Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2025

Love without Sex – Những chuyện tình không xác thịt

 Lê Hồng Lâm

 

Tại sao những câu chuyện tình không xác thịt lại đau và đẹp đến vậy?

Có vô vàn câu chuyện tình yêu tan vỡ trên thế gian này. Nó thường bắt đầu bằng nhục cảm, bằng niềm đam mê xác thịt nhưng rồi cuối cùng lại tan vỡ bởi vô vàn nguyên do ở đời.

Trần Mộng Tú, một dòng thơ tuôn chảy ngoài quê hương

 Liễu Trương

 

Nhà thơ Trần Mộng Tú

Thơ Trần Mộng Tú là một hiện tượng trên thi đàn hải ngoại, hiện tượng là vì dòng thơ này trải dài suốt 50 năm của nền văn học hải ngoại, không hề ngưng nghỉ; một dòng thơ khi thì thổ lộ tâm tình của một người nữ giàu tình cảm, khi thì hướng về ngoại giới để vui buồn theo mệnh nước nổi trôi.

Ngôn ngữ thơ của Trần Mộng Tú không uyên bác, không cầu kỳ, kiểu cách. Lời thơ của Trần Mộng Tú giản dị, hồn nhiên như thỏ thẻ tâm tình bên tai người đọc, kể lể buồn vui của cuộc đời.

Điều gì đã khiến một người nữ sáng tạo một dòng thơ qua những thử thách cũng như những cái đẹp của cuộc đời trong hơn nửa thế kỷ?

Câu hỏi này đưa chúng ta ngược dòng thời gian, trở về thời thơ ấu của tác giả. Những bài học thuộc lòng trong lớp cho cô bé Trần Mộng Tú cảm thấy cái đẹp của thơ văn, và sự say mê khởi đầu từ đó, rồi càng lớn những bài thơ học thuộc lòng càng nhiều hơn. Xảy ra một sự kiện giúp cô bé đi xa vào thế giới văn chương: Khi đất nước vừa chia đôi, gia đình Trần Mộng Tú di cư vào Nam; trong khi còn ở tạm dưới những căn lều dành cho người di cư, thì hành lý của gia đình bị thất lạc, thay vào đó là một bao tải đầy sách, không rõ của ai. Người sung sướng nhất là cô bé Trần Mộng Tú 11 tuổi, tình cờ được hưởng cả một kho tàng sách. Và cứ thế nỗi say mê văn chương lớn dần với tuổi đời, cho đến một ngày kia cô gái bắt đầu làm thơ. Nguồn sáng tạo đã thành hình.

Sống trong thời chiến, con người dễ gặp nguy cơ, hoạn nạn. Đó là trường hợp của Trần Mộng Tú. Đang tuổi thanh xuân, lòng mơ ước một tương lai tươi đẹp, thì chiến tranh tràn đến, cướp mạng sống của người yêu, người chồng, chấm dứt một cuộc hôn nhân ba tháng. Trần Mộng Tú đau xót, chỉ biết tìm đến chữ nghĩa để than khóc, để nói lên tình yêu và nỗi thương tiếc chồng:

Không bao giờ em quên

đường ba trăm cây số

em đi nhận xác anh

với trái tim thống khổ

 

Không bao giờ em quên

chiếc quan tài màu vàng

lá cờ ba sọc đỏ

anh nằm im lìm đó

chẳng một lời sau cùng.

(Huyệt m)

Em tặng anh hoa hồng

Chôn trong lòng huyệt mới

Em tặng anh áo cưới

Phủ trên nấm mồ xanh

 (Quà tặng trong chiến tranh, 7/1969)

Trần Mộng Tú cho khắc trên mộ chồng, nơi nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi – thời còn nghĩa trang này – bốn câu thơ như sau:

Áo cưới chàng may còn mùi vải

rượu hồng thiếp uống còn cay môi

xa nhau một phút ngàn thu vắng

nỗi buồn này biết làm sao nguôi

Trần Mộng Tú không nhớ đã làm những bài thơ đầu tiên vào lúc nào, nhưng chắc chắn những bài thơ đến với độc giả khởi đầu từ năm 1969, năm xảy ra sự mất mát lớn trong đời.

Kể từ đó, nguồn sáng tạo của Trần Mộng Tú ngày càng dồi dào hơn, phong phú hơn, để ngày nay trở thành một dòng thơ tuôn chảy không ngừng.

I Ba chủ đề trong thơ Trần Mộng Tú

Có thể nói, chiến tranh là điểm xuất phát nguồn thơ của một tâm hồn vốn đã say mê văn chương, và nguồn thơ đó được hình thành, mở rộng quanh ba chủ đề: mất mát, cô đơn trên xứ người và tình yêu muôn thuở.

Những mất mát lớn trong đời

Mất mát tình yêu, hôn nhân, nhưng dư âm của chia ly và nỗi nhớ nhung vẫn còn đó:

Tôi xa người nắng buồn trên vai

Môi tôi mùi thuốc còn thơm hơi

Người xa tôi một dòng sông trắng

Dãy núi bên kia có ngậm ngùi

Tôi xa người như xa quê hương

Những dấu thân yêu mất cuối đường

Người nhặt hộ tôi hoa dĩ vãng

Lau giùm dòng lệ ở vết thương

 

Người xa tôi gió cũng lặng thinh

Tôi rung nỗi nhớ ở quanh mình

Người như suối chảy qua rừng vắng

Cả một dòng sông đứng lại chờ.

(Cả một dòng sông đứng lại chờ)

Bên cạnh mất mát riêng tư, có một mất mát vô cùng lớn lao: mất mát quê hương:

Khi tôi đi một mặt trời vừa rụng

Một kinh thành vừa sụp đổ sau lưng

Một quê hương vừa thở nhịp cuối cùng

Một dân tộc vừa ly khai dân tộc

(Bài thơ viết ở Pendleton, California, 21/4/1975)

Hãy tưởng tượng ra em

ở nơi không định tới

em tủi như chim khuyên

khóc trong lồng son mới

(Hãy tưởng tượng ra em, tháng 7/1975)

Tình hoài hương làm nặng lòng kẻ ra đi:

Mỗi độ xuân về tôi nhớ lắm

những ngày xuân cũ trên quê hương

nhớ người tình cũ, ngôi chùa cũ

hoa mẫu đơn nở đỏ bên tường
(Mẫu đơn)

Quê hương xa

thật là xa

dòng sông

ngọn núi

chỉ là chiêm bao.

(Gió Đông)

Đốm nhang cháy đỏ như quầng mắt

khói có bay về tận cố hương

vườn người, tôi chiết cành xuân thắm

nhớ quê vết cắt trượt xuống hồn.

(Chiết cành)

Trong ký ức của kẻ ra đi, tháng Tư được khắc sâu như một dấu hiệu của mất mát, của chia ly:

Em nằm im lặng nghe đêm thở

Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm

Anh ạ, em nghe tháng Tư khóc

Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen

(Đêm Tháng Tư)

Anh ạ, tháng Tư sương mỏng lắm

Sao em nhìn mãi chẳng thấy quê

Hay sương thành lệ tra vào mắt

Mờ khuất trong em mọi no về.

(Vết thương)

Cô đơn trên xứ người

Ngay lúc mới đặt chân đến xứ người đã có những ngỡ ngàng buốt lạnh, khiến tâm hồn cảm thấy lạc lõng:

Khi tôi đến… Ôi! một tôi đổi khác

Áo khăn người nghe lạ tủi trên thân

Chăn chiếu người đắp mãi vẫn lạnh căm

Ly nước ngọt trên môi nghe muối mặn

(Bài thơ viết ở Pendleton, California, 21/4/1975)

Và lạc lõng giữa những người khác chủng tộc:

Hãy tưởng tượng ra em

ở một căn nhà lạ

mình em một ngôn ngữ

mình em một màu da

mình em một màu mắt

mình em một lệ nhoà.

(Hãy tưởng tượng ra em, tháng 7/1975)

Khi cuộc sống đã ổn định trên xứ người, gia đình đầm ấm, vẫn có một nỗi cô đơn ray rứt tâm hồn, không chia sẻ được với ai:

Chúng tôi ở Bellevue

hai người một căn nhà hạnh phúc

hai người cùng chung một đất nước

chỉ có một tôi hay buồn

chỉ có một tôi ôm nỗi nhớ quê hương.

(Cuối năm tự truyện)

đêm đêm

khi ngọn đèn đã tắt

chàng ngủ say cùng những

vị á thánh và những anh hùng

nàng thức dậy

ôm trái tim cô đơn

của người tạm trú

(Cũng có hôm như thế)

Em cô đơn

như một thân cây

còn sót lại sau đám cháy rừng

chung quanh em

những tàn tro lạnh ngắt

(Cháy rừng)

Tình yêu muôn thuở

Trong ngôn ngữ tình yêu của Trần Mộng Tú chỉ có người nữ lên tiếng với người yêu. Nhìn từ phía người nữ thì tình yêu muôn mặt, muôn màu, đủ cung bậc.

Trước hết, tình yêu không bao giờ chết, một trong những bài thơ có tính biểu tượng mang tựa đề: Xuân thơm như mật, nói về người nữ bị chôn vùi dưới tuyết, được người yêu đến gạt tuyết và đưa ra ngoài để cùng nhau hưởng một mùa xuân thần tiên.

Tình yêu không có định nghĩa, hãy cứ yêu, không cần tìm hiểu.

Tình yêu được ví với một chùm nho nguyên vẹn:

Có người nói với em tình yêu giống như một chùm nho

mỗi lần yêu là mỗi lần mất đi một trái…

 

Khi anh đến

anh có mang cho em

một chùm nho mới

một chùm nho chưa mất một trái nào.

(Chùm nho tình yêu)

Tình yêu đắm đuối:

Anh ôm em

bằng nguyên cả vòng tay

cho em nếm

mùa xuân trên môi

nhìn cánh chim bay

trong mắt

ngực anh loang mùi rượu

hoàng hoa

cho em thở hơi xuân chất ngất

(Khu vườn mùa xuân)

Tình yêu vội vàng vì thời gian quá ngắn ngủi:

Hãy yêu nhau ngay bây giờ

đừng đợi ngày mai

vuốt tóc trắng rồi ước gì ta trẻ lại…

Yêu đi anh!

nụ hôn em còn nồng

ly rượu còn đầy

mặt trời còn đó…

(Rượu còn đầy, mặt trời còn đó)

Tình yêu không đem lại thỏa mãn:

Đêm qua trở gối nghe mưa

Tình như chăn hẹp không vừa ấm tôi

Co hoài vẫn hụt một nơi

Tôi kéo vuông chiếu buông rơi đóa sầu

(Mưa Seattle)

Tình yêu mong manh:

Ôi tình yêu như giọt sương buổi sáng

làm sao em giữ được đến buổi chiều

(Thời gian và tình yêu)

Tình yêu đem đến mãn nguyện:

Hồn em giờ rất lạ

Một chiếc bình đầy anh

(Hồn em giờ rất lạ)

Tình yêu không có tuổi:

Anh sẽ đến buổi chiều hay buổi sáng

Ngày hôm nay hay ở thế kỷ sau

Em vẫn đợi vì tình yêu không tuổi

Người yêu ơi! Anh đến tự hướng nào.

(Thời gian và tình yêu)

Tình yêu trong thơ Trần Mộng Tú như những nốt nhạc có đủ cung bậc trong một tấu khúc.

II Những nét đẹp trong thơ Trần Mộng Tú

Thông thường một nhà thơ hướng sự sáng tạo cái đẹp theo mỹ cảm của mình. Trong trường hợp Trần Mộng Tú, mỹ cảm tạo nên hai hình ảnh: hình ảnh một thế giới được thi vị hóa và hình ảnh bất biến của một dòng sông.

Trần Mộng Tú dùng một phương pháp tu từ gọi là nhân cách hóa để thi vị hóa thế giới quanh mình. Theo đó, thiên nhiên, thảo mộc, bốn mùa, đồ vật, v.v. trở nên gần gũi, thân mật với con người:

Cũng có lúc tôi hôn lên vách núi

Đứng lặng yên nghe tiếng núi thầm thì

(Trời cuối năm ở Issaquah)

Biển căng ngực và núi rền tiếng thở

(Sợi tóc)

 

Núi cúi đầu khoanh tay

ngắm đóa sen vừa nở

(Cõi ngoài)

Những chiếc lá cháy xém

cúi nhìn dĩ vãng

(Cháy rừng)

hoa tỷ muội cười

ròn rã trên vai em

mặt trời hồng hôn lên

cả hai bên má

(Khu vườn mùa xuân)

Tuyết đứng ngoài hàng rào

ngó qua khung cửa sổ

có tiếng khúc khích cười

của những thanh củi nhỏ

(Mùa Đông)

Nắng trẻ hơn tuổi em nhiều

chạy đuổi nhau qua triền dốc

Những con ong kêu vang vang

mùa hè cười trong mái tóc

(Mùa Hạ)

Mùa thu đang gõ cửa

Mở đi anh… cánh rừng.

(Thu khúc)

Những đôi giầy ngước mắt nhìn chờ đợi

Thầm thì bảo nhau chắc đến phiên mình

(Chuyện của đôi giầy)

Hình ảnh thứ hai do mỹ cảm của tác giả tạo nên là hình ảnh một dòng sông. Đôi khi tác giả dùng lối ẩn dụ để gợi lên hình ảnh này:

Em hý hoáy làm thơ trên xa lộ

Dòng sông xe ngừng chảy giữa buổi chiều

Em hý hoáy làm thơ trên xa lộ

Dòng sông xe đọng lại giữa hoàng hôn

(Thơ trên xa lộ)

Đọc thơ Trần Mộng Tú ta thường thấy lấp lánh một dòng sông:

Khi tôi đi cả dòng sông đứng lặng

Những vai cầu khuỵu xuống buổi tiễn đưa

(Bài thơ viết ở Pendleton, California, 21/4/1975)

Con sông chẩy cả một thuyền quá khứ

Trong mắt em ngơ ngác đám lục bình

(Ngọn nến muộn màng)

Em ngước mặt uống ngụm trăng thơm ngát

Dòng sông đêm bên dưới vỗ chân quen

Anh cúi xuống uống giọt sương trong mắt

Đất rùng mình chim đập cánh bay lên

(Sông đêm)

Tháng sáu mở ra một nhánh sông

Con trăng mùa Hạ chìm dưới đáy

Em thả xuống nước cọng cỏ xanh

Dòng sông trăm năm chỉ là mộng…

 

Tháng sáu duỗi mình vào mùa Hạ

Gió thổi hoa lau bay mang mang

Anh theo dòng sông trôi với tình

Em đứng giữa bờ trăng ngơ ngác

(Trăng và tháng Sáu)

Người như suối chảy qua rừng vắng

Cả một dòng sông đứng lại chờ.

(Cả một dòng sông đứng lại chờ)

Tôi ở nơi này cách Việt Nam gần mười ngàn dặm

sao đứng trước cửa nhà vẫn thấy quê hương

thấy trăm con sông nhỏ

sông Nhuệ, sông Cầu, sông Thương, sông Đáy

sông Cửu Long, sông Hậu, sông Tiền

những con sông dài, ngắn, nông, sâu

những con sông xanh biếc

nước đã đổi sang mầu

nước của ô nhiễm như lòng người ô nhiễm

(Cuối năm tự truyện)

Ngần ấy con sông cũng đủ nói lên mỹ cảm của nhà thơ Trần Mộng Tú. Nhưng sao lại là dòng sông và tại sao hình ảnh đó lại dai dẳng đến thế và trở nên một ám ảnh?

Nếu giải thích theo phân tâm học thì đây là việc làm của vô thức. Freud cho biết con người không có chủ quyền mà chính vô thức điều khiển tất cả. Vô thức hướng tâm hồn của nhà thơ về hình ảnh một con sông. Vậy hình ảnh con sông ngự trị trong thơ Trần Mộng Tú hẳn phải có nhiều ý nghĩa.

Gaston Bachelard (1884-1962), nhà triết học Pháp về khoa học, đã từng nghiên cứu tương quan giữa trí tưởng tượng vật chất của con người với những yếu tố trong thiên nhiên như: nước, lửa, đất, không khí, để phân loại các trí tưởng tượng. Thơ Trần Mộng Tú nói về dòng sông tức nói về nước, và theo Bachelard, nước biểu hiện cho người nữ: vậy thơ Trần Mộng Tú là tiếng nói của người nữ và là một tiếng nói đầy nữ tính.

Nước trong thơ Trần Mộng Tú, ngoài nước của dòng sông, còn có nước mưa, mưa nhiều trong cảm xúc của nhà thơ, và nước mắt vì người nữ này rất giàu nước mắt.

Một ý nghĩa khác của dòng sông: dòng sông có giá trị biểu tượng cho thời gian, nước sông trôi đi như thời gian trôi qua. Trong thơ Trần Mộng Tú có nhiều khắc khoải về thời gian, về tuổi già.

Cuối cùng, chúng ta có thể cùng Trần Mộng Tú ca ngợi cái đẹp của thơ qua ống kính vạn hoa:

Chỉ có thơ là ống kính vạn hoa

ta lắc soi từ thời thơ dại

cho đến tuổi già

vẫn vạn hoa còn đó

trong cái không mầu chứa cả muôn mầu

trong vô ngôn vẽ ra ngàn cảnh giới

(Nỗi không)

Thứ Năm, 4 tháng 12, 2025

Tôi nhớ một người phía sau Bảo Ninh

 Dạ Ngân

Chúng tôi cùng tuổi, sinh 1952. Cùng chiến hào nói theo ngôn ngữ các cựu binh. Bảo Ninh vượt Trường Sơn vào, tôi kháng chiến sớm hơn, là dân của Khu 9 thời Võ Văn Kiệt. Sau này mới biết nhau từ lò Viết Văn Nguyễn Du, từ “ống tay áo của Nguyên Ngọc bước ra”. Và thầm lặng liên tài khi Bảo Ninh đọc tôi qua Con chó và vụ ly hôn còn tôi thì ngay từ đầu đã nghiêng mình với Nỗi buồn chiến tranh.

Nguyễn Duy viết về cú cúi đầu của Bảo Ninh

 ỦNG HỘ BẢO NINH

Không nói chuyện lằng nhằng tặng thưởng

Còn lòng thòng rối vướng loanh quanh

Ủa tôi xin phát biểu nhanh

Bảo Ninh xứng đáng vinh danh cuộc này.

Cú cúi đầu đang gây bàn cãi

Ủa tôi xin nói lại cho vuông

Xưa nay cúi - ngẩng lẽ thường

Tiểu nhân - Quân tử đôi đường lệch duyên.

Đối mặt với cường quyền bạo lực

phải ngẩng đầu rất mực hiên ngang

Cúi đầu thủ lễ là sang

Gặp người tử tế đàng hoàng chào nhau.

Ngẩng đầu - Dũng. Cúi đầu - Lễ phép

Đúng quy trình đều đẹp như nhau.

Ủa xin dứt khoát một câu:

Tôi ủng hộ cú cúi đầu Bảo Ninh!

Trách tay phó nháy vô tình

"toách" vài ba phát cho hình chuẩn hơn.

Thy sĩ Ủa

3.12.2025

 

ĐỂ HIỂU HƠN VỀ TẤM ẢNH CÚ CÚI ĐẦU CỦA BẢO NINH:

TÔI NỢ BẢO NINH MỘT LỜI XIN LỖI !

FB Huong Hoang

Nửa đêm tôi phải lên Facebook, để có một lời cho bức ảnh chụp nhà văn Bảo Ninh lên nhận vinh danh cho tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh tuyệt vời của ông!

Hai ngày nay tôi nhìn thấy bức ảnh tôi chụp Bảo Ninh lên nhận vinh danh đã đăng trên báo Tuổi Trẻ được phủ khắp Facebook mà hoàn toàn không ai trích nguồn. Đáng buồn nữa là bức ảnh ấy lại xuất hiện trên Facebook gắn với những bài viết tiêu cực.

Thì thôi, vẫn giọng điệu cũ từ mấy chục năm trước, tôi bỏ qua.

Nhưng đêm nay thấy nhà văn Phạm Lưu Vũ đăng bức hình với lời bình luận tôi cho thật "hàm hồ".

Ông không cần tìm hiểu rõ bối cảnh một bức ảnh chưa được chú thích thật rõ ràng, đã kết luận nhìn Bảo Ninh trong bức ảnh thật "thảm hại" này nọ. Tôi thấy bình luận ấy của ông mới thật thảm hại.

Tôi có bình luận giải thích trên bài của ông, và tôi thấy cần thiết phải rõ ràng về bức ảnh bằng post này. Tôi xin thưa rằng không phải Bảo Ninh già yếu lụ khụ hay "thảm hại" như nhà văn Phạm Lưu Vũ vội vã quy tội.

Đây là khoảnh khắc ông cúi đầu cảm tạ tràng pháo tay dưới khán phòng đang vỗ tay nhiệt tình thể hiện niềm vui của họ khi thấy Bảo Ninh lên bục vinh danh. Đó là một cử chỉ đẹp.

Tôi trong lúc làm bản tin thời sự nhanh chóng, đã không kịp chú thích thật rõ ràng cho bức ảnh trên bài báo của mình.

Tôi trước tiên nhận lỗi của mình đã vô tình tạo cơ hội cho những bình luận "hồ đồ" về Bảo Ninh.

Nhưng tôi cũng thật sự buồn về các nhà văn, những người tưởng là phải rất thông thái, thì lại thật dễ rơi vào phán xét.

Sau tất cả, tôi nghĩ mình nợ nhà văn Bảo Ninh một lời xin lỗi, dù tôi biết ông sẽ chẳng bao giờ thèm chấp cái sơ suất của tôi!

Tôi cũng biết, ông cũng chẳng đoái hoài đến những bản án này nọ người ta dành cho ông, mấy chục năm rồi không dứt.

Bảo Ninh là như thế.

"Kỉ niệm nào ghi dấu trên tay": Tiễn biệt một lãng tử âm nhạc

 Nguyễn Văn Tuấn

Hơn nửa thế kỉ trước, trong những ngày tháng sinh viên đầy mộng mơ, tôi đã say đắm với giai điệu da diết của Ru Con Tình Cũ. Ca khúc mở đầu bằng hai câu thơ nhạc bất hủ: "Ba năm qua em trở thành thiếu phụ / Ngồi ru con như ru tình buồn...".

Đôi lời về phim “Quán Kỳ Nam”

 Mai An Nguyễn Anh Tuấn

Câu chuyện phim giản dị diễn ra ở một khu chung cư cũ ở Sài Gòn vào thập niên 1980. Hai nhân vật chính: 1. Kỳ Nam, nguyên nữ sinh trường Tây và là vợ góa của một sĩ quan tâm lý chiến quân đội VNCH, cô từng nổi tiếng trên báo chí và truyền hình về tài dạy nữ công gia chánh. Sau 1975, trong căn bếp nhỏ tại Chung cư, cô sinh sống bằng việc nấu cơm tháng và có lúc nấu cả cỗ cưới, cỗ cúng; 2. Khang - người thuê nhà mới, một chàng trai đang nhận dịch lại tác phẩm “Hoàng tử bé” của nhà văn phi công Pháp Saint–Exupéry, sau bản dịch của thi sĩ Bùi Giáng đã xuất bản tại Sài Gòn trước 1975… Giữa những bề bộn đời sống, vượt lên tâm lý thóc mách, đố kỵ, ghen ăn tức ở của hàng xóm, Kỳ Nam và Khang đã đến với nhau trong sự đồng cảm thầm lặng mà sâu sắc – một thứ tình cảm cao hơn tình yêu trai gái thông thường… Phim không có những cuộc trình diễn cầu kỳ điệu nghệ về góc quay - động tác máy - cỡ cảnh, chuyện phim chỉ xoay quanh những mẩu đời thường quen thuộc thậm chí nhàm chán, song Quán Kỳ Nam đã tạo nên một không gian sống chân thực và nhiễm cảm của Sài Gòn thời bao cấp khốn khó mà nhiều thế hệ người có thể tìm thấy mình trong đó… Chất trí thức trong phim khá rõ, tâm lý nhân vật được triển khai một cách khá tinh tế qua lời thoại, diễn xuất, đạo cụ mang ý nghĩa biểu tượng, qua đường dây câu chuyện có nhiều nhân vật phụ tưởng rối rắm rời rạc song lại có gắn kết nội tại – theo khuynh hướng tiểu thuyết-điện ảnh (ciné-roman) trong văn học Pháp nửa sau thế kỷ XX mà ở nước ta người tiên phong là đạo diễn Đặng Nhật Minh với tập truyện phim Hoa Nhài… Trong Quán Kỳ Nam, đài từ nhân vật khá chuẩn. Dàn diễn viên từ chính, thứ chính đến phụ đều thể hiện vai một cách tự nhiên, chinh phục được cả những khán giả khó tính nhất… Chất liệu phim nhựa kinh điển cũng góp phần tạo ra tông màu và độ nét luôn có chất douce (êm dịu) trong mọi luồng ánh sáng góp phần tạo nên sức ám ảnh kỳ lạ của Nàng Tiên thứ Bảy suốt hơn thế kỷ qua trên thế giới mà kỹ thuật số hiện đại nhất cũng chịu thua!* Nếu những khán giả quen và thích loại phim có những hình ảnh rực rỡ nét căng, có kịch tính xung đột mạnh, có tiết tấu nhanh, có những cú sốc tâm lý, có lời la hét tranh luận hay dạy dỗ đến kịch kim thu thanh của nhân vật tựa uống thuốc doping… thì chắc chắn sẽ thấy phim này Nhạt, Nhàm, Loãng…

Thứ Tư, 3 tháng 12, 2025

Tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” nhìn từ Mỹ

 Phạm Xuân Nguyên

 

Bài này tôi viết cho hội thảo Hoa Kỳ học tổ chức tại Huế năm 2008. Nay nhân tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh vừa được tôn vinh tại một cuộc bình chọn giải thưởng Văn học Nghệ thuật 50 năm của Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch và có những ý kiến phê phán tác phẩm, đòi rút lại giải thưởng, tôi đưa lên lại bài này để thêm một lần nữa khẳng định giá trị của tác phẩm và tác giả.

Từ nỗi buồn Bảo Ninh đến Nỗi buồn chiến tranh

 Lê Minh Hà

Đeo đuổi ông ấy bao nhiêu lâu từ lúc ông ấy lừng khừng ló mặt, cái này thì ông ấy không biết đâu, thời gian còn dài hơn cả cuộc hôn nhân của chính mình, tôi nhận ra là nói chung nhân vật của ông ấy rất tẻ, không cười, và nếu là nhân vật chính thì không phải là đàn bà, trừ có một lần là một cụ bà bay trên trời.

Nỗi buồn chiến tranh và... kỷ nguyên gì

 Thái Hạo

Văn học Việt Nam* từ 1945 đến 2000 được chia làm 2 giai đoạn, theo tiến trình chính trị - xã hội: trước và sau 1975.

Không phải kiến thức gì hàn lâm cao siêu cả, sách giáo khoa viết và học sinh phổ thông được dạy. Trước 1975 là nền văn học phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu. Nhân vật chính của nó là con người quần chúng/ đại chúng/ quảng trường – không có chỗ cho đời sống cá nhân; cảm hứng của nó là sử thi, ngợi ca, ta thắng địch thua… Và cũng vì thế mà mặc dù có thành tựu và đã “hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị” nhưng nó trở nên phiến diện, một giọng, một chiều, là “nền văn học phải đạo”.

Thực hành diễn giải lịch sử của tác phẩm chiến tranh: So sánh “Nỗi buồn chiến tranh” và “Những thứ họ mang”

 Nguyễn Hồng Anh

Năm 1990, Thân phận của tình yêu (tên gọi ban đầu của Nỗi buồn chiến tranh) xuất bản tại Việt Nam. Cùng năm đó, ở bên kia bán cầu, The Things They Carried ra mắt công chúng Mỹ. Gần như đồng thời, cả hai tác phẩm cùng trở thành hiện tượng lớn trong dòng văn học viết về chiến tranh Việt Nam[1]. Nhanh chóng vượt lên trên các tác phẩm cùng thời và cùng đề tài để trở thành hiện tượng của văn học nước mình, cả hai tác phẩm cùng có điểm chung: đưa câu chuyện đi chệch khỏi dòng chảy truyền thống, tạo nên một hiện thực hoàn toàn mới về cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong các sáng tác văn học trước thập niên 1990 ở Mỹ và Việt Nam, tồn tại cái nghịch lí rất phổ biến: bên là nạn nhân của cuộc chiến (theo nghĩa kẻ bị xâm lược) thì âm hưởng chủ đạo trong văn học dòng chính lại là chủ nghĩa anh hùng, nếu có cái bi thì vẫn được chất tráng nâng đỡ; trong khi bên được cho là thủ phạm gây ra cuộc chiến thì giọng chính của nền văn học nước này lại tự khắc họa mình như là nạn nhân, chịu đựng chấn thương tinh thần không thể hàn gắn. Sự xuất hiện của Nỗi buồn chiến tranh The Things They Carried (tác phẩm dịch ra tiếng Việt với tên gọi Những thứ họ mang) đã mang lại bầu khí quyển khác. Bảo Ninh đã tạo nên một hiện thực tâm lí đầy chấn thương và nỗi buồn, phá vỡ lớp tự sự anh hùng ca thường thấy của bên phía được xem là những người chiến thắng. Trong khi đó, Tim O’Brien tuy vẫn khai thác khía cạnh bi thảm như phần đông các sáng tác của nhà văn Mỹ về chiến tranh Việt Nam, nhưng lại không nhấn mạnh vào tính chất nạn nhân của người lính mà tập trung vào chiêm nghiệm triết học về sự thực của chiến tranh, “về sự khác biệt giữa ‘truth’ và ‘reality’”[2] – tức tạo ra một siêu diễn ngôn (diễn ngôn giải thích diễn ngôn, trong đó chiến tranh được trình bày như một diễn ngôn) về đề tài này.

Tầm cao của văn học chiến tranh phương Đông

 Diêm Liên Khoa

"Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh dưới cái nhìn một nhà phê bình Trung Quốc.

------------------------

"Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh vừa được trao giải thưởng Văn học Nghệ thuật 50 năm của Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch và trên mạng xã hội nổi lên một số ý kiến phê phán nặng nề (“cái mùi phản trắc lồng vào tiểu thuyết”, “hạ thấp tính anh hùng của quân đội ta”, “ nhen nhóm sự lật sử thông qua văn học nghệ thuật”, “lấy cái cá biệt để nói cái toàn thể”, “bịa đặt xuyên tạc sự thật của cuộc chiến đấu anh dũng và hy sinh to lớn của hàng triệu con người”, “đánh đồng giữa chiến tranh chống xâm lược với chiến tranh xâm lược”…). Văn Việt xin đăng lại bài dưới đây của nhà văn Trung Quốc Diêm Liên Khoa đã đăng trên Văn Việt cách đây hơn tám năm.

Văn Việt

Cụ tượng – như một hơi thở nội tâm

 Huỳnh Lê Nhật Tấn

Trong hội họa của Bùi Chát, việc vẽ không được đặt trên nền mỹ học hay kỹ thuật phổ biến. Anh mở cánh cửa sắc màu như mở một lối vào nội tâm, dẫn người xem đi qua những hình dạng u mờ mà không cần đến trường phái hay ý đồ cố định. Ở đó, Chát chỉ liên tục thể nghiệm – như dòng thời gian bị xuyên thủng – để các lớp hỗn độn tìm được chỗ đáp của chúng trên mặt toan. Cảm giác đến tự nhiên, theo đúng tình huống, như thể tấm vải chỉ là một màn sương mờ để anh kéo mọi thứ bên trong ra ngoài.

Thứ Ba, 2 tháng 12, 2025

Ocean Vuong trò chuyện cùng Viet Thanh Nguyen

 Diasporic Vietnamese Artists Network thực hiện, 14/11/2025

Nguyễn Hồng Anh ghi chép và chuyển ngữ

Viet Thanh Nguyen: Có thể bạn không đồng ý với tôi, nhưng tôi thường hình dung phong cách hay “persona” của bạn là tính dễ tổn thương tận gốc rễ [radical vulnerability], hay có thể bị diễn giải là điểm yếu. Nhưng trong thời đại này, khi sự đồng cảm có thể bị tấn công bởi tầng lớp nhất định ở Mỹ hay trên khắp thế giới, thì tính dễ tổn thương tận gốc rễ này có khi cũng là điểm mạnh. Bạn có đồng ý việc người ta nhìn nhận bạn như thế không?

Vài nhận xét về phim "Quán Kỳ Nam"

 Tô Hoàng

Cái ưu rõ rệt của bộ phim, cũng là điều bộ phim Quán Kỳ Nam giành được thiện cảm của người xem nằm ở chỗ: Dù ngày 30 tháng Tư năm 1975 đã lùi xa nửa thế kỷ, đây vẫn là LẦN ĐẦU TIÊN Điện ảnh xứ mình nói được NHỮNG VẺ ĐẸP THẦM KÍN ẨN SÂU TRONG CHỊU ĐỰNG, TRONG KHỔ ĐAU của những người Sài Gòn ở lại cùng chế độ mới.

Thứ Hai, 1 tháng 12, 2025

Câu niệm chú xả lũ: thợ xẻ, thợ xả và thợ thiến

 Nguyễn Hoàng Văn

Giữa cảnh tang thương vì lũ, từ trời và từ sự xúc tác của những hệ thống thủy điện bậc thang, khó mà tin rằng bộ máy công quyền ở Đà Nẵng lại thảnh thơi đầu óc để chơi chữ, nghĩ đến việc phức tạp hóa thao tác “xả lũ” bằng “vận hành điều tiết qua tràn xả sâu”. [1]

Giữa ồn ào và đức tin

 Lê Trọng Nghĩa

Tranh Thành Chương

Giữa những lùm xùm trong giới mỹ thuật dạo gần đây – những chuyện tưởng như sẽ lắng xuống rồi lại bùng lên ở một góc khác – tôi hay có cảm giác mình đứng giữa một thứ ồn ào rất khó gọi tên. Ồn ào không chỉ vì người ta nói nhiều. Mà vì hội họa bỗng bị kéo khỏi cái phần im lặng vốn là nơi nó nói được những điều quan trọng nhất. Khi người ta nói về nhau nhiều hơn nói bằng tranh, khi tranh trở thành cái cớ thay vì là câu trả lời, nghề mình tự nhiên hụt đi một nhịp.

Quán Kỳ Nam – Hạnh phúc nhỏ cũng làm ta muốn khóc

 Nguyễn Thị Tịnh Thy

Quán Kỳ Nam là phim điện ảnh mới ra rạp hôm 28/11/2025.

Xem xong, lòng man mác cảm xúc về cái đẹp bình thường của cuộc sống, của tình yêu, tình người, tôi viết mấy dòng này tỏ bày lòng trân trọng và biết ơn ê-kíp làm phim đã cho mình được thưởng thức một tác phẩm điện ảnh đúng nghĩa.

Nhớ nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn

 Bùi Chí Vinh

 

Thi sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn qua đời tối 28 -11 - 2023 tại bệnh viện Fountain Valley, California hưởng thọ 87 tuổi, cách đây đúng hai năm.

Tôi gặp anh vài lần lúc đi với Huỳnh Phan Anh, Joseph Huỳnh Văn, Nguyễn Đạt và ngồi ở quán cà phê của Vũ Trọng Quang trong con hẻm đường Cao Thắng, quận 1. Lần đầu gặp, anh dòm tôi như dòm một con khủng long từ thời tiền sử còn sót lại. Bởi đơn giản là anh quá kín đáo, quá chuẩn mực, quá ấm áp từ dáng vóc đến cách ăn nói. Anh sinh ra là để cầm bút, ôm ghi ta trong thư phòng, thính phòng sang trọng chứ không phải để đối đầu với cuộc sống man rợ như tôi.

Chủ Nhật, 30 tháng 11, 2025

Tặng phẩm của dòng sông: một thước phim âm bản của chiến tranh

 Tino Cao

 

Trong thư viện văn xuôi Việt Nam viết về chiến tranh, Tặng phẩm của dòng sông của nhà văn Nhật Tiến (1936-2020) là một trong những truyện ngắn hiếm hoi không nhắm đến việc mô tả những ngày tháng rực lửa hay các bước ngoặt lịch sử. Tác phẩm chuyển hướng quan sát sang những phần đời bị đẩy ra phía sau, nơi ánh sáng của sử thi không vươn tới và chiến tranh để lại dấu vết bằng sự gặm nhấm của đói nghèo, hoang tàn và nỗi sợ hãi. Ở thế giới ấy, chiến tranh không bùng nổ trong tiếng súng; nó thấm vào từng thớ đất, vào mùi bùn mục ẩm ương và vào hơi nước đục ngầu của dòng sông chở theo nó những tàn tích của một xã hội đã bắt đầu tự phân rã. Nhật Tiến không chủ ý xây dựng trong tác phẩm của mình một hình tượng anh hùng hay phô trương giọng điệu chính nghĩa của chủ nghĩa minh họa (illustrationism), cũng chẳng có khoảng trời lịch sử nào được ông cố tình gợi mở. Chỉ có những thân phận con người bị bào mòn đến kiệt quệ, những thân xác vô danh lẫn với rác rưởi của thời loạn và những đường nét nhân tính mỗi ngày một phai mờ trong sự chịu đựng kéo dài đến tận cùng.

Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2025

Câu chuyện về “Ngôi làng của những-người-không-có-mặt- người”

 Truyện ngắn Nguyễn Thanh Văn

Đoạn đầu là phần dẫn chuyện trong cuốn tiểu thuyết “CỎ LAU VÀ GIÓ” chưa xuất bản của tác giả. Bạn đọc vui lòng xem như một truyện ngắn bình thường bởi ngay từ đầu cuốn tiểu thuyết theo ý đồ có tính thử nghiệm của người viết, cũng đồng thời được kết cấu như một chuỗi truyện ngắn nhằm để nhắc nhở tác giả tránh buông lỏng câu chữ, và để độc giả bớt ngán ngẩm độ dài của tiểu thuyết. Đối thoại ngắn mở đầu chuyện này là giữa một nhân vật nữ mang tên Già Liễu và Thiện, đứa cháu nhỏ mồ côi thông minh, hồn nhiên của bà.

 ***

Những tiếng cười chua và nỗi buồn lặng trong ‘Mộng du khi xa xứ’

 Minh Anh

Tập sách "Mộng du khi xa xứ" đánh dấu một hành trình mới của Hồ Anh Thái trong việc quan sát thế giới và con người qua lăng kính dịch chuyển. Từ những câu chuyện nơi cửa sổ sân bay, sứ quán xin visa đến các vùng đất ông đã đi qua, nhà văn đan cài tiếng cười giễu nhại với nỗi buồn âm thầm của những thân phận ly hương. Trong không gian của ký ức, va đập văn hoá và những ám ảnh thời đại, tập truyện hé mở một thế giới nhiều tầng, nơi người ta vừa tìm kiếm bản dạng, vừa đối diện những vết thương khó dứt bỏ.

Cuối cùng anh Tom Cruise cũng nhận giải Oscar

 Lê Hồng Lâm

Đây không phải là giải Oscar kiểu cạnh tranh (anh được đề cử 3 lần nhưng rớt hết) mà là giải Honorary Award, tức là Oscar Danh dự trao cho sự nghiệp trọn đời, được Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh (AMPAS) tổ chức hằng năm, khác với buổi lễ công bố giải Oscar thường niên.

Cái chết có màu gì?

 (Đọc Gió @ – thơ Đoàn Huy Giao)

Nguyễn Viện

 

  

Một câu hỏi vu vơ, tưởng như không thể trả lời. Nhưng là một câu hỏi ngỡ ngàng, sâu thẳm… vọng lên từ hố thẳm thực tại. “Cái chết có màu gì?”, câu hỏi xuyên suốt từ những dòng đầu tiên đến cuối tập thơ dài hơn năm ngàn chữ của Đoàn Huy Giao, nhức nhối và ai oán của một thời cuộc nhiễu nhương. Một lịch sử trớ trêu và khóc cười thành tiếng của cái chết.

Thứ Năm, 27 tháng 11, 2025

Nhớ Thầy trong Piano Sonata 14

 Tino Cao

Đã hai mùa mưa bão trôi qua từ buổi chiều Thầy Tuệ Sỹ rời cõi tạm, 24.11.2023. Hai năm, trên lịch chỉ là hai tờ giấy mỏng, nhưng khi nhớ đến Thầy, khoảng thời gian ấy lại như một lớp sương mới phủ lên một ngọn núi trầm mặc đã nhuốm màu thời gian. Người ta không còn thấy Thầy trong những buổi đối thoại ấm áp tình thầy trò, trong khoảnh khắc Thầy ngồi bên dương cầm chơi bản Sonate Ánh trăng của Beethoven, hay qua những trang sách Thầy trước tác cả một đời. Thế nhưng, sự vắng mặt ấy lại khiến ảnh hưởng của Thầy hiện rõ hơn trong cách ta nghĩ về tự do, về ngôn ngữ và phẩm giá con người.

Khi chúng ta không được quyền nổi quạu

 Nguyễn Hoàng Văn

Tôi có một tật xấu là hay quạu và tật này dẫn đến một tật khác là… bào chữa, bằng một chiến thuật cũ xưa:

Toét mắt là tại hướng đình

Cả làng toét mắt một mình em đâu

Thì cả làng vậy cả, mà toàn người danh tiếng, tài năng, từ học giả Đào Duy Anh đến nhà giải phẫu Tôn Thất Tùng, nhà nhạc học Trần Văn Khê và, thậm chí, cả “cha già dân tộc”.

Như Đào Duy Anh, qua lời kể của vợ ông, bà Trần Thị Như Mân:

 “Tôi gặp anh Anh trước tiên là trong công việc của đảng và dành cho anh sự kính phục như đối với một người anh, vì vậy khi anh ngỏ ý muốn cùng tôi kết cuộc hôn nhân thì tôi cứ đắn đo mãi. Tôi chỉ mới quý anh, chứ tính anh hay cáu gắt, động trái ý là nổi giận thì khó mà gần được. Ba chị em chúng tôi thường nói vui với nhau rằng anh hay quạu, và đặt cho cái tên ‘quausime’.” [1]

Hay nhà giải phẫu Tôn Thất Tùng:

"Thầy Tùng (hồi đó cả Bệnh viện Việt Đức gọi giáo sư Tôn Thất Tùng là thầy) rất hay cáu, đặc biệt là khi mổ. Nếu có bà Hồ ở đấy, chắc chắn thầy sẽ dịu lại nhanh hơn". Bà Hồ cũng luôn là người làm dịu cơn giận của giáo sư Tùng khi ông bị lạc mất những vật dụng nhỏ như tập giấy vẽ, cục tẩy... ở nhà. Tôn Nữ Hồng Tâm kể lại: "Mẹ dễ dàng tìm thấy những thứ đồ bị mất, cho dù ngay trước đó bố con tôi sục sạo khắp nhà mà cũng không tìm ra. Lúc đó, tôi ngạc nhiên và thắc mắc lắm. Sau này, khi có gia đình, tôi hiểu ra rằng, mẹ luôn tìm được nơi bố để quên đồ vì bà rất hiểu bố tôi".[2]

Chuyện của họ là do người khác kể lại, riêng nhà nhạc học Trần Văn Khê thì tự thú nhận:

 “Tôi sanh ra bản tánh rất nóng nhưng không bao giờ muốn đánh người khác mà chỉ thường đập đồ, đá vào cửa nhà, cửa tủ… để thỏa cơn giận”.

Như, có lần, sau khi bỏ ra cả một buổi sáng thuyết trình về nghệ thuật chèo theo yêu cầu của Bảo tàng viện Pháp nhân cuộc lưu diễn của một đoàn chèo Việt Nam, ông đã quạu lên, đập vỡ cửa tủ đựng băng của viện vì anh con trai Trần Quang Hải quên, không bấm máy ghi âm.[3]

Trường hợp như thế thì, trừ người đã đắc đạo, sắp sửa thành… Phật, ai mà không nổi quạu? Vấn đề là mức độ nặng nhẹ còn sự giận dữ ở đây là hoàn toàn bình thường, bình thản như không có gì xảy ra mới là chuyện lạ. Chúng ta nổi cáu khi sự thể lẽ ra phải diễn tiến bình thường nhưng lại chuyển biến một cách bất thường, chệch ra khỏi “quy ước” thành văn hay bất thành văn của nó, một cách vô nghĩa lý. Ông Đào Duy Anh gắt lên vì sự việc trái với ý mình, tức chệch ra khỏi cái “quy trình” hằng cho là hợp lý. Ông Tôn Thất Tùng cáu vì với tay vào chỗ để vật dụng quen thuộc mà không thể nào tìm được, nghĩa là ai đó đã làm xáo trộn cái trật tự theo “quy ước” của mình. Và ông Trần Văn Khê đập vỡ cánh cửa bởi vì, chỉ vì một sơ suất cực kỳ ngớ ngẩn, mà phí công nguyên cả một buổi sáng, với bao tâm huyết.

Nhưng nếu đó không phải là con trai mình mà là một chuyên viên nào đó của Bảo tàng viện Pháp, chắc gì cánh cửa trên đã vỡ? Nói theo nhà tâm lý học Mỹ Deborah South Richardson thì chúng ta có khuynh hướng trút bỏ những ẩn ức với những người gần gũi nhất vì tin rằng quan hệ đủ vững bền để chịu đựng và chấp nhận. Trong khi, với những người xa lạ, chúng ta gồng lên và đóng kịch để chứng tỏ nền tảng văn hóa, chứng tỏ sự tử tế và lịch lãm thì, trong phạm vi thân thuộc, lại buông thả với con người thật của mình, thoải mái bộc lộ cái tốt lẫn cái xấu dè.[4]

Như Đào Duy Anh thời trẻ, lúc đảm nhiệm vai trò Tổng bí thư của Tân Việt Cách mạng đảng, một trong những tổ chức cộng sản đầu tiên. Lãnh tụ chính trị chưa bao giờ giỏi giang trong việc âm mưu và thủ đoạn này được những đồng chí của mình mang ra đùa với biệt danh “quausime” thì có nghĩa là quan hệ giữa họ thực sự gần gũi, không có gì phải dè dặt. Và Giáo sư Tôn Thất Tùng, cũng chẳng mâu thuẫn gì khi, vì bất ý, ông dễ dàng nổi cáu với những phụ tá hay con cái nhưng lại dễ dàng xuống nước trước người vợ hiểu rõ mình. Ông ta nổi cáu vì cho rằng họ xô lệch cái “quy ước” thông thường của mình, còn người vợ thì lại hiểu rất rõ rằng chính ông cũng đã khiến cái “quy ước” đó chệch đi.

Và có quạu như thế thì chúng ta mới thực sự là con người với những khía cạnh bất toàn của nó; chấp nhận một người, là hiểu, là thông cảm cho sự bất toàn này:

Em yêu sự thông minh hóm hỉnh

Đến thói thường hay cáu gắt của anh

Nếu đời anh đã xếp thành ngăn

Em sẽ đảo tung lề thói cũ

(Xuân Quỳnh, Thơ viết cho mình và những người con gái khác)

Thì đó là con người. Và khi phần người này bị quyền lực hay danh vọng xô lệch thì khía cạnh nhân vân trong những góc cạnh bất toàn kia cũng lệch lạc theo và trở nên khó để… thông cảm. Như sự “thất vọng tràn trề” của nhà thơ Lưu Trọng Lư, qua lời kể của nhà biên kịch kiêm đạo diễn Vũ Đình Phòng:

“Cuối năm ấy (1956), đột nhiên Vụ (Nghệ Thuật) nhận được điện thoại từ Phủ Chủ tịch yêu cầu một điều, đại khái: “Mấy hôm nay Bác có vẻ buồn. Yêu cầu Vụ Nghệ thuật cử vài diễn viên ca múa và ngâm thơ lên tiêu khiển cho Bác.” Lệnh còn nói rõ: “Nhất thiết phải có nghệ sĩ ngâm thơ bằng giọng miền Trung.” Nhận được lệnh, anh Lư bàng hoàng, vậy là nhất định phen này sẽ được gặp Bác, thỏa nỗi ao ước bấy lâu, vì chắc chắn anh sẽ phải đích thân dẫn tốp văn công ấy lên Phủ Chủ tịch và có mặt trong lúc các diễn viên biểu diễn. Anh hồi hộp chờ cho mau đến giờ đi.

Lên đến Ba Đình, trong lúc các diễn viên vào một phòng nhỏ trang điểm và thay quần áo, anh thơ thẩn ngoài hành lang tòa nhà, bước chân lững thững và hồi hộp chờ… Đột nhiên anh thấy có bóng người từ cuối hành lang đi đến. Hành lang hơi tối nên lúc đầu anh không nhìn thấy mặt, nhưng anh đoán chính là “Bác”. Dáng người mảnh khảnh và bước chân nhanh nhẹn. Anh thấy tim mình đập mạnh. Anh đứng lại, chờ Bác đến để chào và tỏ lòng tôn kính. Nhưng bất ngờ thay, Cụ bước nhanh đến, cau mặt, gắt luôn: “Không có việc gì để làm à? Mà đứng thơ thẩn, lại hút thuốc thế này? Đi tìm xem có việc gì mà làm đi chứ”. Và trong lúc ông anh của tôi còn đang đứng ngẩn người, chưa biết đối đáp ra sao thì “Cụ” đã thoăn thoắt đi khuất vào hành lang phía đối diện và biến mất…” Đột nhiên anh cảm thấy không ngờ “ông Cụ” thô lỗ, cục cằn thế!” Bao nhiêu điều trước đây anh tưởng tượng ra, về một con người lịch lãm, biến mất sạch. Thay vào đấy là một cảm giác thất vọng tràn trề… ”

Thì hôm ấy ông ta buồn. Nhưng không chỉ lúc ấy, cũng không chỉ là sự thất vọng của mỗi một Lưu Trọng Lư, trong một lần đến Phủ Chủ tịch. Ông Hà Huy Giáp, người sau này trở thành Thứ trưởng Bộ Văn hóa và Phó ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, đã có đến mấy tháng quan sát điều này:

“Về cách thức xử sự này của ông Hồ, về sau tôi đã được ông Hà Huy Giáp kể, sau khi ông nghe tôi đọc bản phác thảo ban đầu kịch bản “Kể chuyện Bác Hồ” (kịch bản sau đấy được viết lại rồi “bị” cưỡng bức nhận thêm tác giả thứ hai… Chính ông này đổi tên kịch bản thành “Người Công dân số Một”).

Ông Hà Huy Giáp kể rằng sau Đại Hội Hai, Đảng ra công khai, đổi tên thành Đảng Lao Động, Sau Đại hội, “Cụ” giữ ông Hà Huy Giáp ở lại (đoàn đại biểu Nam Bộ ra họp hình như chỉ có ba người) giúp Cụ. Ông Hà Huy Giáp ở bên Bác vài tháng. Và ông kể đại khái: “Bác rất nghiêm, nghiêm đến mức khó tính. Nghe thấy tiếng cười bên ngoài là Bác đang gõ máy chữ, cũng chạy ra mắng: “Không có việc gì à? Mà nhăn răng cười cợt thế kia? Tìm việc gì mà làm chứ. Có đống củi kia, ra mà bổ đi…” Cụ khó tính đến nỗi không ai dám bén mảng đến gần phòng của Bác. Chỉ khi Bác cho ai đi gọi thì mới dám đến..”[5]

Trông như thể một ông chủ hẹp hòi với người ăn kẻ ở nhưng với một bậc “cha già dân tộc” thì vấn đề cần phải được soi xét sao cho ngang tầm… “dân tộc”. Như thế thì lời quạu quọ “Tìm việc gì mà làm đi chứ” cần được nhìn qua lăng kính của tên đảng “Lao Động” và qua triết lý “Lao động là vinh quang”. Phải chăng, do cái dáng đứng thơ thẩn cực kỳ “phi lao động” bên làn khói thuốc mà Lưu Trọng Lư bị quạu? Và, phải chăng, vì “nhăn răng cười” giữa lúc còn có bao nhiêu việc để… “vinh quang”, những nhân viên phục vụ trong Phủ Chủ tịch mới bị mắng?

Nhưng con người phải được sống như con người, đâu phải là cỗ máy làm việc? Mà, ở đây, “cha già dân tộc” cũng là… người, đâu hề miễn dịch trước quy luật của Deborah? Ông ta quạu với các nhân viên cần vụ, mà Lưu Trọng Lư có bị quạu cũng chỉ vì bị lầm tưởng là một nhân viên cần vụ. Nhưng ông ta lại nhũn nhặn, chưa hề nổi quạu trong các cuộc họp cấp cao, ở Việt Bắc hay lúc đã về Hà Nội, kể cả lúc đáng quạu nhất.[6] Ông ta càng không nổi quạu khi viếng thăm nước bạn trong tư thế một vị quốc khách hay khi họp báo ngay giữa thủ đô.

Và có quạu lên, ông ta cũng chỉ quạu khi cái quan niệm sống “lao động vinh quang” của mình không được những kẻ dưới trướng chu toàn nhưng điều đó, bất quá, cũng chỉ khiến Lưu Trọng Lư thất vọng, khiến những nhân viên phục vụ sợ hãi và xa lánh chứ chẳng làm chết ai. Nhưng khi nhà chính trị nổi quạu theo những mục tiêu hay ân oán cá nhân bằng quyền lực không kiểm soát của mình, hắn ta mới thực đáng sợ.

Như khi Tố Hữu quạu lên với Hoàng Cầm. Lê tấm thân già nua đầy bệnh tật trong tù chỉ vì tập thơ Về Kinh Bắc chẳng làm gì nên tội, Hoàng Cầm cam lòng viết bản “thú tội” để thoát khỏi cảnh tù nhưng lại bị đày thêm một năm nữa chỉ vì Tố Hữu… quạu:

 “Sau khi tôi nhận tội, công an đã định cho tôi về thật. Nhưng trong thời gian chờ đợi giải quyết, thì một hôm ông Lê Đức Thọ gọi công an lên hỏi về vụ Hoàng Cầm ra sao rồi, và thông báo rằng có một số trí thức Pháp, những người quen biết nhiều với ông, đã giúp đỡ ông và đoàn đại biểu Việt Nam ở Hội nghị Paris, vừa gửi thư cho ông yêu cầu nếu xét Hoàng Cầm không có tội trạng gì cụ thể thì hãy thả ngay nhà thơ ra. Ông còn nhắc nhở: "Các cậu xem thế nào thì giải quyết đi, không có thì mang tiếng lắm". Sự việc trên được công an báo cáo với Tố Hữu. Ông lập tức hạ lệnh: "Ngoại quốc can thiệp hả? Đã thế thì cho thêm một năm nữa!"[7]

Phản ứng của Tố Hữu có thể có từ những mầm mống khác như sự phê phán thẳng thắn của Hoàng Cầm với tập thơ Việt Bắc năm nào tuy nhiên lời buộc miệng đầu cáu kỉnh “Ngoại quốc can thiệp hả” đã cho thấy lý do trực tiếp. Ông ta là chân lý, là pháp luật, số phận của Hoàng Cầm là do ông ta định đoạt, đó là quy ước đương nhiên. Khi những trí thức Pháp dám chọc ngoáy vào cái quy ước đương nhiên thì ông ta phải quạu lên và, do đó, trong tay ông ta, Hoàng Cầm chợt trở thành một thứ sâu, thứ kiến, muốn cho bao nhiêu án tù là cho, không cần nề hà cần đến luật pháp, tòa án.

Nếu Tố Hữu, trong thơ và trong diễn ngôn chính trị, luôn luôn đề cao chủ nghĩa tập thể thì, ở đây, liên quan đến sự “mang tiếng” của thể chế, ông ta lại cực kỳ… cá nhân và, do đó, trở nên cực kỳ tầm thường. Nhà chính trị mà thấu được chữ “nhẫn”, có đủ bản lĩnh để áp chế những ân oán cá nhân cùng những xúc cảm nhất thời để hướng đến những điều lớn lao mới là nhà lãnh đạo vĩ đại. Như Trần Hưng Đạo. Vì vận nước, anh hùng dân tộc này đã bỏ qua thù nhà. Và vì thù nước, bậc anh hùng đã kềm nén cái tôi và xúc cảm nhất thời khi bị tay chân của Sài Xuân, sứ giả của nhà Nguyên, sỉ nhục: bị tên hầu này dùng mũi tên đâm vào đầu đến chảy máu mà vẫn bình thản, sắc mặt không hề thay đổi, đến độ Sài Xuân phải nể phục.[8]

Nhưng Trần Hưng Đạo không phải là Phật sống. Là con người trần tục với đủ sắc thái tình cảm hỉ nộ bi ái ố, Trần Hưng Đạo cũng đã bừng bừng “căm tức” vì “chưa được xả thịt lột da” khi thấy sứ giặc “đi lại rầm rập ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình”. Và, như là người có tiếng nói quyết định thời ấy, Trần Hưng Đạo đã cùng vua tôi nhà Trần “quạu” lên để, trước cuộc xâm lăng đầu tiên của quân Nguyên, ba lần gô cổ những sứ giả hống hách của phương Bắc tống vào ngục thất.[9]

Đó là sự vĩ đại của một nhân cách phi thường. Biết tiết chế những xúc cảm cá nhân nhưng cũng biết nuôi dưỡng sự phẫn nộ chính đáng của cộng đồng để, khi cần thiết, biến thành sức mạnh của cộng đồng. Có nhìn lại những tháng ngày với không khí hừng hực nuôi dưỡng bằng sự phẫn nộ nung nấu từ “Hịch tướng Sĩ”, bằng hào khí Diên Hồng và bằng quyết tâm “Sát Thát” hằn lên da thịt, chúng ta mới nhìn ra sự tầm thường của thời hiện tại và bi kịch của những thế hệ bị tước quyền nổi quạu. Bị cấm nổi quạu khi tổ quốc bị sỉ nhục, khi tài sản hay tính mạng đồng bào bị xâm phạm và cả khi giang sơn thấm máu cha ông bị lấn chiếm.

Bị cấm nổi quạu như những người yêu nước mình, người Việt thậm chí còn bị cấm nổi quạu cả trong tư thế của người tiêu thụ hay nạn nhân. Người Việt đang bị cấm nổi quạu như là khách hàng của những thế lực công nghiệp giả cầy, cái nhóm lợi ích có thể thao túng cả hệ thống kiểm duyệt và trấn áp. Người Việt còn bị cấm nổi quạu như là nạn nhân của những thế lực phá sơn lâm đâm hà bá để, giữa những ngày này, khi trận đại hồng thủy ở miền Trung bùng lên với sự xúc tác của những nhóm lợi ích hủy hoại thiên nhiên, sinh mạng của người Việt đang bị xem thường như giống sâu, giống kiến.

Nếu sống lại giữa cái thời này thì Trần Hưng Đạo sẽ phản ứng như thế nào? Cũng chỉ là sự phẫn nộ ngày cũ: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa thể xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù”?

Tôi không tin là bậc anh hùng của chúng ta chỉ đơn thuần như thế bởi, nếu ngày ấy chỉ đối mặt với kẻ thù từ bên ngoài, bây giờ còn phải đối mặt với bọn ở bên trong. Nghĩa là sự phẫn nộ đến mức cực kỳ của ngày xưa cũng phải đan chen với sự khinh bỉ và ghê tởm của ngày hôm nay, cũng ở mức cực kỳ…

[1] Trích từ phụ lục “Sống với tình thương” của bà Trần Thị Như Mân, in trong Đào Duy Anh (2002), Nhớ nghĩ chiều hôm, NXB Văn Nghệ TPHCM, trang 519.

[2] “Bà Hồ” là Vi Thị Nguyệt Hồ, vợ của Giáo sư Tùng, chuyển kể lại trong bài “Chuyện về người vợ của giáo sư Tôn Thất Tùng” của Hoàng Hạnh, đăng trên tờ Sức khỏe Đời sống của Bộ Y tế, số ngày 23/7/2009:

https://giadinh.suckhoedoisong.vn/chuyen-ve-nguoi-vo-cua-giao-su-ton-that-tung-17220090717084694.htm

[3] Trần Văn Khê (2015) Trí Huệ để lại cho đời, NXB Thông Tấn, TPHCM, trang 81-82.

[4] https://www.huffpost.com/entry/aggression-research_n_5532142

[5] https://vanviet.info/tu-lieu/ky-niem-ve-luu-trong-lu/

[6] Bùi Công Trừng (Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học nhà nước) kể cảnh trong Hội nghị 15 của Trung ương đảng vào tháng 1/1959: Hồ Chí Minh ngồi ghế chủ tọa nhưng chỉ day mặt ra sân vì, dưới sự đạo diễn của Lê Đức Thọ, những đại biểu liên tiếp đứng lên mạt sát Liên Xô. Đôi khi vì quá chướng tai nên Hồ Chí Minh đưa tay ngăn lại hay muốn phát biểu, nhưng bị Lê Đức Thọ ngăn cản: "Bác hãy để cho anh em người ta nói đã mà.".

Hội nghị này đã thông qua Nghị quyết 9 về việc sử dụng bạo lực cách mạng tại miền Nam.

Nguyễn Văn Trấn (1995), Viết cho mẹ & Quốc hội, California: Văn Nghệ, trang 327-329.

[7] http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9662&rb=08

[8] Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư của, Quyền V, Kỷ Nhà Trần, chương “Nhân Tông Hoàng Đế”.

Năm 1277, Trần Nhân Tông cử Trần Di Ái thay mình đi sứ nhưng Trần Di Ái được nhà Nguyên phong vương, cho Sài Xuân (Sài Thung) hộ tống trở về để lên ngôi vua, dĩ nhiên là nhà Trần không chấp nhận.

Sài Xuân đến Đại Việt với thái độ ngạo mạn. Thượng tướng Trần Quang Khải đến sứ quán tiếp nhưng vẫn nằm khểnh trên giường, không thèm tiếp. Trần Hưng Đạo xin vua đến dò xét tình hình và khi thấy Trần Hưng Đạo mặc áo vải, cạo trọc đầu, Sài Xuân đứng dậy, vái chào và mời ngồi vì tưởng là nhà sư phương Bắc. Khi Trần Hưng Đạo đang uống trà với Sài Xuân thì người hầu cận của Xuân nhận ra, đứng sau lưng dùng mũi tên đâm vào đầu chảy máu nhưng Trần Hưng Đạo vẫn bình thản, sắc mặt không hề thay đổi. Sài Xuân bái phục nên khi ra về, đã tiễn tận cửa.

[9] Sau khi thôn tính Đại Lý (Vân Nam) vào năm 1253, Ngột Lương Hợp Thai đã ba lần phái sứ thần đến chiêu hàng Đại Việt nhưng những nhà ngoại giao ngạo mạn này đều bị nhà Trần tống giam. Năm 1257 Ngột Lương Hợp Thai xua quân tiến đánh Đại Việt và khi đến Thăng Long thì phát hiện ba viên sứ thần còn bị giam trong ngục, khi cởi trói ra thì một người đã mất mạng.

Cụ tượng của Bùi Chát: Một cách nhìn mới về hành động hội họa

 Lý Đợi

Triển lãm Cụ tượng của Bùi Chát, diễn ra từ ngày 14 đến 20.11.2025 tại TP.HCM, tuyển chọn 37 bức tranh sơn dầu được sáng tác từ năm 2019 đến nay. Nhưng điều đáng nói hơn số lượng, là cách triển lãm này đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong con đường nghệ thuật của Bùi Chát — từ ngôn ngữ thơ, đến ngôn ngữ hội họa, và giờ đây là sự kết hợp của cả hai: ngắn gọn, cô đọng, thẳng thắn và tuyệt đối thành thật.

Người không có dấu chân

 Ái Điểu

Sanh ra, ông Dư đã mang một điều rất lạ là khi đi, chạy, đứng – bằng đôi chân trần – ông đều không để lại dấu chân.

Không ai chú ý, biết sự dị thường này; kể cả ông. Vì con người thời nay mang giày, dép. Dụng ý ban đầu giày dép là để bảo vệ chân, sau đó vì nghi thức và làm dáng.

Vài cảm nghĩ về truyện ngắn của một cây bút mới: Ái Điểu

 Trần Doãn Nho

Ái Điểu

(Hình: Facebook)

Một bạn văn của tôi, anh Nguyễn Lệ Uyên, gửi cho tôi một số truyện ngắn của một cây bút mới, tên tuổi còn xa lạ với văn đàn, cả trong lẫn ngoài nước: Ái Điểu. Truyện, hầu hết, đều từ ngắn đến rất ngắn. Dài nhất đếm được 2500 chữ và ngắn nhất chỉ có 174 chữ; số còn lại thì khoảng 1500 chữ, 1200, 1150, 880… rồi thì là 239, 226 chữ. Có thể tạm xếp chúng vào  loại “truyện rất ngắn” (very short story) hay “truyện chớp” (flash fiction).

Thành Chương – Người thủ lĩnh cuối cùng của mỹ thuật dân gian đương đại Việt Nam

 Thái Thanh Sơn (với sự trợ giúp của AI)

Trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX–XXI, hiếm có nghệ sĩ nào lại vừa là “người thừa kế” vừa là “kẻ phản nghịch” đối với truyền thống dân gian một cách quyết liệt và tài hoa như Thành Chương (sinh 1949). Là con trai nhà văn Kim Lân – người đã viết nên “Làng” và “Vợ nhặt” – ông mang trong huyết quản một dòng máu Bắc Bộ đậm đặc, đồng thời lại là một trong những người đầu tiên dám “phá nát” hình tượng làng quê lý tưởng hóa để tái dựng nó theo một ngôn ngữ hoàn toàn hiện đại, vừa hài hước vừa sâu cay, vừa dân dã vừa quý phái.