Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Doãn Quốc Sỹ, nỗi buồn và, niềm vinh dự, hân hoan lớn

 Du Tử Lê


Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 3 Tháng Hai, Quý Hợi, tức ngày 17 Tháng Hai, 1923 Dương Lịch. Ông là con trưởng của gia đình văn nghệ sĩ. Cha ông là Doãn Hưu, một nhà nho và người em trai của ông là nhạc sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam, Doãn Nho. Năm 1946, ông lập gia đình với con gái nhà thơ trào phúng Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu) là bà Hồ Thị Thảo. Năm 1954, ông cùng gia đình di cư vào Nam.

Ông dạy học tại các trường trung học công lập như Nguyễn Khuyến (Nam Định, 1951-1952), Chu Văn An (Hà Nội, 1952-1953), Trần Lục (Sài Gòn, 1953-1960). Làm hiệu trưởng trường Trung học Công lập Hà Tiên (1960-1961), giáo sư trường Trung học Hồ Ngọc Cẩn (1961-1962), giáo sư trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn, Đại học Văn Khoa Sài Gòn năm 1962 đến giữa thập niên 1960. Ông du học tại Hoa Kỳ về ngành giáo dục và rồi trở về nước tiếp tục công việc giảng dạy cho đến năm 1975.

Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Khu Rừng Lau, một trường thiên tiểu thuyết gồm có: Ba Sinh Hương Lửa (1962), Người Đàn Bà Bên Kia Vĩ Tuyến (1964), Tình Yêu Thánh Hóa (1965), Những Ngả Sông (1966)... Theo Lê Văn, đặc phái viên Việt Ngữ của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ, trong một cuộc phỏng vấn ông, có dẫn chuyện rằng "Ba Sinh Hương Lửa người ta thường ví như những tác phẩm lớn của Nga như Chiến Tranh Và Hòa Bình" trong đó nội dung mô tả lại những cảm xúc đớn đau của của một thế hệ thanh niên mới lớn tham gia vào công cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng sau đó phát giác ra mình đã bị lợi dụng như công cụ đấu tranh giai cấp của những người cộng sản và "có lẽ chính vì thế mà anh đã bị cộng sản bỏ tù khi họ khi chiếm được miền Nam"

Sau năm 1975, ông bị chính quyền Việt Nam giam cầm nhiều lần vì tội "viết văn chống phá cách mạng", tổng cộng là 14 năm. Ông có tên trong danh sách những tên “biệt kích văn hóa,” bị bắt trong chiến dịch khởi động ngày 3 tháng Tư năm 1976, một năm sau ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc, cùng hàng trăm nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ, nhân sĩ miền Nam bị xếp hạng “phản động”: Trần Dạ Từ, Đằng Giao, Nhã Ca, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Hữu Hiệu, Hoàng Anh Tuấn, Thân Trọng Kỳ, Hoàng Vĩnh Lộc, Trịnh Viết Thành, họa sĩ Chóe, Như Phong Lê Văn Tiến, linh mục Trần Hữu Thanh, linh mục Đinh Bình Định, thượng tọa Thích Huyền Quang… Ông được phép di cư sang Hoa Kỳ vào năm 1995. Hiện nay ông sống tại Little Saigon, California.

Ông là tác giả của khoảng 25 cuốn sách. Chuyện ngụ ngôn của ông có tựa đề Con cá mắc cạn đã được dịch ra tiếng Anh (The Stranded Fish)[5] và có trong sách Việt Nam: Bạn Đồng Hành Văn Chương Của Một Du Khách (Vietnam: A traveler's literary companion) do John Balaban và Nguyễn Quí Đức biên soạn.

1.

Theo tiểu sử được ghi nhận bởi Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì, nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh tại Hà Đông, ngày 17 Tháng Hai, 1923, trong một gia đình thấm nhuần tinh thần Nho giáo. Năm 1954, ông cùng gia đình phải di cư vào miền Nam vì hiệp định Geneva chia đôi Việt Nam.

Trước thời điểm này không lâu, ông hoàn tất truyện ngắn truyện ngắn “Sợ lửa,” (dạng cổ tích,) tựa bước chân đầu tìm đến văn chương.

Cũng trước giai đoạn qua phân đất nước, ở miền Bắc, họ Doãn từng dạy tại một số trường trung học công lập, như Nguyễn Khuyến (Nam Định, 1951-1952,) Chu Văn An (Hà Nội, 1952-1953) v.v…

Những yếu tố như được sinh trưởng trong một gia đình mà, người cha là một nhà Nho, khi trưởng thành, lại chọn cho mình nghề dạy học, theo tôi, là những chỉ dấu cho thấy, ẩn mật đằng sau tư cách nhà văn, họ Doãn còn/ đã là một kẻ sĩ.

Kẻ sĩ hiểu theo nghĩa lương tâm và, trách nhiệm của một trí thức, đứa con của một tổ quốc, trước những biến động rung chuyển, bật gốc một đất nước.

Tôi không biết định mệnh nghiêng về phía nào, giữa hai con người nhà văn và, kẻ sĩ của một Doãn Quốc Sỹ. Nhưng qua những tác phẩm văn chương của ông, điển hình như bộ trường thiên “Khu rừng lau,” tôi có cảm tưởng ông đã lôi, kéo được định mệnh nghiêng về phía kẻ sĩ trước thời cuộc, ở nơi ông.

2.

Nhìn lại hai mươi năm văn học miền Nam, chúng ta phải nói rằng, đó là thời gian quá ngắn cho sự hình thành, khai triển rồi định hình, một dòng văn học đa dạng, phong phú. Nên, ta cũng có thể nói, nó giống sự vươn vai, lớn dậy thần kỳ, như huyền thoại Phù Đổng Thiên Vương.

Hai tác nhân chính giúp cho sự thoát thai, sinh thành dòng văn học mang tính Phủ Đổng Thiên Vương vừa kể, tôi nghĩ, là thảm kịch chia lìa bật máu, vĩ đại (lần đầu trong lịch sử dân tộc Việt) với hơn 1 triệu người miền Bắc nghiến răng, bậm môi, tự nguyện bỏ lại sau lưng mồ mả ông cha. Và, sự chuyển hóa chớp nhoáng từ thể chế Quân chủ lập hiến, sang thể chế Cộng hòa chỉ trong vài năm, như một giấc mơ, ở miền Nam.

Hai tác nhân hỗ tương nhau tựa một kết hợp kỳ diệu, biến gần hai chục triệu người dân miền Nam (thời đó,) trở thành những kẻ đồng hành, nhất tâm, hăm hở trong một lên đường mới mẻ. Một lên đường khám phá và, khai phóng cái thổ ngưỡng vốn đã hằng nghìn năm, sẵn đấy.

Tinh thần khai phá của giai đoạn lịch sử miền Nam sau 1954, thể hiện cụ thể, hưng phấn nhất, tiêu biểu là lãnh vực văn học.

Văn học miền Nam ở giai đoạn vỡ đất này có hai khuynh hướng chính:

-Khuynh hướng văn chương chống chế độ cộng sản. (Và)

-Khuynh hướng văn chương nặng tính nhân văn, trồng người. Hiểu theo nghĩa lấy đạo lý, nhân tính làm căn bản.

Cũng vẫn ở giai đoạn khẩn hoang, vỡ đất kia, số tác giả đắm mình, vẫy vùng trong ngọn triều chống cộng chiếm đa số. Họ đứng về phía thời thế nóng bỏng. Như một thứ thời thượng… Phía trồng người, xây tâm ít, hiếm.

Theo ghi nhận của tôi, tác giả “Dòng Sông Định Mệnh” ở phía ít, hiếm đó.

Họ Doãn an nhiên, tự tại, nở nụ cười đôn hậu trước chọn lựa có phần thưa, vắng đồng hành, của mình.

Vì là một lên đường mới mẻ, ồ ạt, nên, trong lúc nhiều tác giả xuất hiện giữa thập niên 1950, qua sáng tác, còn đang nỗ lực thực chứng sự hiện diện của mình như Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Tô Thùy Yên, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền… thì, Doãn Quốc Sỹ đã định hình (hiểu theo nghĩa được đám đông đón nhận,) qua những tác phẩm ấn hành như “Sợ Lửa” (1956,) “U Hoài” (1957,) “Dòng Sông Định Mệnh” (1959)…

Về phương diện kỹ thuật, (cũng như một vài tác giả khác,) theo tôi, họ Doãn đi tiếp con đường văn chương thời tiền chiến.

Con đường mà hình thức truyện được xây dựng trên hai căn bản:

-Cốt truyện (với những nút thắt, nút mở.) (Và)

-Chủ tâm khai thác tâm lý nhân vật (để người đọc dễ thấy mình, trong truyện.)

Nhưng về phương diện nội dung, vẫn theo tôi, họ Doãn không bó rọ, gói chặt tác phẩm của mình trong những luận đề gia đình, xã hội, xung đột cũ/ mới như thời Tự Lực Văn Đoàn.

Ông cũng không bó rọ nội dung chống cộng sản trong tác phẩm của ông trên cái nền cốt truyện và tâm lý nhân vật.

Truyện của ông, dù không hề xa rời hiện thực xã hội, nhiễu nhương, như “Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều,” như “Gìn Vàng Giữ Ngọc,” vẫn mở vào phần con người, như một sinh vật linh trưởng, bản chất thiện căn, ở trên mọi hạn hẹp của thể chế chính trị, giai đoạn.

Truyện của ông, ngoài những ẩn dụ, như những phóng chiếu nhân tính qua những truyện ở dạng cổ tích, cũng là những rung động, những lãng mạn thuần khiết (cung ứng cho nhu cầu mơ mộng, căn cốt của con người.) Chúng xiển dương tính hướng thượng. Chúng chan hòa tính nhân loại.

Tới hôm nay, dù trải qua bao năm tháng, bao cuộc đổi đời, tôi vẫn cảm phục ông biết bao, khi trong truyện “Gìn Vàng Giữ Ngọc,” của ông, tôi được đọc câu văn:

Ở thế giới thực dân tư bản, người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn. Ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành.”

 

3.

Hình như mối bận tâm, nỗi đau đáu lao lung một đời của nhà văn-kẻ-sĩ mang tên Doãn Quốc Sỹ, trước sau vẫn là chủ tâm, nỗ lực kêu đòi, nhắc nhở, cổ súy khả năng “thánh hóa” tình thương yêu rộng rãi và, chân thành nơi mỗi con người ấy.

Sự tương nhượng dẫn tới tương hợp tuyệt vời giữa hai con người nhà văn và, kẻ sĩ nơi họ Doãn, thể hiện sâu sắc nhất, theo tôi ở trường thiên “Khu Rừng Lau.”

Khu Rừng Lau” không chỉ là bản trường ca xương, máu của một dân tộc liên tiếp trải qua những kiếp nạn, từ thời chống ngoại xâm, thực dân Pháp, qua tới những năm tháng bị đầu độc bởi chủ thuyết cộng sản và, tạm dừng ở điểm đứng dân chủ trá hình, lận trong tay áo những con trủy thủ độc tài mà, "Khu Rừng Lau" còn là trường ca, với những tổ khúc tin tưởng, hy vọng nơi cái Thiện, vốn là một linh–thánh-nhân-bản khi con người (hay nhân loại) phải đối đầu với thảm kịch, với cái ác.

Trường thiên này, theo tôi, là bước song hành giữa kẻ sĩ trước trách nhiệm với lịch sử một đất nước và, nhà văn, trước cái đẹp và, cái thiện của sinh vật linh trưởng.

Nhiều người từng ví trường thiên “Khu Rừng Lau” với bộ “Chiến Tranh Và Hòa Bình” của Leo Tolstoy.(*) Nhưng chưa một ai chỉ ra rằng, nếu Leo Tolstoy là nhà văn dựng lại, (tức đứng ngoài) một giai đoạn lịch sử cháy đỏ lầm than của xứ Đại Nga, kể từ những ngày đầu của cuộc chiến tranh Pháp-Nga 1811 thì, Doãn Quốc Sỹ là người đứng giữa tâm bão.

Ông không tìm hiểu, để rồi chiêm nghiệm mà, ông đã sống, đã chảy máu cùng lúc với dân tộc, tổ quốc ông; khi lịch sử và, đất nước ông đang chảy máu…

Do đó, với tôi, sự có mặt của ông, Doãn Quốc Sỹ, sự chúng ta còn có trong tâm, trong nhiều thế hệ sau "Khu Rừng Lau” của họ Doãn là, một nỗi buồn, đồng thời cũng là một vinh dự, hân hoan lớn, cho văn học và, con người Việt Nam vậy.

Du Tử Lê,

(Calif. Tháng 8-2010.)

______

Chú thích:
(*) Leo Tolstoy (hay Léon Tolstoi,) nhà văn Nga, còn được biết với tên đầy đủ là Lyev Nikolayevick Tolstoy, sinh ngày 9 Tháng Chín, 1828. Ông là tác giả nổi tiếng với hai bộ trường thiên tiểu thuyết: “Chiến Tranh Và Hòa Bình” và “Ana Kha Lệ Nin.” Ông mất ngày 20 Tháng Mười Một, 1910.

Nguồn: https://www.dutule.com/a2721/doan-quoc-sy-noi-buon-va-niem-vinh-du-han-hoan-lon-

Thơ của bác sĩ Tôn Thất Tùng

 Hôm nọ, anh Lê Xuân Phán có gửi cho tôi bài thơ tiếng Pháp có tựa Amour của bác sĩ Tôn Thất Tùng (đăng trên tạp chí Le Monôme số 1, tháng 6, năm 1936 của Tổng hội Sinh viên Đại học Đông Dương), nhờ tôi thử dịch sang tiếng Việt. Khó thật nhé. Tôi vốn đâu có quen dịch thơ cổ điển; và cả đời cũng chẳng làm bài thơ nào ra hồn. Loay hoay mãi, đọc đi đọc lại, nặn óc cố làm sao cho ra một bản dịch mà người Việt khi đọc có thể cảm được hơi thở và cái độ khó rất riêng của thơ Pháp thời ấy.

Dưới đây là bản tôi dịch, vừa bám nguyên tác, vừa giữ nhịp thơ Việt xưa xưa của hồi đó, mong rằng vẫn còn ít nhiều hồn vía của nguyên tác:

Nếu bạn nào có thể có bản dịch hay hơn, xin chia sẻ nhé. Cảm ơn.

Tino Cao

Nhà văn được vinh danh, dịch giả được nhớ đến

 Ngân Xuyên (theo hlo.hu ngày 13. 10. 2025)

Nhân dịp nhà văn nước mình là László Krasznahorkai được giải Nobel Văn chương 2025, Hiệp hội Dịch giả Văn chương Hungary (MEGY) đã đăng trên Facebook lời chúc mừng gửi đến 64 dịch giả của ông trên toàn thế giới, trong đó có một dịch giả Việt Nam là Giáp Văn Chung. Toàn văn lời chúc mừng của MEGY và danh sách các dịch giả kèm theo như sau:

Thứ Năm, 16 tháng 10, 2025

Vĩnh biệt Dzoãn Quốc Sỹ (17.2.1923 - 14.10.2025): Dzoãn Quốc Sỹ – Người giữ ngọn lửa của chữ nghĩa

 Tino Cao

* English below

 

Mỗi thế kỉ đều có ít nhất một người chọn đi hết quãng trăm năm của nó bằng chữ nghĩa, coi chữ nghĩa như con đường vừa riêng tư vừa phổ quát để vượt thời gian. Thế kỉ hai mươi của Việt Nam có Dzoãn Quốc Sỹ. Ông không làm cách mạng, không diễn thuyết tranh luận, nhưng đời sống của ông lại là một bằng chứng về khả năng tồn tại của tinh thần tự do trong những giới hạn ngặt nghèo nhất. Ông dạy học, viết văn, chịu tù đày, rồi già đi nơi đất khách. Tất cả tưởng chừng bình thường, nếu không có cách ông đi qua những điều ấy bằng một thái độ nhất quán: lặng lẽ, trung thực và tuyệt đối không oán hận. Chính sự im lặng đó khiến đời ông mang ý nghĩa của một phẩm cách đạo đức, khi chữ nghĩa không chỉ là phương tiện biểu đạt mà trở thành một hình thức tu dưỡng, một con đường giữ lấy phẩm giá giữa những biến thiên của lịch sử.

Thay Lời Tựa dành cho tập truyện "Cò Đùm" của nhà văn Doãn Quốc Sỹ

 Hoàng Khởi Phong

 

"Ngã kim nhật tại tọa chi địa

Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi"

Với tôi nhà văn Doãn Quốc Sỹ là bậc trưởng thượng. Khi tôi ra đời, ông đã bước vào tuổi hai mươi, đã hăm hở lên đường cứu nước. Bởi vì năm 1943, dân tộc Việt chúng ta có tới hai cái ách ngoại bang tròng vào cổ. Trước tiên là người Pháp, đã đặt nền bảo hộ hơn nửa thế kỷ đầy máu. Kế đó Đệ Nhị Thế Chiến đã mang Quân Đội Nhật vào trú đóng trên đất nước chúng ta, rêu rao chiêu bài Đại Đông Á. Nhưng mà người Nhật cũng không khác gì Pháp, cái họ mang tới không phải nền độc lập, sự thịnh vượng, mà chỉ thêm vào những dòng máu khác. Đó là chưa kể tới những cái ách, của chính người Việt choàng lên cổ lẫn nhau. Nên vì đó bất cứ một thanh niên nào nhiều nhiệt huyết, thao thức tới vận mệnh tổ quốc, đều không sớm thì muộn cũng sẽ hăm hở lên đường như Doãn Quốc Sỹ.

Thứ Tư, 15 tháng 10, 2025

Thơ Shaimaa El Sabbagh

MỘT LÁ THƯ TRONG CHIẾC TÚI XÁCH TAY

Người dịch: Dương Thắng.

Đôi nét về tác giả: Chủ nhật ngày 25 tháng giêng 2015, Shaimaa El Sabbagh, một chiến binh “cánh tả” , người mẹ trẻ của một đứa con trai 5 tuổi, đã bị trúng một viên đạn vào đầu khi đang cúi xuống đặt vòng hoa ở quảng trường Tahrir, thủ đô Cai-rô nhân kỷ niệm 4 năm cuộc cách mạng Ai Cập (2011). Cô là một nhà thơ trẻ khá nổi tiếng và đây là bài thơ cuối cùng của cô viết trước ngày cô ra đi mãi mãi. Thơ được dịch từ bản tiếng Pháp.

Sinh mệnh của sông Mã, sông Chu và sông Lam dưới bóng các mỏ đất hiếm ở Lào

 Ngày 14 tháng 10 năm 2025

Phạm Phan Long

Lời giới thiệu:  Mức asen cao được phát hiện trên sông Mê Kông, cảnh báo nguy cơ ô nhiễm kim loại nặng lan rộng ở Đông Nam Á. Các sông Mã, Chu và Lam của Việt Nam đang bị đe dọa bởi hoạt động khai thác đất hiếm ở Lào, tác động đến nguồn nước của hàng chục triệu người và di sản cổ đại văn hóa Đông Sơn. Việt Nam cần phối hợp ngoại giao, giám sát khoa học và vận động cộng đồng để bảo vệ các dòng sông này. Khác với sông Mê Kông được giám sát và hợp tác thông qua Ủy hội Sông Mê Kông (MRC), các dòng sông Mã, Chu và Lam lại không có bất kỳ hiệp ước quốc tế nào. Do đó, Lào và đối tác Trung Quốc không có nghĩa vụ pháp lý phải giảm thiểu ô nhiễm xuyên biên giới. Sự thiếu vắng các thỏa thuận ràng buộc này đòi hỏi Việt Nam phải hành động bảo vệ dân cư và sinh mệnh các dòng sông này.

Quyền ăn trộm, quyền kể chuyện và phẩm giá quốc gia

 Nguyễn Hoàng Văn

Tin Mưa Đỏ dự tranh Oscar đến với tôi hầu như cùng lúc với tin người Nhật xuống đường phản đối người Việt rồi vụ này và vụ kia, mới rợi, của “công nghiệp trộm cắp” trên đất Nhật, như một chuyện dài feuilleton. [1] Ê chề và nhục nhã nên tôi, bất giác, lại tự hỏi mình là, giả như cái giấc mơ Oscar kia mà thành hiện thực, cái vinh này sẽ vớt vát được mấy phần của cái nhục này?

Đọc Bùi Chát – Kẻ đi về phía chữ nghĩa mất cân bằng

 Gã Khờ

 Thơ Bùi Chát | Diễn đàn Câu lạc bộ Văn đoàn Độc lập Việt Nam

Bùi Chát không làm thơ để đẹp.

Không để được gọi là nhà thơ.

Và càng không để ai đó vỗ tay.

Có thể anh làm thơ để tự vệ.

Như một kẻ từng đi qua thế giới quá giả – phải vặn vẹo chữ để tìm cho ra cái thật.

Như một đứa trẻ hoài nghi – không tin vào mặt trời, mà cứ lật từng viên gạch trong lòng đất, tìm ánh sáng.

Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 316): Nguyễn Xuân Hoàng, nhà văn hải ngoại

 Nguyễn Vy Khanh

Nguyễn Xuân Hoàng

Nguyễn Xuân Hoàng giáo sư Triết và nhà văn, nhà báo. Sau biến cố 30-4-1975, ông bị 4 năm tù “cải tạo” đã vượt biên (trại tị nạn Bataan, Phi Luật Tân) và ban đầu định cư tại Virginia Hoa-Kỳ năm 1985, sau chuyển về miền Nam California và sinh sống trọn vẹn với nghề làm báo: tổng thư ký cho nhật báo Người Việt (California, 1986-1987) và tổng thư ký tạp chí Thế Kỷ 21 (California, 1989-1994) của cùng công ty Người Việt. Trong Ban chủ biên tạp chí Văn Học, California từ năm 1994 và làm chủ-nhiệm chủ-bút tạp-chí Văn bộ mới từ số đầu tháng 1-1997 (trước đó, năm 1996, ông làm chủ bút giúp Mai Thảo duy trì được 2 số và Mai Thảo mất ngày 10-1-1998) cho đến số cuối 124 năm 2008. Thiên cư lên miền Bắc California, ông làm Tổng thư ký tuần báo Việt Mercury (San Jose, từ số ra mắt ngày 19-1-1999 đến số cuối ngày 11-11-2005), chủ bút tuần báo Việt Tribune 2006-2010, và có một thời gian làm giảng viên môn văn-học Việt-Nam tại đại học California-Berkeley. Ông mất ngày 13-9-2014 tại San Jose, California sau một thời gian trọng bệnh (1).

120 năm Jean-Paul Sartre (1905-2025) – Liệu có còn cứu vớt được trí thức?

 Gérard Noiriel

Phạm Anh Tuấn dịch

Độc giả có thể sẽ tự hỏi vì sao lại tái bản một cuốn sách rất mỏng ra mắt lần đầu tiên vào năm 1972, khi dường như bấy lâu chúng ta sống ở một thời đại mà ở chỗ nào cũng thấy rõ một sự giải thiêng đối với những trí thức.

Vinh Thụ – Sự thức tỉnh của sơn mài trước thời đại

 Tobi Trần - Giám tuyển Độc lập

Trong dòng chảy phức tạp của nghệ thuật Việt Nam đương đại, Vinh Thụ xuất hiện như một người lặng lẽ nhưng đầy quyết liệt. Anh không cố tìm cách hiện đại hóa sơn mài theo nghĩa hình thức mà thay vào đó Vinh Thụ hiện đại hóa tư duy của chính nó. Ở Vinh Thụ, sơn mài không còn là một chất liệu trang trí mà đã trở thành một không gian triết học, nơi các câu hỏi về thân phận, niềm tin và đạo đức được mài giũa đến tận cùng. Cái hiện đại trong tranh của Vinh Thụ không nằm ở hình khối hay bố cục mà ở ý niệm. Những lớp then đen, vỏ trứng, vàng son đã không còn là vật liệu thông thường mà là biểu tượng cho một thế giới phức tạp, nơi ánh sáng và bóng tối cùng trú ngụ.

Treo đá giữa trời

 Tản văn Trần Tuấn

Chùa chỉ là một phiến đá mang hình tán cây bồ đề mà từ 2.600 năm trước Thái tử Tất Đạt Đa đã ngồi rồi thành đạo. Phiến đá khơi vơi nơi tịch mịch như một chữ “Không” vô tận. Nhất phiến dương gian này tưởng chỉ dành cho những đấng bậc “vô sư tự ngộ”. Mà những chùa to chuông lớn đang bao biện khắp cõi này, dễ gì có được.

Thứ Hai, 13 tháng 10, 2025

Khi Giải Nobel Hòa Bình 2025 bị phỉ báng: Sự thật ở đâu?

Tino Cao

* English below

Khi Michelle Ellner, điều phối viên khu vực Mĩ La-tinh của tổ chức #CODEPINK, công bố bài viết “Khi María Corina Machado giành giải Nobel Hòa bình, thì hòa bình đã mất hết ý nghĩa”, dư luận mạng xã hội thế giới, và cả ở Việt Nam, lập tức chia rẽ. Nhiều người xem đó như một tuyên ngôn đạo đức chống lại “sự thao túng của phương Tây”, một tiếng nói dũng cảm từ miền Nam toàn cầu. Nhưng nếu đọc chậm và kĩ hơn, ta có thể dễ dàng nhận ra đằng sau giọng điệu phẫn nộ cực đoan ấy không phải là một phân tích chính trị mà là một bản cáo trạng được viết từ định kiến phản đế cố hữu, nơi mọi tiếng nói chống lại các chế độ xã hội chủ nghĩa ở Mĩ La-tinh đều bị quy chụp thành “sản phẩm của Washington”. Bài viết ấy không chỉ xuyên tạc về dữ kiện mà còn phản bội chính những giá trị mà nó nhân danh: hòa bình, nhân quyền và chủ quyền dân tộc.

Có lẽ chính vì thế, bài viết này – lời đáp lại của tôi – không chỉ nhằm phản biện Michelle Ellner mà thật ra để khơi lại một câu hỏi phổ quát hơn: liệu trong thế giới hôm nay, hòa bình có còn là giá trị chung hay đã trở thành công cụ biện minh cho quyền lực?

María Corina Machado sinh ra và lớn lên ở Caracas, trong một Venezuela từng được xem là hình mẫu phát triển của khu vực, với nền kinh tế dầu mỏ phồn thịnh và tầng lớp trung lưu năng động. Nhưng từ khi Hugo Chávez và sau đó là Nicolás Maduro lên nắm quyền, đất nước ấy đã biến thành một trong những thảm họa nhân đạo lớn nhất thế kỉ hai mươi mốt. Hơn bảy triệu người Venezuela đã phải rời bỏ quê hương, theo thống kê của Liên Hiệp Quốc. Lạm phát vượt quá bốn chữ số, đồng nội tệ gần như vô giá trị và hệ thống y tế sụp đổ hoàn toàn. Trong bối cảnh ấy, Machado nổi lên như một trong số ít chính trị gia dám nói sự thật, dám gọi đích danh kẻ phải chịu trách nhiệm và dám tin rằng dân chủ không phải là đặc quyền của phương Bắc mà là quyền phổ quát của con người.

Ellner mô tả bà như gương mặt tươi cười của cỗ máy thay đổi chế độ do Mĩ điều khiển nhưng không đưa ra được bằng chứng nào ngoài những kết luận suy diễn dựa trên định kiến phản đế. Thực tế, không có chứng cứ độc lập nào cho thấy Machado từng kêu gọi can thiệp quân sự hay “dâng chủ quyền” cho Washington. Các phát biểu của bà trong hai thập niên qua nhất quán kêu gọi áp lực quốc tế, thương lượng chính trị và bầu cử tự do, vốn là những những phương thức tranh đấu ôn hòa được luật pháp quốc tế thừa nhận. Trong các xã hội chuyên chế, chỉ riêng việc yêu cầu thế giới quan tâm đến nhân quyền đã bị xem là phản quốc; và Ellner đã lập lại luận điệu ấy một cách vô thức.

Điều cần nhắc ở đây là phần lớn những cáo buộc quanh nhân vật này đều bắt nguồn từ việc bà bị gán vai trò “đồng lõa đảo chính năm 2002”. Nhưng trong hồ sơ công khai, không hề có bằng chứng cho thấy Machado soạn thảo hay kí trực tiếp vào Sắc lệnh Carmona – văn bản tuyên bố giải tán Quốc hội và đình chỉ Hiến pháp. Bà chỉ thừa nhận có kí tên vào một danh sách điểm danh trong cuộc họp công dân. Việc biến một hành động xã hội dân sự thành chứng cứ phản quốc với cáo buộc “tay sai đảo chính” là một thủ thuật quen thuộc của tuyên truyền dùng để duy trì huyền thoại rằng mọi bất đồng ở Venezuela đều là sản phẩm của Mĩ.

Những ai theo dõi đời sống chính trị Venezuela đều hiểu, Machado không đại diện cho Washington mà cho hàng triệu người Venezuela đã mất niềm tin vào một hệ thống quyền lực cướp đi cả phẩm giá và miếng ăn của họ. Chính họ, chứ không phải Nhà Trắng, đã xuống đường đòi thay đổi. Cách Ellner gộp mọi phản kháng dân sự vào phạm trù “chống chủ quyền” thực ra chỉ phản ánh cái nhìn thực dân ngược: phủ nhận khả năng tự quyết của người Mĩ La-tinh, coi họ như kẻ bị giật dây.

Điều Ellner gọi là “chính trị thấm đẫm bạo lực” thực chất là nỗ lực bất bạo động kéo dài suốt hơn hai thập niên. Machado sáng lập Súmate, tổ chức giám sát bầu cử độc lập đầu tiên của Venezuela, với mục tiêu đơn giản: bảo đảm rằng lá phiếu của người dân được đếm đúng. Chính nhờ những nỗ lực ấy mà các vụ gian lận trong trưng cầu dân ý thời Chávez mới được phơi bày. Machado vận động bằng lí lẽ, bằng con chữ, bằng diễn đàn và bằng nghị trường. Bà chưa bao giờ kêu gọi chiến tranh. Điều bà kêu gọi là bầu cử tự do, minh bạch và quyền được sống không sợ hãi. Trong một xã hội nơi chỉ một lời phản đối có thể dẫn đến nhà tù, hành động ấy đã là một biểu lộ can đảm hiếm thấy.

Bạo lực thật sự không nằm ở những cuộc biểu tình mà Ellner gán cho Machado mà ở cách chính quyền Maduro dùng súng đạn đối phó với công dân của họ. Tổ chức Ân xá Quốc tế và Human Rights Watch đã ghi nhận hàng nghìn vụ bắt bớ tùy tiện, hàng trăm vụ tra tấn và hàng chục vụ giết người trong các cuộc đàn áp biểu tình từ năm 2014 đến nay. Các nhà báo độc lập bị mất tích, các tổ chức xã hội dân sự bị giải thể, internet bị kiểm soát và các tòa án bị chính trị hóa. Những ai nói “La Salida” năm 2014 là “âm mưu bạo loạn” quên rằng phong trào ấy được khởi xướng với tuyên bố công khai về một “lối thoát dân chủ và hòa bình”. Đúng là có bạo lực nổ ra, nhưng không ai từng chứng minh Machado ra lệnh hay cổ vũ cho điều đó. Trong một đất nước nơi mọi phản kháng đều bị vũ khí hóa, việc buộc tội người đối lập bằng cách tận dụng hành động vô tri của đám đông chỉ là cách nhà nước né tránh trách nhiệm của chính mình.

Một trong những luận điểm trung tâm của Ellner là lệnh trừng phạt của Mĩ đã gây ra thảm họa nhân đạo và Machado ủng hộ điều ấy. Nhưng đó là một sự đánh tráo nhân quả. Khủng hoảng của Venezuela bắt đầu từ trước khi Mĩ áp dụng các biện pháp trừng phạt, khi giá dầu sụp đổ và chính quyền Chavez-Maduro kiên quyết duy trì mô hình quốc hữu hóa toàn diện, triệt tiêu tư nhân và nuôi dưỡng tham nhũng có hệ thống. Hàng tỉ đô la thất thoát qua các mạng lưới thân hữu, ngân hàng trung ương in tiền vô tội vạ để bù thâm hụt và kết quả là siêu lạm phát chưa từng có trong lịch sử khu vực. Lệnh trừng phạt không tạo ra khủng hoảng, nó chỉ phơi bày một nền kinh tế đã bị làm mục ruỗng. Machado không ủng hộ trừng phạt như vũ khí mà xem đó là đòn bẩy để buộc giới cầm quyền phải thương lượng, phải trả lại quyền tự do bầu cử. Cần phân biệt giữa người đòi hỏi trách nhiệm và người cổ vũ cho khổ đau. Không có bằng chứng nào cho thấy Machado muốn “bóp nghẹt dân nghèo”. Chính hệ thống độc tài mới là nguyên nhân khiến người nghèo không còn phương tiện sinh tồn.

Ellner còn gán cho Machado tội “hợp tác với Washington để thay đổi chế độ” như thể đó là âm mưu cá nhân, trong khi các mối liên hệ ngoại giao, vận động quốc tế hay lời kêu gọi hỗ trợ dân chủ vốn là thực hành bình thường trong đời sống chính trị toàn cầu. Các cuộc gặp của Machado với giới ngoại giao Hoa Kì hay Nghị viện châu Âu đều diễn ra công khai với mục tiêu vận động cho bầu cử tự do và phóng thích tù nhân chính trị. Bà không kêu gọi quân đội Mĩ đổ bộ vào Caracas; bà kêu gọi thế giới đừng quay lưng. Giới tuyên truyền thân chính quyền đã cố tình đồng hóa mọi hình thức liên đới quốc tế với “can thiệp vũ trang” như thể chủ quyền đồng nghĩa với quyền bịt miệng công dân.

Không chỉ vậy, Ellner còn sử dụng lại những cáo buộc cũ rằng Machado “ủng hộ Trump đưa hải quân đến vùng Caribe” hay “muốn mở lại đại sứ quán tại Jerusalem”. Không có tài liệu, bài phát biểu hay đoạn ghi âm nào xác nhận điều đó. Việc trộn lẫn tên bà với các sự kiện quốc tế gây tranh cãi là cách tuyên truyền dễ đoán nhằm gắn nhãn tội lỗi bằng liên tưởng cảm xúc chứ không bằng chứng cứ. Nếu quả thật Machado từng có tuyên bố như vậy, hẳn nó đã được các cơ quan truyền thông quốc tế trích dẫn. Việc không có nguồn chứng minh cho thấy cáo buộc chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng chính trị của phe tuyên truyền.

Vấn đề “tư nhân hóa tài nguyên” mà Ellner nêu ra cũng bị bóp méo. Machado từng đề xuất cải cách cấu trúc dầu khí và mở cửa cho đầu tư tư nhân, điều này không đồng nghĩa với “bán rẻ đất nước”. Bà hiểu rằng quốc hữu hóa toàn diện đã khiến ngành dầu khí, vốn là xương sống của Venezuela, trở thành sân sau cho tham nhũng và vô dụng. Kêu gọi minh bạch hóa, cổ phần hóa và tái cơ cấu không phải là dâng hiến mà là nỗ lực cứu lấy nền kinh tế đang chết ngạt. Chính cái mô hình “chủ quyền tài nguyên tuyệt đối” mà Ellner bảo vệ mới là nguyên nhân khiến người dân Venezuela phải xếp hàng mua xăng ngay trên mảnh đất có trữ lượng dầu lớn nhất thế giới.

Trong khi Ellner ca ngợi “các sáng kiến cộng đồng” dưới chế độ Maduro, bà bỏ qua thực tế rằng phần lớn các tổ chức phi chính phủ độc lập đã bị bóp nghẹt. Nhiều nhà hoạt động bị bắt giữ chỉ vì nhận tài trợ nhân đạo từ nước ngoài. Các phương tiện truyền thông bị đóng cửa, còn mạng xã hội bị giám sát bằng hệ thống công nghệ do các nước khác cung cấp. Ủy ban Liên Hiệp Quốc điều tra về Venezuela đã nhiều lần kết luận rằng ở đó đang diễn ra các hành vi có thể cấu thành tội ác chống loài người. Những con số ấy không nằm trong bài viết của Ellner, bởi nếu sự thật khách quan này được phơi bày một cách công bằng, chúng sẽ làm sụp đổ toàn bộ khung diễn ngôn về một “Venezuela bị bao vây”.

Machado cũng bị gán là “kiến trúc sư của chính phủ lâm thời do Washington giật dây”, nhưng bà chưa bao giờ giữ vai trò trong bộ máy đó. Việc bà ủng hộ nỗ lực hình thành một chính phủ chuyển tiếp không biến bà thành “tay sai”. Nó chỉ phản ánh khát vọng dân chủ của người dân Venezuela đã bị tước đoạt. Sự hiện diện của một chính phủ lâm thời được quốc tế công nhận không phải là biểu hiện của chủ nghĩa bù nhìn mà là bằng chứng về mức độ khủng hoảng thể chế tại Venezuela.

CODEPINK, tổ chức mà Ellner đại diện, vốn được biết đến với các chiến dịch phản chiến có ý nghĩa nhân đạo trong quá khứ. Nhưng trong nhiều năm gần đây, tổ chức này sa vào thứ phản chiến mù quáng khi mọi hành động chống lại độc tài đều bị quy chụp là sản phẩm của đế quốc. Khi chống can thiệp trở thành phản xạ vô điều kiện, nó biến thành một dạng đạo đức giả: nhân danh hòa bình để bảo vệ bạo lực. Bài viết của Ellner là biểu hiện rõ của xu hướng đó. Nó không phê phán quyền lực mà chỉ đổi phe cho quyền lực, không chống chiến tranh mà chỉ biện hộ cho áp bức. Cái gọi là “chủ nghĩa phản đế kiểu cũ” mà Ellner theo đuổi không còn là lập trường đạo đức mà là sự phủ nhận tính phổ quát của nhân quyền.

Machado không phải sản phẩm của Washington, mà là kết tinh của truyền thống dân chủ Mĩ La-tinh, truyền thống mà những cái tên như Michelle Bachelet ở Chile hay Violeta Chamorro ở Nicaragua từng đại diện. Bà thừa hưởng một di sản lâu dài của những phong trào nữ quyền và xã hội dân sự ở các quốc gia Nam Mĩ, nơi phụ nữ không chỉ đòi quyền bình đẳng mà còn đòi quyền được nói thật. Trong một nền chính trị do quân đội và quyền lực nam giới thống trị, sự hiện diện của một người phụ nữ như Machado đã tự thân là một hành động chính trị. Bà không kế thừa dòng tộc, không có hậu thuẫn của giới tài phiệt và cũng không nương nhờ các lực lượng vũ trang. Bà chỉ có một thứ vũ khí duy nhất là khả năng nói thẳng và niềm tin rằng một quốc gia chỉ có thể phục hồi nếu người dân của nó được tự do chọn lựa.

Giải Nobel Hòa bình dành cho Machado vì thế không nên được hiểu chỉ là một sự công nhận mang tính cá nhân. Đó là thông điệp Oslo gửi đến toàn cầu rằng hòa bình không thể tách rời khỏi dân chủ. Giống như Nelson Mandela từng bị gọi là kẻ khủng bố trước khi được vinh danh hay Lưu Hiểu Ba bị giam cầm khi nhận giải, Machado cũng đang phải đối diện với cùng một logic của quyền lực: khi bạn đòi tự do, bạn sẽ bị buộc tội phản bội. Nhưng chính trong sự buộc tội ấy, giá trị của giải thưởng được củng cố. Nobel Hòa bình chưa bao giờ là phần thưởng cho sự ngoan ngoãn. Nó là tiếng chuông cảnh tỉnh rằng công lí không thuộc về kẻ mạnh mà thuộc về kẻ dám chống lại sợ hãi.

Hòa bình, như Machado nhiều lần nói, không phải là sự vắng mặt của xung đột mà là sự hiện diện của công lí. Một xã hội im lặng trước đàn áp không phải là xã hội hòa bình mà là xã hội đã bị thuần phục. Ở Venezuela, sự im lặng ấy đang bị phá vỡ từng ngày bởi những người phụ nữ đứng lên đòi quyền được nuôi con bằng sữa thật, những công nhân đòi được trả lương thật và những nhà báo đòi được nói sự thật. Machado là tiếng nói tập hợp của những con người ấy. Giải Nobel Hòa bình dành cho bà không làm mất ý nghĩa của hòa bình mà trả lại cho hòa bình ý nghĩa thực sự đã bị đánh cắp bởi tuyên truyền.

Nếu có điều gì cần cảnh báo, thì tôi tin rằng đó không phải là “sự phi lí của Nobel” mà là sự phi lí của việc một số tổ chức vẫn chọn làm ngơ trước khổ đau của người dân chỉ vì họ không phù hợp với định kiến ý thức hệ. Trong thế giới hôm nay, nơi chủ nghĩa dân túy và cực đoan đang trỗi dậy từ cả hai phía, việc một phụ nữ Mĩ La-tinh nói về dân chủ, pháp quyền và nhân phẩm là điều đáng để bảo vệ, không phải để giễu cợt.

Ellner đã sai khi cho rằng trao giải cho Machado là xúc phạm hòa bình. Sự thật là nếu cộng đồng quốc tế tiếp tục im lặng trước những gì diễn ra ở Venezuela thì chính hòa bình mới là kẻ bị xúc phạm. Trong tiếng nói của Machado, người ta nghe thấy lời nhắc nhở rằng tự do không có biên giới và dân chủ không có quốc tịch. Hòa bình thật sự chỉ có thể tồn tại khi con người được quyền lên tiếng về số phận của chính mình.

Những phản ứng dữ dội trên mạng xã hội hai ngày qua từ những người tự nhận là bảo vệ nhân quyền hay ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc đã bộc lộ một nghịch lí khác của thời đại. Nhiều người trong số đó, khi hô hào quyền tự do cho người Palestine chống lại Israel, hay ca ngợi tinh thần kháng cự của chính quyền Zelensky trước Nga, lại đồng thời phủ nhận quyền tự do của người Venezuela được lựa chọn vận mệnh chính trị của chính họ. Họ nhân danh công lí để biện minh cho định kiến, nhân danh hòa bình để loại trừ những ai không nằm trong sơ đồ tư tưởng của mình. Đó không còn là lập trường chính trị mà là một thứ tín điều phản đế đã hóa giáo điều khi mà mọi giá trị chỉ được công nhận nếu nó phục vụ cho niềm tin của “phe ta”.

Chính trong bầu không khí ấy, việc gán cho María Corina Machado là “con rối của Washington” trở thành một quy kết lười biếng và thiếu thuyết phục, phản ánh cái nhìn thực dân ngược, một thứ chủ nghĩa phản đế tin rằng mọi khát vọng dân chủ của phương Nam đều phải được giải thích bằng bàn tay xen vào của phương Bắc. Cách lập luận ấy, tưởng là chống lại bá quyền, nhưng thực ra lại phủ nhận năng lực tự quyết của chính người Mĩ La-tinh. Nó biến những người đang chiến đấu cho quyền sống và quyền tự do của mình thành những nhân vật phụ trong một vở kịch toàn cầu mà “đế quốc” luôn là trung tâm.

Cực đoan nào cũng giống nhau, dù khoác áo “chống đế quốc” hay “giải phóng dân tộc”. Khi những người từng khóc vì Gaza lại im lặng trước Caracas, khi họ tố cáo bạo lực của Israel nhưng làm ngơ trước bạo lực của một chế độ cùng phe ý thức hệ, thì sự nhất quán đạo đức đã bị đánh mất. Bởi hòa bình, nếu chỉ dành cho những ai ta đồng ý thì không còn là hòa bình nữa. Nó chỉ là một hình thức kiểm soát ngôn ngữ của lương tri.

Trao giải Nobel Hòa bình cho María Corina Machado không phải là hành động chống lại ai mà là chỉ dấu cho thấy rằng hòa bình không thể bị độc quyền bởi bất kì phe phái nào. Nó không phủ nhận nỗi đau của Palestine hay Ukraine mà khẳng định rằng tự do và nhân phẩm là giá trị không biên giới. Và nếu thế giới thật sự muốn nói về hòa bình, thì điều đầu tiên cần làm là trả lại cho những con người như María Corina Machado quyền được nói, được tin và được đại diện cho chính tiếng nói của mình. Chính sự cực đoan của những người nhân danh công lí để chối bỏ người khác mới là điều xúc phạm sâu sắc nhất đối với hòa bình.

  • •••

When the 2025 Nobel Peace Prize is defamed: Where does truth lie?

When Michelle Ellner, the Latin America coordinator of #CODEPINK, published her article “When María Corina Machado wins the Nobel Peace Prize, peace loses its meaning”, the reaction across global social networks, including in Vietnam, was immediate and polarized. Many praised it as a moral declaration against Western manipulation, a courageous voice from the Global South. Yet a closer reading shows something different. Beneath its anger lies not political reasoning but a habitual anti-imperialist reflex that reduces any criticism of socialist regimes in Latin America to a conspiracy directed by Washington. The piece is not only inaccurate but also betrays the very principles it claims to defend: peace, human rights, and national sovereignty.

This response, therefore, is not only a rebuttal to Ellner but a reflection on a broader question. Has peace, in our time, remained a shared human value, or has it become an instrument to justify power?

María Corina Machado was born in Caracas, in a Venezuela once considered a model of prosperity, blessed with oil wealth and a dynamic middle class. Since the rise of Hugo Chávez and Nicolás Maduro, that country has become one of the worst humanitarian disasters of the twenty-first century. More than seven million Venezuelans have fled their homeland. Inflation has reached four digits, the national currency has lost its value, and the healthcare system has collapsed. In this devastation, Machado emerged as one of the few politicians who dared to speak the truth, to identify those responsible, and to affirm that democracy is not a privilege of the North but a universal human right.

Ellner portrays María Corina Machado as the smiling face of a regime-change machine orchestrated by the United States, yet she offers no evidence beyond speculation shaped by an old anti-imperialist reflex. In fact, there is no independent proof that Machado ever called for military intervention or surrendered Venezuela’s sovereignty to Washington. Her statements over the past two decades have consistently urged international pressure, political negotiation, and free elections. These are peaceful methods of civic resistance recognized by international law. Within authoritarian systems, even the act of asking the world to pay attention to human rights is branded as betrayal, and Ellner repeats that accusation almost unconsciously.

Much of the controversy surrounding Machado rests on the claim that she was complicit in the 2002 coup. The public record, however, contains no evidence that she drafted or signed the Carmona Decree, which dissolved the National Assembly and suspended the Constitution. She admitted only to signing an attendance list during a civic meeting. Turning such a minor act of civil participation into proof of treason is a familiar strategy of propaganda that sustains the myth that every dissenting voice in Venezuela is a creation of the United States.

Anyone who follows Venezuelan politics knows that Machado represents not Washington but the millions of Venezuelans who have lost faith in a system that has stripped them of both dignity and livelihood. It was they, not the White House, who filled the streets demanding change. To categorize all civil resistance as an attack on sovereignty reflects an inverted colonial mindset that denies Latin Americans their own agency and assumes they can act only at the command of outsiders.

What Ellner calls a politics soaked in violence has, in truth, been a two-decade experiment in nonviolent resistance. Machado founded Súmate, Venezuela’s first independent election-monitoring organization, with a simple goal: to ensure that every vote would be counted. Through her work, electoral fraud during the Chávez era was exposed. She fought through argument, language, public debate, and parliament. She has never called for war. What she has demanded is the right to vote freely and to live without fear. In a country where a single protest can lead to imprisonment, that insistence itself is a form of courage.

The real violence lies not in the protests Ellner attributes to her but in the government’s response. Amnesty International and Human Rights Watch have documented thousands of arbitrary arrests, hundreds of cases of torture, and dozens of killings since 2014. Independent journalists have vanished, civil organizations have been dissolved, the internet is censored, and the courts are subjugated to the state. Those who call La Salida in 2014 a violent conspiracy forget that it began as an explicitly declared peaceful and democratic movement. Violence did occur, yet there has never been credible evidence that Machado ordered or encouraged it. In a country where protest itself is treated as a weapon, blaming the opposition for unrest is simply a way for the state to avoid responsibility for its own repression.

One of Ellner’s central arguments is that U.S. sanctions caused Venezuela’s humanitarian disaster and that Machado supported them. This confuses cause and effect. The crisis began long before sanctions were imposed, when oil prices collapsed and the Chávez-Maduro government clung to total nationalization, destroying private enterprise while nurturing systemic corruption. Billions of dollars disappeared through networks of patronage, and the central bank printed money without restraint, unleashing unprecedented hyperinflation. Sanctions did not create the catastrophe; they exposed an economy that had already been hollowed out. Machado never defended sanctions as punishment but saw them as leverage to force negotiation and restore electoral freedom. There is a difference between demanding accountability and endorsing suffering. No evidence suggests that Machado ever sought to strangle the poor. It is the dictatorship itself that has deprived them of the means to live.

Ellner also accuses her of collaborating with Washington as if diplomacy were a form of treason. In modern politics, international engagement is a normal and legitimate practice. Machado’s meetings with American and European officials were public and aimed at pressing for free elections and the release of political prisoners. She never called for foreign troops to enter Caracas; she asked the world not to turn away. Government propaganda deliberately conflates all international solidarity with invasion, as if sovereignty were the right to silence one’s citizens.

Equally baseless are the recycled accusations that she supported Donald Trump’s naval maneuvers in the Caribbean or promised to reopen Venezuela’s embassy in Jerusalem. There is no transcript, speech, or recording that confirms such claims. Linking her name to divisive global events is a familiar tactic of emotional manipulation designed to substitute suspicion for evidence. If she had ever made such statements, international media would have cited them. Their absence shows that the accusations belong to the realm of political fiction.

Ellner also misrepresents Machado’s economic vision. Her proposal to reform the oil sector and invite private investment was not an attempt to sell the nation. She understood that total state ownership had turned Venezuela’s greatest resource into a breeding ground for corruption and decay. To advocate transparency, shared ownership, and restructuring is not surrender but an effort to rescue a suffocating economy. The model of absolute resource sovereignty that Ellner defends is precisely what forces Venezuelans to queue for gasoline in a country that floats on oil.

While Ellner praises community initiatives under Maduro, she ignores the fact that most independent NGOs have been strangled. Activists have been arrested for receiving humanitarian aid. News outlets have been shut down. Social media are monitored through imported surveillance systems. The United Nations Fact-Finding Mission has repeatedly found evidence that crimes against humanity may be taking place. These findings are absent from Ellner’s text because they would collapse her narrative of a Venezuela besieged by the empire.

She further labels Machado as the architect of a Washington-backed interim government, though Machado never held a role in it. Supporting the idea of a transitional administration does not make her a puppet. It reflects a society’s desperate attempt to reclaim democratic governance after the collapse of its institutions. International recognition of such a government is not proof of foreign control but evidence of the magnitude of Venezuela’s constitutional crisis.

CODEPINK, the organization Ellner represents, was once respected for its moral opposition to war. In recent years, it has drifted toward a blind pacifism that condemns every act of resistance against tyranny as imperial manipulation. When opposition to intervention becomes automatic, it ceases to be ethical and turns hypocritical. It uses the language of peace to protect violence. Ellner’s article is an example of this new posture. It does not challenge power; it merely transfers allegiance from one form of domination to another. The anti-imperialism she defends is no longer a moral stance but a refusal to recognize that human rights are universal.

Machado is not a creation of Washington. She is the product of a long Latin American democratic tradition, the same that produced figures such as Michelle Bachelet in Chile and Violeta Chamorro in Nicaragua. She inherits the legacy of women who fought not only for equality but for the right to speak truthfully. In a political landscape dominated by the military and patriarchal power, her presence is a political act in itself. She belongs to no dynasty, enjoys no protection from the oligarchy, and commands no armed faction. Her only weapon is her voice, and her only conviction is that a nation can be restored only when its citizens are free to choose their future.

The Nobel Peace Prize awarded to Machado should not be understood as a personal distinction. It is a message from Oslo that peace cannot exist without democracy. Like Nelson Mandela, once branded a terrorist before becoming a symbol of reconciliation, or Liu Xiaobo, who received his prize from prison, Machado faces the same logic of power: those who demand freedom are accused of betrayal. Yet within such accusation lies the very essence of the award. The Peace Prize has never honored submission. It reminds the world that justice belongs not to the powerful but to those who dare to confront fear.

Peace, as Machado has often said, is not the absence of conflict but the presence of justice. A society that remains silent before oppression is not peaceful; it is subdued. In Venezuela, silence is being broken every day by women demanding real milk for their children, by workers insisting on real wages, and by journalists risking their lives to tell the truth. Machado embodies these voices. Her Nobel Prize restores to peace the meaning that propaganda had stolen.

The real danger lies not in what critics call the absurdity of the Nobel, but in the moral absurdity of those who choose to ignore human suffering because it challenges their ideology. In a time when populism and extremism rise from every direction, a Latin American woman speaking about democracy, justice, and human dignity should be defended, not derided.

Ellner was wrong to claim that honoring Machado insults peace. If the world continues to remain silent about Venezuela, then peace itself becomes the insult. In Machado’s voice, one hears a reminder that freedom knows no borders and democracy no nationality. Peace can exist only where people are allowed to speak of their own fate.

The violent reactions on social media in recent days, many from self-proclaimed defenders of human rights and national liberation, reveal another paradox of our time. Those who celebrate the resistance of Palestinians or Ukrainians often deny Venezuelans the same right to decide their political destiny. They invoke justice to justify prejudice and speak of peace while excluding those who do not fit their ideological frame. This is no longer conviction but dogma, a form of anti-imperialism that has turned into a theology where values are recognized only when they serve the faith of one’s own camp.

Within this moral confusion, calling María Corina Machado a puppet of Washington is an empty and lazy claim. It expresses an inverted colonial logic that assumes every democratic aspiration in the Global South must be explained by the North’s invisible hand. What pretends to resist hegemony ends by denying the South its own will. It reduces those who fight for life and freedom to background figures in a global theater that always centers the empire.

All extremisms resemble one another, whether they call themselves anti-imperialist or nationalist. When those who cry for Gaza fall silent before Caracas, when they condemn the violence of Israel but excuse the violence of an allied regime, moral coherence disappears. Peace that exists only for those we favor is not peace but the policing of conscience.

To award the Nobel Peace Prize to María Corina Machado is not an act against anyone. It is a reminder that peace cannot be owned by any faction. It does not negate the suffering of Palestine or Ukraine. It affirms that freedom and dignity are borderless. If the world truly wishes to speak of peace, it must begin by restoring to people like Machado the right to speak, to believe, and to represent their own voices. The extremism of those who exclude others in the name of justice is what most profoundly violates the very meaning of peace.

— tino

* Link to Michelle Ellner’s article:

https://countercurrents.org/.../when-maria-corina.../

* References: United Nations and OHCHR Reports on Venezuela

  1. UN Human Rights Council (2020)

https://www.ohchr.org/.../HRCouncil/FFMV/A_HRC_45_33_AUV.pdf

  1. UN Human Rights Council (2022)

https://undocs.org/a/hrc/51/43

https://www.ecoi.net/en/document/2079457.html

  1. UN Human Rights Council (2023)

https://www.ohchr.org/.../session54/a-hrc-54-57-en.pdf

  1. UN Human Rights Council (2024)

https://www.ohchr.org/.../advance.../a-hrc-57-57-en.pdf

https://www.ohchr.org/.../advance.../a-hrc-57-crp-5-en.pdf

  1. OHCHR (Press Release, 18 March 2025)

https://www.ohchr.org/.../venezuela-harsh-repression-and...

 

Tản ký con nhím

 Diêm Liên Khoa

Nguyễn Khắc Ngân Vi dịch

Nhà văn Diêm Liên Khoa mới viết một bài trên tờ The Paris Review (do Trình Dị [Jeremy Tiang] dịch sang tiếng Anh):

https://www.theparisreview.org/blog/2025/10/07/notes-from-a-hedgehog/  

Tôi đọc thấy hay nên xin dịch ra đây chia sẻ với những bạn yêu văn chương. Bài dịch này được dịch từ bản tiếng Trung:

https://mp.weixin.qq.com/s/cIsD9O-U6LdM8jBH9pQRqg

Nguyễn Khắc Ngân Vi

Khi một nhà văn bị cấm xuất bản tại chính đất nước mình, nhưng lại không thể sống ở nơi khác, anh ta sẽ rơi vào một tình thế đặc biệt – bị tranh cãi, bị la ó, bị công kích, được yêu mến, bị lãng quên rồi lại liên tục được nhớ đến. Anh ta giống như một con nhím, chẳng hiểu vì sao lại phải bò dọc theo con đường của loài người, bị đám đông vây quanh, bị chân đá, bị gậy gộc hất vào bụi cỏ. Nhưng sẽ luôn có người coi sinh linh ấy quan trọng như sự sống, nhẹ nhàng bọc nó trong áo và đem thả vào chốn rừng sâu không người. Thế nhưng, mỗi khi mặt trời chiếu sáng, con nhím ấy vẫn lại bò ra con đường nhỏ.

Bởi vì ánh mặt trời chiếu xuống con đường nhỏ trong rừng đó.

Bởi vì con nhím khao khát ánh sáng mặt trời.

Sự việc cứ thế, lặp đi lặp lại, xoay vòng bất tận. Có lẽ một ngày nào đó, con nhím sẽ chết trên con đường nhỏ đầy nắng.

Từ khi tôi bước sang tuổi sáu mươi, mỗi ngày tôi đều nghĩ về cái chết.

Mỗi tối, tôi uống thuốc ngủ, nghĩ về sự tất yếu của cái chết. Thuốc ngủ không chỉ để trị chứng mất ngủ, mà quan trọng hơn, nó giúp tôi tạm quên cái chết, để sáng hôm sau tôi vẫn có thể tỉnh dậy, nhìn ánh mặt trời chầm chậm vượt qua bậu cửa, ngồi bên cửa sổ sáng sủa, cầm bút viết – như một con nhím lại bò lên con đường đầy nắng. Cứ như thế, sau tuổi sáu mươi, vào một ngày nào đó, tôi sẽ chấp nhận sự tất yếu của cái chết, giống như tôi đã chấp nhận sự thật: việc tôi được sinh ra chưa chắc đã khiến thế giới nhiều thêm một người, và cái chết của tôi cũng chưa chắc khiến thế giới ít đi một người. Hiểu được điều này, tôi bình thản hơn khi đối diện với cái chết.

Cảm thức về cái chết không thể né tránh này lại trùng hợp với một việc khác trong đời tôi – tôi dành ba đến năm năm để viết một cuốn sách, không phải để nó được xuất bản bằng chữ giản thể, cũng không phải để phát hành ở Hồng Kông hay Đài Loan bằng chữ phồn thể, càng không phải để được dịch sang nhiều thứ tiếng và phát hành toàn thế giới. Tôi viết chỉ vì chính hành động viết mà thôi. Chính động cơ thuần khiết ấy cho tôi chút tự do, để tôi có thể viết tác phẩm này cho con trai mình, và để sau này, khi nó về già, có thể truyền lại cho thế hệ sau.

Sau khi tôi đã chết rất lâu, khi tôi đã hóa thành tro bụi, ngay cả quan tài, quần áo và xương cốt cũng tan biến, khi ánh mặt trời phủ khắp cánh rừng, chẳng còn ai cần phải bò như nhím để tìm ánh sáng nữa, thì có lẽ một hậu duệ nào đó của tôi sẽ lặng lẽ lấy ra bản thảo của tôi, công bố cho mọi người. Khi ấy, sẽ có chuyện gì xảy ra?

Tôi nghĩ, ít nhất khi ấy, con cháu tôi, hay một vài độc giả – có lẽ chỉ một người duy nhất – sẽ đọc cuốn tiểu thuyết này, khẽ thở dài và nói: “À, tổ tiên chúng ta từng suy nghĩ và viết như thế này.”

Chính vì giây phút xa xôi đó, chỉ vì một tiếng thở dài ấy, mà tôi dấn thân vào viết – chỉ để viết. Hơn hai năm qua, ngày nào tôi cũng cầm bút, cuối cùng hoàn thành một bản thảo hơn ba trăm nghìn chữ. Nhìn tập giấy dày cộp, tôi tự hỏi:

Rốt cuộc anh là người như thế nào?

Rốt cuộc anh là nhà văn ra sao?

Cuối cùng tôi hiểu, tôi là một kẻ kỳ dị không tìm được chỗ đứng trong hiện thực. Điều đó khiến tôi nghĩ tới sự kỳ lạ trong văn chương của mình – những phần khiến người đọc khó nuốt trôi. Tôi sống nhờ cuộc sống hiện thực, nhưng lại là kẻ kỳ dị luôn nỗ lực vì “sự kỳ lạ của ngôn từ”. Về điều này, tôi chẳng thấy vinh dự cũng chẳng thấy hổ thẹn. Giống như con nhím không vì xấu xí, không được ưa thích mà từ bỏ việc tìm kiếm ánh sáng mặt trời.

Khi tôi hoàn thành cuốn “tiểu thuyết vô mục đích” ấy, nghỉ ngơi một thời gian, tôi lại bắt đầu chỉnh sửa.

Cuốn tiểu thuyết này giống như một con nhím bò đi nhiều năm, trên đường tìm kiếm ánh sáng. Nó không chỉ đầy gai nhọn khiến người ta tránh xa, mà tận sâu trong linh hồn nó còn toát ra một mùi ẩm thấp, kỳ dị như trong rừng, khiến người ta khó chịu. Thế nhưng chính đặc tính ấy mới làm nên con nhím. Chẳng phải cũng có những tiểu thuyết, chính vì đầy gai góc, mùi vị kỳ quái, mà đạt đến tầm cao văn chương hay sao?

Tôi sống vì sự “kỳ dị” ấy.

Tôi viết vì cái “kỳ dị” và “mùi vị” ấy.

Để cho sự kỳ dị của “cuốn tiểu thuyết vô mục đích” này thêm thuần khiết, tôi lại dành hai năm để chỉnh sửa, cắt bỏ nhiều lần. Khi mệt mỏi, tôi buông bút, viết một hai truyện ngắn để thở. Những truyện ngắn đó, về nhân vật, cốt truyện hay phong cách, đều không liên quan đến cuốn tiểu thuyết, nhưng trong tư tưởng và tinh thần, chúng vẫn kỳ dị, vẫn mang mùi vị lạ lùng. Tôi không dám rời xa cái kỳ dị ấy.

Tôi dự định trong khoảng trống sáng tác tiểu thuyết sẽ viết hơn mười truyện ngắn như thế. Chúng cũng như tiểu thuyết, đều viết vì “kỳ dị”. Chúng không phải sự nối dài hay phụ lục, mà là những phản chiếu song song, tồn tại độc lập, chỉ để trong tay độc giả có thêm “những cảnh tượng và mùi vị lạ lùng”. Khi con nhím ấy cuối cùng tìm được ánh sáng, nó cũng sẽ đem hơi ấm và tình ý đáp lại thế giới.

Cỏ cây, đá sỏi, bụi đất và bầu trời chỉ là truyện ngắn đầu tiên trong loạt này. Về ngôn ngữ và lối kể, về nhân vật và cảm xúc, về miêu tả sinh trưởng và suy tàn của đời sống, có lẽ nó không phải câu chuyện ai cũng yêu thích. Trên vùng đất một tỷ bốn trăm triệu dân mà tôi đang sống, đã có người coi thường nó vì sự kỳ dị, giống như họ ghét mùi của nhím.

Thế giới cần sự xuất hiện đôi khi của những “văn bản kỳ dị, khó chịu”, cho dù độc giả không ưa thích. Nếu không, nhà văn sẽ không còn. Chính cái kỳ dị ấy khiến văn chương tiếp tục tồn tại và nở rộ.

------

Tiểu thuyết dài Câu chuyện Trung Quốc (China Story, tức Trung Nguyên) của Diêm Liên Khoa sẽ được Grove Atlantic xuất bản vào năm 2026, dịch giả vẫn là Trình Dị (Jeremy Tiang). Bài viết này cũng do ông dịch. Trình Dị là tiểu thuyết gia, nhà viết kịch, đồng thời là dịch giả tiếng Anh của hơn ba mươi tác phẩm văn học Trung Quốc.

Giữa hoang mạc tinh thần tìm lại tâm kinh

 Trần Kiêm Đoàn

Mùa Nobel đang nở rộ với các giải thưởng danh giá nhất trong nhiều lĩnh vực chuyên môn như Vật Lý, Hóa Học, Y Khoa, Văn Chương, Hòa Bình đang lần lượt được công bố. Sự thú vị tuyệt vời trong mùa phát giải Nobel là hầu hết người trúng giải đều thật sự xứng đáng là những nhân vật tinh hoa thời đại. Giải Nobel Văn Chương năm nay đang xoáy vào đề tài “hoang mạc tinh thần” hay “sa mạc vô tâm”... nói đến thân phận con người giữa vòng xoáy của sự cô độc trong cơn tuyệt vọng gần như tận thế của tâm hồn. Trước nỗi tuyệt vọng đầy cuồng nộ của phương Tây và nhẹ nhàng hơn ở phương Đông mình thử làm người cưỡi ngựa xem hoa, đi tìm vài giọt sương Thu trong cơn khát cháy...

Cây tuyết tùng cô đơn (László Krasznahorkai 60 tuổi)

 Tibor Keresztury, hlo.hu, 5/1/2014

Ngân Xuyên dịch

Sự nghiệp của ông là một sự khiêu khích liên tục, vô cùng nhẹ nhàng nhưng bền bỉ, không ngừng nghỉ. Sự hiện diện của ông không hề hòa hợp với cảnh quan chung và chưa bao giờ hòa hợp, nhưng ông vẫn từ chối nhượng bộ, không muốn làm mọi thứ dễ dàng hơn, hay buông thả một chút để bản thân trở nên gần gũi và quen thuộc. Một nghệ sĩ độc tấu hơn là một nhạc công dàn nhạc; những câu văn cuồn cuộn của ông gửi gắm những thông điệp về cấu trúc tinh tế của một thế giới đang chìm vào bóng tối, về những luật lệ không còn hiệu lực, về những mất mát của chúng ta và cảm giác thiếu thốn đến phát điên  trong một môi trường thiếu vắng tinh thần, ý hướng hay ngôn ngữ để đối mặt với mất mát đó. Ông hoàn toàn lạc lõng, hiện diện chỉ vì khiếm diện, bởi ông không phù hợp với khuôn khổ hợp thức hóa sự hiện diện. Không chỉ đơn giản là nghệ thuật của ông chia rẽ giới chuyên môn văn học: bất chấp quy mô tiếp nhận đặc biệt, lên tới hàng chục tập, ông chưa bao giờ trở thành một phần trọn vẹn và hữu cơ trong cấu trúc của văn học Hungary đương đại. Những người ủng hộ và hâm mộ ông đã nâng ông lên vị thế một tượng thờ; những người chỉ trích ông coi ông là người quá căng thẳng, mang tính tiên tri và độc thoại. Những người dám hiểu những gì ông nói thì coi ông là người không thể chịu đựng được, chính vì điều đó; những người không hiểu, hoặc không thích hiểu ông để mình được yên phận, chính vì điều đó.

Giải thưởng mỹ thuật đương đại: Tín hiệu chuyển mình và cơ chế đánh giá mới cho nghệ thuật Việt Nam

 Mai Đỗ

Trong bối cảnh mỹ thuật Việt Nam đang đối diện với những đòi hỏi mới về chuyên nghiệp hóa và hội nhập quốc tế, các giải thưởng nghệ thuật độc lập như Victor Tardieu, UOB Painting of the Year, hay Lê Bá Đảng đã và đang mang lại những tín hiệu tích cực, mở ra một diễn đàn đánh giá nghệ thuật đa chiều và linh hoạt hơn so với hệ thống truyền thống.

Chủ Nhật, 12 tháng 10, 2025

László Krasznahorkai – Đường đến Nobel văn chương 2025

 Ngân Xuyên  (theo các báo Nga)


LÁSZLÓ KRASZNAHORKAI, ĐƯỜNG ĐẾN NOBEL VĂN CHƯƠNG 2025

Năm nay, Ủy ban Nobel đã quyết định trao giải thưởng cho nhà văn Hungary László Krasznahorkai (sinh 1954), như đã nêu trong thông cáo báo chí, “vì giữa sự kinh hoàng tận thế, văn chương đầy sức thuyết phục và có tầm nhìn xa của ông đã tái khẳng định sức mạnh của nghệ thuật”.

120 năm Jean-Paul Sartre (1905-2025) – Từ biện minh cho sự hiện hữu đến biện hộ cho trí thức: một khao khát làm người

 Bùi Văn Nam Sơn

 

Tưởng nhớ Phan Huy Đường

 

Một Voltaire của thế kỷ XX

 

Xin hãy hình dung một người Pháp vừa ra đi, cả Paris tang tóc. Hơn năm mươi nghìn người, trong thời buổi bận rộn, tề chỉnh một màu đen, lưu luyến tiễn ông đến nơi an nghỉ cuối cùng. Hơn cả một đám tang, người dân Paris – và đâu chỉ Paris! – đưa tiễn và lưu luyến tuổi trẻ “thao thức” của chính mình và của cả một thế hệ. Niềm thao thức vẫn khôn nguôi, mỗi khi nhớ lại đám tang ấy, con người ấy.

Phản kháng: Từ tranh, thơ, tượng, tới giấy trắng

Nguyên Giác Phan Tấn Hải

Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường.

Thư gởi con trai – Những bức thư không khép lại

Bảo Chân

 image

Trong dòng chảy văn học Việt Nam đương đại, Nguyễn Đức Tùng là một giọng viết riêng biệt. Ông vừa là bác sĩ, vừa là nhà thơ, nhà văn – một thân phận kép khiến ngòi bút luôn khởi đầu từ trải nghiệm cá nhân rồi mở rộng ra những câu hỏi lớn của đời sống. Ký ức, thân phận con người và suy tư triết học trở thành mạch cảm xúc thường trực, chảy xuyên suốt qua nhiều tác phẩm ông sáng tác, trong văn phong giản dị mà lắng sâu. Thư gi con trai, tập bút ký và truyện ngắn do NXB Phụ nữ ấn hành, là minh chứng cho phong cách ấy.

Nguyễn Lâm – Người giữ ngọn lửa trừu tượng miền Nam

 Lê Minh

Trong không gian thanh tịnh của Huyen Art House, số 8 Đặng Tất, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh, triển lãm “Tưởng niệm 100 ngày mất họa sĩ Nguyễn Lâm (1941–2025)” do ArtBlue Gallery (Singapore) phối hợp cùng gia đình cố họa sĩ tổ chức, đã mở ra một thế giới hội họa đầy xúc cảm.

Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2025

María Corina Machado – Người đàn bà không chịu câm lặng

Tino Cao

* 𝘚𝘦𝘦 𝘍𝘳𝘦𝘯𝘤𝘩 𝘢𝘯𝘥 𝘌𝘯𝘨𝘭𝘪𝘴𝘩 𝘷𝘦𝘳𝘴𝘪𝘰𝘯𝘴 𝘣𝘦𝘭𝘰𝘸

Tôi thức suốt đêm qua để hóng tin Nobel Hòa bình 2025. Có lẽ đã từ lâu rồi, thế giới chưa nhìn thấy một gương mặt nào được trao giải Nobel Hòa bình vừa gợi xúc động vừa gây tranh luận như María Corina Machado, người phụ nữ Venezuela nhỏ nhắn nhưng kiên định, được xướng danh sáng nay tại Oslo. Bà không phải là nhà hoạt động nhân quyền theo nghĩa thông thường, không thuộc giới học giả, viện sĩ, không phải là lãnh đạo tôn giáo, lãnh tụ chính trị hay biểu tượng toàn cầu kiểu Malala Yousafzai hay Nelson Mandela. Bà là một người từng bị chính quyền cấm ra tranh cử, bị đe dọa, truy đuổi, buộc phải sống ẩn mình, nhưng vẫn quyết không rời khỏi đất nước. Khi Chủ tịch Ủy ban Nobel đọc tên bà, tôi thấy trên truyền hình nhiều người Venezuela bật khóc. Không chỉ vì niềm hãnh diện mà còn vì sau nhiều năm, dân Venezuela nhận ra thế giới cuối cùng cũng đã thật sự nhìn thấy nỗi đau của họ.

László Krasznahorkai: Nhà văn thắng giải Nobel nhấn mạnh tính thực tế của hiện tại

 The Yale Review ngày 9.10.2025, bản gốc 24.2.2025

 

Bài phỏng vấn này do nhà văn Hari Kunzru thực hiện, đăng trên The Yale Review ngày 24/2/2025. Hari Kunzru sinh năm 1969, là nhà văn, nhà báo người Anh, đã xuất bản 7 tiểu thuyết: The Impressionist (Người muôn mặt), Transmission (Truyền dẫn), My Revolutions (Những cuộc cách mạng của tôi), Gods Without Men (Thần thánh không người), White Tears (Nước mắt trắng), Red Pill (Viên thuốc đỏ), Blue Ruin (Tàn tro xanh). Tác phẩm của Hari Kunzru được dịch ra 20 ngôn ngữ.

“Bậc thầy của khải huyền Hungary”

 Đặng Thân

Đó là tên gọi mà bậc kỳ kiệt Susan Sontag đặt cho chàng: “The Hungarian master of apocalypse” (“bậc thầy về thảm họa/ hậu tận thế của Hungary”). Giờ khắc tên chàng được xướng lên ở Stockholm không ai biết chàng đang ở đâu? Trieste (Ý), Berlin (Đức) hay Szentlászló (Hung)? Chỉ biết rằng chàng đang hội tụ đầy đủ những tiêu chí hạng nhất trên đời của một người đàn ông: “Tam Ánh” (tóc ánh bạc, ví ánh kim, chim ánh thép). Phụ nữ nào muốn chung hưởng vinh quang thì tìm chàng đi. Bởi tuy chàng có hai vợ nhưng đã bỏ luôn cả rồi. Có thế mới không bị quấy rầy khi ngồi viết những thứ nhảm nhí, nhả nhím, bí hiểm, biếm hỉ trong nhân luân hay thiên đạo. Ai vừa nói chàng già quá đấy? Dù chàng sinh năm Thìn đẹp rất (1952) nhưng bè lũ Nobel là không có tuổi. Bởi Nobel vật lý 1957 Dương Chấn Ninh khi 82 rồi vẫn có em Vong Phi 28 tuổi đòi lấy; chênh 54 niên chớ mấy. Hiện (2025) họ vẫn sống cùng nhau, và Dương Chấn Ninh đã 103 tuổi (sinh năm 1922).

Thế giới thể loại không yên ổn trong thơ Huy Bảo

 Đinh Thanh Huyền

Đầu tháng Chín năm 2025, tôi viết một bài phê bình về cuốn tiểu thuyết Đơn giản nhất là biến mất của Huy Bảo. Trong bài viết, tôi bày tỏ không chỉ lòng ngưỡng mộ đối với sự táo bạo, năng lực kiểm soát văn bản của tác giả mà còn hi vọng vào một thế hệ mới của văn chương Việt. Giữa tháng Chín, tôi lại có trong tay tập thơ mới của Huy Bảo với tiêu đề Mùa hè không dấu chân. Khi đọc tập thơ này, tôi cứ có cảm giác như có một sự sắp đặt bí ẩn để mình đọc tiểu thuyết của Huy Bảo trước, tập thơ sau. Một tập thơ và một tiểu thuyết, thật kì lạ, đã mở ra trong tôi những suy ngẫm về thể loại mà trước đó, chỉ loáng thoáng xuất hiện trong trí nghĩ.

Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 315): Nghiêm Xuân Hồng hiện đại hóa huyền sử

Nguyễn Vy Khanh

Ông sinh năm 1920 tại Hà Đông; luật sư, nhà tư tưởng, và chính trị ở miền Nam trước năm 1975. Thời hải ngoại, là cư sĩ Tịnh-Liên, ông đặc-biệt sáng tác bộ trường thiên tiểu-thuyết Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc gồm 4 cuốn (San Jose, CA: Ức Trai, 1988-1992; Xuân Thu tb), và các sách kinh, luận nhà Phật: Lăng Kính Đại Thừa (1982; Văn Khoa, 1989); Lăng Nghiêm Ảnh Hiện: tiểu luận về kinh Thủ Lăng Nghiêm Vương (1983; 1991); Ma Chướng Trên Đường Tu (2 tập, Xuân Thu, 1998); Tánh Không và Kinh Kim Cang (1983); Nguồn Thiền Như Huyễn (1984); Mật Tông và Kinh Đại Thừa (1986); và Ma Tâm và Ma Sự của Người Tu (2001).

Thứ Sáu, 10 tháng 10, 2025

László Krasznahorkai – Ánh sáng trong bóng tối

 Tino Cao

* See French and English versions below.

László Krasznahorkai

Như đã dự cảm trong một status tôi viết cách đây hai tuần, linh cảm ấy hôm nay trở thành hiện thực. Ngày 9 tháng 10 năm 2025, Viện Hàn lâm Thụy Điển đã chính thức công bố Giải Nobel Văn chương năm nay thuộc về nhà văn Hungary László Krasznahorkai. Trong thông cáo chính thức, Viện viết: “for his compelling and visionary oeuvre that, in the midst of apocalyptic terror, reaffirms the power of art”. Nghĩa là: “vì một sự nghiệp sáng tác đầy sức thuyết phục và tầm nhìn tiên tri, trong đó, giữa nỗi kinh hoàng của tận thế, ông vẫn khẳng định quyền năng của nghệ thuật”. Tuyên bố ấy là một tóm lược súc tích cho toàn bộ hành trình sáng tạo của Krasznahorkai: một nhà văn của bóng tối nhưng vẫn trung thành với ánh sáng; một người viết giữa hoang tàn nhưng vẫn gìn giữ phẩm giá của ngôn từ như hình thức tồn tại cuối cùng. Trong khoảnh khắc ấy, thế giới văn học không chỉ chứng kiến sự vinh danh một cá nhân mà còn chứng kiến lời xác tín rằng giữa hỗn loạn và lãng quên, vẫn còn những người tin vào sức cứu rỗi của chữ nghĩa.

Ô nhiễm asen trên sông Kok - sông Sai: Báo động sớm cho dòng Mê Công

 Tô Văn Trường

Tháng 3 năm 2025, dư luận khu vực sông Mê Công chấn động khi kết quả quan trắc môi trường ở miền Bắc Thái Lan cho thấy nồng độ Asen (thạch tín) trong nước sông Kok và sông Sai – hai phụ lưu xuyên biên giới chảy từ Myanmar qua Thái Lan rồi nhập vào dòng chính sông Mê Công đã vượt ngưỡng an toàn. Một phát hiện tưởng chừng chỉ mang tính kỹ thuật đã lập tức gióng lên hồi chuông cảnh báo đối với toàn bộ hệ thống sông Mê Công – huyết mạch cung cấp sinh kế cho hơn 70 triệu người dân hạ lưu.

Jacques Prévert hay là sự đăng quang của thi ca duy vật

 Maurice Nadeau, Jacques Prévert ou l’avènement de la poésie matérialiste, in trong cuốn Serviteur!, NXB Albin Michel, 2002.

Dương Thắng chuyển ngữ

 Ảnh chân dung Jacques Prévert

Điều gây ấn tượng mạnh nhất ở Prévert là sức mạnh toàn năng của các sự kiện, sự việc, các mẩu tin vặt vãnh, các giai thoại. Những bài thơ của ông lấy cảm hứng từ những gì đích thân ông nhìn thấy, chạm vào, lắng nghe và thông thường nhất chỉ là những mô tả, không phải là những mô tả trạng thái tâm hồn hay suy tưởng mà là những hiện tượng của thực tại được các giác quan của ông nắm bắt và thực sự đang tồn tại sống động xung quanh ông.

Ba tuyệt tác của Heinrich Heine trong tập thơ “Nước Đức. Cổ tích mùa đông”

 Hoàng Lan giới thiệu

Hôm nay, chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu những bài thơ xuất sắc nhất của những tác giả tài danh trong lâu đài thi ca Đức, được thể hiện trong tập thơ dịch “Nước Đức – Cổ tích mùa đông” của TS Phan Kim Hổ. Sau Goethe, chúng ta có thể nghĩ ngay đến Heinrich Heine, mà tên tuổi không còn bị gò bó trong ranh giới nước Đức, mà đã trở thành ngọn hải đăng của văn học thế giới. Ngày hôm nay, cùng với Goethe, ông là tác giả Đức danh giá bậc nhất, mà tên tuổi còn được lưu truyền trong nhiều quốc gia. Một số lượng không nhỏ các bài thơ của Heinrich Heine đã được phổ nhạc bởi những nhạc sĩ tài danh như Robert Schumann, Franz Schubert, Richard Wagner. Những bài hát đó vẫn chạm đến cảm xúc người nghe và lay động chúng ta cho đến tận bây giờ. Heinrich Heine được xem là một trong những đại diện cuối cùng và đồng thời là người vượt qua Chủ nghĩa Lãng mạn, để bước vào giai đoạn mới, làm người tiên phong của Thi ca hiện đại. Ông đã đưa ngôn ngữ đời thường vào thơ ca, nâng thể loại văn học bình dân và bút ký du lịch lên thành một hình thức nghệ thuật, và mang đến cho văn học Đức một vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng chưa từng có trước đó. Cựu Tổng thống Đức Roman Herzog từng phát biểu: “Dù Heinrich Heine, như mọi nghệ sĩ, có những người tiền nhiệm và kế thừa, dù ông là đứa con của thời đại mình, ông vẫn là một hiện tượng độc nhất”.

Tự tin tròn đầy: Trần Việt Long và Trần Quốc Giang

 Nguyễn Thanh Bình

Mặc dù không được xem trực tiếp, không có đủ thông tin về tác phẩm, nhưng khi thấy, không thể không thốt lên: Giỏi quá!

Hiệu quả thị giác của cả hai tác phẩm là "tròn vành rõ chữ", khi biến hoá tiết tấu không gian trên tác phẩm theo hai cách khác nhau, nhưng đều rất ấn tượng.

Nơi ánh sáng hội tụ (2)

 Tiểu thuyết của Huy Bảo

II. A và B

Tất cả người chết đều bình đẳng. Còn những người sống. Họ sống trong cùng một căn phòng. Người ta gọi nó là thế giới này. Một căn phòng với rất nhiều cánh cửa. Chúng ta có thể tiếp tục. Hoặc quay trở lại. Bằng cách đẩy một trong số các cánh cửa ấy.