bằng việc thừa nhận dân chủ, họ thực ra có thể tăng sự ủng hộ chính trị của họ và trở nên hùng mạnh về mặt chính trị nhiều hơn, không phải ít hơn. Rốt cuộc, nền dân chủ không phải là hoàn toàn không chắc chắn, Przeworski lập luận, mà đúng hơn là một hình thức của “sự không chắc chắn được thể chế hóa” trong đó các đảng cầm quyền được lòng dân có thể tự tin rằng các cuộc bầu cử sẽ được lặp lại và được tôn trọng, và có thể góp phần cho lợi ích tái diễn của chúng.
Tại Nhật Bản, việc thừa nhận dân chủ từ sức mạnh đã có nghĩa là sự thừa nhận với sự tự tin rằng sự đưa nền dân chủ vào sẽ phục vụ các lợi ích chính trị đương nhiệm. Các chính trị gia bảo thủ với gốc rễ của họ trong thời đại sớm hơn của nền dân chủ Taisho đã có nhiều lý do để tự tin không chỉ rằng hiến pháp dân chủ sau chiến tranh sẽ đóng góp cho một sự chuyển đổi ổn định mà cả rằng những người bảo thủ đương nhiệm sẽ duy trì và có tiềm năng thậm chí tăng quyền lực chính trị của họ.
Bất chấp sự liên kết của họ với một thử nghiệm dân chủ thất bại trong thời kỳ trước chiến tranh, các chính trị gia bảo thủ, mà đã bênh vực nền dân chủ đế quốc, có khả năng chứng minh với các cử tri rằng họ đã thành công mang lại nền dân chủ ở Nhật Bản sau chiến tranh. Điều này một phần là do sự thực rằng các chính trị gia bảo thủ đã tham gia trọn vẹn vào các cuộc thương lượng hiến pháp và có thể chỉ ra hiến pháp mới như bằng chứng của sự cam kết của họ với nền dân chủ. Hơn nữa, tính đáng tin của lời xác nhận của họ rằng họ mang lại nền dân chủ là do các lực lượng chiếm đóng đã bao gồm các chính trị gia bảo thủ trong quá trình cải cách, định vị họ như các đối tác, hơn là các địch thủ hay những người phi-dân chủ phủ nhận sự thay đổi, trong việc dẫn đến cải cách dân chủ.
Việc mang lại nền dân chủ đã kiếm được tính chính danh dân chủ và sự đáng tin cho các chính trị gia bảo thủ và chính phủ đương nhiệm. Như chúng ta sẽ thấy trong các chương tiếp theo sau, khả năng của một chế độ đương nhiệm để vẽ chân dung mình như đảng cải cách và lấy công trạng cho sự biến đổi dân chủ tạo ra các nguồn quan trọng của sự ủng hộ chính trị và cử tri. Nó được chứng minh là một chiến thuật chính trị chiến thắng, và không chỉ Nhật Bản. Ở Đài Loan và Hàn Quốc, chẳng hạn, việc khởi xướng chuyển đổi dân chủ và việc mang lại nền dân chủ đã cho phép các đảng độc đoán đương nhiệm cầm quyền, trong chừng mực nào đó, để vô hiệu hóa sự chia tách chế độ và hút sự ủng hộ cử tri khỏi đối lập ủng hộ dân chủ.
Các nhà cải cách dân chủ ở Nhật Bản đã không chỉ làm sống lại hệ thống đảng; họ đã tự tin hệ thống bầu cử FPTP (ai được nhiều phiếu nhất sẽ thắng), cũng được thừa kế từ thời đại Taisho, làm lợi cho các đảng bảo thủ đương nhiệm. Trong thời gian chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử 1946, Đảng xã hội [chủ nghĩa] và Đảng Cộng sản nhỏ hơn đã thúc để thiết kế lại các quy tắc trò chơi bầu cử và thực hiện một hệ thống bầu cử đại diện tỷ lệ (proportional representation-PR). Các hệ thống như vậy trao lợi thế cho các đảng chính trị nhỏ hơn và được thúc đẩy về ý thức hệ hơn. Sở thích của những người Xã hội và Cộng sản cho một hệ thống PR vì thế không phải là ngạc nhiên, vì nó đảm bảo một tiếng nói lớn hơn cho các đảng cánh tả của Nhật Bản trong cơ quan lập pháp.
Những người bảo thủ, cũng không ngạc nhiên, đã chống lại sự thay đổi này. Họ đã tìm cách để bảo tồn hệ thống FPTP, mà đề cao các khu vực bầu cử lớn nơi các cử tri chọn từ giữa các ứng viên đảng khác nhau. Trong hệ thống đó, ứng viên với nhiều phiếu nhất, một đa số thường (có thể < 50% nhiều) và không nhất thiết một đa số (> 50%) ủng hộ, giành được ghế (của) khu vực (đó). Hơn nữa, trong khi các đảng bảo thủ lớn hơn có khả năng đưa ra một danh sách ứng viên có tính cạnh tranh trải khắp toàn bộ đất nước, thì các đảng nhỏ hơn, như các Đảng Xã hội và Cộng sản, đã không thể, vì chúng có khuynh hướng được lòng dân hơn trong các thành phố. Như thế hệ thống hiện tồn cho các đảng bảo thủ quốc gia một phần thưởng ghế khá lớn trong các khu vực bầu cử nông thôn, nơi chúng đã có những bước đột phá đáng kể trong các năm 1920, và nơi các đảng cánh tả có cơ sở đô thị đã có ít sự ủng hộ, khiến chúng bị bất lợi thêm. Nói đơn giản, việc duy trì hệ thống bầu cử, hơn là cải cách nó, đã cho các đảng quốc gia lớn một lợi thế đáng kể với đối lập.20
Mặc dù dân chủ hóa dẫn đến các cuộc bầu cử tự do và công bằng hơn, các quy tắc trò chơi cụ thể hầu như luôn luôn tạo ra các lợi thế cho một số đảng chính trị hơn các đảng khác. Như chúng ta sẽ thấy trong các chương về Đài Loan và Hàn Quốc, hệ thống bầu cử cụ thể vào lúc chuyển đổi dân chủ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nền dân chủ diễn ra thế nào ở đó nữa. Trong cả hai trường hợp, các quy tắc trò chơi bầu cử cung cấp những lợi thế cho các chế độ đương nhiệm. Một đảng tự tin hơn, rằng chuyển đổi dân chủ sẽ không báo hiệu cái chết bầu cử của họ mà thay vào đó cải thiện vận may bầu cử của họ, là một đảng có khả năng hơn để theo đuổi một lựa chọn dân chủ.
Sở thích bảo thủ cho hệ thống FPTP, có cơ sở khu vực bầu cử đã thịnh hành ở Nhật Bản. Như được kỳ vọng, hai đảng bảo thủ, Đảng Tự do và Đảng Tiến bộ, đã có một màn trình diễn mạnh mẽ trong cuộc tổng tuyển cử 1946, cuộc tranh đua sau chiến tranh đầu tiên của Nhật Bản. Đảng Tự do đã giành được nhiều ghế nhất, khiến nó trở thành đảng lớn nhất trong Diet. Hai đảng bảo thủ kết hợp lại giành được 45,7 phần trăm phiếu phổ thông với sự ủng hộ toàn quốc từ các thành phố và nông thôn như nhau. Bởi vì các quy tắc bầu cử và sự phân bổ khu vực bầu cử, tuy vậy, tỷ lệ phiếu 45,7 phần trăm của các đảng bảo thủ đã chuyển thành sự kiểm soát 56 phần trăm ghế Diet, tương ứng với một phần thưởng ghế là 10 phần trăm. Đảng Xã hội đối lập, trong khi đó, có được một phần thưởng ghế chỉ 2 phần trăm, phản ánh sự đại diện quá của đảng trong các vùng đô thị và sự thiếu ủng hộ của nó trong các khu vực bầu cử nông thôn. Đảng Cộng sản đã giành được ít hơn 4 phần trăm phiếu, xác nhận sự tự tin bảo thủ.
Sự biến đổi dân chủ đã không làm xói mòn hay làm yếu bộ máy quan liêu mạnh và có năng lực mà ở lõi nhà nước kiến tạo-phát triển của Nhật Bản trước chiến tranh.21 Bất chấp mục tiêu của cuộc chiếm đóng để biến đổi nền chính trị Nhật bản, thật đáng chú ý, nó để bộ máy quan liêu còn nguyên. Những người Mỹ đã quan tâm đến sự ổn định, cho nên họ không muốn phá dỡ bộ máy quan liêu nhà nước kiến tạo-phát triển. Thay vào đó, lực lượng chiếm đóng đã xem bộ máy quan liêu qua một lăng kính Weberian, như một diễn viên phi-chính trị. Một bộ máy quan liêu nhà nước mạnh và có năng lực, trong đầu óc của các nhà lãnh đạo chiếm đóng, không phải là một mối đe dọa cho nền dân chủ. Hoàn toàn ngược lại, thực ra, SCAP tin một bộ máy quan liêu mạnh và có khả năng là cần thiết cho việc thực hiện cải cách chính trị và cho việc làm sống lại nền kinh tế Nhật bản. Bộ máy nhà nước kiến tạo-phát triển, được phát triển đầu tiên ở Nhật Bản sau Minh trị Duy tân trong giữa-thế kỷ thứ mười chín, đã là rất quan trọng cho việc bảo đảm một sự chuyển đổi ổn định trong giữa-thế kỷ thứ hai mươi.
Như chúng tôi đã lập luận sớm hơn trong chương này, bộ máy quan liêu nhà nước kiến tạo-phát triển trước chiến tranh là quan trọng cho sự phát triển kinh tế của Nhật Bản, và sự phục hồi kinh tế nhanh sau chiến tranh của Nhật Bản đã là quan trọng cho việc tạo ra sự ủng hộ chính trị cho chính phủ bảo thủ và cho sự ổn định tổng thể. Tính liên tục quan liêu cũng đã cho phép các đảng bảo thủ để nêu bật thành tích phát triển trước chiến tranh của họ, hay cái Anna Grzymala-Busse gọi là “quá khứ có thể sử dụng được” của một chế độ.22 Trong khía cạnh này, tính liên tục quan liêu và sự kéo dài của một nhà nước kiến tạo-phát triển có khả năng đã làm lợi cho những người bảo thủ đương nhiệm, ủng hộ sự tự tin của họ rằng dân chủ hóa sẽ không đe dọa, và chắc có khả năng sẽ thậm chí tăng cường, sự bám chặt quyền lực chính trị bảo thủ.
Ngược lại với tính liên tục quan liêu sau chiến tranh, quân đội, mà đã phá hủy thử nghiệm dân chủ ban đầu của Nhật Bản trong các năm 1930, bị gạt sang bên lề sau 1945. Tiết đoạn 6 của Tuyên bố Potsdam nói rõ rằng “quyền lực và ảnh hưởng của những người mà đã lừa gạt và lừa dối nhân dân Nhật Bản vào việc bắt tay chinh phục thế giới” sẽ bị “loại bỏ mãi mãi.” Ngay sau sự đầu hàng của Nhật Bản, SCAP đã cấm các nhánh khác nhau của các lực lượng vũ trang. Đặc biệt, lực lượng chiếm đóng đã loại trừ lực lượng cảnh sát đặc biệt, bộ máy an ninh nội bộ được chế độ phát xít thời chiến tranh dùng để đàn áp các công dân của nó. Trong các vụ Xử Tokyo 1946, hàng ngàn sĩ quan quân đội bị xử và bị trừng phạt vì sự tham gia của họ vào chiến tranh và sự bành trướng đế quốc của Nhật Bản. Hiến pháp dân chủ cố tình hạn chế khả năng của Nhật Bản để tái vũ trang quân đội của nó.
Tác động của sự chiếm đóng Mỹ trong việc loại bỏ kẻ thù lớn nhất của nền dân chủ Nhật bản, trong sự kỹ lưỡng và sự nhanh chóng của nó, đã là hết sức quan trọng. Nếu không có sự can thiệp của Mỹ, sự đưa nền dân chủ vào đã là không thể. Quyền lực cưỡng bức của cuộc chiếm đóng do Mỹ-lãnh đạo đã đảm bảo sự tháo dỡ quân đội và đặt những gì còn lại của quân đội dưới sự kiểm soát dân sự vững chắc. Điều này, kết hợp với các ràng buộc hiến định được áp đặt lên nền quân chủ, đã giải quyết các mâu thuẫn của nền dân chủ đế quốc thời-Taisho và đã cải thiện sự cân bằng mỏng manh giữa thiên hoàng, quân đội, và các đảng chính trị được nhân dân bàu.
Sự loại bỏ quân đội đã tạo ra không gian chính trị cho sự làm sống lại các đảng và vai trò của chúng như trụ cột tổ chức và thể chế mấu chốt của nền dân chủ. Trước khi sân chơi chính trị có thể được làm phẳng giữa các đảng đương nhiệm và các đảng đối lập, như theo định nghĩa nền dân chủ luôn luôn đòi hỏi, dân chủ hóa ở Nhật Bản đã đòi hỏi một sân chơi bằng phẳng giữa các chính trị gia được bàu và những người giữ quyền lực không được bàu. “Sự chung sống” dân sự-quân sự của nền dân chủ đế quốc trước chiến tranh không được lặp lại ở Nhật Bản sau chiến tranh.
Tóm lại, các chính trị gia bảo thủ và các đồng minh của họ thừa nhận dân chủ từ một vị trí sức mạnh tương đối, không phải thế yếu, mà đã cho họ sự tự tin rằng sự đưa nền dân chủ vào sẽ không báo hiệu cái chết chính trị của họ hay dẫn đến sự bất ổn định. Thay vào đó nền dân chủ sẽ tăng cường sự nắm giữ quyền lực bảo thủ, làm sống lại nhà nước kiến tạo-phát triển, và khởi động sự phục hồi kinh tế của Nhật Bản. Kết cục của cuộc bầu cử 1946 đã xác nhận sự tự tin chiến thắng và sự tự tin ổn định của các đảng bảo thủ.
* theo thuyết của Thomas Hobbes về bản chất con người cạnh tranh vô độ, ích kỷ và không văn minh dẫn đến loạn lạc tất cả chống tất cả và để tránh tình trạng đó cần một nhà nước quân chủ tuyệt đối.