Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 5 tháng 7, 2025

Étienne de la Boétie – Con đường từ Nô lệ đến Tự do & Những tương giao lịch sử

 Nguyễn Hồng Anh

Étienne de la Boétie có lẽ là một tên tuổi không mấy quen thuộc trong cộng đồng học thuật ở Việt Nam, một phần vì di sản ông để lại thật ít ỏi. Nhưng đóng góp của một người không phải đo bằng độ dày của các công trình, mà bằng giá trị vượt thời gian của chúng. Luận văn về Tình trạng Nô lệ Tự nguyện (gọi tắt là Luận văn) của Étienne de la Boétie là một công trình như thế, xuất hiện vào giữa thế kỷ 16 như một cú đột phá về tư tưởng đương thời và ứng nghiệm với nhiều thời, trở thành nguồn cảm hứng lớn lao cho những nhà chính trị, nhà văn hoá cách xa ông hàng thế kỷ, trong số đó, theo Murray Rothbard (2002, tr. 18), có thể kể đến Lev Tolstoy, Henry David Thoreau, Benjamin R. Tucker, Gustav Landauer…

Khi đề thi trở thành cái bẫy vô hình của việc dạy và học Ngữ văn

 Đinh Thanh Huyền

Chương trình (CT) Ngữ văn 2018 là một bước tiến vượt bậc so với CT trước đó. Mục tiêu của CT là giúp học sinh (HS) phát triển các năng lực đọc, viết, nói và nghe, phát triển khả năng tư duy sáng tạo, chủ động trong tiếp nhận tri thức, gắn kết sâu với đời sống, hình thành những phẩm chất tốt đẹp cho các em. Kì vọng của các nhà giáo dục là HS có thể đọc và đánh giá được nhiều loại văn bản khác nhau trong các tình huống đọc cụ thể (không chỉ văn chương, không chỉ trong sách giáo khoa). Mục tiêu đó tuy không dễ, nhưng hoàn toàn có thể đạt được nếu có phương pháp, cách thức thực hiện. Nhưng thực tế thì sao? Môn Ngữ văn đang lâm vào tình trạng mắc kẹt trong cái bẫy vô hình tự dựng nên, điều này trước hết lộ ra từ thực trạng đề thi.

Thứ Sáu, 4 tháng 7, 2025

Hồ Nhĩ Hải hồi sinh – Một thí điểm của Khoa học Môi trường, một thành công của nền Văn minh Sinh thái

Ngô Thế Vinh

 

Tom Mollenkopf, Chủ tịch Hiệp hội Nước Quốc tế IWA (International Water Association) nhận định rằng “Dự án đổi mới kiểm soát ô nhiễm hồ Nhĩ Hải và Phát triển Lưu vực đã cung cấp những hiểu biết quan trọng cho lĩnh vực môi trường nước toàn cầu”.  Dự án được đánh giá là xuất sắc và đã được trao tặng Huy chương Bạc tại Đại hội Triển lãm Nước Thế giới.  [Copenhagen 08.2022]


Phan
Nhạc, sinh năm 1960, là một thứ trưởng trẻ nhất trong chính phủ Trung Quốc, người đi đầu trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, trước một nhóm sinh viên trẻ, ông đã thẳng thắn phê phán: "Mô hình phát triển kinh tế hiện tại của chúng ta là không bền vững. Ô nhiễm môi trường đã hạn chế nghiêm trọng tăng trưởng kinh tế, và bất công xã hội dẫn đến bất công môi trường, đến lượt nó lại làm trầm trọng thêm bất công xã hội, tạo ra một vòng luẩn quẩn gây ra bất hòa xã hội”. [2007, Pan Yue 潘岳]

*

MỘT THOÁNG 23 NĂM:

CÙNG BẦY CHIM CỐC TRÊN HỒ NHĨ HẢI

Một ngày của trung tuần tháng Chín năm 2002, sau khi thoát ra được vòng rào con Đập Mạn Loan, con đập lịch sử, con đập thuỷ điện đầu tiên trên sông Langcang-Mekong. Từ huyện Manwan bằng đường bộ, chúng tôi lên tới cổ thành Đại Lý (Dali) trời cũng đã sẩm chiều. Đại Lý vẫn được so sánh như một tiểu Katmandu của Nepal, nơi có nhiều thắng cảnh và di tích lịch sử của hơn 1 triệu sắc dân Bạch (Bai) với gốc rễ văn hóa lâu đời từ hơn ba ngàn năm. Từ thế kỷ thứ 7, đã có một nước Nam Chiếu (Nanzhao) rất hùng mạnh từng đánh bại quân Nhà Đường vào thế kỷ thứ 8. Sang thế kỷ thứ 10 trở thành vương quốc Đại Lý cho tới thế kỷ 14, thời Nguyên Mông (Mongol Yuan) thì không chỉ Đại Lý mà toàn vùng Vân Nam đã trực thuộc vào nước Trung Hoa.

 

Hình 2: Cổ thành Đại Lý với sắc dân Bạch có lịch sử hơn 3 ngàn năm, vẫn có đó một Chùa Ba Ngôi của nước Nam Chiếu đã có từ Thế Kỷ thứ IX.)

 

Vẫn còn đó những kiến trúc cổ xưa như Chùa Ba Ngôi được xây cất từ thế kỷ thứ 9, các ngôi nhà đá cổ với cả những con đường đá quanh co. Nhưng thực sự đã không còn nguyên vẹn một cổ thành Đại Lý, bức tường thành kiên cố bằng đá không còn nữa, các cổng thành gốc đã bị phá đi thì nay được mô phỏng xây dựng lại nhưng với bên trong là những gian hàng bán nữ trang và đồ lưu niệm cho du khách. Đi bộ từ Cửa Bắc tới Cửa Nam của Cổ Thành, qua những đường phố nhỏ với đường lát gạch, hai bên đường là những quán ăn, tiệm Café Internet và luôn luôn tấp nập với các đoàn du khách được hướng dẫn bởi những cô gái gốc Hán má phấn môi son nhưng lại với y phục rực rỡ của sắc dân Bạch.

Phía tây Đại Lý là trùng điệp núi non, phía đông là hồ Nhĩ Hải Erhai. Nhĩ Hải là hồ nước ngọt lớn thứ hai của Vân Nam (sau hồ Điền Trì 滇池 Dianchi) đổ vào sông Mekong qua một phụ lưu là con sông Tây Nhĩ (西洱 Xi’er). Hồ Nhĩ Hải được coi như một “tiên cảnh” của sắc tộc Bạch, là một hồ rất sâu đã từng có tới hơn 40 loại cá khác nhau nổi tiếng nhất là loại “cá quậy (Dali split-belly fish) giống như cá chép có đặc tính ngậm đuôi vào miệng rồi bung ra nhảy cao trên mặt nước. Vân Nam rất xa biển nên người dân Vân Nam thích đặt tên biển cho những hồ lớn của họ. Đại Lý mưa tầm tã từ nửa đêm kéo dài tới sáng hôm sau. Nhưng rồi mặt trời cũng ló dạng. Khí hậu đủ tốt cho một nửa ngày đánh cá bằng chim cốc (cormorants) trên hồ Nhĩ Hải.

Chiếc xe phải len lách giữa những thửa ruộng trên một con đường đất đá để tới được làng đánh cá nhỏ bên bờ tây của hồ Nhĩ Hải, gặp bác ngư dân sắc tộc Bạch da sạm nắng tuổi cũng gần 60, bác sống với đàn chim cốc cũng phải tới hai chục con đã được thuần hóa. Có khách tới, bầy chim được tự do ra khỏi những chiếc lồng, tung tăng duỗi chân duỗi cánh hân hoan. Thay vì đeo vào cổ chim những chiếc vòng, rất nhanh và thành thạo người đàn ông dùng mớ lạt, buộc cổ từng con chỉ vừa đủ chặt để ngăn chúng nuốt xuống những con cá lớn bắt được, rồi ra lệnh cho đàn chim tung mình xuống nước và bơi theo ghe ra hồ.

*

 

Hình 3: Trước buổi săn cá trên hồ Nhĩ Hải, một ngư ông sắc dân Bạch đang dùng dây lạt thắt vòng trên cổ mỗi con chim Cốc, ngăn không cho chim nuốt những con cá lớn để sau đó thu hoạch; (trái) đàn chim Cốc đã được thuần hoá, trở nên rất dạn dĩ và thân thiện với du khách. (phải) [Ngô Thế Vinh, tường trình từ Vân Nam, Đại Lý 09.2002]

Gần bờ, nước hồ Nhĩ Hải ô nhiễm đặc sánh lại một màu xanh của tảo và rong rêu, cũng không ngạc nhiên khi thấy các rãnh nước thải từ thành phố chảy qua các ruộng lúa rồi đổ thẳng xuống hồ. Phải thật xa bờ, nước hồ mới một phần trở lại trong xanh.

Như những người bạn thân thiết, bầy chim cốc và ngư ông hoạt động nhịp nhàng. Cảnh tượng thật kỳ lạ chỉ bằng khẩu lệnh với những âm thanh sắc ngắn là cả một bầy chim từng đợt từng đợt vỗ cánh rồi cùng ngụp lặn sâu dưới mặt nước. Phải một lúc sau mới thấy từng con trồi lên, con chim nào với chiếc cổ phồng to phía trên nút lạt thắt là dấu hiệu bắt được cá lớn, ngư ông chỉ cần tới gỡ mỏ từng con chim cốc và thu hoạch. Mẻ cá đầu tiên của một chú chim cốc là hai con cá chép chỉ nhỏ hơn nửa bàn tay.

Bầy chim tỏ ra rất thân thiện, nhảy lên ghe, đậu trên mái chèo hay trên tay khách. Cảnh trí thiên nhiên hữu tình, chủ khách và bầy chim thực sự giao hòa. Tỏ tình thân, người đàn ông gốc Bạch mời tôi điếu thuốc hút. Cũng đã 30 năm rồi, lần đầu tiên tôi đã lại vui vẻ đón nhận và cả thưởng thức điếu thuốc thơm Vân Nam trên mặt hồ Nhĩ Hải.

Cách đây ngót 8 thế kỷ (1278), Marco Polo trên Con Đường Tơ Lụa Phương Nam (Southern Silk Route) đặt chân tới đây và ghi nhận cá ở hồ Nhĩ Hải là “nhất thế giới” sau đó Marco Polo đã vượt qua sông Mekong phía tây Vân Nam để ra khỏi Trung Hoa.

Sáu thế kỷ sau Marco Polo (1868), đoàn thám hiểm Pháp với Doudart de Lagrée & Francis Garnier khởi hành từ Sài Gòn bằng cuộc hành trình gian truân ngược dòng sông Mekong kéo dài hai năm cuối cùng Francis Garnier cũng tới được hồ Nhĩ Hải phía đông khu cổ thành Đại Lý. Nhưng Francis Garnier đã bị vị Sultan, vua Hồi từ chối tiếp kiến và buộc đoàn phải rời Đại Lý ngay sau đó.

Hơn 130 năm sau Francis Garnier, chúng tôi đang trở lại với sinh cảnh đẹp đẽ nhưng đã quá mong manh và có lẽ là những năm tháng cuối cùng của hồ Nhĩ Hải với nước hồ ngày càng ô nhiễm, đổ thoát ra bằng một phụ lưu lớn là con sông Xi’er để rồi cuối cùng cũng đổ dồn vào dòng chính con sông Lancang-Mekong.

Sau hai điếu thuốc, chủ và khách đều hân hoan. Lão ngư ông cao hứng bảo sẽ hát cho chúng tôi nghe một bài tình ca có tự lâu đời của sắc dân Bạch. Tuy không hiểu được lời ca nhưng những nốt nhạc thì rất du dương trầm bổng. Theo Wu thì bài hát kể lại mối tình thơ mộng và say đắm của đôi trai gái sắc tộc Bạch, cùng chèo thuyền trên hồ Nhĩ Hải cảnh sắc hữu tình, dưới bầu trời xanh, bên dãy núi cao, trên biển nước mênh mông, mỗi nốt nhạc lời ca là tiếng lòng thổn thức của họ. Ở tuổi gần 60, da sạm nắng và gầy khắc khổ nhưng người đàn ông đã hát với tất cả vẻ đam mê như đang sống lại với mối tình đầu của tuổi thanh xuân ngày nào. Bầy chim cốc vẫn bơi sát theo thuyền, mấy con nhảy đỗ trên ghe thì nghển cổ như để lắng nghe chủ hát.

Tôi hỏi về mức thu hoạch cá với đàn chim cốc. Ông nói đã sống với nghề săn cá bằng chim cốc từ 40 năm và cách đây hơn 10 năm thôi, vẫn có được những mẻ cá lớn nhưng về sau này thì không, lượng cá không hiểu tại sao càng ngày càng ít hẳn đi, chỉ còn lại đàn chim cốc vẫn nuôi sống được gia đình ông chủ yếu bằng tiền của du khách.

HỒ ĐIỀN TRÌ / DIANCHI 滇池, VÀ CON SÔNG HỒNG

Điền Trì là một biển hồ lớn nhất phía nam thủ phủ Côn Minh, đã từng được Marco Polo tới thăm vào thế kỷ thứ 13 mô tả như “một hồ lớn cả trăm dặm và lưới được rất nhiều cá”. Hồ có chiều dài hơn 40 km, diện tích 300 km2 (gần bằng nửa diện tích đảo quốc Singapore), phía tây là núi đồi, phía đông hồ, địa hình bằng phẳng, nguyên là khu chài lưới rất thịnh vượng nhưng rồi do ô nhiễm chất thải từ các khu kỹ nghệ bờ đông nam nên đã không còn cá và thực sự đã không còn một nền ngư nghiệp.

Wu là tài xế cũng là nhà giáo khi đưa chúng tôi tới đây, đã cho biết chính quyền không  sao xử lý được hồ nước thải, không giải quyết được cả một khối lượng nước đã quá ô nhiễm trong hồ lớn Điền Trì – nên Wu đã thuật cho chúng tôi nghe về một kế hoạch táo bạo của chính quyền Vân Nam: dự trù chi phí 2 tỉ yuan để khai thông một đường dẫn cho thoát nước hồ ra sông Hồng, chảy qua Việt Nam rồi đổ ra Biển Đông, sau đó sẽ thay thế bằng nước con sông Dương Tử dẫn vào hồ. Tuy chưa thể kiểm chứng được là có bao nhiêu phần trăm sự thật trong kế hoạch đầy sáng tạo nhưng độc ác của các “công trình sư Đại Hán” ấy, nhưng có thể chắc chắn một điều người giáo viên trung học ấy không đủ giàu tưởng tượng để bịa đặt ra câu chuyện ấy. Đổ tất cả ô nhiễm của hồ Điền Trì vào con sông Hồng như một đường cống rãnh, hậu quả sẽ ra sao trên bao nhiêu triệu cư dân Việt Nam nơi đồng bằng châu thổ đang sống bằng nguồn nước con sông Hồng và đây là điều sẽ được ai quan tâm tới? Việt Nam được biết gì về một kế hoạch “giải quyết môi sinh” theo lối ném bùn sang ao của chánh quyền Vân Nam?  (hết trích dẫn: Mekong dòng sông nghẽn mạch – Tường trình từ Vân Nam 9.2002, Nxb Văn Nghệ). 

Trong chuyến đi Vân Nam 2002, người viết đã được tận mắt thấy một hồ Điền Trì lớn nhất Vân Nam gần như đã chết và một hồ Nhĩ Hải lớn thứ hai thì đang chết dần. Nhưng để rồi, 23 năm được chứng kiến những “cái chết đi và sống lại” của các hồ nước ngọt Trung Quốc như một phép lạ không do Thượng Đế mà do chính con người đã tạo ra… 

CHÂU ĐẠI LÝ VÀ HỒ NHĨ HẢI NGÀY NAY

Hồ Nhĩ Hải trên cao nguyên Vân Nam, độ cao 1972 m trên mực nước biển, cách thủ phủ Côn Minh 265 km về phía tây bắc, là một trong số 16 hồ nay thuộc khu bảo tồn thiên nhiên cấp quốc gia của Trung Quốc. Hồ có chiều dài bắc nam 40 km, chiều rộng đông tây 8 km, diện tích 250 km2 với chu vi 116 km, có chiều sâu trung bình khoảng 11m. Dung tích hồ biến động theo mùa khoảng 2.5 tỉ m3 tới 2.8 tỉ m3.

Đây là một hồ nước ngọt lớn thứ hai của Vân Nam nổi tiếng về cảnh quan và hệ sinh thái phong phú. Vào những năm trước 1970, hồ Nhĩ Hải vẫn  được coi như một “tiên cảnh hạ giới”  với nước hồ trong như ngọc và trên mặt hồ có điểm xuyết một loài hoa quý: hải thái hoa / 海菜花 / haicaihua, tên khoa học là Ottelia acuminata. Hoa có ba cánh trắng, nhị vàng. Hải thái hoa không chỉ nổi tiếng vì đẹp, chỉ có ở Vân Nam, vùng tây nam Trung Hoa. Những thân non và nụ hoa còn được sắc dân Bạch thu hoạch, chế biến thành các món ăn ngon truyền thống rất được ưa chuộng. Y học Trung Hoa còn ghi nhận hải thái hoa đây là một loại thảo dược trị được một số bệnh.

Vì loài hoa này rất dễ bị tổn thương, và không sống được trong môi trường ô nhiễm, nên sau này được các nhà khoa học môi sinh coi hải thái hoa như một “chỉ báo sinh học” về phẩm chất nước (biological indicator of water quality). Bấy lâu, hồ Nhĩ Hải có vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước, tưới tiêu nông nghiệp, và điều hòa khí hậu cho các khu vực xung quanh. Dân địa phương vẫn chủ yếu sống bằng nghề nông, chăn nuôi, đánh bắt cá theo phương thức cổ truyền, vận chuyển và du lịch trên hồ.

 

Năm 1981, hồ Nhĩ Hải và núi Thương Sơn / 蒼山 / Cangshan đã được chính quyền tỉnh Vân Nam quy hoạch là Khu bảo tồn thiên nhiên và sau đó năm 1994 được nâng cấp thành khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia, với mục tiêu bảo quản hồ nước ngọt cùng những cảnh quan với hệ động thực vật thủy sinh phong phú – được coi như một vùng chuyển tiếp nam-bắc của Trung Quốc với cả những di tích địa chất còn sót lại từ thời kỳ băng hà.

 

CÁI GIÁ PHẢI TRẢ CỦA PHÁT TRIỂN

Nhưng rồi vào cuối thập niên 1970s và 1980s, khi một Trung Quốc bắt đầu mở cửa và đổi mới – tạo được những bước phát triển kinh tế nhảy vọt – khởi đầu từ các tỉnh miền đông và đông nam. Riêng vùng tây nam – như cao nguyên Vân Nam trong đó có Châu Tự Trị Đại Lý thì vẫn chìm trong cảnh nghèo khó. Nhưng rồi, tuy muộn màng, cuối cùng Vân Nam cũng được thụ hưởng ánh sáng tăng trưởng kinh tế của cả nước. Với chiến dịch “xóa đói giảm nghèo”, được phát động từ năm 2013 đến năm 2020, tỉnh Vân Nam – trong đó có Châu Đại Lý với ngót nửa triệu cư dân được coi như đã thoát khỏi mức nghèo khó, họ đạt được mức sống cao hơn (i) với thu nhập trên mức tối thiểu; (ii) được đảm bảo thức ăn và quần áo; và (iii) được đảm bảo các dịch vụ y tế cơ bản, nhà ở có điện nước, và giáo dục miễn phí.

Các bước phát triển của Trung Quốc với mở mang các khu kỹ nghệ mới, phải kể tới kỹ nghệ hoá chất với phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, ban đầu đã tạo được những cải tiến trong sản xuất nông nghiệp. Kinh tế phát triển đưa tới sự bùng phát của du lịch nội địa và quốc tế.

 

Hệ quả đưa tới là tình trạng đô thị hoá, với chuyển dịch dân cư, làm gia tăng dân số trong vùng – cùng với cái giá phải trả về môi trường – khiến chất lượng nước trong hồ Nhĩ Hải ngày càng xấu đi và chủng loại hải thái hoa / haicaihua dần dần biến mất. Người ta đã phải chứng kiến sau đó một hồ Nhĩ Hải trải qua những đợt bùng phát tảo xanh (blue-green algae), không những thế nước hồ còn phát ra mùi hôi thối và chất lượng nước được coi là không phù hợp để tiếp cận với con người.

NGUỒN Ô NHIỄM HỒ NHĨ HẢI ĐẾN TỪ ĐÂU

_ Từ các điểm nguồn (point source): các con sông: từ năm 2013 của các nhà khoa học tỉnh Vân Nam phát hiện ra rằng những con sông bấy lâu chảy vào hồ Nhĩ Hải, chất lượng nước được đánh giá là rất ô nhiễm; các chất gây ô nhiễm chính là nitrogen và phốt pho có nguồn gốc từ phân bón nông nghiệp, tất cả nước sông ô nhiễm này chảy vào hồ, gây ra hiện tượng phú dưỡng / eutrofication*.

 [*phú dưỡng / eutrofication là tình trạng nước chứa quá nhiều chất dinh dưỡng từ phân bón, nước thải đưa tới tình trạng bội phát các loại rong rêu /algae, phiêu sinh vật/ plankton, làm cạn kiệt nguồn oxy trong nước, tạo ra các vùng chết trong hồ].  

Ba con sông chính gây ô nhiễm hồ Nhĩ Hải là (1) Vĩnh An Giang / Yong'anjiang 永安江, (2) La Thì Giang / Luoshijiang 罗时江, và (3) Bạch Hạc Khê / Baihexi. Chỉ riêng con sông Vĩnh An Giang đã đổ vào hồ Nhĩ Hải 20% tổng số chất thải.

GIẢI PHÁP: Nhóm dự án đặc biệt nghiên cứu các phân đoạn con sông chảy vào hồ Nhĩ Hải, từ thượng nguồn xuống tới cửa sông, để xây dựng một kế hoạch quản lý hệ sinh thái sông toàn diện. Chỉ riêng nguồn nước từ con sông La Thập Giang, đã đổ 40 triệu tấn nước thải vào hồ Nhĩ Hải hàng năm. Nhóm nghiên cứu đã thảo một kế hoạch với chi phí thấp để làm sạch nguồn nước của sông La Thập Giang. Ở khu vực thượng nguồn, kế hoạch tập trung vào các biện pháp 'bảo tồn sinh thái'; ở các vùng trung lưu chủ yếu là đất nông nghiệp và làng mạc, kế hoạch tập trung vào 'phục hồi sinh thái và tái cấu trúc kinh tế', hướng dẫn nông dân xung quanh trồng các loại cây trồng thương mại ít ô nhiễm, năng suất cao và xây dựng các mương lọc dọc theo bờ sông để làm sạch sơ bộ nước ruộng và nước thải của làng; ở các khu vực hạ lưu đông dân, kế hoạch tập trung vào 'kiểm soát ô nhiễm và quản lý kỹ thuật sinh thái', xây dựng 1.500 mẫu Anh một vùng đất ngập (wetlands) nhân tạo trước khi sông chảy vào hồ. Các vùng đất ngập này được phủ dầy với vật liệu lọc phốt pho, với các bức tường thực vật thủy sinh theo để làm lắng các chất ô nhiễm và làm sạch nước trước khi chảy vào hồ.

Đến tháng 6 năm 2011, sau 5 năm thực hiện, chất lượng nước tại cửa sông La Thập Giang chảy vào hồ đã được cải thiện đáng kể, chất lượng nước phù hợp để con người sử dụng, và cây hải thái hoa / Ottelia acuminata được trồng nhân tạo đã sống lại sau nhiều năm vắng bóng. Nhờ bước thành công này, trong giai đoạn Kế hoạch 5 năm tiếp theo (2011–2015), mô hình hiệu quả từ sông La Thập Giang đã được mở rộng sang các con sông khác chảy vào hồ Nhĩ Hải.

_ Từ các diện nguồn (area source): vùng canh tác, chăn nuôi, khu gia cư. Với cải cách kinh tế, cùng với sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp hóa chất đã dẫn đến gia tăng sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu trong nông nghiệp ở Châu Đại Lý. Tuy tuy có hiệu quả ngắn hạn gia tăng năng xuất, nhưng đồng thời với hậu quả lâu dài là gây ô nhiễm nghiêm trọng chất lượng nước trong lưu vực. Nghiên cứu của Tiến sĩ Chen Xiaohua và các đồng sự từ Viện Khoa học Môi trường Thượng Hải phát hiện ra rằng từ năm 1988 đến năm 2013, khi sự phát triển kinh tế xã hội ở lưu vực Nhĩ Hải được cải thiện, nhưng chất lượng nước trong khu vực cũng đã xấu đi theo cùng tỷ lệ.

1/ Vùng trồng tỏi một củ: từ những năm 1990, nông dân ở vùng Đại Lý đã bắt đầu trồng loại tỏi một củ hay còn được gọi là tỏi đơn với hương vị thơm ngon rất được ưa chuộng. Đến năm 2010, diện tích trồng tỏi đơn ở Đại Lý đã lên tới 13.300 ha, với thu nhập cao hơn nhiều so với việc trồng ngũ cốc. Tuy nhiên, việc trồng tỏi đòi hỏi một lượng lớn nước và phân bón, chỉ một nửa trong số phân bón đó được tỏi hấp thụ và một nửa còn lại vẫn nằm trong đất. Vào mùa mưa, dòng chảy phân bón và thuốc trừ sâu đổ và hồ Nhĩ Hải đã dẫn đến tình trạng dư thừa nghiêm trọng nitrogen và phốt pho trong hồ, dẫn đến tình trạng phú dưỡng và phát triển tảo xanh.

GIẢI PHÁP: Các chuyên gia từ Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc đã khuyến nghị cấm trồng tỏi trong phạm vi 200 mét tính từ bờ hồ Nhĩ Hải, hạn chế trồng loại cây này ở những khu vực cách bờ hồ từ 200 đến 2000 mét và khuyến khích cư dân trồng các loại cây khác sử dụng ít nước và phân bón hơn trên khắp lưu vực. Để kêu gọi nông dân ngừng trồng tỏi, không phải là điều dễ dàng nhưng rồi với quyết tâm và kiên nhẫn thuyết phục của chính quyền, người dân sống gần hồ Nhĩ Hải cũng đã ngừng trồng tỏi và được giúp đỡ chuyển sang trồng các loại cây trái như lựu, đào và quất và tham gia vào hoạt động du lịch.

2/ Vùng chăn nuôi gia súc: vốn là hoạt động có truyền thống lâu đời ở Châu Đại Lý do khí hậu và thổ ngơi thuận lợi của khu vực. Gia súc được chăn thả gần hồ, khiến phân bò trôi vào hồ và làm trầm trọng thêm tình trạng phú dưỡng. Chỉ riêng năm 2007, ước tính có 140.000 con bò sữa được nuôi ở lưu vực Nhĩ Hải, với tải trọng môi trường (environmental load) của mỗi con bò tương đương với 23 người. Nói cách khác, ngành chăn nuôi bò sữa vào thời điểm đó đã đóng góp một tải trọng môi trường tương đương với hơn ba triệu người sống trong lưu vực, trên thực tế đã nhân đôi dấu chân môi trường của dân số toàn bộ châu Đại Lý.

GIẢI PHÁP: Để giải quyết tình trạng ô nhiễm do chăn nuôi bò sữa, sau nhiều năm điều tra và nghiên cứu thực địa, các chuyên gia từ Đại học Khoa học và Công nghệ Côn Minh đã đề xuất hai giải pháp chính: thứ nhất, hạn chế khoảng cách đàn bò sữa và ngăn không cho chúng gặm cỏ quá gần hồ và thứ hai, thành lập các nhà máy phân bón tập trung để chế biến phân bò. Hợp tác với Viện Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc, các chuyên gia đã thiết kế một nhà máy thu gom phân bò để sản xuất phân bón hữu cơ. Giúp doanh nhân địa phương đã xây dựng bốn nhà máy như vậy và thiết lập 25 trạm thu gom phân bò tại các ngôi làng xung quanh lưu vực Nhĩ Hải. Các nhà máy này đã thu gom hơn 1.300 tấn phân bò mỗi ngày và hơn 400.000 tấn phân bò, phân lợn và phân gia cầm mỗi năm. Châu Đại Lý được trợ cấp hàng năm hơn 10 triệu nhân dân tệ cho các nhà máy phân bón để mua phân bò từ nông dân. Loại phân hữu cơ này có hiệu quả là thân thiện với môi trường; chúng không chỉ được sử dụng để kiểm soát nồng độ phốt pho và nitrogen trong hơn hai triệu mẫu đất nông nghiệp ở Châu Đại Lý mà còn được bán trên toàn quốc và cả Đông Nam Á.

3/ Di cư kỹ thuật số và Du lịch: Châu Đại Lý đã có một thời kỳ thu hút giới trẻ từ các thành phố lớn tìm kiếm nơi thoát khỏi lối sống đô thị đầy khói bụi và tắc nghẽn giao thông. Nhiều người đã bán nhà ở thành phố và chuyển đến Đại Lý cùng gia đình để xây dựng nhà trọ sống cùng với cư dân địa phương dọc theo Hồ Nhĩ Hải. Trong lối sống “như cảnh thiên đường”, một số người trẻ trong ngành kỹ thuật cao – do họ có thể làm việc từ xa và được gọi là “người di cư kỹ thuật số / digital migrants”. Từ năm 2014 đến năm 2016, số lượng “người di cư mới” đến Nhĩ Hải từ các vùng khác của Trung Quốc đã tăng từ 30.000 lên gần 100.000, chiếm gần 10% cư dân quanh hồ. Cũng vào năm 2014, Châu Đại Lý đã đón 808.300 khách du lịch nước ngoài25,67 triệu khách du lịch trong nước. Sự phát triển nhanh chóng của ngành du lịch tuy có làm tăng thu nhập của người dân địa phương nhưng các biện pháp bảo vệ môi trường lại tụt hậu. Các nhà trọ, chuỗi nhà hàng đã tạo ra một lượng nước thải sinh hoạt rất lớn. Lượng chất thải dân dụng và liên quan đến du lịch đổ vào hồ đã lên tới hơn 600 tấn mỗi ngày.

GIẢI PHÁP: Chính quyền Châu Đại Lý đã yêu cầu 2.498 nhà hàng, nhà trọ và nhà dân xả nước thải sinh hoạt vào hồ Nhĩ Hải dừng hoạt động. Ban đầu, họ đã phản đối kịch liệt. Nhóm dự án đặc biệt của Nhĩ Hải, đã phải đích thân tiếo xúc với từng chủ nhà trọ và cùng đi với các phóng viên báo chí và truyền hình. Các giới chức đã phải đến các nhà hàng, và nhà dân, nhiều lần với giải thích cho họ về các mối đe dọa ô nhiễm mà hồ Nhĩ Hải đang phải đối mặt. Quá trình thuyết phục người dân địa phương và các chủ doanh nghiệp rất khó khăn, nhưng rồi cuối cùng, cũng đã đạt được sự đồng thuận với quan điểm rằng chỉ tập trung vào lợi ích kinh tế ngắn hạn cũng giống như 'giết chết con ngỗng đẻ trứng vàng', phá hủy tương lai của toàn bộ cộng đồng. Cuối cùng, tất cả các chủ nhà trọ và nhà dân ở quanh hồ Nhĩ Hải đã chấp nhận quyết định của chính phủ, tạm dừng hoạt động trong 18 tháng để tiến hành các biện pháp di dời và cải tạo. Năm 2018, đã 1.806 gia đình (thuộc 23 ngôi làng) trong phạm vi 15 mét tính từ hồ đã bị phá dỡ với sự đồng ý của chủ sở hữu, các địa điểm đã được khôi phục thành không gian công cộng và 7.270 người đã chuyển đến các khu dân cư mới xây dựng và được chính phủ đền bù. Để ghi nhận những hy sinh của 1.806 hộ gia đình vì sự bảo vệ môi trường của Nhĩ Hải, khu dân cư mới được đặt tên là 'Thị trấn 1806'. Và cuối cùng, các nhà hàng, nhà trọ và các ngôi làng nằm ngoài ranh giới 15 mét cũng đã hoàn thành việc xây dựng hệ thống thoát nước thải.

Ngoài ra các ngành công nghiệp không cần phát triển ở gần hồ Nhĩ Hải cũng đã được chuyển ra ngoài. Những thay đổi ở Thành phố Đại Lý phù hợp với xu hướng rộng hơn trong cả nước nhằm giảm bớt áp lực cho các khu vực đô thị trung tâm.

- Tiếp theo là khoản đầu tư trị giá hàng tỷ nhân dân tệ để xây ba nhà máy xử lý nước thải, 4.660 km đường ống nước thải và 99.000 hệ thống tự hoại được nâng cấp đã được lắp đặt trên toàn lưu vực.

- Sinh viên từ các Đại học Nông nghiệp Trung Quốc đã thành lập “sân khoa học và công nghệ” tại các ngôi làng để giới thiệu các phương pháp canh tác thân thiện với môi trường và giám sát ô nhiễm không phải nguồn điểm—giảm lượng nước chảy tràn khoảng 10%.

Người dân địa phương và “nhóm bảo vệ hồ” cùng tham gia vào các hoạt động dọn dẹp, duy trì thảm thực vật ven bờ và trồng lại loài hải thái hoa rất nhạy cảm – như một chỉ số sinh học quan trọng về chất lượng nước, với kết quả tích cực và lâu dài

Phục hồi toàn hệ sinh thái của hồ Nhĩ Hải ở Đại Lý, Vân Nam là những câu chuyện truyền cảm hứng trên toàn quốc:

_ Chính quyền giải toả và cải tạo cơ sở hạ tầng thành công

Đến năm 2019–2020, chất lượng nước đã liên tục đạt tiêu chuẩn Loại II–III, tươi mát và phù hợp môi trường cho sinh vật sống dưới nước

- Quần thể chim muông quay trở lại mạnh mẽ và các loài thực vật nhạy cảm như hải thái hoa nở hoa trở lại, báo hiệu sự phục hồi sinh thái.

- Du lịch phục hồi: Nhĩ Hải lấy lại biệt danh là "hồ mẹ" của khu vực, làn nước trong vắt của nó một lần nữa thu hút các cặp đôi, người yêu thiên nhiên và các loài chim di cư.

Kết quả tốt đẹp, hồ Nhĩ Hải đã chuyển đổi từ tình trạng dày đặc ô nhiễm với rong tảo xanh độc để trở lại một môi trường sôi động – tràn đầy sức sống, vẻ đẹp nên thơ và cân bằng sinh thái.

 

 

Hình 4: Cảnh quan ngày nay của hồ Nhĩ Hải, Vân Nam (2025), cho thấy cả một hệ sinh thái đang hồi sinh: độ trong của nước hồ đã được cải thiện đáng kể, phản ánh trạng thái khỏe mạnh của hồ và đây chính là kết quả kỳ diệu và mẫu mực của nhiều năm nỗ lực làm sống lại một con hồ đang chết dần.  

 

 

NHỮNG ỨNG DỤNG SAU HỒ NHĨ HẢI

Những thách thức về môi trường mà Châu Đại Lý phải đối mặt và những nỗ lực phục hồi của chính quyền từ Trung ương tới địa phương  đã cung cấp một số bài học vượt ra ngoài khu vực. Ví dụ, trong quá trình phục hồi hồ Nhĩ Hải, Tập đoàn Môi trường Nước Trung Quốc đã phát triển 'hệ thống nhà máy công nghệ sinh thái khôi phục nước xây ngầm dưới mặt đất (the distributed subsurface water reclamation ecosystem technology system), là phương pháp quản lý dành cho các hồ lớn có diện tích trên 200 km2 chưa từng được sử dụng ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới. Theo Tiến sĩ Feng Hou, chủ tịch của Tập đoàn Môi trường Nước Trung Quốc, thì đây là một phương pháp tiếp cận mới mang tính đột phá, làm thay đổi mô hình quản lý nước đã tồn tại hàng thế kỷ trên toàn thế giới.

 

MỘT HUY CHƯƠNG BẠC TỪ IWA CHO HỒ NHĨ HẢI

Vào tháng 9 năm 2022, “Dự án Đổi mới Kiểm soát Ô nhiễm Lưu vực hồ Nhĩ Hải và Phát triển Khu vực” đã giành huy chương bạc ở hạng mục “Thực hiện và Triển khai Dự án Xuất sắc” tại Đại hội Triển lãm Nước Thế giới của Hiệp hội Nước Quốc tế (IWA/ International Water Association) tại Copenhagen, Đan Mạch. Hội đồng chuyên gia của IWA đã đánh giá dự án do Tập đoàn Môi trường Nước Trung Quốc, Đại học Giao thông Thượng Hải và chính quyền Huyện Đại Lý cùng đệ trình: về các khía cạnh đổi mới, những thành tựu, thiết kế dự án và tiềm năng tác động rộng rãi hơn. Chủ tịch IWA Tom Mollenkopf tuyên bố rằng “Việc quản lý toàn diện Hồ Nhĩ Hải, kết hợp cải thiện môi trường sinh thái nước với mô hình phát triển kinh tế xã hội của lưu vực, cung cấp những hiểu biết quan trọng cho sự phát triển của lĩnh vực môi trường nước toàn cầu”.

 

NHỮNG KỲ QUAN MÔI SINH CỦA TRUNG QUỐC

Sau thành công với hồ Nhĩ Hải, với chiến lược đa khía cạnh bao gồm: (1) kiểm soát nguồn nước thải, (2) xây dựng hệ thống xử lý nước thải, (3) phục hồi vùng đệm sinh thái và (3) tái định cư dân cư. Cho đến nay, ít nhất đã có 8 hồ nước ngọt lớn của Trung Quốc được phục hồi – với chất lượng nước từ xấu - cấp IV và rất xấu - cấp V, nay đạt được cấp I tới III - từ rất tốt tới tốt.

1. Hồ Nhĩ Hải / Erhai / 洱海, Vân Nam: Là hồ đầu tiên của Trung Quốc được phục hồi toàn hệ sinh thái với chiến lược đa khía cạnh, và là mẫu mực cho tất cả cả các hồ nước ngọt khá sau này của Trung Quốc.

2. Hồ Điền Trì / Dianchi– 滇池, Vân Nam: Từng là một hồ được coi là ô nhiễm nhất Trung Quốc, phẩm chất nước dưới cấp V, cá chết hàng loạt do nước thải đô thị và chất thải từ các khu kỹ nghệ quanh hồ. Với xây dựng 29 nhà máy xử lý nước thải, dẫn nước và xây dựng vùng đất ngập nhân tạo, lấy nước từ sông Dương Tử hoàn nguyên toàn bộ dung tích hồ, cùng với các sáng kiến ​​tăng cường đa dạng sinh học. Chất lượng nước của hồ đã được cải thiện, với phục hồi thảm thực vật, với sự trở lại của các loài cá và chim, và ngành du lịch sinh thái đang hồi sinh.

3. Bành Hồ & Động Đình Hồ / Poyang & DongtingLake– 鄱阳湖 &– 洞庭湖, Giang Tây: Hồ Poyang và hồ Dongting là hai hồ nước ngọt lớn nhất Trung Quốc, cả hai đều có liên kết với sông Dương Tử. Hồ Poyang, hồ lớn hơn, nằm ở tỉnh Giang Tây và hồ Dongting, nằm ở tỉnh Hồ Nam, cùng đóng vai trò là điều hoà lũ và nối kết với sông Dương Tử qua nhiều kênh. Cả hai hồ đều đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái của sông Dương Tử và trong việc điều hoà lũ lụt trong khu vực. Thực thi các chiến dịch cải thiện chất lượng nước, tăng giám sát, kiểm soát nguồn thải.

4. Thái Hồ / Taihu Lake– 太湖, Giang Tô: Một trong ba hồ lớn nhất ở Trung Quốc, đã bị ô nhiễm trầm trọng, tảo xanh năm 2007, nước dưới cấp V là mức thấp nhất. Với giải pháp: đóng cửa hàng ngàn nhà máy gây ô nhiễm, xây hệ thống đường ống dẫn nước, gom tảo, kiểm soát nguồn nước thải, khôi phục vùng đệm nước ngập để giảm ô nhiễm. Đến năm 2024, phẩm chất nước đạt cấp III đủ tốt cho các sinh vật sống và phát triển.

5. Phúc Hiên Hồ / Fuxian Lake – 抚仙湖, Vân Nam: Hồ bị ô nhiễm nặng từ phân bón thuốc trừ sâu từ nông nghiệp và lượng rác phế thải từ khu dân cư và sự bùng phát du lịch. Với giải pháp: qua nạo vét bùn, lập khu sinh vật lọc và chuyển hướng dòng nước, hồ đã trả về chất lượng “cấp I” năm 2004 .

6. Lộc Hựu Hồ / Lugu Lake– 泸沽湖, Tứ Xuyên: Bị ô nhiễm do du lịch bùng phát, các công trình xây dựng xâm lấn hồ, lượng nước thải không được xử lý. Giải pháp: từ 1992, xây hệ thống ống thu hồi nước thải, hạn chế sử dụng phân bón hoá chất, thuốc trừ sâu, cấm thuyền máy; các biện pháp đa khía cạnh này từng được đánh giá mô hình này là "tiêu chuẩn".

7. Ô Luân Cổ Hồ / Ulungur Lake– 乌伦古湖, Tân Cương: Ở Tân Cương, từng bị ảnh hưởng từ nước sinh hoạt và kỹ nghệ thuỷ sản. Giải pháp: Từ 2005 đến 2018, xây dựng công viên đất ngập nước, xử lý nước thải, trồng lại khôi phục hệ sinh thái – hiện là công viên đất ngập quốc gia.

8. Bạch Hồ / Urumqi's Baiyangdian (Baiho) Lake– 白杨河水库, Tân Cương: Được phục hồi thành đầm sinh thái gần Urumqi giữa 2016–2019.

Cho tới nay Trung Quốc đã giải quyết được ô nhiễm thành công, với quy mô lớn và độ sâu ô nhiễm cao, với áp dụng mô hình Khoa học Môi trường của hồ Nhĩ Hải. Chính sách đồng bộ – từ ngăn xả thải, xử lý nước thải đến bảo tồn vùng ven hồ – được ứng dụng nhân rộng ở nhiều khu vực khác trên cả nước.

BÍ QUYẾT VÀ GIẢI PHÁP:

Việc Trung Quốc phục hồi thành công các hồ nước ngọt từng bị ô nhiễm nghiêm trọng là một phần trong “quốc sách” cải thiện môi trường và phát triển bền vững trong những năm gần đây. Một số bí quyết và giải pháp chính giúp Trung Quốc thành công trong việc “làm sống lại” các hồ nước ngọt bao gồm:

1. Kiểm soát nghiêm ngặt nguồn ô nhiễm: Đóng cửa hoặc di dời các nhà máy gây ô nhiễm: Chính phủ yêu cầu các khu công nghiệp ven hồ phải di dời, chuyển đổi công nghệ hoặc đóng cửa nếu không đạt tiêu chuẩn môi trường. Quản lý nước thải đô thị: Xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung, yêu cầu tất cả nước thải phải được xử lý trước khi xả ra hồ.

2. Khôi phục hệ sinh thái tự nhiên: Tái tạo vùng đệm sinh thái ven hồ:Trồng cây thủy sinh (sen, súng, lau sậy), tạo vùng đệm lọc nước tự nhiên. Thả các loài cá lọc nước: Như cá trắm cỏ, cá mè trắng... để kiểm soát tảo và chất hữu cơ. Hạn chế việc nuôi trồng thủy sản theo hình thức công nghiệp, chuyển sang nuôi sinh thái thân thiện hơn.

3. Ứng dụng công nghệ mới: Công nghệ sinh học: Dùng vi sinh vật phân hủy chất hữu cơ trong nước. Hệ thống giám sát thông minh: Lắp cảm biến và hệ thống AI giám sát chất lượng nước theo thời gian thực. Kỹ thuật "nạo vét sinh thái" (ecological dredging) là nạo vét bùn đáy ô nhiễm mà không gây ảnh hưởng đến môi trường xung quanh.

4. Huy động nguồn lực và quyết tâm chính trị: Đầu tư mạnh mẽ của chính phủ trung ương và địa phương, với hàng tỷ USD cho các dự án phục hồi hồ. Áp dụng chính sách nghiêm minh: Cán bộ địa phương chịu trách nhiệm nếu chất lượng nước không đạt. Thực hiện theo kế hoạch dài hạn (thường là từ 5 – 10 năm hoặc lâu hơn), kết hợp giữa môi trường – phát triển đô thị – du lịch.

KẾT LUẬN VỚI BÀI HỌC RÚT RA TỪ HỒ NHĨ HẢI:

Phục hồi các hồ nước ngọt – không chỉ là ứng dụng triệt để những kiến thức về Khoa Học Môi Trường, và cũng để thấy rằng không thể làm trong một thời gian ngắn – theo kiểu tư duy nhiệm kỳ – mà cần sự kiên trì có thể từ hơn 2,3 kế hoạch ngũ niên, với đầu tư đồng bộ và sự hợp tác giữa nhà nước – doanh nghiệp – người dân. Với một chiến lược rõ ràng, một nhà nước có tinh thần trách nhiệm với lòng yêu nước yêu dân và có quyết tâm chính trị cao, hoàn toàn có thể cứu sống và phục hồi các hồ nước ngọt khỏi tình trạng "chết dần".

NGÔ THẾ VINH

Erhai & Dianchi Lakes Visited September 2002

GWRS Visited 2017 & Revisited June 13, 2025

Long Beach July 4, 2025

 

 

Tham khảo:

1/ Mekong dòng sông nghẽn mạch – Tường trình từ Vân Nam. Ngô Thế Vinh 09.2002

Nxb Văn Nghệ 2007

https://online.fliphtml5.com/msgrj/wcst/#p=1

2/ Reviving Erhai Lake: A Socialist Approach to Balancing Human and Ecological Development. Xiong Jie & Tings Chak 2024

https://thetricontinental.org/wenhua-zongheng-2024-2-reviving-erhai-lake/

3/ Yunnan's largest freshwater lake (Dianchi Lake) comes back to life. Zheng Jinran, Peng Chao & Dang He. China Daily 24.08.2024

https://global.chinadaily.com.cn/a/202408/31/WS66d2f89ea3108f29c1fc96a6.html

LỜI NÓI ĐẦU cho cuốn "TA LÀ - Những Khúc mắc Siêu hình học"

 Nguyễn Hữu Liêm

 

Bạn đang cầm trên tay một Phác thảo ngắn gọn của phiên bản sơ đồ cho một Viễn trình Ra đi và Trở về của Chân Tâm.

Chân Tâm đi vào cuộc đời của bạn nhưng bạn không hề biết nó – ngoại trừ những khi phải trải qua những khủng hoảng hiện sinh thì bạn sẽ trực cảm được bản sắc tồn tại của chính mình.

Thứ Năm, 3 tháng 7, 2025

Tháng 6 – Mừng “Thuyền” của Nguyễn Đức Tùng

 Ngô Thị Kim Cúc

 

Thông tin về tiểu thuyết Thuyền của anh Nguyễn Đức Tùng đang hot trên mạng/trên các quầy sách khiến chúng tôi rất vui. Bởi đó là một tác phẩm của bạn văn đồng thời là cộng tác viên thân thiết của Văn Việt, người có thể viết hay cả thơ, truyện; viết giới thiệu/phê bình văn học và ngay cả tác phẩm dịch cũng hay không kém. Nên có lần tôi đã đặt câu hỏi: Không biết Nguyễn Đức Tùng viết vào lúc nào, khi hầu hết thời gian anh phải dành cho công việc bận rộn của một bác sĩ.

Thuyền – Hú gọi hồn nước chữa lành vết thương đau

 Lê Huỳnh Lâm

Mưa. Tiếng mưa ru tôi vào giấc ngủ trưa trong thoáng chốc. Rồi điện thoại reo. Người phát hàng đứng ngoài cổng, dưới mưa. Mưa dông và sấm sét. Tôi đọc Thuyền trong một chiều mưa như vậy. Mưa trái mùa. Mùa hạ gắn với nhiều kỷ niệm, hầu hết là ký ức buồn. Tôi nhớ Stefan Zweig, nhà văn người Áo. Nhớ hình ảnh bàn tay được miêu tả trong truyện của ông, nhớ văn phong của ông sắc, gãy gọn, khúc chiết, cái cách ông diễn đạt nội tâm và cách ông tả về hiện thực... khiến người đọc bị cuốn hút vào thế giới đó. Tôi có thói quen mua sách, vì hiện thực đầy giả trá nên tôi chìm vào quá khứ qua sách. Mê sách từ hơn 40 năm nay, cho dù cuốn đó có rồi, đọc rồi... nhưng vẫn mua vì thói quen, vì trân trọng tác giả, có thể vì quên và có khi mua để tặng, tặng người mình thương quý nhất. Mua sách như một niềm hy vọng vào điều thiện, vào cái đẹp tâm hồn ngày càng hiếm hoi trên mặt đất này.

Tóc sương say tàn

 Tru Sa

 

Đặng Thơ Thơ cùng thế hệ với ông bác, em ruột mẹ tôi, sống trong thời Việt Nam Cộng hòa và cũng như ông bác tôi, Thơ Thơ xa xứ cùng gia đình, người bác theo ngành y còn chị ngành giáo dục, viết văn, sáng lập trang Da Màu như cách để giữ gìn bản sắc và ngôn ngữ Việt. Xa quê mới nhớ nhà, rời nhau mới ngẩn ngơ căn nhà cắt rốn, sợ mất tiếng mất giọng, ngôn ngữ bay tro nên việc người Việt tha hương lập ra các trang Văn Hải Ngoại là cách đại đoàn kết khỏi cảnh nhớ nhà, đồng thời đấy cũng là sân chơi, thư viện lưu trữ bản thảo, để người trẻ muốn tìm tòi giai đoạn 20 năm miền Nam, muốn thử sức mà không cần phải trình bày thành tích đăng báo, in sách chung sách riêng đều có thể liên lạc. Xác ta hồn ta trên đất tây phải đối mặt với nghịch cảnh khách ngoại vi, phải học nhuyễn ngoại ngữ, văn hóa tây để sinh nhai, tiếng Việt chỉ có thể nói với đồng hương hoặc tự thầm trên trang giấy. Bạn văn mỗi người một phương, kẻ sang Mỹ, người đi Đức, sang Pháp, mỗi người ở một tiểu bang, ai nấy trong tình trạng mai một tiếng Việt nếu không viết. Mang trên vai nỗi đau thời binh chiến, ra đi, vỡ vụn trong dư chấn văn hóa ngoại, nhập quốc tịch, sống lõi nửa đời nhưng vẫn là khách trọ.

Thứ Tư, 2 tháng 7, 2025

Thơ Vũ Thành Sơn

 

THƠ NGẮN

Lịch sử biển

 

Khi chúng ta chia tay nhau ở cuối con đường dốc

Ngọn hải đăng đã bị lấy cắp

Kẻ thủ ác đang bị truy nã

Em nói với tôi biển là một câu chuyện tự sự, thất thường, không chính kiến

 

Lẽ ra tôi phải biết điều đó sớm hơn

Sáng tôi cần một ly cà phê đậm nhiều nắng và

một hồi chuông đổ

để đủ bận tâm

dù đứng ở đâu chúng ta đều mất thăng bằng

 

Đây là định nghĩa về hạnh phúc

Một căn phòng đầy sóng, màu xanh nhạt

Một người đàn ông tìm cách bơi lên những bậc thang

 

Những thứ thiết yếu

 

Người đàn ông đã bỏ trốn

với cánh cửa sổ

Thành phố có quá nhiều niềm tin

 

Nếu khởi hành từ Vinh

có thể em sẽ kết thúc ở dãy Andes

Rất lâu sau khi hải cảng bị phong toả, quán bar vẫn mở cửa

tôi vẫn chưa học được cách cám ơn

 

Tấm ảnh em chụp tôi ngày đó

bông trên tay tiếp tục nở mỗi ngày nhưng mùi thơm đã phai

Mọi thứ sẽ trở lại theo cách nào đó

Tôi đọc được trong Kinh Thánh

 

Cây bách trước sân

 

Trong những tình huống hiểm nghèo nhất nó

đã cứu sống tôi

Hơn hai mươi năm qua tôi đã thoát khỏi một cách lành mạnh

áp lực của món bánh mì kẹp thịt

và những lời mời kết bạn

của công viên. Cho dù thú thật đời sống còn

một số cám dỗ không nhỏ, ví dụ "nhiều gia vị quá"

như cách em nói.

 

Tôi sẽ giải thích bằng ngôn ngữ dễ chịu. Chẳng hạn

Tôi ở tầng thứ hai mươi bảy

Thế giới chuyển động giống như con lắc đồng hồ

Trong tương lai có thể tôi sẽ biết cách không bị lạc

khi đứng một chỗ. Ngay cả khi đã quá trễ, người gác cổng đã ngủ, cơn mưa

không kịp tới.

 

Mà tại sao tôi lại kể điều này với em khi

nó chỉ có trong giấc mơ?

                                                   V. T. S

Một cuộc trốn chạy

 Nguyễn Hoàng Anh Thư

 

Phố hôm nay ngập sâu sau một cơn mưa kéo dài từ tối hôm qua đến trưa nay, cô đang nhìn thấy điều ấy trên tivi. Cô hơi tiếc, giá như cô ra đó muộn hơn, dù sao thì đi trong mưa hay bơi trong mưa vẫn thích hơn là chạy trên chảo lửa nóng. Hà Nội tuần trước hơn 50 độ, hai chân cô sắp cháy.

Robert De Niro trong phim Cape Fear

 Lê Hồng Lâm

Bộ phim này vừa lên Netflix hôm qua. Tôi xem lại sau nhiều năm và dù đã biết hết về cốt truyện, vẫn bị mê hoặc bởi màn diễn xuất kinh hồn táng đởm của Robert De Niro. Một vai diễn vừa đáng sợ đến từng chân tóc lại vừa hấp dẫn khó cưỡng trước sự biến hóa tài tình của huyền thoại này.

Thứ Ba, 1 tháng 7, 2025

Thuyền: Nỗi thăm thẳm của Tự Do

 Bảo Chân

Tôi muốn bắt đầu bài viết này bằng một trích dẫn của nhà văn Pháp Ivan Jablonka mà tôi đã dịch sang tiếng Việt:

“Lúc còn sống, họ đã gần như vô hình; và lịch sử đã tán họ thành tro bụi. Những hạt bụi thế kỷ không được an nghỉ trong những bình di cốt ở nhà thờ dòng tộc; những hạt bụi ấy lơ lửng giữa không trung, lắt lay theo chiều gió, ẩm ướt theo những bọt sóng, bao trùm lên những mái nhà trong thành phố, làm cay mắt chúng ta rồi bằng sự biến hoá nào đó, biến thành cánh hoa, sao chổi hay là chuồn chuồn, thành tất cả những gì nhẹ hẫng và chóng phai. Những linh hồn vô danh ấy không phải của riêng tôi, họ là của tất cả chúng ta.”

Giá như tôi là ngọn nến giữa màn đêm sâu thẳm

 Hoài Phương

Tôi thương người Palestine. Văn chương của họ rất đẹp và rất đau đớn, thấm đượm nỗi buồn, một nỗi buồn không có tên, một nỗi buồn rất ít người hiểu được, của những tha nhân chẳng còn một quê hương, của những căn nhà nay đã thuộc về ai khác, của những chiếc chìa khóa cô đơn chẳng còn một cánh cửa để tra vào, họ là cư dân của những bản làng đã bị san phẳng, của một đất nước đã mất tên trên bản đồ, và ở vùng tự trị họ sống như gián như chuột dưới những hàng rào mắt lưới, không thể bước lên mái nhà của chính mình, không được nhìn thấy bầu trời. Nhưng họ vẫn kiên cường không từ bỏ dải đất quê hương, dù có bị oanh tạc từ năm này qua năm khác, dù cái giá phải trả là vô cùng: tứ chi của chính mình, cả một gia đình, sinh mạng của chính họ.

Một tóm tắt về các chế độ hậu Cộng sản (kỳ 8)

 Tác gi: Magyar Bálint – Madlovics Bálint

Bản tiếng Việt: Nguyễn Quang A

Nhà xuất bản Dân Khí – 2025

 

 91. MAFIA HÓA CỦA ĐẢNG NHÀ NƯỚC xuất hiện như một xu hướng đe dọa trong một chế độ độc tài khai thác thị trường, và ban lãnh đạo đảng phải lập các cơ chế phòng vệ để bảo vệ mình. Quay lại khung khổ tam giác, chúng ta có thể thấy một xu hướng của các kiểu chế độ lân cận của nền chuyên quyền bảo trợ để bị hút về phía nó. Trong trường hợp của các nền dân chủ bảo trợ, sức hút này lấy hình thức của thách thức chuyên quyền (Mệnh đề 69); trong các chế độ độc tài khai thác-thị trường, nó lấy hình thức của thách thức bảo trợ.

Nói cách khác, sự nổi lên của các nhà nước mafia tiểu-vươngcác mạng lưới bảo trợ phi-chính thức là một vấn đề cho ban lãnh đạo chó bu của đảng không đơn giản bởi vì công quỹ bị lạm dụng. Các lãnh đạo của chế độ cũng phải nhớ bức tranh lớn hơn, mà là xu hướng “mafia hóa” của đảng nhà nước. Các mạng lưới bảo trợ phi-chính thức, cho dù chúng bắt đầu ở mức chính quyền địa phương, có thể phát triển và bắt giữ nhiều phần hơn của đảng nhà nước khi các nhà bảo trợ chóp bu (địa phương) ngày càng lên cao hơn trong hệ thứ bậc đảng nhà nước. Ảnh hưởng tăng lên của các mạng lưới bảo trợ có nghĩa rằng quyền lực đang từ từ “bị lấy ra” khỏi các mạng lưới chính thức của đảng nhà nước và chuyển vào các giới phi-chính thức, mang rủi ro về cuối cùng sẽ biến đảng nhà nước thành một đảng dây curoa.

Xu hướng mafia hóa là một mối đe dọa trực tiếp đối với đảng nhà nước; không ngạc nhiên các học giả Trung quốc cho rằng ban lãnh đạo đảng coi sự kiềm chế tham nhũng Trung Quốc như một vấn đề sống và chết cho đảng. Tuy vậy, trong khi mối đe dọa về tham nhũng phá hủy hệ thống một phần được làm cho có thể bởi sự thiếu cạnh tranh đảng, chính cùng nhân tố này giải thích vì sao hiện tượng có thể được kiềm chế, và vì sao toàn bộ nền kinh tế có thể không trở thành một nền kinh tế quan hệ.

Trong các nước hậu-cộng sản nơi các định chế dân chủ và các hệ thống đa-đảng được thiết lập chính thức, các mạng lưới bảo trợ phi-chính thức có thể khởi động các đảng của nhà bảo trợ tự trị và tự do bước vào sự cạnh tranh đảng, dùng các đảng như giao diện tới lĩnh vực hoạt động chính trị. Trong các chế độ độc tài khai thác-thị trường, những người hình thành các mạng lưới bảo trợ là các đảng viên nhà nước, như thế nhà nước có thể phạt một mạng lưới bảo trợ phi-chính thức như một sự vi phạm kỷ luật đảng. Có độc quyền rồi về quyền lực chính trị, ban lãnh đạo chóp bu của một chế độ độc tài khai thác thị trường có thể dùng sự thực thi pháp luật mức quốc gia để thử đàn áp thẳng tay các thị trường quan hệ.

 Ở Trung Quốc, các chiến dịch mãnh liệt chống-tham nhũng do tổng bí thư Tập Cận Bình khởi động, trong khi bị nhiều người cho là một cuộc đàn áp các đối thủ chính trị (và không phải không có lý do), cũng đánh dấu một cuôc chiến đấu chống lại xu hướng mafia hóa. Cùng với một số quan chức chưa từng thấy trước đây bị bắt giữ, chiến dịch cố gắng nhổ tận rễ các nhà nước mafia tiểu-vương. Ví dụ, các cuộc điều tra tham nhũng không còn cần sự chấp thuận của đảng ủy cùng cấp, mà thay vào đó được đề xướng từ trên, tấn công năng lực của các nhà bảo trợ chóp bu địa phương để vô hiệu hóa các cơ chế kiểm soát (Mệnh đề 60).

92.  Các định chế chính thức CỦA đảng nhà nước TRUNG QUỐC ở dưới một áp lực ba bên của tính phi-chính thức của các hình thức tham nhũng Tây phương, các hình thức tham nhũng hậu-cộng sản, và guanxi (quan hệ). Tham nhũng ở Trung Quốc ngay sau những cải cách đã không bắt đầu dẫn đến xu hướng mafia hóa ngay lập tức. Cái ban đầu có thể được xem như sự xuất hiện của các hình thức tự nguyện của tham nhũng, như tham nhũng thị trường-tự do và chủ nghĩa thân hữu, mà vẫn hiện diện ở Trung Quốc cho đến ngày nay. Tham nhũng, mà đã tồn tại bên trong mạng lưới đảng nhà nước, đã mở rộng và lấy những hình thức mới khi một nền kinh tế tư nhân được xác lập. Như Sebastian Heilmann giải thích trong Hệ thống Chính trị của Trung Quốc (2016), “nhà nước Trung quốc đã trở thành một sàn giao dịch lậu khổng lồ: các giám đốc công ty, các bí thư đảng, và những người đứng đầu có thẩm quyền đã chuyển hướng các tư liệu sản xuất và hoạt động từ khu vực kinh tế nhà nước để cung cấp cho các thị trường mới được tạo ra; các vị trí chính trị hàng đầu và những sự phê duyệt chính thức được trao đổi cho phần lợi nhuận trong các giao dịch tư nhân béo bở […]. Những người nắm quyền lực to và nhỏ ở mọi mức của đảng […] đã làm giàu bản thân mình bằng việc tận dụng các cơ hội do thị trường và trật tự hợp pháp vẫn chưa hoàn hảo cung cấp” (228–29).

Những kiểu tham nhũng có thể được coi như các hình thức Tây phương, không theo nghĩa rằng chúng không xuất hiện trong các nước hậu-cộng sản, mà bởi vì địa vị đạo đức của chúng. Các hình thức tham nhũng như vậy là các giao dịch phi-cá nhân, giống kinh doanh, và với tư cách như vậy, chúng là bất hợp pháp và không được chấp nhận về mặt đạo đức. Ngược lại, các hình thức bảo trợ của tham nhũng trong các chế độ hậu-cộng sản cũng là bất hợp pháp nhưng có được sự chấp nhận đạo đức hơn vì chúng là việc ăn cắp không phải cho cá nhân mà cho thị tộc (bè đảng)—đặc biệt trong các vùng lịch sử nơi sự tách biệt của các lĩnh vực hoạt động xã hội còn thô sơ (Mệnh đề 7).

Tại Trung Quốc, cả tham nhũng giống-kinh doanh và các kiểu tham nhũng bảo trợ đều phổ biến, đặt hai tầng áp lực của tính phi-chính thức lên đảng nhà nước (Bảng 31). Tầng thứ ba xuất phát từ công cụ xã hội cổ xưa của guanxi. Từ có nghĩa đen là “quan hệ” hay “mối quan hệ,” nhưng nó nhiều hơn thế rất nhiều: nó là một cặp mối quan hệ trao đổi xã hội, phi-chính thức, một hình thức có đi có lại nơi mọi người tích lũy vốn xã hội qua sự tương trợ. Vốn xã hội này có thể được dùng để “khiến mọi thứ được làm,” có được sự tiếp cận đến các nguồn lực hay các cơ hội nhờ sự ưu ái cá nhân; theo nghĩa này, guanxi là một hình thức tham nhũng. Nhưng đạo đức học Tây phương liên quan đến tham nhũng là vô nghĩa trong khung cảnh này. Các giao dịch bất hợp pháp của guanxi không bị lên án về đạo đức, cũng chẳng được đơn giản chấp nhận: chúng có nghĩa là một nghĩa vụ đạo đức.

Bảng 31: Những căng thẳng giữa các quy tắc chính thức và phi-chính thức trong chính trị Trung quốc (từ China’s Political System của Sebastian Heilmann).

Các quy tắc hính thức

Các quy tắc phi-chính thức phổ biến

Hệ thống tuyển mộ cán bộ được chính thức hóa

Các mạng lưới bảo trợ đảng và sự bán các chức vụ chính trị

Hệ thứ bậc quan liêu và sự thiết lập các quy tắc phổ quát

Vận động hành lang trong nước và quy định kinh tế dựa vào bảo trợ

Các quyền tài sản nhà nước

Tư nhân hóa phi-chính thức và sự bòn rút không được kiểm soát của các tài sản nhà nước

Bình đẳng trước luật

Thao túng hệ thống tư pháp để làm lợi cho các quan chức đảng và họ hàng của họ

Hệ thống tài khóa với những sự phân bổ thu nhập (thuế) ràng buộc

Thu nhập thuế bị các chính quyền địa phương giữ lại và thương lượng tiếp tục về sự phân chia thu nhập thuế

Hệ thống guanxi đã phát triển, dưới chế độ độc tài Mao Trạch Đông, từ các mạng lưới liên kết-mạnh tồn tại-trước như gia đình và tình bạn giúp đỡ lẫn nhau, và đã là một phần quan trọng của đời sống Trung quốc hàng ngày kể từ đó. Giống hệ thống blat Liên Xô, tạo ra một nền kinh tế làm ơn phi-chính thức rộng khắp-dân cư giữa những nút thắt cổ chai của nền kinh tế kế hoạch, được thay thế bằng các hình thức ít dân chủ và “bình quân” của tham nhũng bảo trợ sau sự thay đổi chế độ. Nhưng sự thực rằng sự thay đổi từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường ở Trung Quốc đã là một quá trình từ từ, bắt đầu trong cuối các năm 1970, đã đóng góp cho tính liên tục của các tiêu chuẩn xã hội giữa thời cộng sản và thời hậu-cộng sản.

 

Xã hội nhóm bảo trợ và sự ổn định xã hội của nền Chuyên quyền bảo trợ 

 93. SỨC MẠNH CỦA CÁC LIÊN KẾT-YẾU ĐƯỢC THAY THẾ BẰNG SỨC MẠNH  CỦA CÁC LIÊN KẾT-MẠNH khi sự kiểm soát các nguồn lực tập trung vào tay của các mạng lưới bảo trợ. Trong các chế độ bảo trợ, thay cho các cấu hình xã hội phản ánh cấu trúc giai cấp—với địa vị pháp lý tự trị và tiến triển qua các cơ chế thị trường—, các mối quan hệ chư hầu thuộc kiểu patron-client được sắp đặt thành các chuỗi chỉ huy tiếp quản toàn bộ mặt phẳng dọc của xã hội. Gia tộc chính trị nhận con nuôi là một hình thái thống trị được tổ chức quanh người đứng đầu gia đình theo cách có thứ bậc, đơn trung tâm, qua các liên kết cá nhân và gia đình (Mệnh đề 35). Không có sự tự do gia nhập vào gia tộc chính trị nhận con nuôi, chỉ có sự nhận con nuôi, được trao sự tiếp cận, hay sự đầu hàng bắt buộc; và cũng không có sự tự do rời đi, chỉ bị đuổi ra.

Thế giới dân chủ, mà hoạt động trên cơ sở của các liên kết cá nhân yếu (weak ties) trong điện thờ thiêng liêng của các đảm bảo thể chế, bị thay thế, khi các đảm bảo thể chế thất bại, bằng một thế giới dựa vào một ít liên kết mạnh: các mối quan hệ phi-cá nhân, chuẩn tắc và hợp pháp bị thay thế bằng các các mối quan hệ cá nhân với những sự thưởng và phạt tùy ý.

Trong bài báo nổi tiếng “The Strength of Weak Ties (Sức mạnh của các Liên kết Yếu)” (1973), nhà xã hội học Mark Granovetter cho rằng sự tìm việc làm được giúp đỡ tốt hơn bởi các liên kết yếu, mang thông tin từ những người mà chúng ta chỉ biết ít, hơn là bởi các liên kết mạnh như gia đình hay tình bạn thân thiết, mà có thể là những người chúng ta biết kỹ hơn nhưng họ cũng thường xuyên là cùng giới xã hội và vì thế có cùng thông tin như chúng ta có. Quả thực, lập luận này giả định trước sự tách biệt của các lĩnh vực hoạt động xã hội: rằng cho dù có một liên kết xã hội giữa các diễn viên thuộc các lĩnh vực khác nhau, liên kết đó có thể mang chỉ thông tin nhưng không phải ảnh hưởng. Vì nếu ảnh hưởng bước vào bức tranh, ví dụ nếu một người tìm việc làm (tức là, một diễn viên thuộc lĩnh vực kinh tế) dùng các liên kết gia đình của họ (tức là, các mối quan hệ từ lĩnh vực cộng đồng) để có được việc làm, thì các liên kết yếu mang-thông tin giảm giá trị đối diện với các liên kết-mạnh mang-ảnh hưởng.

Trong các chế độ bảo trợ, nơi sự kiểm soát các nguồn lực được tập trung vào tay của các mạng lưới bảo trợ phi-chính thức, sự tiếp cận đến các nguồn lực này phụ thuộc vào các liên kết mạnh, bảo trợ của người ta. Dưới hoàn cảnh như vậy, sự phát triển của các mạng lưới xã hội chuyển từ các mạng lưới không tỷ lệ (scale-free), hay các hình mẫu “người giàu-trở nên giàu hơn,” sang các mạng lưới không-không tỷ lệ, hay các hình mẫu “kẻ thắng ăn cả,” để dùng các thành ngữ của nhà khoa học mạng Barabási Albert-László (Bảng 32). Trong cuốn sách Linked (2002) của ông, Barabási phân tích các nền dân chủ tự do, mô tả nguyên tắc sự gắn được ưu tiên, nơi những người riêng lẻ chắc có khả năng hơn để kết nối với các nút có nhiều liên kết. Trong các xã hội của các chế độ bảo trợ, sự gắn được ưu tiên không dựa vào số các liên kết mà vào tầm của các nguồn lực bị chiếm đoạt. Trong các hệ thống mở, cạnh tranh, các trung tâm mới trong mạng có thể xuất hiện trên cơ sở của sự thích hợp thị trường, nếu mọi người chọn hình thành các liên kết với chúng hơn là với mối quan hệ cũ của họ (tự do rời đi). Trong một nền chuyên quyền bảo trợ, sự thích hợp thị trường bị sự thích hợp quyền lực đánh bại: có một trung tâm ngăn cản sự hình thành của các trung tâm mới, độc lập, và với nó là không thể để chia tay bất cứ lúc nào khi thấy một sự chào mời (trung tâm mới) tốt hơn (không sự tự do rời đi nào).

Bảng 32: Các mạng lưới phát triển tự do (trong nền kinh tế tiếp cận mở (open access)/thị trường) và dưới sự ép buộc (trong nền kinh tế tiếp cận hạn chế/chỉ huy hoặc quan hệ).

 


 

Tăng trưởng

Sự gắn ưu tiên

Sự thích hợp

Hình mẫu mạng

Tiếp cận mở: tham gia và rời đi tự do (nền kinh tế thị trường)

 

Thị trường

Quyết định tự nguyện

 

Chọn kết nối theo số các liên kết

Chọn tự nguyện trung tâm mới bởi sự thích hợp thị trường

Mạng scale-free (kẻ giàu trở nên giàu hơn)

 

Mạng tiến hóa

 

 

 

Tiếp cận hạn chế: tham gia và rời đi không tự do (nền kinh tế chỉ huy hoặc quan hệ)

Chọn để kết nối theo tầm của các nguồn lực bị chiếm đoạt

Sự khuất phục ép buộc các trung tâm mới bởi sự thích hợp quyền lực

Mạng không scale-free (kẻ thắng ăn cả)

 

Bảo trợ

Ép buộc

 


94. SỰ PHÂN TẦNG XÃ HỘI TRONG CÁC CHẾ ĐỘ BẢO TRỢ theo logic bảo trợ, hơn là giai cấp, đẳng cấp, hay phong kiến. “Nhóm bảo trợ (clientage)” có nghĩa không đơn thuần là mối quan hệ nhà bảo trợ-người được bảo trợ (patron-client) mà là một kiểu cơ bản của nhóm xã hội mà có thể được dùng để phân tích hệ thứ bậc xã hội của nền chuyên quyền bảo trợ (Bảng 33). Thông thường, khi thấy các mức thấp của sự di động xã hội, người ta bị cám dỗ để dùng các tương tự lịch sử của “các đẳng cấp (caste)” và “đẳng cấp (order)” phong kiến, hay để nói về một cấu trúc “giai cấp” bị đóng băng, dùng ngôn ngữ xã hội học dòng chính.

Nhưng một “caste” nhắc đến một đơn vị xã hội được chính thức hóa, thường được tôn giáo chính danh hóa và được đặc trưng bởi sự truyền thừa của một phong cách sống (thường là nghề nghiệp). Các quyết định về sự thuộc về một caste không phụ thuộc vào quyết định tùy tiện của một thành viên của một đẳng cấp cao hơn: người ta không thể bị tước đoạt địa vị đẳng cấp của họ, cũng chẳng thể được nhận vào một đảng cấp cao hơn dựa vào lòng trung thành và quyết định tùy ý. Tương tự, các đẳng cấp (order) phong kiến hay “các estate” là các đặc quyền elite được xác định về mặt pháp lý, trong khi một quân vương có thể tước đoạt tài sản và quyền tự do của ai đó, nhưng không thể tước đoạt địa vị của họ (Mệnh đề 32).

“Các giai cấp” trong các xã hội hiện đại là các nhóm không-được chính thức hóa, hệt như các nhóm bảo trợ, nhưng chúng ra đời bởi các động lực phi-cá nhân của chủ nghĩa tư bản (Mệnh đề 33). Tư cách thành viên giai cấp được xác định bởi quan hệ của người ta với tài sản sản xuất; ngược lại, tư cách thành viên nhóm bảo trợ được xác định bởi quan hệ của người ta với elite cai trị, đặc biệt sự phụ thuộc của họ vào các nguồn lực của gia tộc chính trị nhận con nuôi. Các ranh giới của một nhóm bảo trợ có thể được vẽ ra bởi sự phụ thuộc được tạo ra và được duy trì thế nào: liệu nó được tiến hành qua các việc làm (có lẽ theo những cách khác nhau trong các khu vực khác nhau), qua tính dễ bị tổn thương của hoạt động doanh nhân, qua các trợ cấp nhà nước tùy ý v.v. Trong một nền chuyên quyền bảo trợ, gia tộc chính trị nhận con nuôi có thể từ chối sự tiếp cận đến các nguồn lực này theo một cách tùy ý, trong khi cũng vẫn để cho một người không có lựa chọn thay thế thêm nào. Như thế, gia tộc chính trị nhận con nuôi có thể đưa ra các mối đe dọa sống còn đáng tin cậy, và địa vị nhóm bảo trợ là có thể bị tước đoạt.

Chúng ta có thể sử dụng ẩn dụ về sự làm nghẹt thở, đặc biệt theo nghĩa rằng, khi tay của kẻ tấn công quấn quanh cổ của đối thủ, kẻ tấn công không nhất thiết giết đối thủ nhưng cản anh ta khỏi sự di chuyển và kiểm soát anh ta có thể thở bao nhiêu. Trong một xã hội nhóm bảo trợ, điều này tương ứng với sự loại bỏ khả năng hành động tự trị. Nếu người ta không di chuyển, tức là, hành động theo một cách phù hợp với hoặc không quấy rầy các mục tiêu của gia tộc chính trị nhận con nuôi, họ có thể chẳng bao giờ thực sự bị nhắm mục tiêu, và có thể sống mà không bị các trừng phạt tùy ý. Nhưng thực ra, cánh tay luôn luôn quanh cổ họ, và nếu họ thử, dưới ảo tưởng không có sự đàn áp, để di chuyển tự chủ như họ thích, cú siết đột nhiên thiết chặt và sự đàn áp có xuất hiện.

Bản chất của một sự làm nghẹt thở là thế này: việc giữ diễn viên hay định chế ở xa bằng việc duy trì khung khổ thường xuyên của khả năng đàn áp. Trong khi sự thiếu khủng bố rõ ràng có thể dẫn một nhà quan sát hời hợt để kết luận rằng chế độ đó quả thực là tự do và dân chủ, sự tạo ra các chuỗi phụ thuộc rộng khắp-xã hội có nghĩa rằng ngay cả quanh cổ của các diễn viên có vẻ tự do luôn có cánh tay của các nhà bảo trợ—hiện thời, giữ ít chặt hơn—của gia tộc chính trị nhận con nuôi.

Bảng 33: Kiểu của các nhóm xã hội trong các trật tự xã hội khác nhau.

 

Kiểu trật tự xã hội

Tính chính thức của chức vụ

Cơ hội của sự di động hướng lên

Sự có thể bị tước của địa vị

Caste

sự tiếp cận hạn chế

được chính thức hóa

thấp

không

Đẳng cấp

sự tiếp cận hạn chế

được chính thức hóa

vừa phải

không

Giai cấp

sự tiếp cận mở

không-được chính thức hóa

vừa phải/cao

không

Nhóm bảo trợ

sự tiếp cận hạn chế

không-được chính thức hóa

thấp/vừa phải

 95. CÁC NHÓM BẢO TRỢ HẠ, TRUNG VÀ THƯỢNG LƯU, có thể được phân biệt thay cho các giai cấp khi nói về các tầng của một xã hội nhóm bảo trợ. Trong khi là quen thuộc để nói về “tầng lớp trung lưu” hay “tầng lớp thượng lưu” trong một nền dân chủ tự do, sự phân tầng xã hội có thể được hiểu tốt hơn bằng việc nói về các nhóm bảo trợ (clientage) trung, hạ, và thượng lưu trong một xã hội nhóm bảo trợ.

Các nhóm bảo trợ thượng lưu gồm các nhà tài phiệt, những kẻ bù nhìn, cũng như các thành viên hành chính công có thu nhập cao. Trong một nền chuyên quyền bảo trợ, hầu như tất cả mọi người ở trên đỉnh của hệ thứ bậc xã hội được kết nối với mạng lưới bảo trợ có chỉ một-kim tự tháp. Điều này được phản ánh gần đúng trong danh sách của “những người có ảnh hưởng nhất,” được công bố hàng năm trong nhiều nước hậu-cộng sản. Các danh sách của những người có ảnh hưởng nhất được chuẩn bị trong các xã hội


đa nguyên có cơ sở trong sự tách biệt của các quyền lực sẽ không gồm những người trong mối quan hệ thứ bậc của sự cao hơn và và sự thấp hơn với nhau, mà là các cá nhân tự trị trong không mối quan hệ phụ thuộc nào (từ các chính trị gia đến các doanh nhân, các nhân vật media đến các giáo sư đại học). Ngược lại, một đa số dứt khoát của những người tạo thành danh sách trong các chế độ chuyên quyền bảo trợ có thể nhờ sự từ tâm của nhà bảo trợ chóp bu cho các vị trí có ảnh hưởng của họ.

Nhóm bảo trợ trung lưu gồm hai nhóm chính, mà có thể được nhận diện, không phải bằng vị trí pháp lý mà vị trí xã hội học của họ, như “giới quý tộc phục vụ” và “những người cung cấp cho triều đình.” Giới quý tộc phục vụ gồm các trí thức chuyên nghiệp, được thuê làm tại các tổ chức nhà nước cũng như tư nhân; những người cung cấp cho triều đình là các nhà thầu phụ hay những người lệ thuộc trực tiếp của các đơn vị kinh tế của gia tộc chính trị nhận con nuôi, các công ty tư nhân de jure và các công ty mẹ (holdings) nhà nước. Trong khi được nhắc tới về mặt ý thức hệ như một “tầng lớp trung lưu quốc gia,” các nhóm này quả thực tạo thành một mức của thân phận chư hầu lệ thuộc với quyền tự do hạn chế trong các lĩnh vực chính trịhoạt động thị trường.

Cuối cùng, sự lắp đặt các mối quan hệ nhà bảo trợ-người được bảo trợ trong một nền chuyên quyền bảo trợ cũng có thể mở rộng xuống đáy của kim tự tháp xã hội nữa. Ví dụ hay nhất và gây ấn tượng mạnh nhất về nhóm bảo trợ hạ lưu là những người lao động công (ích) ở Hungary. Một định chế sớm hơn được chính phủ Orbán cải cách, công việc công ích là một chương trình giảm nhẹ thất nghiệp được thích nghi cho các nhu cầu truyền thông chính trị và được tài trợ một cách không thể tiên đoán được (ví dụ, trong 2014 nó thuê nhiều gần gấp đôi người làm trong tháng bầu cử quốc hội hơn tháng sau đó). Những người được thuê làm trong chương trình này không chỉ bị bản chất tạm thời, ad hoc của công việc này làm khổ, cùng với sư thực rằng họ làm việc chỉ được nửa lương tối thiểu, mà họ cũng bị đau khổ bởi việc làm và sự sa thải của họ là một quyết định tùy ý của thị trưởng địa phương, mà không thể bị chất vấn một cách hợp pháp.

Không ngạc nhiên những người lao động công ích ở Hungary của Orbán không có sự lựa chọn nào trừ phải chịu để giúp đỡ các cuộc mít tinh lớn của đảng chính phủ như những đồ trang trí-sinh học, tham gia như những người phản-biểu tình tại các cuộc biểu tình chống chính phủ, hay làm việc trên các bất động sản của những người được bảo trợ địa phương. Tác động kỷ luật của hệ thống này có thể thấy trong các kết quả bầu cử của các làng nhỏ và dễ bị tổn thương nhất: một làng càng bị tác động bởi công việc công ích, càng nhiều người của nó bỏ phiếu cho đảng cai trị.

96.  MỘT XÃ HỘI NHÓM BẢO TRỢ LÀ KHÁC VỚI MỘT XÃ HỘI TÂN TỰ DO, bởi vì ở mức các nhóm xã hội thì chủ nghĩa tân tự do nguyên tử hóa—còn chủ nghĩa bảo trợ chư hầu hóa. Việc tính đến ngữ cảnh rộng hơn của xã hội nhóm bảo trợ tiết lộ vì sao khung khổ của chủ nghĩa tân tự do gây lạc lối khi nó phân tích các quan hệ xã hội trong nền chuyên quyền bảo trợ. Lý tưởng tân tự do là logic cạnh tranh, lãi-và-lỗ của thị trường tự do, mà nó muốn tôn lên làm nguyên tắc cơ bản của mọi kiểu quan hệ xã hội trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Hạn chế năng lực của các định chế đoàn kết xã hội, chủ nghĩa tân tự do thúc đẩy sự cạnh tranh thuần túy của mọi diễn viên xã hội, ngay cả đến mức nguyên tử hóa. Chủ nghĩa bảo trợ, ngược lại, thúc đẩy sự loại bỏ cạnh tranh: nó chư hầu hóa, hơn là nguyên tử hóa, các nhóm xã hội. Gia tộc chính trị nhận con nuôi bắt đầu thay thế các cơ chế thị trường tự do, hay “bàn tay vô hình” của các quá trình thị trường bằng bàn tay hữu hình của nhà bảo trợ chóp bu (Mệnh đề 80).

Chúng ta có thể so sánh ba hậu quả xã hội có vẻ giống hệt nhau của các chế độ bảo trợ và tân tự do để quan sát những sự khác biệt của chúng. Thứ nhất, bất bình đẳng về của cải và thu nhập tăng nhanh trong cả hai chế độ. Nhưng chủ nghĩa tân tự do dẫn đến bất bình đẳng thị trường, xuất phát từ các cơ chế của chủ nghĩa tư bản và nền kinh tế thị trường, còn một xã hội nhóm bảo trợ có bất bình đẳng bảo trợ, do các cơ chế của các mạng lưới bảo trợ phi-chính thức gây ra và bảo tồn. Những người ở đỉnh của hệ thứ bậc xã hội lên đó bởi quyết định của nhà bảo trợ chóp bu; và không ai, mà có thể đã leo lên đó qua các kênh trọng dụng nhân tài, có thể giữ vị trí của họ nếu nhà bảo trợ chóp bu muốn cách chức họ, tiếp quản các tái ản của họ (Mệnh đề 84). Elite cai trị, gia tộc chính trị nhận con nuôi không phải được gây ra bởi, mà là nguyên nhân của, các hình mẫu của sự bất bình đẳng, sự giao tiếp, và sự xa cách xã hội.

Thứ hai, dưới chủ nghĩa tân tự do, sự dễ bị tổn thương của các nhân viên vis-à-vis các ông chủ tăng lên bởi sự làm yếu các cong đoàn và các quyền lao động. Điều này cũng có thể xảy ra trong một nền chuyên quyền bảo trợ—nhưng chế độ đó tước quyền cả các ông chủ và các nhân viên, buộc họ vào đại vị nhóm bảo trợ qua sự bảo trợ hóa. Mặc dù quyền tùy nghi của ông chủ được mở rộng de jure, ông chủ, mà hoặc liên kết với mạng lưới bảo trợ phi-chính thức hay cố gắng để tránh cắt ngang con đường của nó, được kỳ vọng để dungfq lc của họ cho sự thiên vị chính trị, không đơn giản vì động cơ (lợi nhuận) cá nhân. Cuối cùng, chúng ta có thể thấy không một ông chủ tự do nào mà có thể hạn chế sự tự trị của các nhân viên của họ trừ nhà bảo trợ chóp bu mà phá vỡ sự tự trị của cả hai, một cách trực tiếp hay gián tiếp. 

Cuối cùng, các chế độ chuyên quyền bảo trợ có thể có chính sách thuế, mà trong một nền dân chủ tự do có thể coi như bảo thủ-cánh hữu, ủng hộ hàng ngũ cao hơn của tầng lớp trung lưu. Nhưng điều này cũng có thể được hiểu từ quan điểm của xã hội nhóm bảo trợ. Như chúng tôi đã nhắc đến, nhà bảo trợ chóp bu là một tên cướp ở một chỗ: hắn không đơn giản ăn cắp mà liên tục làm vậy, vì thế hắn phải đảm bảo vị trí của mình trong quyền lực (Mệnh đề 64). Do đó, hắn cũng cần các phiếu của những người thuộc về các nhóm không-nhóm bảo trợ nữa, mà đã có thể trốn sự bảo trợ hóa: một cách điển hình hoặc bởi vì họ được quyền hưởng các trợ cấp nhà nước chuẩn tắc (những người về hưu, các sinh viên v.v.) hay các thành viên của giai cấp tư sản, mà có kỹ năng kinh doanh, các công ty định hướng xuất khẩu, và/hoặc đã tích tụ được vốn rồi trong các thị trường mà gia tộc chính trị nhận con nuôi đã chưa sáp nhập được. Không có khả năng nhắm mục tiêu họ với sự can thiệp tùy ý, nhà bảo trợ chóp bu dùng kho vũ khí chuẩn tắc của nhà nước để lôi kéo họ. Trong khi các phiếu của những người ở dưới đáy của hệ thứ bậc xã hội có thể được mua rẻ bằng các quà tặng vật chất rẻ, một lần, các nhóm được nhắc tới ở trên (mà cũng có khuynh hưởng bỏ phiếu hơn những người nghèo) có thể được xoa dịu qua việc cắt giảm thuế, tái phân phối trái khoáy, và loại như vậy.

97. SỰ ỔN ĐỊNH XÃ HỘI CỦA MỘT NỀN CHUYÊN QUYỀN BẢO TRỢ được bảo đảm bởi đặc lợi (vested interest) của các nhóm nhóm-bảo trợ (clientage groups) trong status quo (hiện trạng). Không gống các chế độ độc tài cộng sản mà dựa vào việc dùng khủng bố hàng loạt để tránh sự nổi dậy dân chúng, các chế độ chuyên quyền bảo trợ dùng các phương tiện khác nhau của sự thuyết phục chính trị quần chúng (Bảng 34). Giữa chúng, chúng ta có thể thấy ý thức hệ, mà chúng ta sẽ thảo luận trong các mệnh đề tiếp; cũng như sự cưỡng bức và sự thâu nạp, mà được làm cho có thể bởi sự tạo ra xã hội nhóm bảo trợ.

Sự ổn định của các nhóm bảo trợ là khá khác với sự ổn định của sự ủng hộ chính trị của các công dân tự trị trong một nền dân chủ tự do. Những người có được vị trí qua các cơ chế đặc quyền dựa vào quyền lực có cái gì đó để mất rồi—đấy là cái gắn họ với trật tự mới. Điều này là đặc biệt đúng trong trường hợp của các thành viên của giới quý tộc phục vụ không đạt các vị trí của họ bằng công trạng chuyên môn, mà vì lòng trung thành vô điều kiện được đòi hỏi từ họ. Một vị trí, được cho là do công trạng trước đây, trở thành một việc làm được giao—và có khả năng bị sự ưu ái bảo trợ lấy đi. Do đó nô bộc bảo trợ có một đặc lợi trong việc giữ vững hệ thống, vì bất cứ sự thay đổi nào sẽ đến với một rủi ro sống còn.

Kỷ luật giữa những người còn lại trong hệ thống được lọc tăng thêm bởi một khoảng cách khổng lồ giữa thu nhập hiện tại của họ và các kỹ năng của họ sẽ đáng giá trên thị trường tự do. Trong gới của các nhà cung cấp cho triều đình và các nhóm bảo trợ thượng lưu, để là một người thắng hay người thua của một vụ đấu thầu có thể được do bằng các sản nghiệp. Khi chế độ ổn định, họ chỉ lo về các trừng phạt tùy ý tiềm năng của nhà bảo trợ chóp bu, mà họ có thể tránh với lòng trung thành; nếu chế độ sụp đổ, họ sẽ cần sợ về phải chịu trách nhiệm cho các hợp đồng và các cơ hội nhận được thường bất hợp pháp, mà họ có thể trở thành nạn nhân dưới một chế độ thực thi pháp luật chuẩn tắc. 

Sẽ là một sai lầm để đánh giá thấp năng lực của chế độ để củng cố sự cố kết và lòng trung thành của những người được nhân vào gia tộc chính trị. Giống kết cấu thép trong bê tông cốt thép: sự cố kết xã hội của ý chí của các cá nhân là một chiều không cảm nhận được cho các thăm dò dư luận, nơi ý thức hệ, cương lĩnh, và sự tồn tại rõ ràng khớp với các thành viên của nhóm bảo trợ.

Ngoài lợi ích vật chất và nỗi sợ báo thù ra, sự ủng hộ của các thành viên của các nhóm bảo trợ cho chế độ cũng có thể là thành thật. Theo nghĩa này, niềm tin ý thức hệ hoàn toàn được bổ sung bằng tâm lý học xã hội kỳ lạ của xã hội nhóm bảo trợ. Trong các nước thay đổi-chế độ, toàn bộ các nhánh của ngành công nghiệp tan rã với sự mất các thị trường truyền thống của khối Soviet; và sau khi việc làm gần như đầy đủ thì các làn sóng thất nghiệp ồ ạt kéo đến. Thêm vào sự căng thẳng tăng cường đột ngột này đến từ sự bất trắc chung của sự cạnh tranh thị trường, chúng ta có thể kết luận rằng kinh nghiệm chung của nhân dân hậu cộng sản về các trật tự tiếp cận mở (open-access) đã là nỗi lo sống còn: quan niệm về sự bất trắc và nỗi sợ từ triển vọng thực tế mất mọi thứ.

Khi thay cho một trật tự như vậy một nền chuyên quyền bảo trợ và một xã hội nhóm bảo trợ được thiết lập, sự phụ thuộc bảo trợ có thể ban cho một cảm giác an toàn. Trong khi mất quyền tự do của họ cho các nhà bảo trợ của họ, các thành viên của các nhóm bảo trợ phải nhận được các lợi ích nào đó một cách ổn định để tạo ra sự phụ thuộc và cơ hội về các mối đe dọa không-hung bạo từ các nhà bảo trợ. Các lợi ích này, và bản chất ổn định của nó, tạo ra một môi trường có thể tính toán được gây ra sự an toàn bản thể luận: cảm giác về sự an toàn và sự tin cậy cá nhân, được tạo ra bởi tính có thể dự đoán được của thói quen hàng ngày. Và vì mọi người nói chung không thích rủi ro, ngay cả những người mà không là những người mê mẩn theo hệ thống phải thấy các triển vọng cực kỳ hứa hẹn để xem xét sự ủng hộ một sự thay đổi căn bản, mức-chế độ. Một xã hội nhóm bảo trợ bằng cách ấy nằm trong cân bằng của một xã hội bảo trợ chủ nghĩa.

 

Bảng 34: Các biện pháp thuyết phục chính trị quần chúng trong ba chế độ kiểu cực.

 

 

(Các) nhóm mục tiêu

 

Hình thức/phương tiện thực thi

Tầm quan trọng tương đối cho sự thuyết phục chính trị quần chúng trong

Nền dân chủ tự do

Nền chuyên quyền bảo trợ

Chế độ độc tài Cộng sản

 

 

 

 

Cưỡng bức

Dùng bạo lực

Dân cư

Sự ép buộc trắng (xám và đen)

+

+++

 

 

Các đe dọa không-bạo lực

Những người nhận chuyển giao

Cắt chuyển giao

+++

Công chức

Sa thải khỏi việc làm

+++

+

các diễn viên kinh tế

Loại trừ khỏi các hợp đồng (nhà nước)

+++

 

Thâu-nạp

 

Dân cư

Chủ nghĩa bảo trợ/ sự cải thiện tiêu chuẩn sống (có mục tiêu)

 

++

 

++

 

++

Ý thức hệ

Dân cư

Media

+++

+++

++

Ghi chú: +++: phương tiện chính; ++: phương tiện thứ hai; +: phương tiện thứ ba; : không dùng cho sự thuyết phục chính trị quần chúng.


 

Chủ nghĩa dân túy: một Công cụ Ý thức hệ cho Cương lĩnh chính trị của tính Ích kỷ Tập thể Không bị ràng buộc về Đạo đức

98. CÁC DIỄN VIÊN BẢO TRỢ ÁP DỤNG Ý THỨC HỆ, hơn là bị ý thức hệ-dẫn dắt. Các lợi ích vật chất và tâm lý học xã hội của xã hội nhóm bảo trợ được bổ sung bởi một chân thứ ba của sự ổn định quyền lực: ý thức hệ. Trong khi chèn ép các đối thủ của họ ra khỏi lĩnh vực truyền thông (Mệnh đề 47), gia tộc chính trị nhận con nuôi dùng media riêng của nó để truyền bá các thông điệp ý thức hệ để chính danh hóa sự cai trị của nhà bảo trợ chóp bu (Mệnh đề 43-44).

Khi nói đến phân tích các các diễn viên bảo trợ, ý thức hệ không được phép hiểu với giá trị danh nghĩa. Đấy là điều thường xảy ra trong các phân tích chính trị: khi một diễn viên chính trị nhắc đến các giá trị dân tộc chủ nghĩa, họ được coi là một người dân tộc chủ nghĩa; khi họ nhắc đến các giá trị bảo thủ-cánh hữu, họ được coi là một nhà bảo thủ v.v. Các diễn viên được đặt trên trục tả–hữu và tự do–bảo thủ dựa vào các mục tiêu được truyền đạt và các tuyên ngôn đảng.

Việc dán nhãn một diễn viên như “dân tộc chủ nghĩa” hay “bảo thủ” trình bày ý thức hệ như yếu tố xác định của diễn viên đó, và vì thế nó dường như để giả định rằng họ không chỉ truyền đạt ý thức hệ mà cũng coi nó một cách nghiêm túc: rằng đó là phương hướng chủ đạo mà họ hành động theo. Giả định này được biện minh nếu các hành động của một diễn viên thực sự phù hợp với ý thức hệ được truyền đạt của họ. Nếu có một sự hài hòa của lời nói và việc làm, chúng ta có thể nói về sự dẫn dắt ý thức hệ.

Một ví dụ cho chính trị do ý thức hệ-dẫn dắt được các chế độ độc tài cộng sản cung cấp. Chúng có thể được coi như các chế độ do ý thức hệ-dẫn dắt bởi vì các đặc điểm chính của chúng (hệ thống độc-đảng và độc quyền của quyền sở hữu nhà nước về các tư liệu sản xuất) có thể được dẫn xuất từ ý thức hệ của chúng, chủ nghĩa Marx-Lenin (Mệnh đề 42). Jarosław Kaczyński, mà đã cố gắng thiết lập một nền chuyên quyền bảo thủ ở Ba Lan và khăng khăng về một luật phá thai nghiêm ngặt bất chấp sự không được lòng dân của nó, minh họa thêm rằng các diễn viên do ý thức hệ-dẫn dắt sẵn sàng trả một cái giá chính trị cho việc kiên quyết về các chính sách nào đó.

Và trong khi các đảng của các nền dân chủ tự do có thể đưa ra các thỏa hiệp,họ chắc chắn có các chiến thuật chính trị, cũng có ý nghĩa để nhận diện chúng với các ý thức hệ cánh-tả và cánh-hữu. Vì điểm xuất phát của chúng là một ý thức hệ: chính các mục tiêu ý thức hệ, chính sách công (Mệnh đề 56) mà họ mang tới bàn và thỏa hiệp, thiết kế các chiến thuật chính trị cho, và muốn nắm quyền lực cho.

Tuy nhiên ý thức hệ được truyền đạt có thể không luôn luôn là phương hướng chỉ đạo của một diễn viên hay chế độ do ông lãnh đạo. Trong trường hợp của các diễn viên bảo trợ, không có sự hài hòa nào của lời nói và hành động: ý thức hệ của họ thực hiện không phải vai trò của một phương hướng chỉ đạo mà của một vỏ bọc. Họ không là cánh tả, cũng chẳng là cánh hữu: họ bị dẫn dắt bởi các động cơ kép của sự tập trung quyền lực và sự tích tụ sự giàu có (Mệnh đề 25), và ráp lại một bộ quần áo ý thức hệ phù hợp với cơ thể có bản chất chuyên quyền của họ từ một loại chiết trung của các khung ý thức hệ. Nói cách khác, không phải là một ý thức hệ định hình hệ thống mà theo đó nó cai trị, mà là hệ thống định hình các giá trị ý thức hệ, với các độ tự do và tính biến thiên to lớn. Sự cố gắng để giải thích các động lực của các diễn viên bảo trợ hậu-cộng sản từ chủ nghĩa dân tộc, các giá trị tôn giáo, hay một cam kết với tài sản nhà nước là một thí nghiệm vô ích như việc cố gắng suy ra bản chất và hoạt động của mafia Sicilian từ chủ nghĩa yêu nước địa phương, sự lấy gia đình làm trung tâm, và lòng mộ đạo Kitô.

                99.  VỀ BÊN CUNG, SỰ CỐ KẾT GIÁ TRỊ ĐƯỢC THAY BẰNG SỰ CỐ KẾT CHỨC NĂNG trong truyền thông ý thức hệ của các nhà dân túy bảo trợ. Để phân tích hoạt động của ý thức hệ trong các chế độ bảo trợ, chúng ta cần đưa ra một sự phân biệt giải tích giữa bên cung của thị trường chính trị—các nhà dân túy bảo trợ—và bên cầu—các cử tri của họ. Về phần cái trước, trong khi truyền thông của các diễn viên do ý thức hệ-dẫn dắt cho thấy sự cố kết giá trị, còn của các diễn viên áp dụng-ý thức hệ cho thấy sự cố kết chức năng, được đặc trưng bởi một chủ nghĩa thực dụng không mang-giá trị.

Để là chính xác hơn, chúng ta có thể nói về sự cố kết giá trị khi ý thức hệ của diễn viên là chặt chẽ về logic và được áp dụng một cách nhất quán (không gồm các lập trường mâu thuẫn hay tiêu chuẩn kép). Ngược lại, sự cố kết chức năng có nghĩa rằng ý thức hệ diễn viên là không chặt chẽ về logic và không được áp dụng một cách nhất quán (tức là, gồm các lập trường mâu thuẫn hay các tiêu chuẩn kép), nhưng hình mẫu của việc chọn và thay đổi các lập trường ý thức hệ bắt nguồn một cách mạch lạc từ những cân nhắc thực dụng, tức là, nguyên tắc về lợi ích elite trong trường hợp của các nhà dân túy bảo trợ (Mệnh đề 25).

Trong các chế độ toàn trị do ý thức hệ-dẫn dắt, các diễn viên nhà nước phục vụ cùng ý thức hệ phù hợp với một mục tiêu mục đích luận; trong một chế độ áp dụng ý thức hệ, các diễn viên nhà nước hoặc không theo bất kể ý thức hệ nào một cách nhất quán hay họ theo các ý thức hệ khác nhau mà có chức năng cục bộ, dẫn đến một sự pha trộn hoạt động nhà nước không cố kết về giá trị nhưng lại cố kết-chức năng.

Tất nhiên, không phải tất cả các giá trị ý thức hệ dễ dàng hợp với các hình mẫu hành vi của chủ nghĩa bảo trợ. Ví dụ, những ý thức hệ nhấn mạnh sự tự trị và quyền tự do cá nhân là xa lạ với nó vì vai trò của người đứng đầu gia tộc gia trưởng là dễ hòa giải hơn với các yếu tố của các ý thức hệ tập thể chủ nghĩa mà cho phép sự thống trị đối với hộ gia đình. Không phải tất cả các ý thức hệ tập thể chủ nghĩa cũng có thể được hòa giải với chức năng này: chủ nghĩa tập thể có cơ sở giai cấp quốc tế chủ nghĩa của chủ nghĩa Marx-Lenin là không phù hợp cho sự hợp pháp hóa ý thức hệ của các hình mẫu gia trưởng của quyền lực. Vì thế, một nhà nước mafia hầu hết kết thúc với việc nhặt các thứ linh tinh từ bảng liệt kê ý thức hệ của các hệ thống độc đoán cánh-hữu.

Khung khổ bao quát mà các diễn viên bảo trợ dùng là chủ nghĩa dân túy—một công cụ ý thức hệ hoàn hảo vì nó đưa đến chỉ sự cai trị không bị ràng buộc của nhà bảo trợ chóp bu, không phải ông ta dùng quyền lực thế nào (Mệnh đề 43-44). Nói chung, một nhà bảo trợ dân túy có thể dán nhãn bất kể vị trí nào như “lợi ích chung” hay “lợi ích quốc gia,” và vì thế biến đối lập với nó trở nên bất hợp pháp và chống-quốc gia. Đặc biệt, khi nói đến việc biện minh các hành động cụ thể của sự tập trung quyền lực và tích lũy-sự giàu có, các nhà dân túy bảo trợ phê phán status quo họ muốn thay đổi (họ cho một “chẩn đoán”) và trình bày hoạt động của họ như giải pháp ( “liệu pháp”). Nhưng chẩn đoán và liệu pháp bị tách rời về mặt logic: hoạt động của cái trước chỉ để chính danh hóa việc thay đổi status quo, và làm mất tính chính danh của bất cứ sự phê phán thay đổi nào như một sự bảo vệ status quo.

Bảng 35 chứa một tóm tắt của các vỏ bọc như vậy được nhà nước mafia Hungari sử dụng: một hỗn hợp các lập luận không mạch lạc về giá trị và các hành động phục vụ một cách mạch lạc các chức năng tập trung quyền lực chính trị và sự tích lũy sự giàu có cá nhân.

Bảng 35: Các vỏ bọc ý thức hệ phù hợp với nền chuyên quyền bảo trợ (từ truyền thông của nhà nước mafia Hungari).

 

Động cơ (nguyên tắc chỉ đạo)

Hành động

Công cụ ý thức hệ

Chuỗi lập luận

Khả năng che đạy (hậu quả logic của lập luận)

 

 

 

 

 

 

 

 

Tập trung quyền lực chính trị

 

Sự tập trung thể chế

(bảo trợ hóa chính trị)

 

Chủ nghĩa

bảo thủ

Văn hóa dân tộc hay tôn giáo phải được bảo vệ không ai được phép trệch

Kiểm soát các sự tự trị bị tuyên truyền đánh dấu như lệch lạc lọai trừ các phong cách sống thay thế và tư duy phản biện

 

 

Chủ nghĩa đa số

Ủy thác dân chủ: các nhà cai trị đại diện công chúng không diễn viên không được bàu nào (hay các bù nhìn của họ) có thể cản trở ý chí của nhân dân

Các nhà chính phiệt có được thẩm quyền tột cùng

không đối lập và phê phán nào được phép từ bất kỳ ai (kể cả nhân dân)

 

 

Vô hiệu hóa các mối đe dọa bên ngoài

 

 

Chủ nghĩa dân tộc

Các nhà cai trị là các đại diện đích thực của quốc gia các lợi ích quốc gia các lợi ích quốc gia phải được bảo vệ và các kẻ thù của nó phải bị tiêu diệt

Gia tộc chính trị nhận con nuôi quyết định cái gì là quốc gia đối lập có thể bị loại từ khỏi quốc gia, các lợi ích tư nhân/bảo trợ trở thành “các lợi ích quốc gia”

 

 

 

 

 

 

 

 

Tích lũy sự giàu có cá nhân

 

 

 

Sự thiên vị bất hợp pháp

 

 

Chủ nghĩa nhà nước

ý thức hệ thị trường-tự do không dẫn đến sự sung túc (mà đến khủng hoảng trong 2008) nhà nước nên giúp đỡ nền kinh tế quốc gia (ví dụ, bằng việc xây dựng một “giai cấp tư sản dân tộc”

Các ưu ái tùy ý cho các diễn viên không hiệu quả được hợp pháp hóa sự điều phối thị trường có thể được thay thế bằng sự tái phân phối thị trường-quan hệ

 

Chống chủ nghĩa tự do

Các chính sách (tân) tự do đã dẫn đến sự cai trị của các công ty đa quốc gia và nợ công caonhà nước nên đảo ngược điều đó qua sự can thiệp

Sự đánh thuế quy định tùy ý được hợp pháp hóa

gia tộc chính trị trị nhận con nuôi có thể bảo trợ bất kỳ khu vực kinh tế tự do trước nào

 

 

 

Săn mồi bất hợp pháp

 

 

Công lý

Elite trước đã có được sự giàu có của nó một cách gian lận (trong tư nhân hóa) nhà nước nên lấy tài sản từ những người xấu và trao cho những người tốt.

Sự chiếm đoạt tùy ý tài sản được hợp pháp hóa gia tộc chính trị nhận con nuôi có thể lấy tài sản của bất cứ ai trong số các đối thủ của nó (các mục tiêu)

100. Về bên cầu các cử tri dân túy cũng theo các lợi ích của họ trong việc chọn ý thức hệ phù hợp nhất với mục tiêu bảo tồn địa vị xã hội và kinh tế của họ. Sự cố kết chức năng là song phương: nó áp dụng cho bên cung của chủ nghĩa dân túy như nó áp dụng cho bên cầu của nó, các cử tri. Nhiều cử tri dân túy tìm kiếm và nhận một thông điệp ý thức hệ mà cung cấp tính chính danh để bảo vệ địa vị của họ khỏi các hiện tượng, các quá trình, và những người đang đe dọa.

Các nhà dân túy của các nền dân chủ Tây phương đang cố gắng với tới “những người thua” theo sau những cú sốc xã hội do các chính sách nhập cư và bản sắc thiểu số gây ra, cũng như những khó khăn và khủng hoảng kinh tế gắn với toàn cầu hóa. Các nhà dân túy trong vùng hậu-cộng sản cũng thế, trong khi một phần tạo ra cầu của họ, thường ngẫm nghĩ về những căng thẳng xã hội có-trước. Vào lúc Liên Xô sụp đổ, một phần đáng kể của xã hội đã kỳ vọng rằng, khi chấp nhận một thiết chế kiểu Tây phương, tiêu chuẩn sống không lâu cũng sẽ ngang với phương Tây. Thế nhưng dù các hệ thống đàn áp lớn chắc như đá nguyên khối sụp đổ đã xuất hiện các hình thức mới chưa từng có của tính dễ bị tổn thương cá nhân hàng ngày.

Thứ nhất, mọi người trải nghiệm khủng hoảng của sự biến đổi kinh tế, đẩy những tỷ lệ lớn của xã hội vào sự lo lắng sinh tồn. Thứ hai, quá trình tư nhân hóa được xem là bất công, hoặc bởi vì họ thấy công cụ của sự chuyển quyền lực trong đó hay đơn giản bởi vì hầu hết dân cư bị bỏ bên ngoài nó, tạo ra một cảm giác chung về bị lừa khỏi “tài sản chung” (mà thực ra nó đã chưa bao giờ là). Thứ ba, sự vô chính phủ tài phiệt và các mức thấp của thể chế hóa trong các nước như Ukraina và Nga đã dẫn đến sự không chắc chắn lan rộng về mặt các hợp đồng và các quyền tài sản, đặc biệt cho các doanh nhân. Các diễn viên kinh tế có thể cảm thấy dễ bị tổn thương với tư cách các đối thủ cạnh tranh, các nhà cung cấp, và đôi khi thậm chí con mồi đối với bộ máy quan liêu, các nhà tài phiệt địa phương, và các công ty đa quốc gia (Mệnh đề 82). Và nói chung sự thành công hay thất bại thị trường đã rất ít liên quan đến thành tích hay dịch vụ khách hàng thực sự. Cuối cùng, sự bất bình đẳng tăng lên về mặt thu nhập và của cải, một phần như một kết quả của các nhân tố trước nhưng cả bởi vì các mức cao của chủ nghĩa bảo trợ (Mệnh đề 96).

Các nhân tố này đã bị các nhà dân túy bảo trợ khai thác, cung cấp một chuyện kể vẽ ra một mối quan hệ nhân quả rõ ràng giữa các vấn đề như vậy và các thị trường, các elite chính trị tự do, và các diễn viên chính trị và kinh tế đế quốc. Ở nước Nga, người ta thay đổi từ như democrat (демократ, nhà dân chủ) thành từ dermokrat (дермократ “shitocrat-cứt-octrat”) và từ tư nhân hóa privatization (приватизация) thành từ prikhvatizatsiya (прхватизация “grabitization -chộp giật hóa”). Tại Hungary của Orbán, từ “liberal-tự do” trở thành câu chửi, mà liên quan đến “hai thập niên chuyển đổi hỗn loạn”, đến “sự thay đổi chế độ bị đánh cắp,” và đến việc “tư bản quốc tế cướp bóc đất nước chúng ta.” Các elite mà đã tháo dỡ tài sản nhà nước bị dán nhãn “những kẻ hầu hạ vốn quốc tế” và “những người ủng hộ sự sự chuyển đổi quyền lực cộng sản.”

         101.  CÁC NHÀ DÂN TÚY BẢO TRỢ TẠO RA MỘT BẢN SẮC TẬP THỂ (“CHÚNG TA”) với các khẩu hiệu như Chúa, Tổ quốc, và Gia đình bằng quá trình chiếm đoạt giá trị qua sự định nghĩa lại. Chuyện kể dân túy dựa vào một sự đối lập Manichean “chúng ta và chúng nó,” và sự xây dựng diễn ngôn về hai nhóm này. Để xây dựng nhóm “chúng ta,” các nhà dân túy áp dụng-ý thức hệ dựa vào các bản sắc hiện có, liên kết với các cộng đồng truyền thống của sự bảo vệ lẫn nhau. Các bản sắc này được khắc sâu vào đầu óc mọi người như các giá trị mà, nếu được tôn trọng, bảo đảm sự sống sót và sự bảo vệ chống lại các mối đe dọa bên ngoài. Quan trọng nhất trong số các cộng đồng như vậy là ba: cộng đồng tâm linh (Chúa), cộng đồng sắc tộc (dân tộc),gia đình. Trong thời khủng hoảng, mọi người theo phản xạ quay về các cộng đồng an toàn này, mà vì thế là cố kết-chức năng cho mọi người và cung cấp một hệ thống giá trị đặc biệt thích hợp mà nhà dân túy có thể dựa vào.

Tuy vậy, để biến chúng thành cố kết-chức năng cho cả nhà dân túy nữa, ông ta không đơn thuần dùng các bản sắc này như chúng tồn tại mà thực hiện sự chiếm đoạt giá trị thông qua sự định nghĩa lại (Hình 16). Nhà dân túy chọn các yếu tố hấp dẫn từ mỗi bản sắc cộng đồng truyền thống; loại bỏ khỏi chúng các phần không hợp với hình mẫu của sự thống trị bảo trợ; và định khung lại chúng theo ngữ cảnh của chế độ. Sự chọn “Chúa,” chẳng hạn, dựa vào sự bác bỏ tính duy lý và tranh luận được khai sáng, định khung theo một cách để trao cho gia tộc chính trị nhận con nuôi một vị trí đạo đức không thể nghi ngờ. Trong khi các giáo huấn tôn giáo cơ bản về sự đoàn kết, lòng trắc ẩn, và sự chừng mực bị loại bỏ vì chúng là không tương thích với chủ nghĩa gia đình vô đạo đức (Mệnh đề 39).

“Dân tộc [quốc gia, tổ quốc]” là một cộng đồng ràng buộc về cảm xúc mà nhân danh nó có thể đòi hỏi sự hy sinh; mặt khác, nhà dân túy loại bỏ yếu tố tư cách công dân, cũng như sự đoàn kết gắn với nó. Diễn đạt đơn giản, một số người có thể bị loại trừ khỏi dân tộc: không phải mọi người, mà là một công dân, và vì thế phần của dân tộc theo định nghĩa gốc của nó, một cách tự động cũng là một diễn viên quốc gia, và nghĩa vụ đạo đức của các thành viên của quốc gia đối với họ cũng chẳng tự động. Điều này dẫn trực tiếp đến sự tái định khung: chủ nghĩa dân tộc của nhà nước mafia không được định hướng chống lại các quốc gia khác, mà chống lại những người bên trong quốc gia mà không là phần của gia tộc chính trị nhận con nuôi, không lệ thuộc vào gia tộc đó như các chư hầu, và là các đối thủ của gia tộc.

Cuối cùng, trong quan hệ với khái niệm “gia đình,” các nhà dân túy dùng các xu hướng thế tục, tiến bộ của phương Tây như một ví dụ răn đe, và nói để bảo vệ mô hình gia đình truyền thống, khẳng định tính chính danh xã hội của cùng hình mẫu của sự cai trị gia trưởng mà được hiện thân trong vai trò của nhà bảo trợ chóp bu trong nước.

Hình 16: Quá trình chiếm đoạt qua sự định nghĩa lại.

Chn

Tái định khung

Loi b

Định nghĩa li

 Định nghĩa



102. CÁC NHÀ DÂN TÚY BẢO TRỢ CHỌN KẺ THÙ (“HỌ-CHÚNG NÓ”) theo cách áp dụng áp dụng-ý thức hệ, đi theo chính trị kinh tế học bêu xấu. Sự xây dựng nhóm “họ” gồm các kỹ thuật xây dựng kẻ thù và sự bêu xấu. Các nhà dân túy bảo trợ không phải là những người chống-Semites: các mục tiêu của họ không hải là “những người Do thái,” nhưng họ coi chống-Semites như một khán giả chính trị mục tiêu. Vấn đề của họ với các ngân hàng không phải chúng là “Do thái” mà là chúng không phải là của họ. Họ cũng chẳng là kỳ thị chủng tộc—họ chỉ muốn lôi kép những người có khynh hướng kỳ thị chủng tộc vào phe của họ thôi. Họ làm điều này một cách có ý thức, thực tế, mà không có sự rối loạn cảm xúc.

Ngược lại với những kẻ cực đoan do ý thức hệ-dẫn dắt như những kẻ phát xít và các chính trị gia bài ngoại, các nhà dân túy áp dụng-ý thức hệ không có một nhóm “họ” bị bêu xấu ổn định. Họ thay đổi các kẻ thù thường xuyên, theo bầu không khí chính trị hiện thời. Sự bêu xấu ý thức hệ có một “chính trị kinh tế học” đặc thù: kẻ thù được chọn trên cơ sở nhóm nào có tiềm năng đáng kể nhất cho việc gây ra hận thù và sự sợ hãi, và năng lực nào của sự lên tiếng và sự kháng cự nó có thể có (Bảng 36).

Tiềm năng gây-sợ hãi của “những người chị thiệt thòi về mặt xã hội,” như những người vô gia cư, là thấp hơn, và họ bị tách biệt khỏi đa số xã hội chủ yếu bởi địa vị xã hội của họ, như thế giỏi nhất họ có thể dùng làm các mục tiêu cho các chiến dịch hận thù ad hoc. Tuy vậy, “những người LGBT” bị chia khỏi đa số bởi sự chia tách tình dục và văn hóa, còn trong trường hợp của “những người nhập cư” mọi người có thể thấy các đường đứt gãy sắc tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, và văn hóa. Như một kết quả, các nhóm này có thể được dùng trong một thời kỳ dài do tiềm năng gây-sợ hãi cao của chúng.

Bảng 36: Các tiêu chuẩn của các nhóm bị bêu xấu để thỏa mãn nhu cầu của chức năng áp dụng-ý thức hệ.

 

Chiều chia tách (tiềm năng cho sự phân biệt

‘họ’‘chúng ta’)

 

Tiềm năng gây sợ hãi

 

Năng lực lên tiếng

 

Panel ý thức hệ

Sắc tộc

Tôn giáo

Ngôn ngữ

Định hướng tính dục

Truyền thống văn hóa

Địa vị xã hội

Những người bị thiệt thòi/bị tước đoạt về mặt xã hội

 

 

 

 

 

 

X

 

X

 

X

Thiếu sự đoàn kết

Những người LGBT

 

 

 

X

X

 

XX

XX

Sợ đồng tính

Các thiểu số tôn giáo

 

 

X

 

 

 

X

 

X

 

XXX

 

XXX

Chống-Semitism v.v.

Các thiểu số sắc tộc/chủng tộc

X

 

X

 

X

X

XXXX

XXX

Kỳ thị chủng tộc

Những người tị nạn

X

X

X

 

X

X

XXXXX

X

Bài ngoại

Trong quan hệ với các nhóm bị bêu xấu, nhà dân túy thường cũng nêu ra các thuyết âm mưu. Quả thực, các thuyết âm mưu theo một cách logic từ thuật hùng biện dân túy. Vì trong một thế giới quan Manichean, mọi người phải thuộc về hoặc một bên hay bên kia,n trong thực tế các nhóm bị bêu xấu, đặc biệt khi chúng được chọn một cách thực thực dụng và thay đổi thường phù hợp với sự cố kết chức năng, tạo thành một tập hợp hết sức hỗn tạp của các diễn viên. Một nhóm mà gồm một loạt các diễn viên từ các cá nhân tích cực đến các thiểu số thụ động, từ các đảng và các tổ chức đối lập đến các quốc gia khác và các liên minh quốc tế, nhất thiết bị phân mảnh. Nếu các diễn viên này phải cùng nhau ở bên của “họ,” thì phải có một âm mưu giữa họ. Một thuyết âm mưu là một thế giới quan rút gọn, hệt như bản sắc giả về mặt chính trị là một sự rút gọn của bản sắc.