Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2025

Chủ nghĩa dân tộc tai họa - sự sụp đổ của nền văn minh tự do (kỳ 2)

 

Tác giả: Richard Seymur

Việt dịch: Nguyễn Quang A

 Nhà xuất bản Dân Khí-2025

 

L’état d’urgence pour faire oublier les tas d’urgences. (Tình trạng khẩn cấp khiến người ta quên đi hàng đống khẩn cấp.)

–Graffiti Pháp phổ biến trong các cuộc biểu tình Nuit debout trong 201634

Chủ nghĩa dân tộc tai họa phát triển mạnh dựa vào, và thao túng, sự bất hạnh sâu sắc được tích tụ trong thời đại chủ nghĩa tự do lên đỉnh điểm. Nó đã cực đoan hóa chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc, chủ nghĩa độc đoán, tính ác dâm và sự hoang tưởng ở khắp nơi rồi. Và mặc dù nó chống lại các tai họa ảo giác, nó làm vậy trong một thế giới trong đó các tai họa thật – suy thoái, cháy rừng, lũ lụt, sóng thần, đại dịch – đang trở nên phổ biến hơn và chí tử hơn. Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới, tỷ lệ các tai họa ‘tự nhiên’ trong năm 2019 đã là ba lần tỷ lệ trong năm 1989.35 Đại dịch Covid-19 gần đây nhất, đã nhấn thế giới vào một suy thoái sâu hơn Đại Suy thoái 2008, mặc dù sự phục hồi đã nhanh hơn nhờ những sự can thiệp nhà nước sâu rộng.36 Và bởi vì các nhà dân tộc chủ nghĩa ngày nay không thể giải quyết những cuộc khủng hoảng tăng lên nhiều lần của nền văn minh tư bản chủ nghĩa cũng chẳng làm bất cứ thứ gì trừ đổ thêm dầu lo âu vào lửa của các cuộc thập tự chinh ám ảnh sợ hãi chủa họ, họ chỉ có thể leo thang.

Chủ nghĩa dân tộc tai họa, tôi đã lập luận, chưa phải là chủ nghĩa phát xít. Thế nhưng không có thời gian nào tốt hơn để trở thành phát xít kể từ 1945. Chủ nghĩa dân tộc mới cung cấp môi trường lý tưởng trong đó các lực lượng phát xít chớm nở có thể phát triển mạnh. Giữa đám đông ủng hộ Trump đột chiếm tòa nhà Capitol đã có những gã đàn ông với những hình xăm Nazi và áo phông tán dương Auschwitz. Giữa các ứng viên quốc hội Cộng hòa trong năm 2018 đã là những kẻ thượng đẳng da trắng và Nazi rành rành. Tại Brazil, chiến thắng của Bolsonaro đã làm sống lại Thuyết Toàn Diện (Integralism), trào lưu phát xít nổi lên đầu tiên trong các năm 1930. Tại Ấn Độ, phong trào dân tộc chủ nghĩa Hindu bị vây quanh bởi tổ chức bán quân sự quần chúng thực sự phát xít, Rashtriya Swayamsevak Sangh (RSS). Tại Israel, phong trào phát xít Kahanist có đại diện trong các bộ.

Về mặt lịch sử, chủ nghĩa phát xít đã phát triển mạnh, không phải dựa vào tính độc đáo của các giáo lý của nó – nó đã vay mượn hầu như mọi thứ từ các truyền thống chính trị khác – mà dựa vào sự chiếm đoạt bất cứ thứ gì đã được lòng dân rồi cho những mục đích của riêng nó. Tương tự, các xu hướng dân tộc chủ nghĩa tai họa của ngày hôm nay đang di căn các xu hướng tư tưởng thịnh hành rồi. Những nỗi ám ảnh bài Islam của Trump, Modi và hầu hết các đảng cực-hữu Âu châu được giám tuyển và chuẩn bị trước tiên bởi các trí thức cả tự do lẫn tân-bảo thủ như phần của sự biện minh của họ cho ‘chiến tranh chống khủng bố’ (ở Mỹ), hay trong sự bảo vệ ‘nền cộng hòa’ ở Pháp hoặc như phần của chủ nghĩa cộng đồng mềm (soft communalism) của Đảng Quốc Đại trung-tả ở Ấn Độ. Chủ nghĩa phát xít là một bệnh lý nảy sinh bên trong dòng chính dân chủ.

Chủ nghĩa dân tộc tai họa, mặc dù vẫn chưa đại diện một sự đoạn tuyệt hoàn toàn với chủ nghĩa tự do, là chống-tự do về mặt văn hóa và chính trị theo một cách mà chủ nghĩa bảo thủ dòng chính đã không dám là trong hàng thập kỷ. Nó là giả-dân chủ, bởi vì nó thường thích tham khảo trưng cầu dân ý hơn sự mặc cả nghị viện và sự viện dẫn đến các quyền của ‘các đa số’ chống lại thủ tục nghị viện và luật pháp. ‘Đa số’ được nói đến đó thường là một thiểu số, được lý tưởng hóa như quốc gia ‘thật’. Trong sự chiều theo ý của các chính trị gia nổi tiếng, các doanh nhân và kẻ bịp bợm online, các nhà tuyên truyền tài năng và những người đàn ông tự tin với một sự đánh hơi những sự dễ bị tổn thương trong các hệ thống dân chủ đầy dẫy khủng hoảng, sống nhờ vào sự sôi nổi và ý chí luận chiến thuật, nó giống một phiên bản hiện đại, được nối mạng của ‘nguyên tắc lãnh đạo’ phát xít. Sự chống-chủ nghĩa cộng sản hung hăng của nó, ngay cả ở nơi không hề có đối lập cộng sản có thể thấy rõ nào, là ảo giác như sự phản đối phát xít thế kỷ thứ hai mươi chống lại ‘chủ nghĩa Bolshevik-Do thái’. Nó bình thường hóa bạo lực phổ biến chống lại các thiểu số hay những người nghèo, bổ sung cho nó bằng các hình thức mới của bạo lực nhà nước, theo một cách giống biện chứng của sự cực đoan hóa giữa các nhà lãnh đạo phát xít và cơ sở của họ. Và nó giống chủ nghĩa phát xít vì nó là một ‘sự bịp bợm của sự hoàn thành’, như Ernst Bloch diễn đạt, những sự hoang tưởng của nó di chuyển theo đường xuắn ốc tới những kịch bản tận thế tàn bạo.37

Và tuy nhiên, như Theodor Adorno chỉ ra trong nghiên cứu của ông về Oswald Spengler triết gia sử Đức bi quan phản động, chúng ta sẽ thật ngu ngốc để bỏ qua những sự hoang tưởng diệt vong cực hữu. Chúng thường được thích ứng với thực tế mà sự lạc quan khai phóng (tự do) không thích thừa nhận. Sự tận thế không chỉ là hoang tưởng. Chúng ta đang sống trong nó, rốt cuộc, từ các virus chí tử đến sự xói mòn đất, từ khủng hoảng kinh tế đến sự hỗn loạn địa chính trị. Một nhiệm vụ của cuốn sách này là để hỏi chúng ta quay lưng lại với những thực tế nào mà chủ nghĩa dân tộc tai họa đề cập đến một cách cạnh khóe? Mong muốn mạt thế chủ nghĩa cũng chẳng đặc thù cho cánh hữu. Như nhà thần học Catherine Keller diễn đạt, ‘Tất cả các phong trào bình quân hay cách mạng Tây phương, những cuộc đấu tranh cho dân chủ, chủ nghĩa xã hội, các quyền của phụ nữ, sự giải phóng nô lệ, ngay cả ‘giấc mơ’ của Martin Luther King, đều khai thác các ẩn dụ tận thế của nỗi khổ cực và sự biến đổi vĩ đại.” Một trong những sách bán chạy nhất trong lịch sử, Tuyên ngôn Cộng sản, là một văn bản tận thế sâu sắc.38 Thách thức không đơn giản là để nhiếc móc các trạng thái tận thế mà để hỏi: Ngày tận thế nào?

Cái gì là một sự hoang tưởng là niềm tin rằng ngày tận thế, ipso facto (tự nó), là lý thú. Có một cảm giác đáng nghờ trong đó chúng ta có thể được chiêu mộ để khoái trá sự hủy diệt của chúng ta, như khi chúng ta dành quá nhiều thời gian lướt media xã hội, tiêu thụ các video về cháy rừng, lũ lụt và chiến tranh trong một trạng thái hoài nghi chướng tai gai mắt nhưng kích thích, chỉ để thích nghi bản thân chúng ta với ngưỡng mới nhất của sự đổ nát. Như Maurice Blanchot diễn đạt một cách nổi tiếng, ‘ngày tận thế thật đáng thất vọng’ bởi vì trong sự chói lòa của nó chẳng gì thực sự thay đổi cả.39 Dưới áp lực của sự đổ vỡ sinh thái, hành tinh chỉ chầm chậm trở nên bệnh hoạn hơn, hư hại hơn, chết chóc hơn. Các chi phí sản xuất và giá cả tăng lên, nhiều phần bề mặt của thế giới trở nên không thể ở được, những người tị nạn khí hậu thấy mình bị giam trong một mạng lưới ngày càng tăng của các trại tập trung và các nhà tù. Cuộc sống trở nên khắc nghiệt hơn và tồi tàn hơn.

Không có lý do nào để giả thiết rằng, trong những hoàn cảnh thiếu hụt, căng thẳng và đấu tranh này, các hệ thống dân chủ bị yếu đi của chúng ta sẽ tự ổn định bản thân chúng. Chúng ta cũng chẳng thể coi là nghiễm nhiên rằng hầu hết mọi người được tiêm chủng vĩnh viễn chống lại chủ nghĩa phát xít. Cái cần được giải thích là sự quyến rũ bền của chủ nghĩa phát xít như một ý tưởng, và sự thực rằng sự tán tỉnh công khai với thành ngữ và hình ảnh phát xít không phải là một khuyết điểm cho cánh hữu dân tộc chủ nghĩa mới mà là một lợi thế bán hàng độc đáo của nó. Cái cũng đòi hỏi sự giải thích là khả năng thích nghi của chủ nghĩa phát xít mới sơ sinh với mọi tình huống: Vì sao nhiều nỗi bất bình, tình dục, kinh tế và văn hóa, đến vậy lại thích hợp với lời giải của chủ nghĩa dân tộc hung hăng? Và vì sao chúng ta nên dừng nó lại ở nơi nó đang là?

 ‘Bệnh dịch nâu’ đã từng là một sự lây vô cùng thành công, với tầm toàn cầu và với sự bùng phát phun trào khắp nơi, từ Lam Y Xã (hội mặc Áo Xanh lam) Trung quốc đến Integralismo Brazil. Các nhà lãnh đạo của nó được hàng triệu người, mà trước đó đã chẳng bao giờ bỏ phiếu cho các đảng bảo thủ, chào mừng như các vị cứu tinh. Danh tiếng toàn thế giới của họ thật to lớn. Hết chế độ này đến chế độ khác rơi vào bệnh dich nâu, và nó đòi hỏi sự huy động vô số người và cái chết của hàng chục triệu người để phá vỡ sự kìm kẹp phổ biến của nó. (Ngay cả sau chiến tranh, các cuộc khảo sát về những người đã sống dưới chế độ Nazi cho thấy một nửa có ký ức tích cực về nó.) Chúng ta sẽ chẳng đi đến đâu trong việc kiềm chế mối đe dọa này nếu chúng ta xuất phát từ giả thiết rằng nó gồm một số nhỏ những kẻ gây rối, một ‘vài phần tử tệ hại (basket of deplorables)’ để dùng cụm từ đáng tiếc của Hillary Clinton, mà chống lại họ chúng ta có thể xác định bản ngã nhân đức của chúng ta. Có một sự cám dỗ phát xít cho tất cả mọi người: tất cả chúng ta đề có giày ống của chúng ta.

 

1.  Giai cấp: Không phải Kinh tế, Ngốc ạ

Chủ nghĩa đế quốc … [là] một điều tuyệt vời khi nó hoạt động đúng. Trong nước chúng ta … nó đã không hoạt động đúng.

– Donald Trump, August 20151

I.

Không phải là kinh tế – nó là yêu thuật. Trong thời hiện đại, có vẻ tự nhiên để tìm các động cơ tiền tài trong hành vi của mọi người. Hẳn phải có cái gì trong đó cho chúng. Tốt hơn phải có. Quy luật ngầm định của chính trị tân-tự do là nếu có một thứ tồi hơn việc hoạt động từ tư lợi hẹp hòi, thì nó không phải là hành động từ sự tư lợi hẹp hòi.

Khi chủ nghĩa dân tộc tai họa phun trào ở Hoa Kỳ, Ấn Độ, Philippines, Brazil, Ba Lan, Hungary, Italy, Pháp, Chile, Colombia và, mới đây nhất, Argentina, các chuyên gia đã tìm kiếm động cơ kinh tế ẩn giấu. Có thể các cử tri mới của cực hữu, giai cấp lao động da trắng hay tầng lớp trung lưu bị ép đã bị bỏ lại phía sau? Có thể hành vi bầu cử của họ là một tiếng thét giận dữ khởi đầu chống lại một hệ thống đã làm họ thất vọng? Thật đáng thất vọng, những cử tri đó ngoan cố phủ nhận là những người đặc biệt nghèo hay bị tước quyền bầu cử. Quan trọng hơn, họ cho thấy ít sự quan tâm đến phúc lợi kinh tế cá nhân của họ.

Chẳng hạn, trong mùa hè 2016, những người tự do Anh đã bị bối rối và chấn thương bởi cảnh tượng hàng triệu người dân bướng bỉnh bỏ phiếu chống lại các lợi ích của chính họ. Nhiều chính trị gia, chuyên gia và định chế tài chính đã cảnh báo rằng việc rời EU sẽ tàn phá nền kinh tế; một đa số ít ỏi của các cử tri đã quyết định làm vậy dù sao đi nữa. Năm tiếp theo, các nhà thăm dò đã hỏi các cử tri “Rời đi” họ đã sẵn sàng hy sinh bao nhiêu để thấy ‘Brexit’ đạt được. Sáu mươi mốt phần trăm nói họ sẽ sẵn sàng để thấy ‘thiệt hại đáng kể’ cho nền kinh tế, trong khi 39 phần trăm nói họ sẽ sẵn sàng thấy bản thân họ hay một thành viên gia đình của họ mất việc làm.2 Điều này làm những người tự do bối rối: Vì sao nhiều người đến vậy bỏ phiếu chống lại các lợi ích của chính họ? Vì sao họ lại chọn làm cho bản thân họ nghèo hơn?

Đây là câu hỏi sai. Mọi người hiếm khi bỏ phiếu cho các lợi ích của họ, được hiểu như mối quan tâm trực tiếp cho ví tiền của họ. Một mặt, là hiển nhiên rằng sự lên gần đây của chủ nghĩa dân tộc cánh-hữu có liên quan gì đó với nền kinh tế, và một cách cụ thể với sự đổ vỡ tài chính toàn cầu 2008. Hồ sơ bầu cử ở châu Âu giữa 1870 và 2014 gợi ý rằng nói chung các cử đi phản ứng với các khủng hoảng tài chính bằng việc di chuyển sang hữu, với cực hữu thu được nhiều nhất. Trung bình, các đảng cực-hữu tăng phần phiếu của họ 30 phần trăm sau một khủng hoảng như vậy.3

Mặt khác, hàng thập niên nghiên cứu đã không tìm thấy bất kể bằng chứng thuyết phục nào rằng các cử tri phản ứng với sự đau khổ kinh tế cá nhân bằng việc trừng phạt những người đương nhiệm. Việc thuộc về một nhóm, mà các lợi ích kinh tế của nó bị tổn hại trực tiếp, dường như chỉ hiếm khi làm thay đổi sở thích chính trị. Những người bỏ phiếu Rời đi trong 2016 đã không lầm lạc trong việc chọn chủ quyền quốc gia hơn con bò linh thiêng của ‘nền kinh tế’, hoặc thậm chí phúc lợi trực tiếp của họ. Và trong khi những người vận động “Ở lại’ không sai để nói rằng đã có rất nhiều chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc, sự bài ngoại và sự tung thông tin sai lệch (disinformation) được bọc trong sở thích đó, họ đã sai để thấy bất cứ cái gì của việc này là đặc biệt mới – cứ như chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc và những lời nói dối đã chẳng bao giờ tác động đến kết cục của một cuộc bỏ phiếu Anh trước đây.4 Và họ còn sai hơn để vận động dựa vào giả thiết rằng tư-lợi được khai sáng sẽ giải quyết vấn đề khó này. Việc sau đó họ sa vào các tiểu văn hóa lên mặt dạy đời tẻ nhạt, thảm họa hóa các tác động kinh tế của Brexit trong khi lý tưởng hóa một khối tân-tự do cứng đầu, minh họa còn xa đến thế nào họ mới tìm thấy một lý lẽ thuyết phục cho nguyên nhân của họ.

‘Tư-lợi’ là gì dẫu sao đi nữa? Theo Albert O. Hirschmann, khái niệm về ‘lợi ích’ lần đầu tiên giành được chỗ đứng gữa các nhà triết học tự do như Bernard Mandeville và Adam Smith trong thế kỷ thứ mười tám, như một sự thay thế cho khái niệm đối địch về ‘các đam mê’. Mục đích của sự dịch chuyển này là để giúp trung hòa các đam mê có tiềm năng phá vỡ của quần chúng, đang trở thành các diễn viên chính trị do khả năng của chính họ. Cách dễ nhất để làm việc này là khơi dậy một tập hợp đam mê chống lại tập hợp đam mê khác: tức là, chống lại tính dâm ô và tham vọng, người ta nên xúi giục tính tham lam và tính hám lợi. Để làm cho điều này ít tai tiếng hơn, họ đã mô tả lại tính hám lợi (avarice) như ‘tư lợi (self-interest)’. Và tư-lợi, người ta nghĩ, sẽ khuyến khích mọi người để ứng xử thận trọng và phù hợp với đạo đức và luật pháp.5 Đấy là cách các nhà triết học tự do nghĩ mọi người nên được cai trị, không phải cách một người thực sự ứng xử. Nhưng, xét một cách nghiêm túc, khái niệm ‘lợi ích’ chẳng bao giờ có thể quy giản về tính tham lam hay tính hám lợi. Để có một lợi ích trong (sự quan tâm đến) bất cứ thứ gì là để tìm sự chú ý và mong muốn của người ta gắn chặt với nó, như chúng ta có thể bị cuốn hút bởi một cuộc chiến tranh xa xôi, hoặc số phận của một loài có nguy cơ bị diệt chủng bất chấp nó không có ảnh hưởng nào lên thu nhập của chúng ta. Chúng ta là các động vật đam mê. Sự đam mê, như Karl Marx viết, là ‘lực cốt yếu’ của chúng ta.6 Để hiểu cái gì đang xảy ra ngày nay, chúng ta phải quay lại các niềm đam mê.

Giữa những đam mê, quan trọng nhất cho chương này là sự oán giận. Vì các lý do chính đáng, sự oán giận được xem như một xúc cảm tàn phá, gây tai tiếng. Nhưng nó cũng thiết yếu cho ý thức về công lý. Chúng ta cảm thấy oán giận, không phải vì những tổn hại tình cờ, và thậm chí không phải nhất thiết với những sự tổn hại cố ý, nhưng với cái được cảm thấy như không công bằng. Và chúng ta thường cảm thấy sự oán giận nhân danh những người khác đến mức, như Andrew Sayer viết, nó ‘xuất phát từ năng lực cho sự thấu cảm (cho cảm giác về đồng loại)’.7 Sự oán giận không phải là một bệnh lý cá nhân tương đương với việc nuốt một chất độc và đợi cho đồng bạn khác chết, như một người dí dỏm đã diễn đạt. Nó là một cách suy nghĩ và hành động mạch lạc và có đạo đức trên đời.

Nhưng chúng ta không luôn luôn biết oán giận ai hay cái gì. Nhiều nguồn của các vấn đề của chúng ta là mờ, xa xôi và bâng quơ, và chúng có thể có vẻ ngẫu nhiên. Chẳng hạn, được tường thuật trong 2022 rằng các chính sách khắc khổ ở Vương quốc Anh đã gây ra thêm 300.000 cái chết.8 Quan hệ nhân quả đó không nhất thiết là rõ ràng cho những người thân sống sót lúc đó, khi cái chết được quy cho các bệnh tật như bệnh tim mạch hơn là cho những điều kiện khiến mọi người dễ bị tổn thương hơn với bệnh đó. Nếu người ta không được điều chỉnh theo chính trị, người ta có thể biết về việc mất những người thân yêu, về những nỗi bất hạnh chất đống lại, về chất lượng cuộc sống nói chung trở nên tồi tệ hơn, mà không có một khuôn mặt để gắn với tội ác. Trong những hoản cảnh đó, sự oán giận có thể hoặc vẫn dưới ngưỡng nhận biết hay để xác định một con dê tế thần cá nhân hay chính trị. Một vấn đề khác là sự oán giận có thể là một đầm lầy cảm xúc gây nghiện hoàn toàn. Max Scheler, trong nghiên cứu của ông về sự oán giận, mô tả cách những người bị nó chiếm hữu có thể bị mê hoặc bởi cảm giác bất lực và sự nạn nhân hóa, sự thích thú ‘sự khoái lạc tăng lên do sự phỉ báng và sự phủ nhận’ mời chào. Một ví dụ về điều này là loại than vãn vô ích được Karen Wells và Sophie Watson mô tả trong nghiên cứu của họ về những người chủ cửa hiệu ở London, mà cảm thấy bị các nhà bán lẻ lớn biến thành nạn nhân, bị chính phủ bỏ qua và bị những người xin tị nạn và những người Muslim đánh lừa. Điều này không phải là bất thường trong chính trị bảo thủ.9

Trong hình thức nguy hiểm nhất của nó, sự oán giận trở thành một sự đam mê bức hại được cho phép về mặt chính trị. Phiên bản kinh điển của điều này là sự săn phù thủy. Tại châu Âu đầu hiện đại, 100.000 người, ba phần tư của họ là phụ nữ, đã bị xét xử và 50.000 đã bị hành quyết vì một tội mà bây giờ được cho là không thể có. Các lời buộc tội phù thủy thông thường đã không được khởi xướng bởi các nhà chức trách tôn giáo hay chính trị, hoặc những kẻ truy tìm phù thủy như Matthew Hopkins, kẻ Thanh giáo khủng bố của Đông nước Anh. Chúng đến từ các cộng đồng bình thường, bị đau khổ, mà đổ lỗi những sự bất hạnh như bệnh tật của một đứa trẻ, gia súc chết, những ông chồng lang thang và cái chết, cho sự độc ác của một người hàng xóm không được ưa chuộng: maleficium (chiêu tà thuật).

Những kẻ được cho là phù thủy bị cáo buộc đã gia nhập âm mưu Satanic chống lại đạo Kitô, lập hiệp ước với ma quỷ để đổi lấy quyền lực hủy hoại, tham gia vào ‘các sabbat (cuộc họp ban đêm của các phù thủy)’ truy hoan bí mật gồm tình dục với Satan, và cho ‘những kẻ lang chạ’ quỷ thần bú từ một núm vú bí mật. Những niềm tin này được ủng hộ bởi các nhà chức trách, như Vua James I (mà cuốn Daemonologie của ngài truyền bá niềm tin vào các phù thủy) và luật sư Jean Bodin (mà được coi một cách chính đáng như triết gia gốc của nhà nước có chủ quyền hiện đại). Và những niềm tin này đã vượt qua sự chia rẽ giữa các quốc gia Công giáo và Tin lành đang đánh nhau. Sự săn phù thủy, như Silvia Federici diễn đạt, là ‘địa hình thống nhất đầu tiên trong chính trị của các nhà nước-quốc gia Âu châu mới’. Nhưng câu chuyện rập khuôn về các hiệp ước huyền bí, các cuộc truy hoan và các quỷ dữ đã ít quan trọng hơn sự tổn thương gây ra sự buộc tội. Sử gia Robin Briggs chỉ ra rằng trong hầu hết các lời thú tội rút ra từ ‘các phù thủy’ này, thì quỷ dữ là ‘một nhân vật rất thứ yếu, một sự hiện diện lờ mờ đằng sau các hàng xóm tức giận’.10

Những lời cáo buộc phù thủy đã là một biện thần luận (theodicy) phổ biến: chúng giải thích nỗi khổ đau. Khi các xã hội bị các cuộc chiến tranh Kháng Cách (Tin lành), sự rào đất cộng đồng, các bệnh dịch, nạn đói và nội chiến phá hủy, chúng giải thích vì sao mọi người cảm thấy bị Chúa bỏ rơi. Sự tích tụ của các khủng hoảng xã hội và các quỹ đạo suy sụp cá nhân gây ra sự e sợ tận thế trong đó những câu chuyện hoang tưởng về các quan tòa dị giáo như Heinrich Kramer và Vua James I có thể được vũ khí hóa cho các vụ hành quyết hàng loạt.

Được nghĩ theo cách này, sự lây lan của chủ nghĩa dân tộc tai họa phát đạt, không chỉ bởi vì sự tung thông tin sai lệch và những niềm tin sai, mà bởi vì kinh tế học oán giận lưu hành trong các xã hội hiện đại làm cho những niềm tin này hấp dẫn. Phù thủy hiện đại, dù nó là một ‘văn hóa Marxist’, ‘cộng sản’, ‘Antifa’, ‘chống-dân tộc’, ‘người yêu Arab’ hoặc ‘kẻ phản bội’ nào đó khác mà có thể bị giết trên những đường phố của Manila, Kenosha, New Delhi hay São Paulo, cung cấp sự giải thích-giả cho một sự bất hạnh cụ thể đối với nhà nước-quốc gia: làm sao một nhân dân có chủ quyền lại mất chủ quyền của nó. Và để khôi phục liên hiệp thái bình giữa nhân dân và chính phủ, quốc gia và nhà nước, chủ nghĩa dân tộc tai họa kích động một sự hợp nhất quen thuộc của sự ác ý hàng xóm, lời chứng thù địch, tòa dị giáo, sự kích động và bạo lực chính trị gây chết người.

II.

Các nhà dân tộc chủ nghĩa tai họa nói ngôn ngữ giai cấp. Họ tự cho là đại diện cho các cử tri ‘bị bỏ rơi’, ‘bị phản bội’, ‘bị bỏ lại đằng sau’, được viết tắt trong vùng nói tiếng Anh như ‘giai cấp lao động da trắng’. Nigel Farage, khi ông là lãnh tụ của Đảng UKIP (vương quốc Anh Độc lập), tự cho là nói cho giai cấp lao động ‘bị bỏ quên’. Steve Bannon, cựu chiến lược gia của Trump, cho rằng những người Cộng hòa đã trở ‘thành một đảng giai cấp-lao động’.11

Các chuyên gia xếp hàng tin lời của họ là thật. Theo báo chí, Trump đại diện cho một ‘cuộc nổi dậy giai cấp-lao động’, Brexit đã là một ‘cuộc cách mạng giai cấp-lao động’, và Marine Le Pen chuyển tải những sự bất bình của ‘giai cấp lao động da trắng’.12 Đối với giới chuyên gia dòng chính, cuộc nổi dậy giai cấp-lao động này hoặc là một sự phản kháng đích thực với sự bỏ bê trong tay của một giới quyền thế biệt lập, hay một tiếng la hét của cơn thịnh nộ định hướng sai dựa vào ‘sự lo lắng địa vị’ (đàn ông da trắng sợ mất cơ sở so với các thiểu số và những người nước ngoài) hơn vào những thiệt hại kinh tế. Đối với cánh tả tự do, những người lao động tập hợp lại ủng hộ chính trị cực-hữu phản ánh sự trung thành thâm căn cố đế của ‘thượng đẳng da trắng’ quá thành công, cứ như thể là các lợi ích giai cấp.

Sự rắc rối với những lý lẽ như vậy là không ai hoàn toàn biết ‘giai cấp lao động da trắng’ là gì. Thuật ngữ được dùng theo một cách ngụ ý một phiên bản cũ kỹ của giai cấp trong đó những người lao động dùng tay của họ và những người giàu dùng bộ óc của họ. Ở Hoa Kỳ, các chuyên gia về bầu cử có khuynh hướng dùng thuật ngữ để nhắc đến những người da trắng không có bằng cấp đại học: cứ như không có một phần lớn, hết sức có giáo dục và bị nợ nần nặng của giai cấp lao động, hoặc cứ như mỗi nhà quản lý, nhà giám sát hay chủ doanh nghiệp đều là một thiên tài đã học từ các trường Ivy League. Một phần tư các chủ doanh nghiệp nhỏ, và một phần mười các CEO (Tổng Giám đốc) từ các công ty FTSE 100, chẳng hề có giáo dục đại học chút nào. Trong khi đó, giữa những người lao động nghèo nhất kiếm được lương tối thiểu hay thấp hơn, thì hơn 50 phần trăm có giáo dục đại học nào đó.13 (Nếu bạn gộp những người lao động có lương thấp nhất và các CEO hùng mạnh nhất lại trong cùng ‘giai cấp’, thì tôi gợi ý sự phân tích giai cấp của bạn cần nỗ lực nào đó.) Tại Vương quốc Anh, các nhà thăm dò dùng các phạm trù nghiên cứu thị trường để xác định những người thực hiện công việc thấp kém hay chân tay như ‘giai cấp lao động’, cứ như chẳng gì đã thay đổi trong lực lượng lao động kể từ các năm 1960. Tuy nhiên, vì được cho rằng ‘giai cấp lao động da trắng’ là căn cứ nhà của chủ nghĩa dân tộc cánh-hữu, thường suy ra rằng các đảng cánh tả bầu cử phải chấp nhận các chủ đề của cực hữu để giành lại các cử tri đó. Làm trầm trọng thêm lập luận sai lầm này, nhiều nhà bình luận khai phóng thay vào đó đã chọn để phê phán gay gắt ‘đặc ân’ của những người lao động đó, một cụm từ ngụ ý rằng họ đã có nhiều hơn họ nên có rồi.

Thực ra, có ít bằng chứng rằng ‘giai cấp lao động da trắng’ đang thúc đẩy sự ủng hộ cho cực hữu mới, ngay cả ở vùng nói tiếng Anh nơi khái niệm có chỗ bám. Hãy xét Trump, chẳng hạn. Việc dùng thu nhập như một proxy tốt hơn giáo dục một chút cho giai cấp – mặc dù ngay cả biến này là thô sơ – Trump đã thua giữa những cử tri được phân loại như kiếm được ít hơn 50.000 $ một năm trong 2016, và giữa các cử tri được phân loại như kiếm được ít hơn 100.000 $ một năm trong 2020. Sự ủng hộ của ông giữa các cử tri này đã cao hơn sự ủng hộ mà các tiền nhiệm của ông John McCain và Mitt Romney đạt được, nhưng thấp hơn sự ủng hộ của George W. Bush. Ông đã giành được các nhóm quan trọng chiến lược của những người lao động, kể cả một thiểu số lớn của các hộ gia đình tham gia công đoàn và các hạt bỏ phiếu cho Obama trước kia trong các bang rustbelt (vành đai rỉ sét).14 Tuy vậy, ngay cả ở đây, sự ủng hộ Trump giữa các hộ gia đình tham gia công đoàn đã bị thổi phồng: khoảng cách giữa những người Cộng hòa và những người Dân chủ trong khối cử tri này giảm nhiều hơn bởi vì sự sụp đổ Dân chủ hơn là vì sự dấy lên Cộng hòa. Giai cấp lao động cũng ít bỏ phiếu hơn các thành viên của các giai cấp khác rất nhiều: trong 2016, 48 phần trăm cử tri từ các gia đình trong hạng thu nhập thấp nhất đã đi bàu, so với 86 phần trăm cho những người trong hạng thu nhập cao nhất. Các đảng dòng chính bị đổ lỗi vì điều này: các nghiên cứu cho thấy chính sách chính phủ không tương quan ngay cả một chút nào với công luận nhưng tương quan mạnh với sở thích của các cartel tài trợ hậu thuẫn mỗi đảng. Như Francis Fox Piven và Richard Cloward đã từng lập luận, nếu bạn muốn những người nghèo bỏ phiếu, bạn phải chào mời cho họ cái gì đó.15 Không có bằng chứng nào về các cử tri giai cấp-lao động dẫn dắt chủ nghĩa Trump.

Thế các cử tri da trắng tổng thể thì sao? Ở Hoa Kỳ, Trump giành được 54 phần trăm phiếu da trắng trong 2016 và 55 phần trăm trong 2020. Một đa số cử tri Mỹ da trắng đã hậu thuẫn những người Cộng hòa kể từ 1968, khi Richard Nixon dẫn đầu một phản ứng da tắng dữ dội chống lại các quyền dân sự. Phần cao nhất phiếu da trắng mà một người Cộng hòa đạt được là 66 phần trăm, trong chiến thắng vang dội của Ronald Reagan trong 1984. Trong 2012, Mitt Romney bị đánh bại đã giành được 59 phần trăm phiếu da trắng. Trump đã mất sự ủng hộ da trắng so với các tiền nhiệm của ông. Trong khi đó, vào năm 2020, sau bốn năm nhử mồi và kích động chủng tộc, ông đã giành được đáng kể giữa các cử tri da đen và nhất là Hispanic. Tuy vậy, điều này không phải nói rằng nhiều người da trắng hậu thuẫn Trump đã không làm vậy vì các lý do chủng tộc. Có bằng chứng rằng chủ nghĩa dân tộc trong các nước đa số da trắng được dẫn dắt một phần bởi cảm nhận về sự giảm sút da trắng, và rằng sự gắn bó tăng lên với bản sắc dân tộc thượng đẳng được xem như một phương tiện của sự phục hưng da trắng.16

‘Tính da trắng’ đã quan trọng trong 2016, nhưng cách mà nó quan trọng đã khác tùy thuộc vào chúng ta nói về những người da trắng nào. Có một sự khác biệt lớn giữa ‘tính da trắng’ của các thợ mỏ Virginia chuyển từ (bỏ phiếu cho) Obama sang (cho) Trump, tính da trắng của tầng lớp trung lưu ngoại ô thường bỏ phiếu cho Cộng hòa, và tính da trắng của các tỉ phú ở Fifth Avenue. Những người da trắng giàu được lợi nhất từ ‘khoảng cách giàu có chủng tộc’, và họ đã bị sự giảm tương đối đe dọa ít nhất kể từ đại Suy thoái 2008. Mặt khác, các cử tri da trắng dao động ở vùng mỏ than đã trải nghiệm sự nghèo tăng lên kể từ 2008, làm giảm lợi thế biên của họ đối với các cử tri da đen. Họ cảm thấy sự mất mát của họ về mặt tổng-zero: mỗi việc làm cho một công nhân da đen hay một người nhập cư đã là một việc làm họ không nhận được. Tuy nhiên, một sự khác biệt nổi bật khác là các thợ mỏ Virginia cũng có một lịch sử về những cố gắng thường xuyên bị cản trở để xây dựng sự đoàn kết liên chủng tộc trong khi, để diễn đạt một cách thô thiển, giai cấp tư sản da trắng chỉ có một lịch sử che giấu tính thù nghịch phân biệt chủng tộc của nó đằng sau một khung gầm bảo vệ của phép lịch sự. Nói chung, là không rõ bao nhiêu sự ủng hộ của Trump trong 2016 được giải thích bởi ‘tính da trắng’: các vấn đề lớn nhất có lợi cho ông đã là thương mại và việc đánh-Trung Quốc, trong khi vấn đề lớn nhất làm mất phiếu của ông là lập trường chống nhập cư của ông.17

Lý thuyết ‘giai cấp lao động da trắng’ trông thậm chí còn tồi tệ hơn khi so sánh với những tiến triển ở bên ngoài Hoa Kỳ. Trong 2014, phần phiếu của Narendra Modi là thấp nhất giữa những người nghèo nhất. Trong 2019, ông đã thắng giữa tất cả các nhóm thu nhập. Trong 2018, sự ủng hộ cho Jair Bolsonaro đã cao nhất trong cái gọi là ‘các giai cấp được thiết lập’, mà đại thể tương ứng với tầng lớp trung lưu cao cấp. Trong 2022, Bolsonaro dẫn đầu chỉ giữa những người kiếm được năm lần lương trung bình.18 Trong 2016, Rodrigo Duterte giành được phần phiếu lớn nhất giữa các giai cấp thượng lưu và trung lưu, với những người nghèo ít có khả năng hơn để bỏ phiếu cho ông. Trong 2022, người kế nhiệm của ông Bongbong Marcos đã thắng ngang tất cả các giai cấp.19 Có một số ngoại lệ ở châu Âu. Đảng Luật và Công lý (PIS) của Ba Lan được lòng dân với những người thất nghiệp hơn nhiều so với các chủ sử dụng lao động, chẳng hạn. Đảng Anh Em Italy hấp dẫn mạnh mẽ cho tầng lớp trung lưu nhưng cũng thu hút một phần không tương xứng của phiếu ‘cổ xanh’. Tại Hungary, đảng Fidesz lượm được các cử tri giai cấp-lao động trong vùng rỉ sắt sau khi những người Xã hội (chủ nghĩa) sụp đổ giữa sự khắc khổ và tham nhũng. Marine Le Pen đã dẫn đầu giữa các công nhân Pháp trong cuộc bầu cử tổng thống 2022, mặc dù điều này bị làm cho phức tạp bởi các tỷ lệ cao lịch sử của sự vắng mặt giữa các cử tri giai cấp-lao động.20 Tuy nhiên, hình mẫu tổng thể là cho cực hữu để bắt đầu với một cơ sở chủ yếu giai cấp trung lưu và rồi xây dựng các liên minh hữu hiệu ngang các giai cấp.

Giai cấp lao động, mà các nhà dân tộc chủ nghĩa tai họa tự nhận là nói cho họ, tất nhiên, không phải là phong trào lao động. Nó thậm chí không phải là một giai cấp, nói một cách thích hợp, mà là một tập hợp thù hận thụ động của những cá nhân tin họ tuân thủ luật, tôn trọng uy quyền và oán giận những người chen hàng và những người bên ngoài. Bằng chứng cho điều này là, ở bất cứ đâu các chính trị gia cực-hữu đối mặt với hành động tập thể giai cấp-lao động, họ đều lúng túng. Ví dụ, khi công đoàn Lao động Auto Thống nhất đình công đòi tăng lương tại Ford, General Motors và Stellantis trong tháng Chín 2023, lẽ ra đã phải là đơn giản cho Donald Trump, với tư cách một ứng viên tổng thống Cộng hòa được cho là nói cho giai cấp lao động, để bày tỏ sự ủng hộ của ông. Rốt cuộc, đấy là cốt lõi của giai cấp lao động bị đảng Dân chủ phản bội mà ông tự cho là đại diện của họ. Thay vào đó, khi được hỏi ông đứng về bên nào, ông nói quanh co: Tôi đứng về bên làm cho đất nước của chúng ta vĩ đại, ừ, các công nhân auto, ừ, sẽ không có bất kể việc làm nào khi bạn nói thẳng về nó bởi vì nếu bạn ngó tới những gì họ đang làm với xe hơi điện, xe hơi điện đều được sản xuất ở Trung Quốc. Các công nhân auto sẽ chẳng có gì – tôi nói với các bạn, các công nhân auto bị ban lãnh đạo của họ phản bội vì lợi nhuận, và ban lãnh đạo của họ nên ủng hộ Trump.

Không lâu sau đó, theo yêu cầu của chủ tịch của Drake Enterprises, Trump đã thăm một xưởng không có công đoàn ở Michigan, và ông lại nói về mối nguy hiểm do các xe hơi điện gây ra. Nathan Stemple, ông sếp của công ty, than phiền rằng xe điện sẽ ‘tống chúng tôi khỏi việc kinh doanh’. Hầu như không có sự rõ ràng hơn ở nơi khác về phái hữu của Trump. Steve Bannon và Peter Navarro cựu quan chức của Trump đã đồng cảm với các vấn đề đình công, đổ lỗi cái được cho là ‘vòng xoáy lương-giá’ cho lạm phát và những người nhập cư vì việc đẩy lương xuống. Điều này cũng chẳng kỳ lạ. Chính quyền Trump đã thù địch với các quyền lao động, nhồi đầy Hội đồng Quan hệ Lao động Quốc gia bằng những luật sư công ty phá vỡ-công đoàn, và trong 2020 đã vận động chống lại một sự tăng lương tối thiểu liên bang mà đã không tăng kể từ 2009.21

Cũng thế ở những nơi khác. Tại Pháp, đảng Tập hợp Dân tộc (RN) của Marine Le Pen và tiền bối của nó Mặt trận Dân tộc (FN) từ lâu đã thù địch với chủ nghĩa công đoàn. Mặt trận Dân tộc đã ủng hộ ‘sự hình sự hóa picketing (lập hàng rào đình công)’ và đã cáo buộc các công đoàn là ‘lỗi thời và không đại diện’, gây ra ‘sự đình trệ của nền kinh tế của chúng ta’. Le Pen đã đề xuất những cải cách làm khó hơn cho các công đoàn để đình công để ‘bù cho sự thiếu tính chính danh của chúng’. Tập hợp Dân tộc xem các công đoàn, theo lời của thị trưởng Perpignan, Louis Aliot, như ‘những người làm dịch vụ tang lễ của thế giới kinh tế và lao động’. Chính phủ Modi ở Ấn Độ đã thông qua các bộ luật lao động phá vỡ-công đoàn, cho phép sự tuyển dụng-và sa thải hàng loạt dễ dàng và việc dùng lao động thời vụ để làm công việc của những nhân viên thường trực. Bolsonaro, trong năm 2018 đã bảo các công nhân rằng ‘ít quyền là tốt hơn không có việc làm nào’ và rằng Brazil ‘có một sự quá dư thừa các quyền’, tiếp tục tấn công ngay lập tức, làm cho thời gian làm việc linh hoạt và cho phép những sự vi phạm các luật sức khỏe và an toàn. Tại Hungary, chính quyền Orbán dùng các luật chống-công đoàn như một điều khoản phục vụ tối thiểu để hạn chế nghiêm ngặt quyền đình công và trong 2019 đưa vào một ‘luật nô lệ’ mới mà sẽ thêm trung bình hai giờ vào mỗi ngày làm việc.22

Từ khóa trong cụm từ ‘giai cấp lao động da trắng’ có khuynh hướng là ‘da trắng’. Ý tưởng, ngầm định hay rõ ràng, là các công nhân này có một lời xác nhận đạo đức truyền thống với tư cách những người da trắng rằng họ đã bị ‘phản bội’. Những chiến thắng gia tăng của sự chống-chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc, logic tiếp tục thế, đã giành được những hình thức công nhận và sự tiếp cận nhà nước cho các thiểu số bị áp bức mà các công nhân da trắng bị từ chối. Và phái trung tả thế giới chủ nghĩa, trong việc bảo vệ những lợi ích đó bên trong một bối cảnh tăng cường cạnh tranh toàn cầu để giữ lương thấp ở dưới đáy, đã bắt đầu đàn áp và gạt các công nhân da trắng sang bên lề. Như thế, sau hàng thập kỷ omertà (im lặng) chính thức về các các thuật ngữ như ‘giai cấp’, sau nhiều năm trong đó tất cả chúng ta đều là ‘tầng lớp trung lưu’ và những gánh nặng của giai cấp và công việc bị che đậy trong sự kiêu ngạo gây choáng váng của toàn cầu hóa, giai cấp đã quay lại như một bản sắc giả-sắc tộc. Và đặc trưng xác định của nó đã không phải là tính hiếu chiến, mà là sự mất mát sắc tộc.

Chủ nghĩa dân tộc tai họa được lợi vô cùng từ một sự cộng sinh với các đối thủ trước kia của nó trong chính trị và media mà, như Aaron Winter và Aurelien Mondon cho thấy, đã phóng đại một cách có hệ thống tính đại chúng của chương trình nghị sự cực hữu. Điều này đã dẫn những người tự do và những người dân chủ xã hội có thiện chí thông qua những phần của cương lĩnh cực-hữu hay thử bảo trợ các đối thủ của họ trong một cố gắng tự châm biếm để ‘nói nhân danh công nhân’. (Một ví dụ hài hước về điều này là cố vấn chính trị Lord Glasman bảo Đảng Lao động Anh nói chuyện với Liên đoàn Phòng thủ Anh phát xít trong một cố gắng để khắc phục ‘sự thù ghét và thịnh nộ to lớn chống lại chúng ta’ từ giai cấp-lao động.)23 Những sự quỳ gối không đường hoàng như vậy làm xù lông những chứng thư chống-giới quyền thế của cực hữu bằng việc phóng đại việc giai cấp-lao động ủng hộ họ và sự nổi bật của các mối quan tâm của họ. Và, hoạt động như một lời tiên tri tự-thực hiện, nó cũng giúp họ trong những cố gắng của họ để sáp nhập các phần sầu muộn, di động xuống của phiếu bàu giai cấp-lao động và tích hợp chúng vào một liên minh ngang-giai cấp chiến thắng.

Giỏi nhất, sự chú ý được phóng đại đến các công nhân như một yếu tố của cơ sở cực-hữu được thông báo bởi một cảm giác sai lầm rằng sự ủng hộ của giai cấp-lao động cho chính trị cánh-hữu là ngược với trực giác và cần sự giải thích đặc biệt. Tồi nhất, nó hoặc là việc đổ lỗi cho dê tế thần hay tư duy mơ ước.

III.

Chủ nghĩa dân tộc mới, dù nó chơi khúc nhạc chiều tán tỉnh các công nhân, có ít để nói về việc cực nhọc chẳng lãng mạn hóa ‘phẩm giá của công việc siêng năng’ như cả Mike Pence và Donald Trump Jr. diễn đạt. Công việc siêng năng là nguồn chính của phẩm giá cá nhân và địa vị đạo đức cho những người lao động trong ý thức hệ bảo thủ.24

Tuy vậy, trong thi pháp của nó về sự phản bội quốc gia – ‘cuộc tàn sát người Mỹ’ như bài phát biểu nhậm chức của Trump diễn đạt – chủ nghĩa dân tộc mới gián tiếp thừa nhận bạo lực giai cấp và tận dụng một sự thực thường bị bỏ qua một cách lịch sự. Nền văn minh có thể đặt những yêu cầu nặng nề lên chúng ta, như Freud đã tin, nhưng kẻ cắp lớn nhất của sự rỗi rãi và libido (dục tình) là sự phân phối không đều của sự cần thiết để làm việc. Tất cả những nền văn minh phức tạp cho đến ngày nay đã là những xã hội có giai cấp trong đó đa số làm việc cho ít người. Động lực độc đáo của nền văn minh tư bản xuất phát từ khả năng của nó để bòn rút nỗ lực chưa từng có từ một cung lao động toàn cầu ngày càng mở rộng: một sự chuyển năng lượng khổng lồ có lợi cho những người giàu.25

Công việc, đối với hầu hết loài người, có nghĩa là sự làm việc cho những người khác, trong những điều kiện người ta không chọn, trong đó sự bấp bênh về các quyền và sự sống sót khiến người ta bị phơi ra cho sự ép buộc và sự lăng nhục. Tất cả nỗ lực này cũng đã chẳng bao giờ bị bòn rút từ tất cả nhân viên một cách bình đẳng. Các chủ sử dụng lao động không cần phụ thuộc vào sự chia tách de jure (luật định) như một thời họ đã phụ thuộc, mà họ thích một thị trường lao động bị chia tách trong đó các nhóm người lao động nào đó (phụ nữ, người nhập cư, thiểu số sắc tộc) ‘một cách tự nhiên’ trở nên rẻ và linh hoạt.26 Các phần thưởng của tất cả năng suất này là lớn lao, nhưng, tất nhiên, các phần thưởng lớn nhất dồn lại cho các ông chủ và các nhà quản lý vốn. Xén hết tất cả các uyển ngữ đi, công việc là sự bóc lột.

Nhiều nghiên cứu gợi ý rằng công việc là nguồn lớn nhất duy nhất của stress (sự căng thẳng) và lo lắng trên thế giới ngày nay. Ngược với hiểu biết công ty, không phải các nhà quản lý bị quá tải là những người bị căng thẳng nhiều nhất. Các nghiên cứu Whitehall nổi tiếng về trầm cảm ở nơi làm việc cho thấy rằng, khi bạn đi xuống chuỗi quyền uy ở nơi làm việc, và việc làm bị kiểm soát hơn và nhân viên phục tùng hơn, thì mức cortisol tăng lên, huyết áp tăng lên và rủi ro đau tim hay đột quỵ tăng lên: những chấn thương giai cấp. Như công trình của Jeffrey Pfeffer cho thấy, không lượng nghiên cứu nào lập tư liệu điều này đã thuyết phục các sếp để thay đổi các thực hành quản lý của họ.27

Ngay cả trước khi sự bắt đầu của sự sa sút dài của sự tổ chức lao động, Richard Sennett và Jonathan Cobb đã phát hiện rằng giữa ‘những chấn thương giai cấp bị che giấu’ là ‘niềm tin bên trong’ các nhân viên cảm thấy rằng những sự bất công họ trải nghiệm đều là do lỗi của riêng họ. Công trình của Andrew Sayer về giai cấp một cách tương tự tìm thấy một ‘sự xấu hổ mức-thấp được những người giai cấp-lao động trải nghiệm, thường hoạt động ngay dưới ngưỡng phát biểu rõ ràng. Sự xấu hổ này thể hiện vào các giai đoạn sớm nhất của các quá trình văn minh hóa của xã hội có giai cấp, bắt đầu trong lớp học, nơi các học sinh giai cấp-lao động được thích nghi về các vai trò của họ. Nghiên cứu của Diane Reay về các bé gái giai cấp-lao động ở nước Anh đã thấy rằng họ rất nhạy cảm với những vận may không bình đẳng. Họ biết rằng những đứa trẻ sang trọng sẽ làm ăn tốt, và rằng các việc làm tốt và cuộc sống tốt sẽ thuộc về bọn sang trọng. Họ bị tấn công bởi sự lo lắng về ‘không là gì theo nghĩa đen’. Các phụ nữ giai cấp-lao động được Beverley Skeggs nghiên cứu thích, một phần bởi vì giai cấp được trải nghiệm như sự loại trừ khỏi xã hội tử tế, tránh để đồng nhất với bất kể giai cấp nào.28 Sự xấu hổ giai cấp là ý thức giai cấp của những kẻ bị đánh bại.

Ngày nay, cuộc khủng hoảng hoạt động dân chủ mà Alain Bertho mô tả trong chính trị được phản chiếu trong công nghiệp. Văn hóa xấu hổ được việc tổ chức giai cấp làm nhẹ bớt về mặt lịch sử. Việc giành được các quyền, phúc lợi và lương tối thiểu từ Kentucky đến Kerala không chỉ là một lợi ích vật chất: nó đã thiết lập sự công nhận và chứng tỏ rằng các công nhân không hoàn toàn bất lực. Thậm chí đã là có thể cho một số người để nói về sự tự hào giai cấp. Tuy vậy, các công đoàn và các đảng của giai cấp lao động bị tan rã bởi vũ lực suốt thời đại tân tự do. Mật độ công đoàn trung bình ở các nước OECD đã rớt từ 30 phần trăm xuống 16 phần trăm giữa 1985 và 2019. Với sự giảm này là sự giảm kéo dài của phần thu nhập của lao động, tính trung bình giảm 9% ngang các nước OECD giàu nhất từ năm 1973 đến 2013. Ngay cả dữ liệu này cũng gây lầm lạc, vì nó gồm những người có lương cao nhất giữa những người hưởng hương và các nhà quản lý: theo Tổ chức Lao động Quốc tế 10 phần trăm đỉnh của những người ăn lương nhận được gần nửa tất cả tiền lương.29

Sự giảm bớt các quyền phúc lợi cũng đã là toàn cầu, với thậm chí các chương trình chăm sóc sức khỏe và giáo dục được lòng dân phải chịu những kỹ thuật tiết kiệm-chi phí và tư nhân hóa một phần. Điều này khiến hầu hết người lao động bị đẩy một cách tế nhị vào hoàn cảnh khó khăn hơn, phụ thuộc hơn vào các thị trường lao động và các chủ sử dụng lao động có quyền lực hơn đối với họ. Như câu chuyện gây xáo trộn của Mark Ames về ‘trở nên cực kỳ tức giận’ gợi ý, chính xác là sự tê liệt, sự bồn chồn và sự dễ bị tổn thương giai cấp nảy sinh từ điều này để lăng mạ đã là một sự kích thích gốc then chốt của hiện tượng xả súng hàng loạt ngày nay.30 Sự chấn thương giai cấp cũng có một vai trò trong những sự bùng nổ tân-dân tộc chủ nghĩa gần đây – mặc dù không phải chấn thương được ngụ ý trong sự tò mò tựa-động vật học mà các nhà báo và các học giả nói tiếng Anh đã đặt lên ‘giai cấp lao động da trắng’.

Một sự xem xét lại bằng chứng ngang mười bốn nước OECD của các nhà khoa học chính trị Sarah Engler và David Weisstanner thấy rằng sự tăng bất bình đẳng dài hạn tăng cường mối đe dọa được cảm nhận đối với thu nhập và địa vị, không phải đặc biệt của những người lao động bị tước đoạt nhất (có khuynh hướng được miễn nhiễm hơn với sự lây dân tộc chủ nghĩa), mà là của những người thuộc thứ bậc giai cấp cao hơn. Điều này lặp lại những phát hiện khác giợi ý rằng trong số những người lao động thì chính ‘những người thắng’ tương đối của nơi làm việc tân-tự do hướng về ‘chủ nghĩa dân tộc phản động’. Vì công việc bị phân mảnh và phân tầng đến mức, với sự bất bình đẳng ‘ngang’ giữa những người lao động, nó không còn tạo thành cơ sở cho một bản sắc giai cấp lâu dài nữa. Trong tình cảnh đó, những người có vừa đủ sự an toàn và sự thịnh vượng để thỏa mãn với số phận của họ có khuynh hướng tới một hình thức của ‘chủ nghĩa sô vanh sung túc’, đồng nhất với những người giàu và xem quốc gia của họ như một hòn đảo của sự giàu có phải được bảo vệ khỏi những người nhập cư và những kẻ ăn bám.31

Cùng với mối đe dọa từ những người nghèo, có kinh nghiệm gây mất tinh thần của sự thất bại, của tính di động hướng xuống. Trong 2009 và 2017, những khảo sát về các cử tri ở Vương quốc Anh đã thấy rằng những người đã trải qua tính di động hướng xuống tương đối, hơn là những người nghèo nhất, đã có khả năng hơn để đồng ý với chủ nghĩa dân tộc chống-người nhập cư. ‘Chủ nghĩa dân tộc phẫn nộ’ được thấy tương ứng với những kinh nghiệm cá nhân về tính di động đi xuống và thất bại giai cấp, giữa các cử tri cả giai cấp-lao động và tầng lớp trung lưu. Tại Brazil, một phần đáng kể của phiếu cho Bolsonaro đến từ tầng lớp trung-lưu thấp di động xuống mà, trong sự sa sút của họ vào công việc bấp bênh sau 2013, đã bắt đầu oán giận các khoản chi trả Bolsa Família cho các gia đình nghèo và các hạn ngạch chủng tộc cho sinh viên đại học và bị việc họ cung cấp cho các chương trình hỗ trợ xã hội kéo vào quỹ đạo của các nhà thờ Evangelical (Phúc âm). Cùng hình mẫu có thể thấy giữa những kẻ nổi loạn Capitol (tòa nhà Quốc hội Mỹ), làm phức tạp bất cứ sự phân biệt gọn gẽ nào giữa ‘mối lo kinh tế’ (sự di động hướng xuống) và ‘mối lo địa vị’ (chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc).32 Điều này gợi ý rằng lõi xúc cảm của ý thức hệ ‘bị bỏ lại phía sau’ là nỗi xấu hổ cá nhân không thể chịu được về sự thất bại, và nỗi sợ trở nên không thể phân biệt được với những người ở dưới đáy.

Vì sao thành công biên đã đủ để ràng buộc những người không giàu với những người giàu có? Vì sao sự thất bại, luôn khó khăn, đã trở nên độc hại như vậy? Sự tăng bất bình đẳng, làm cho sự di động hướng xuống trở nên đau đớn hơn, chỉ là một khía cạnh của một sự biến đổi xã hội toàn diện mà đã xảy ra trong khoảng bốn mươi năm. Chủ nghĩa tân tự do, tên cho sự biến đổi đó, không phải là cùng thứ như ‘thị trường tự do’. Như lịch sử về ‘danh từ tập hợp tư tưởng tân tự do’ của Philip Mirowski chứng tỏ, các nhà sáng lập tân tự do đã không phải là các nhà tự do cổ điển chống lại nhà nước lớn. Họ đã quan tâm hơn nhiều đến việc dùng nhà nước để cải cách con người. Các nhà tân tự do, phản ứng với mối đe dọa do nền dân chủ quần chúng gây ra đối với chủ quyền của các thị trường, nghĩ rằng mọi người phải lìa bỏ niềm tin không có cơ sở của họ vào sự bình đẳng. Họ phải được thuyết phục để từ bỏ tình cảm bộ lạc của họ về sự đoàn kết và chấp nhận luật cạnh tranh phổ quát. Họ phải được khuyến khích để nhìn bản thân họ và những người khác như họ ‘thực sự là’ gì: các nhà tư bản cạnh tranh, mạo hiểm cá cược trên thị trường.33

Đấy là một hệ thống hoang tưởng. Châm ngôn sáng lập của chủ nghĩa tân tự do nên là ‘họ đều cố hết sức để làm hại bạn’. Trong đó, không xã hội nào có thể tồn tại bên ngoài các đơn vị sống còn cơ bản như gia đình. Chỉ có các đối thủ cạnh tranh, và bất kể ai có thể thọc con dao vào. Người ta cũng phải liên tục cảnh giác chống lại những cám dỗ thì thầm của quỷ Satan. Không có ‘dịch vụ công’ nào mà không là một câu chuyện che giấu đạo đức giả cho các quan chức tối đa hóa quyền lực. Không có ‘tự do nào khỏi sự thiếu thốn’ mà không phải là một lời dối trá được những kẻ vô công rồi nghề và các khách hàng đặc quyền của nhà nước duy trì mãi mãi. Những lời xác nhận được đưa ra nhân danh xã hội chỉ có thể che đậy một nước đi quyền lực ích kỷ. Không ngạc nhiên Adam Kotsko gợi ý rằng không khí dưới chủ nghĩa tân tự do đầy ma quỷ như nó đã là trong Kitô giáo thời trung cổ.34

Để hiểu thế giới xã hội như ma quỷ theo cách này là định phẩm chất chủ nghĩa tân tự do như, theo thuật ngữ của Wendy Brown, ‘sợ xã hội (sociophobic)’. Điều này không phải để nói rằng chủ nghĩa tân tự do là vô luân lý. Quả thực, như Jessica Whyte chứng minh trong The Morals of the Market (Đạo đức của Thị trường), nó có đạo đức cực kỳ mạnh về các quy tắc thị trường và nhu cầu để nhúng chúng vào cái nó coi như trật tự được tiến hóa một cách hợp pháp của gia đình, Kitô giáo và nền văn minh Tây phương. Tuy vậy, sự thực hành xây dựng các giá trị cạnh tranh vào mọi lĩnh vực cuộc sống đã làm xói mòn chính các ràng buộc xã hội được cho là để giữ nền văn minh tiếp diễn.35

Ngoài việc khắc sâu chứng hoang tưởng tổng quát này, chủ nghĩa tân tự do đã phóng đại đặc tính bi quan sâu sắc của chủ nghĩa đế quốc. Về mặt thực tiễn, cải cách tân tự do đã là hư vô về đạo đức: ‘nihiliberalism-chủ nghĩa tự do hư vô’, như Mark Fisher đặt tên cho nó. Điểm quan trọng đã không phải là bất cứ mục tiêu xã hội đáng mong muốn nào, mà chỉ là sự duy trì một trật tự thị trường trong đó mọi người cạnh tranh trong một trạng thái vô minh: ‘một ẩn số có ý chí và có suy nghĩ cân nhắc (a willed và deliberate unknown,’ như Raymond Williams diễn đạt, ‘trong đó nhân tố xác định là lợi thế’. Sự theo đuổi lợi thế vô nghĩa này như summum bonum (điều tốt nhất) của đời sống xã hội cũng kéo theo sự đo lường liên tục giá trị-bản thân đối lại sự thành công của những người khác, như thế sự thất bại trở nên không thể chịu đựng nổi ngay tại điểm nơi (số tiền) hàng triệu có thể chẳng khác ‘không có gì cả’.36

Chủ nghĩa dân tộc tai họa ngày nay khai thác sự bất an, sự làm nhục và sự khốn khổ của các giai cấp và các nhóm xã hội hỗn tạp, kể cả một số người nghèo nhất, cho một cuộc náo loạn chống lại nền văn minh tự do, với các chuẩn mực đa nguyên và dân chủ của nó. Nó chào mời dầu thơm báo thù, lời hứa về sự tự-yêu dân tộc và cách chữa bệnh để khôi phục xã hội quay về một trạng thái ban sơ, có thứ bậc hài hòa qua bạo lực đích đáng. Một sự thiết lập lại vũ trụ, người ta có thể nói. Nó tìm cách khôi phục lại các niềm an ủi truyền thống của chủ nghĩa dân tộc cho những người bị đe dọa và di động hướng xuống. Sự ám ảnh với các chuẩn mực biểu cảm có vẻ tầm thường, như sự dùng các đại từ giới tính đúng đắn, trong thực tế về cơ bản là về bao nhiêu bạo lực và sự làm nhục là được phép về mặt xã hội.

Các chiến thuật hùng biện gây sốc của Trump, Bolsonaro, Modi và Duterte, luyện tập công chúng của họ với các liều adrenaline (thuốc kích thích phản ứng chiến đấu hay bỏ chạy) , kích thích họ với sự nhẹ nhõm hoang dã khi bày tỏ điều không thể bày tỏ được, khiến họ cười nỗi sợ của chính họ về việc bày tỏ nó, không chỉ là một sự nổi dậy nhạt nhẽo chống lại siêu-ngã tự do. Để gọi những người Mexican là ‘những kẻ hiếp dâm’ và ‘những kẻ giết người’ (Trump), để chế nhạo các nhà báo Ấn độ như ‘các presstitute (con điếm báo chí)’ và các secularist (những người thế tục) như ‘sickular (những người cánh tả)’ ‘những kẻ chống-quốc gia’ (các nhà hoạt động BJP), để ra lệnh cho binh lính Philippine bắn vào giữa chân của các đối thủ phụ nữ (Duterte), để cho rằng đeo khẩu trang trong một đại dịch là ‘cho các nàng tiên’ (Bolsonaro) là có tính cương lĩnh. Nó nhắm tới để chuyển sự oán giận. Nó nhắm để dã man hóa tục lệ. Nó nhắm tới chủ nghĩa dã man.

IV.

Khi các nhà dân tộc chủ nghĩa tai họa ca ngợi các chứng chỉ ủng hộ giai cấp-lao động của họ, dù gian xảo đến mức nào, nó không đơn giản là một trò bịp bợm. Cực hữu mới không chỉ là cùng như chủ nghĩa bảo thủ có đầu óc kinh doanh cũ. Giống các tiền bối thế kỷ thứ hai mươi của nó, nó tìm kiếm một mối quan hệ khác với các công nhân hơn là những người bảo thủ nghị viện mà nó cố gắng che khuất.

Kể từ khi quyền bầu cử được mở rộng cho giai cấp lao động đến giờ, các nhà bảo thủ nghị viện đã cần sự ủng hộ của các cử tri giai cấp-lao động để thắng các cuộc bầu cử. Tuy vậy, như Michael Mann diễn đạt, họ tìm kiếm sự ưng thuận thụ động cho một hệ thống mà họ coi như ‘hài hòa về cơ bản’. Cực hữu, ngược lại, nhận ra sự chia rẽ giai cấp như một vấn đề cho chủ nghĩa dân tộc. Vì sự ủng hộ của họ cho tài sản tư nhân và cho nhà nước, và niềm tin Darwinist xã hội của họ vào hệ thứ bậc, họ đã không quan tâm đến việc xóa bỏ giai cấp. Nhưng họ cũng chẳng là các nhà bảo vệ tuyệt đối hệ thống, đặc biệt ở nơi nó làm xói mòn sự thống nhất quốc gia. Thay vào đó, họ đã khao khát ‘vượt quá’ giai cấp bên trong một chủ nghĩa dân tộc mới. Sự vượt quá, cốt yếu cho cương lĩnh không tưởng về việc xây dựng ‘đàn ông mới’ và ‘đàn bà mới’, đã trở thành ‘nguyên tắc trung tâm của chương trình bầu cử của chủ nghĩa phát xít’.37

Điều này đã có nghĩa là việc ve vãn những người lao động. Ngay từ 1898, nhà tiểu thuyết Pháp Maurice Barrès, lãnh tụ tương lai của Ligue des Patriotes (Liên đoàn của những người Yêu nước) cực-hữu, đã đề xuất một chương trình cải cách mà ông gọi là ‘chủ nghĩa xã hội quốc gia’. Nó đã tìm cách không xóa bỏ giai cấp, mà để thay đổi ý nghĩa tinh thần của nó, để quốc hữu hóa nó. Điều này đã dẫn đến những cải cách được cho là để bao gồm những người lao động trong quốc gia, như một thuế thu nhập được chia độ và những sự kiểm soát dòng chảy vào của lao động ‘rẻ‘ nhập cư. Những người bảo thủ dòng chính khi đó, mặc dù vui vẻ để tán tỉnh sự tấn công-người nhập cư, đã bác bỏ kinh tế học chính trị này. Trong các cuộc đình công than đá Pháp năm 1908, Action Française, phong trào tiền-phát xít Pháp, đã cố gắng liên minh với Confédération générale du travail (Tổng liên đoàn lao động-CGT) công đoàn chủ nghĩa-vô chính phủ. Nhà báo phản động Léon Daudet đã rất vui vẻ trong việc chế nhạo những người tự do và các nhà xã hội nghị viện sợ giai cấp lao động đến mức họ đã bố trí binh lính để bắn những người lao động. Bên cánh hữu cực đoan Italia, Enrico Corradini đã tìm kiếm một liên minh với phong trào công nhân công đoàn chủ nghĩa.38

Thái độ đó đã bị sự chấm dứt của Chiến tranh Thế giới Thứ nhất thử thách nghiêm ngặt. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga, và những cuộc nổi dậy tiếp sau ở Đức và Hungary, đã khiến cánh hữu khiếp sợ. Điều khó chịu nhất đã là các cuộc cách mạng này được lãnh đạo bởi những người từ chối chiến tranh và sự vinh quang giả tạo của nó. Khi phong trào Phát xít Italia tuyên bố vào lúc sinh ra của nó, nó ‘tuyên chiến chống lại chủ nghĩa xã hội … bởi vì nó đã phản đối chủ nghĩa dân tộc’. Ngay cả khi đó, càng thế bởi vì sự sợ hãi của họ về giai cấp công nhân cách mạng, họ đã tìm cách để cám dỗ các công nhân cho sự nghiệp dân tộc chủ nghĩa của họ. Đảng Công nhân Đức, chẳng bao lâu đổi tên thành Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Quốc gia Đức, được lập nên bởi các thợ thủ công và các nhà báo tuyệt vọng để thu hút những người lao động đến chủ nghĩa dân tộc. Với tư cách như vậy cương lĩnh ban đầu của họ đã gồm ‘sự quốc hữu hóa tất cả các doanh nghiệp’, chia ‘lợi nhuận từ thương mại bán buôn’, cấm lao động trẻ em và ‘sự mở rộng … an toàn cho những người già’. Cương lĩnh của những người Phát xít Italia cũng thế, ban đầu đã gồm việc đánh thuế nặng lên vốn, sự tham gia của công nhân vào sự quản lý ngành công nghiệp, quyền bầu cử của phụ nữ và tịch thu lợi nhuận chiến tranh – nhưng, lại lần nữa, cho mục đích ‘siêu việt (vượt quá)’ của sự chia rẽ giai cấp bên trong một nhà nước tập đoàn.39

Dù các phương tiện đã gồm những sự cám dỗ kinh tế, mục tiêu của kinh tế chính trị học phát xít là tinh thần. Biện minh cho ‘cuộc nổi dậy quán bia’ thất bại trước các bồi thẩm, Hitler đã giải thích logic của các hành động của ông: cách mạng 1918 hạ bệ Kaiser (Hoàng đế) và chấm dứt chiến tranh đã là một ‘hành động tội phạm chưa từng có’ mà có nghĩa không chỉ rằng chủ nghĩa Marx phải bị ‘đánh cho đến cùng’, mà rằng ‘những người lao động Đức, quần chúng rộng rãi, phải biến thành quốc gia một lần nữa’. Ngay cả khi nắm quyền, với phong trào công nhân bị thanh lý hoàn toàn, chế độ đã hết sức cố gắng để kích thích sự ủng hộ của giai cấp-lao động: việc cải đạo những người lao động sang chủ nghĩa xã hội quốc gia đã là một phần cốt yếu của cương lĩnh, nếu vì không lý do nào khác hơn việc họ đại diện một lực lượng có tổ chức tiềm năng mà có thể phá vỡ sự cai trị Nazi.40

Nói giảm đến mức tối thiểu, đấy không phải là tình hình đối mặt bởi cực hữu ngày nay. Chẳng ở đâu nó đối mặt với một phong trào công đoàn mạnh mẽ, hay thậm chí một nền dân chủ xã hội vững chãi, nói chi đến mối đe dọa cách mạng. Trong chừng mực mà giai cấp lao động phải bị ‘quốc hữu hóa’, chính bởi vì các xu hướng toàn cầu hóa của hệ thống tư bản chủ nghĩa. Cực hữu đương thời cũng chẳng thậm chí đề xuất một lựa chọn thay thế cố kết cho toàn cầu hóa. Trong các chủ nghĩa phát xít chớm nở của phương Nam toàn cầu nó thậm chí hiếm khi thử. Cực hữu ngày nay bị ảnh hưởng mạnh bởi hàng thập kỷ của kinh tế chính trị học tân tự do. Ở Pháp và Hungary, các đảng cực-hữu đã công khai thử nghiệm với các khía cạnh của biến thể Đức của chủ nghĩa tân tự do được biết đến như ordoliberalism, gồm sự lãnh đạo nhà nước kỹ trị, mạnh của nền kinh tế để nuôi dưỡng sự cạnh tranh tư bản chủ nghĩa và tổ chức các chính sách trừng phạt khắc nghiệt để giải quyết nghèo khổ, những người nổi loạn và di cư. Tại Ấn Độ, Narendra Modi đã mở đường một phiên bản chuyên quyền của sự cai trị tân tự do. Tại Mỹ Latin, các nhà lãnh đạo như Jair Bolsonaro ở Brazil và Javier Milei ở Argentina là những người tiêu biểu hung hăng của chủ nghĩa tự do kinh tế.41

Điều này không phải ngược-trực giác như nó có thể có vẻ. Chủ nghĩa tân tự do được sinh ra như một phản ứng dữ dội chống lại nền dân chủ quần chúng và các sự xâm nhập của nhà nước phúc lợi và các quyền con người về các quyền tài sản. Như Quinn Slobodian diễn đạt trong phê phán gay gắt của ông đối với các nhà chủ trương toàn cầu hóa, ‘dự án tân tự do tập trung vào việc thiết kế các định chế—không phải để giải phóng các thị trường mà để nhốt chúng lại, để tiêm chủng chủ nghĩa đế quốc chống lại mối đe dọa của nền dân chủ’. Từ việc Ludwig von Mises ca ngợi chế độ độc tài Dollfuss của Austria đến việc Friedrich von Hayek ủng hộ Tướng Pinochet của Chile, chủ nghĩa tân tự do được buông lỏng mạnh mẽ về dùng chế độ chuyên quyền để đạt các mục đích này. Và trong dòng chính của đạo lý tân tự do đã luôn là sự dùng nhà nước để củng cố các giá trị Kitô giáo, gia đình và quốc gia chống lại ảnh hưởng ăn mòn của chủ nghĩa xã hội. Vậy thì, có một sự chồng gối mạnh giữa các khía cạnh của chủ nghĩa tân tự do và kinh tế chính trị học phát xít. Cực hữu ngày nay ủng hộ sự quản lý Darwinist xã hội của người nghèo và xu hướng của nó để coi các vấn đề xã hội như các vấn đề chủng tộc hay sắc tộc.42

Ở nơi chủ nghĩa dân tộc tai họa có đoạn tuyệt với nền kinh tế chính trị tân tự do, dường như, là trong việc nó bác bỏ các định chế của chủ nghĩa tân tự do, như Liên Âu và NAFTA. Chủ nghĩa dân tộc tai họa chọc tức chống lại cái lồng sắt của các ràng buộc ‘toàn cầu chủ nghĩa’ lên nhà nước-quốc gia. Thế nhưng điều này chỉ đúng một phần, và chỉ ở phương Bắc toàn cầu, nơi mức độ của sự nổi loạn cho đến nay đã có hình thức của các cuộc chiến tranh thương mại, thuế quan nhập khẩu và các đề xuất ưu đãi cho những người lao động ‘bản địa’ hơn cho những người nhập cư. Trump, Le Pen, những người Brexiteer, Orbán và vân vân vẫn chưa thực hiện một sự đoạn tuyệt quyết định với toàn cầu hóa; trong khi Duterte, Modi và Bolsonaro không phải là bạn của chủ nghĩa bảo hộ. Trong thời gian tại chức của mình, Duterte thậm chí đã công kích chống lại ‘chủ nghĩa bảo hộ elite’. Một sự vi phạm khác trong sự ve vãn của chủ nghĩa dân tộc tai họa với một hình thức của chính sách công nghiệp do nhà nước-lãnh đạo mà, bằng sự hỗ trợ nhắm tới các phần dễ bị tổn thương hay tụt hậu của công nghiệp hay cơ sở hạ tầng quốc gia, ‘làm méo mó’ thị trường. Thế nhưng ngay cả điều này, từ ‘mô hình Gujarat’ nổi tiếng ở Ấn Độ đến ‘mô hình Davao’ ở Philippines, đã đạt được bằng việc dùng các cơ chế tân tự do quen thuộc về cắt giảm thuế và ‘các đối tác công-tư (PPP)’. Điều này có nghĩa rằng trong khi một nhúm công ty với sự tiếp cận nhà nước được lợi từ những trợ cấp nặng cho việc thực hiện các dự án then chốt, quá trình tiếp tục là tìm kiếm-lợi nhuận và do khu vực tư nhân dẫn dắt. Và nếu nó đến với sự thiệt hại của chi tiêu về sức khỏe và phúc lợi, hay không đếm xỉa đến những nhu cầu khí hậu cấp bách hoặc các quyền của người bản địa, điều này càng làm cho con đường càng cơ bắp tới cái Modi gọi là ‘sự nâng cao’.43

Cực hữu mới không, và không thể, tách hẳn khỏi các rìa tân phát xít của nó, đề xuất sự ‘siêu việt’ giai cấp trong bất cứ hình thù nào. Nó không phải là tái phân phối, ngay cả trong đối lập. Nhiều nhất nó sửa đổi sự cạnh tranh gay gắt mặt khác nó nhiệt tình ủng hộ với những sự ưu ái quốc gia hay làm giảm các tác động của nó cho các nhóm cử tri nào đó với các khoản chuyển tiền mặt. Nó cũng chẳng tôn sùng nhà nước như chủ nghĩa phát xít cổ điển đã tôn sùng. Trong khi nó hung hăng trong việc dùng cánh tay đàn áp của nhà nước để truy đuổi các kẻ thù quốc gia, nó thường thù địch nếu không hoang tưởng về những sự can thiệp phúc lợi hay y tế của nhà nước. Nó cũng chẳng đưa ra bất kể triển vọng không tưởng nào cho việc xây dựng ‘đàn ông mới’ hay ‘đàn bà mới’ từ những vật liệu của một xã hội tan vỡ. Ngược lại, nó được thuyết phục rằng các kế hoạch sắp đặt xã hội to lớn là dự án nham hiểm của ‘những người chủ trương toàn cầu hóa’ và ‘các nhà Marxist văn hóa’. Nó thậm chí cảnh giác đến mức sợ bất kể tuyên bố nào được đưa ra nhân danh ‘xã hội’, mà luôn trên bờ vực của việc hoạn cá nhân đầy nam tính.

Trong khi giữa hai cuộc chiến tranh chủ nghĩa phát xít đã là một hiện tượng của các quốc gia tư bản chủ nghĩa phát triển-chậm, của cái gọi là ‘các quốc gia vô sản’ như Mussolini đã mô tả Italy, chủ nghĩa dân tộc tai họa giải quyết vấn đề của sự đình trệ hay sụt giảm tương đối trong hệ thống quốc tế. Trong khi chủ nghĩa phát xít đã bén rễ ở Đức và Italy một phần như một giải pháp thuộc địa cho sự lệ thuộc tương đối của chúng, sự bị đẩy xuống hạng thấp của ‘chuỗi đế quốc’ như Nicos Poulantzas diễn đạt, chủ nghĩa dân tộc tai họa hoàn toàn chấp nhận sức mạnh chữa trị của cái Ravinder Kaur gọi là ‘quốc gia có thương hiệu’ như một trung tâm cho đầu tư. Quả thực, như Kaur tiếp tục nói, có một sự cộng sinh giữa quốc gia tưởng tượng như một không gian nguồn lực bị giới hạn và quốc gia tưởng tượng qua lăng kính của chủ nghĩa chuyên chế sắc tộc: giữa siêu-chủ nghĩa đế quốc và siêu-chủ nghĩa dân tộc.

Những gì chủ nghĩa dân tộc tai họa mời chào, thay cho sự siêu việt, là chủ nghĩa đế quốc quốc gia cơ bắp (muscular national imperialism). Nó hứa hẹn, như Donald Trump gợi ý, để khiến chủ nghĩa đế quốc ‘hoạt động’, nhưng theo một cách rất khác với những gì chúng ta đã quen với. Dù cho các số đo về tăng trưởng và dữ liệu việc làm vẫn quan trọng, ‘nền kinh tế’ được coi như một không gian đạo đức trong đó được cho là những người sai đã bị thua. Những người nhập cư Mexican, Trung quốc, Muslim, Đông Âu, những kẻ nghiện ma túy, các tội phạm, tầng lớp dưới vô tích sự, các thiểu số đủ loại đã công khai thịnh vượng với chi phí của giai cấp lao động bản địa. Chủ nghĩa dân tộc tai họa hứa rằng chủ nghĩa đế quốc – bị tước đi các quyền hưởng cho các thiểu số, hoặc bị tước đi những dàn xếp thương mại hay di cư mà làm lợi cho những người không phải là công dân, được những sự bảo vệ quốc gia khoanh vùng bảo vệ – sẽ [chỉ] gồm những người nó cho là những người lao động bản địa trong sự năng động đổi mới của nó. ‘Việc làm’ và ‘đầu tư’ trở thành những ngạn ngữ cho sự nâng cao sắc tộc. Đạo đức của chiến tranh nhân dân chống lại các kẻ thù quốc gia vẽ ra, hơn là thay thế, chiến tranh của tất cả chống lại tất cả trong sự theo đuổi tư-lợi.

Về mặt vật chất thuần túy, đây là một sự chào hàng chính trị nghèo nàn. Thu nhập trung bình dưới Trump đã tăng chậm hơn dưới tiền nhiệm của ông, và những người giàu nhận được nhiều hơn bất cứ ai khác. Dưới Bolsonaro, ngay cả trước đại dịch, thu nhập trung bình đã giảm. Tại Ấn Độ của Modi, chi-tiêu tiêu-dùng trung bình đã sụt. Ở Philippines, trước đại dịch, số những người Filipino đánh giá mình là ‘nghèo’ đã đạt một đỉnh cao 5-năm với 54 phần trăm trong 2019.44 Trong mức độ nào đó, sự hấp dẫn của lời đề nghị này phải phản ánh sự ít ỏi của các lựa chọn thay thế do hệ thống dân chủ đưa ra. Nhưng lợi thế của nó so với các đối thủ rõ ràng không phải là về bất kể phúc lợi vật chất thêm nào, mà là về thặng dư tâm lý học được sự đổi mới dân tộc chủ nghĩa đưa ra.

Đưa đến cực đoan của nó, như chúng ta sẽ thấy trong chương 5, logic này là thích hợp với cương lĩnh nâng cao và sự phát triển quốc gia qua bạo lực thanh trừng. ‘Chủ nghĩa dân túy kinh tế’, hóa ra là, với sự rối rít tối thiểu có thể biến hình thành chủ nghĩa dân túy tàn sát, hoặc chủ nghĩa dân túy đội-tử thần.

Chú Thích:

  1. 34. Được trích trong Valeria Wagner, Stéphanie Girardclos and Elizabeth Kukorelly Leverington, ‘Arrêt d’urgence. Regards croisés sur des impasses contemporaines’, EU-topías 12 (2016), pp. 63–6.
  2. 35. ‘This chart shows how much more common natural disasters are becoming’, World Economic Forum, 3 September 2020.
  3. 36. Alan Rappeport and Jeanna Smialek, ‘I.M.F. Predicts Worst Downturn Since the Great Depression’, New York Times, 14 April 2020.
  4. 37. Bloch được trích trong Anson Rabinbach, ‘Unclaimed Heritage: Ernst Bloch’s Heritage of Our Times and the Theory of Fascism’, New German Critique 11: 5 (1977).
  5. 38. Theodor Adorno, ‘Spengler after the Decline’, trong Prisms, MIT Press, Cambridge, MA, 1997; Catherine Keller, Facing Apocalypse: Climate, Democracy, and Other Last Chances, Orbis, Maryknoll, NY, 2021 Kindle loc. 79; China Miéville, A Spectre, Haunting: On the Communist Manifesto, Head of Zeus, London, 2022, pp. 154–60.
  6. 39. Maurice Blanchot, ‘Apocalypse is disappointing’, trong Elizabeth Rottenberg, trans., Friendship, Stanford University Press, Redwood City, CA, 1997, pp. 101–8.
  7. GIAI CẤP: KHÔNG PHẢI KINH TẾ, NGỐC Ạ
  8. 1. Được trích trong Christof Parnreiter, ‘America first! Donald Trump, the demise of the U.S. hegemony and chaos in the capitalist world-system’, Zeitschrift für Wirtschaft sgeographie 62: 1 (2018), pp. 1–13.
  9. 2. Matthew Smith, ‘The “extremists” on both sides of the Brexit debate’, YouGov, 1 August 2017.
  10. 3. Manuel Funke, Moritz Schularick and Christoph Trebesch, ‘Going to Extremes: Politics after Financial Crisis, 1870–2014,’ CESifo Working Paper, No. 5553, Center for Economic Studies and ifo Institute (CESifo), Munich, 2015.
  11. 4. Roderick Kiewiet Macroeconomics and Micropolitics: The Electoral Effects of Economic Issues, University of Chicago Press, Chicago, 1984; David O. Sears, Richard R. Lau, Tom R. Tyler and Harris M. Allen Jr., ‘Self-interest vs. symbolic politics in policy attitudes and presidential voting’, American Political Science Review 74 (1980), pp. 670–84; D. R. Kinder, G. S. Adams, P. W. Gronke, ‘Economics and politics in the 1984 American presidential election’, American Journal of Political Science 33: 491 (1989); ‘CSI Brexit 4: People’s Stated Reasons for Voting Leave or Remain’, Centre for Social Investigation, Nuffield College, 24 April 2018.
  12. 5. Albert O. Hirschmann, The Passions and the Interests: Political Arguments for Capitalism before Its Triumph, Princeton University Press, Princeton, NJ, 1977.
  13. 6. Karl Marx, ‘Economic and Philosophic Manuscripts’, trong Early Writings, Penguin, 1975, p. 390.
  14. 7. Andrew Sayer, The Moral Significance of Class, Cambridge University Press, Cambridge, 2005, p. 150.
  15. 8. David Walsh, Ruth Dundas, Gerry McCartney et al., ‘Bearing the burden of austerity: how do changing mortality rates in the UK compare between men and women?’, Journal of Epidemiology and Community Health (2022), pp. 1–7; Gerry McCartney, David Walsh, Lynda Fenton, Rebecca Devine, ‘Resetting the course for population health: evidence and recommendations to address stalled mortality improvements in Scotland and the rest of the UK’, Glasgow Centre for Population Health/University of Glasgow, 2022.
  16. 9. Max Scheler, Resentment, Marquette University Press, Milwaukee, WI, 2007, p. 68; Karen Wells and Sophie Watson, ‘A politics of resentment: Shopkeepers in a London neighbourhood’, Ethnic and Racial Studies 28: 2 (March 2005), pp. 261–77; Joseph Maslen, ‘Thatcher and the Politics of Class Resentment: Culture, Power and Shame in Contemporary British History’, trong Bernardino Fantini, Dolores Martín Moruno and Javier Moscoso, eds, On Resentment: Past and Present, Cambridge Scholars Publishing, Newcastle upon Tyne, 2013; Vron Ware, ‘Towards a Sociology of Resentment: A Debate on Class and Whiteness’, Open University, Sociological Research Online 13: 5, p. 9.
  17. 10. Silvia Federici, Caliban and the Witch: Women, the Body, and Primitive Accumulation, Penguin Books, 2021, p. 213; Robin Briggs, Witches and Neighbours: The Social and Cultural Context of European Witchcraft, Blackwell, Oxford, 2002, p. 66.
  18. 11. Jason Farrell, ‘Farage Targeting “Forgotten” Working Class’, Sky News, 24 September 2014; David Smith, ‘Steve Bannon: “We’ve turned the Republicans into a working-class party”’, Guardian, 17 December 2019.
  19. 12. Katy Brown and Aurelien Mondon, ‘Populism, the media, and the mainstreaming of the far right: The Guardian’s coverage of populism as a case study’, Politics 41: 3 (2021), pp. 279–95; Aurelien Mondon and Aaron Winter, ‘Whiteness, populism and the racialisation of the working class in the United Kingdom and the United States’, Identities (2018); Andrew Higgins, ‘Wigan’s Road to ‘Brexit’: Anger, Loss and Class Resentments’, New York Times, 5 July 2016; Jon Swaine, ‘White, working-class and angry: Ohio’s left-behind help Trump to stunning win’, Guardian, 9 November 2016; Niraj Chokshi, ‘Trump Voters Driven by Fear of Losing Status, Not Economic Anxiety, Study Finds’, New York Times, 24 April 2018; Isaac Chotiner, ‘Status Whoa’, Slate, 24 April 2018; Drake Buxton, ‘From Obama to Trump: White Status Anxiety in the 2016 Presidential Election’, Doctoral Dissertation, University of North Carolina, 4 April 2018; Diana Mutz, ‘Status threat, not economic hardship, explains the 2016 presidential vote’, Proceedings of the National Academy of Sciences 115: 19 (May 2018); Damon Young, ‘This Is What White Supremacy Looks Like’, The Nation, 9 November 2016; Vivienne Walt, ‘Marine Le Pen Is Finding Support in Rural France by Following Donald Trump’s Playbook’, Time, 19 April 2022.
  20. 13. Mike Juang, ‘A secret many small-business owners share with Mark Zuckerberg’, CNBC, 17 July 2017. ‘Surprisingly, 10% of FTSE100/250 CEO’s Did Not Attend University’, HR Review, 7 November 2013; ‘Number of workers paid hourly rates with earnings at or below the minimum wage in the U.S. in 2021, by educational attainment’, Statista Research Department, 1 August 2023.
  21. 14. Michael McQuarrie, ‘Trump and the Revolt of the Rust Belt’, LSE blogs, 11 November 2016; David Byler, ‘A Deep Dive Into the Trump and Clinton Coalitions’, Real Clear Politics, 17 November 2016; Kevin Uhrmacher, Kevin Schaul and Dan Keating, ‘These former Obama strongholds sealed the election for Trump’, Washington Post, 9 November 2016; ‘Exit polls of the 2016 presidential elections in the United States on November 9, 2016, percentage of votes by income’, Statista Research Department, 9 November 2016; ‘Exit polls of the 2020 Presidential Election in the United States on November 3, 2020, share of votes by income’, Statista Research Department, 30 September 2022; Aurelien Mondon and Aaron Winter, Reactionary Democracy: How Racism and the Populist Far Right Became Mainstream, Verso, London and New York, 2022, pp. 90–1.
  22. 15. Jake Rosenfeld, ‘The Union Household Vote Revisited’, On Labor, 11 April 2017; Thomas Ferguson, Paul Jorgensen and Jie Chen, ‘Industrial Structure and Party Competition in an Age of Hunger Games: Donald Trump and the 2016 Presidential Election’, Institute for New Economic Thinking, Working Paper No. 66, January 2018; Randall Akee, ‘Voters and Income’, Econofact, 7 February 2019; M. Gilens and B. Page, ‘Testing Theories of American Politics: Elites, Interest Groups, and Average Citizens’, Perspectives on Politics 12: 3 (2014), pp. 564–81; Frances Fox Piven and Richard A. Cloward, Why Americans Don’t Vote, Pantheon Books, New York, 1989.
  23. 16. ‘Changing Face of America Helps Assure Obama Victory’, Pew Research Center, 7 November 2012; ‘An examination of the 2016 electorate, based on validated voters’, Pew Research Center, 9 August 2018; ‘Behind Biden’s 2020 Victory’, Pew Research Center, 30 June 2021; ‘How Groups Voted in 1984’, Roper Center for Public Opinion Research: cornell.edu; Nikhil Kumar Sengupta, Danny Osborne and Chris G. Sibley, ‘On the Psychological Function of Nationalistic “Whitelash”’, Political Psychology 40: 4 (2018), pp. 759–75.
  24. 17. Matt Bruenig, ‘The Racial Wealth Gap Is About the Upper Classes’, People’s Policy Project, 29 June 2020; Drake Buxton, ‘From Obama to Trump: White Status Anxiety in the 2016 Presidential Election’, Doctoral Dissertation, University of North Carolina, 4 April 2018; Herbert Gutman, ‘The Negro and the United Mine Workers of America: The Career and Letters of Richard L. Davis and Something of their Meaning, 1890–1900’, in Work, Culture, and Society in Industrializing America: Essays in American Working-Class and Social History, Random House, New York, 1976, pp. 121–208; for a critique of Gutman, xem Herbert Hill, ‘Myth-Making as Labor History: Herbert Gutman and the United Mine Workers of America’, International Journal of Politics, Culture, and Society 2 (1988), pp. 132–200; and Joe William Trotter, Jr., ‘The Dynamic of Race and Ethnicity in the US Coal Industry’, IRSH 60 (2015), Special Issue, pp. 145–64; dữ liệu gợi ý rằng Trump mất sự ủng hộ về di cư nhưng được sự ủng hộ về thương mại được thấy trong Diana Mutz, ‘Status threat, not economic hardship, explains the 2016 presidential vote’, Proceedings of the National Academy of Sciences 115: 19 (May 2018).
  25. 18. C. Jaffrelot, ‘Class and Caste in the 2019 Indian Election – Why Have So Many Poor Started Voting for Modi?’, Studies in Indian Politics 7: 2 (2019), pp. 149–60.; Samarth Bansal, ‘How India voted in 2019 election? Here is what India Today-Axis My India post-poll study tells us’, India Today, 4 June 2019. Sergio Costa and Renata Motta, ‘Social Classes and the Far Right in Brazil’, in Conor Foley, ed., In Spite of You: Bolsonaro and the New Brazilian Resistance, OR Books, London and New York, 2019, Kindle loc. 1737; Benjamin Junge, ‘“Our Brazil Has Become a Mess”: Nostalgic Narratives of Disorder and Disinterest as a “Once-Rising Poor” Family from Recife, Brazil, Anticipates the 2018 Elections’, The Journal of Latin American and Caribbean Anthropology 24: 4 (December 2019), pp. 1–18.
  26. 19. M. Garrido, ‘A conjunctural account of upper- and middle-class support for Rodrigo Duterte’, International Sociology 35: 6 (2020), pp. 651–73; Julio C. Teehankee, ‘Was Duterte’s Rise Inevitable?’, trong Nicole Curato, ed., The Duterte Reader: Critical Essays on Rodrigo Duterte’s Early Presidency, Cornell University Press, Ithaca, NY, 2017, p. 33; xem cả Ronald D. Holmes, ‘Who Supports Duterte?’ trong Curato, 2017; Dean C. Dulay, Allen Hicken, Anil Menon and Ronald Holmes, ‘Continuity, history, and identity: Why Bongbong Marcos won the 2022 Philippine Presidential Election’, Pacific Affairs 96: 1 (2023), pp. 85–104.
  27. 20. Davide Vampa, Brothers of Italy: A New Populist Wave in an Unstable Party System, Palgrave Macmillan, 2023, pp. 93–6; Marco Improta, Elisabetta Mannoni, Costanza Marcellino, Federico Trastulli, ‘Voters, issues, and party loyalty: The 2022 Italian election under the magnifying glass’, Quaderni dell’Osservatorio elettorale – Italian Journal of Electoral Studies 85: 2 (2022), pp. 3-27; ‘KO przed PiS tylko wśród najlepiej wykształconych’, TVN24, 13 October 2019; Gábor Scheiring, ‘Left Behind in the Hungarian Rustbelt: The Cultural Political Economy of Working-Class Neo-Nationalism’, Sociology 54: 6 (2020), pp. 1159–77; Nicolas Berrod, ‘Présidentielle : âge, profession, niveau de vie … qui a voté quoi?’, Le Parisien, 10 April 2022.
  28. 21. ‘Donald Trump: Autoworkers won’t have jobs in three years because all EVs will be made in China’, CNBC, 15 September 2023; Alex Press, ‘Trump Is Speaking Tonight in Michigan at a Nonunion Auto Shop, as a Guest of Its Boss’, Jacobin, 27 September 2023; ‘Bonus Edition: Bannon and Navarro on Biden’s Open Border Debacle and UAW Strike’, Peter Navarro’s Taking Back Trump’s America, 17 September 2023; Eli Rosenberg, ‘Biden wants to raise federal minimum wage. Trump doesn’t. A look at their debate disagreement’, Washington Post, 23 October 2020; ‘Donald Trump’s Catastrophic and Devastating Anti-Labor Track Record’, AFL-CIO, 27 September 2023.
  29. 22. Michael Noblecourt, ‘Trade Unions and Right-Wing Populism in Europe: Country Study: France’, Friedrich-Ebert-Stiftung, February 2023; Tom Barnes, ‘Indian Labour Movements under Modi’, in Ivan Franceschini and Nicholas Loubere, eds, Gilded Age, ANU Press, Acton, ACT, 2017; Akriti Bhatia, ‘New Labour Codes: After Rushing Them through Parliament, Why Is the Govt Delaying Implementation?’, The Wire, 1 October 2021; Sidnei Machado, ‘The new offensive against the regulations of labor by Jair Bolsonaro’s government’, Revue de droit comparé du travail et de la sécurité sociale [en ligne] 4, 2020; Hélène Bienvenu, ‘In Hungary, the right to strike has been curtailed by Viktor Orbán’, Equal Times, 27 June 2022; Sam Meredith, ‘Hungary’s new “slave law” risks first general strike since the fall of communism’, CNBC, 11 January 2019; Seongcheol Kim, Samuel Greef and Wolfgang Schroeder, ‘Hungary’, trong The Far Right in the Workplace: A Six-Country Comparison, Palgrave Macmillan, New York, 2022.
  30. 23. Mondon and Winter, Reactionary Democracy, especially chapter 3. Robert Philpot, ‘Labour isn’t working’, Progress Magazine, 19 April 2011.
  31. 24. Về ý thức hệ của công việc và giai cấp lao động ‘đáng kính’, xem Stuart Hall et. al., Policing the Crisis: Mugging, the State, and Law and Order, Macmillan, 1978, pp. 140–5; ‘Remarks by Vice President Pence on the Trump Administration’s Pro-Growth Economic Policies’, Somerset, PA, 30 September 2020; David Smith, ‘Donald Trump Jr’s convention speech echoes Melania – both the good and bad’, Guardian, 20 July 2016.
  32. 25. Sigmund Freud, Civilization and its Discontents, Penguin, London and New York, 2002
  33. 26. David R. Roediger and Elizabeth D. Esch, The Production of Difference: Race and the Management of Labor in U.S. History, Oxford University Press, Oxford and New York, 2012.
  34. 27. M. G. Marmot, G. Rose, M. Shipley, P. J. Hamilton, ‘Employment grade and coronary heart disease in British civil servants’, Journal of Epidemiology and Community Health 32: 4 (1978), pp. 244–9; M. G. Marmot et al., ‘Health inequalities among British civil servants: the Whitehall II study’, Lancet (1991); Dr Jane E. Ferrie, ‘Work Stress and Health: The Whitehall II study’, Public and Commercial Services Union, 2004; Jeffrey Pfeffer, Dying for a Paycheck: How Modern Management Harms Employee Health and Company Performance – And What We Can Do About It, Harper Business, New York, 2018.
  35. 28. Richard Sennett and Jonathan Cobb, The Hidden Injuries of Class, Verso, London and New York, 2023, p. 16; Andrew Sayer, The Moral Significance of Class, Cambridge University Press, Cambridge, 2005, p. 153; Diane Reay, ‘The Zombie Stalking English Schools: Social Class and Educational Inequality’, British Journal of Educational Studies 54: 3 (September 2006), pp. 288–307; Beverley Skeggs, Formations of Class and Gender: Becoming Respectable, Sage, Thousand Oaks, CA, 1997.
  36. 29. ‘Trade Union dataset’, OECD, available at oecd.org; ‘The Labour Share in G20 Economies’, International Labour Organization for Economic Co-operation and Development with contributions from International Monetary Fund and World Bank Group, Report prepared for the G20 Employment Working Group Antalya, Turkey, 26–27 February 2015; ‘Just 10 per cent of workers receive nearly half of global pay’, International Labor Organization, 4 July 2019.
  37. 30. Mark Ames, Going Postal: Rage, Murder, and Rebellion: From Reagan’s Workplaces to Clinton’s Columbine and Beyond, Soft Skull Press, New York, 2005.
  38. 31. Sarah Engler and David Weisstanner, ‘The threat of social decline: income inequality and radical right support’, Journal of European Public Policy, 2020; Richard Stöss, ‘Trade Unions and Right-Wing Extremism in Europe’, Friedrich-Ebert-Stiftung, Berlin, 2017.
  39. 32. Robin Mann and Steve Fenton, ‘The Personal Contexts of National Sentiments’, Journal of Ethnic and Migration Studies 35: 4 (April 2009), pp. 517–34; R. Mann and S. Fenton, ‘English National Identity, Resentment and the Leave Vote’, Discover Society 45 (2017).
  40. 33. Philip Mirowski, The Road from Mont Pelerin: The Making of the Neoliberal Thought Collective, Harvard University Press, Cambridge, MA, 2009; Philip Mirowski, Never Let a Serious Crisis Go to Waste: How Neoliberalism Survived the Financial Meltdown, Verso, London and New York, 2014; về cơ sở ‘bộ lạc’ của chủ nghĩa bình quân, xem F. A. Hayek, The Fatal Conceit: The Errors of Socialism, University of Chicago Press, Chicago, IL, 1988, chapter 1.
  41. 34. James M. Buchanan, ‘The Achievement and the Limits of Public Choice in Diagnosing Government Failure and in Offering Bases for Constructive Reform’; và William Niskanen, ‘Between Self Interest and Public Interest’, trong Horst Hanusch, ed., Anatomy of Government Deficiencies: Proceedings of a Conference held at Diessen, Germany July 22–25, 1980, Springer-Verlag, Berlin Heidelberg GmbH, 1983; Jessica M. Whyte, The Morals of the Market: Human Rights and the Rise of Neoliberalism, Verso, London and New York, 2019, pp. 100 và 125; Adam Kotsko, Neoliberalism’s Demons: On the Political Theology of Late Capitalism, Stanford University Press, Stanford, CA, 2018.
  42. 35. Wendy Brown, In the Ruins of Neoliberalism: The Rise of Antidemocratic Politics in the West (The Wellek Library Lectures), Columbia University Press, New York, 2019; Whyte, The Morals of the Market.
  43. 36. Mark Fisher, K-Punk: The Collected and Unpublished Writings of Mark Fisher (2004-2016), Repeater Books, London, 2018, Kindle loc. 10175; Raymond Williams, A Short Counter-Revolution: Towards 2000 Revisited, Sage, London, 2015, chapter 5.
  44. 37. George L. Mosse, The Nationalization of the Masses: Political Symbolism and Mass Movements in Geramny from the Napoleonic Wars through the Third Reich, Howard Freitig, New York, 1975; Mann, Fascists, Kindle loc. 250–7.
  45. 38. Kevin Passmore, Fascism: A Very Short Introduction, Oxford University Press, 2002, p. 226; Richard Griffiths, Fascism: A History, Continuum, 2005, p. 225–6.
  46. 39. Griffiths, Fascism, p. 227; Robert O. Paxton, The Anatomy of Fascism, Penguin Books, New York, pp. 5–6; ‘The Program of the German Workers’ Party: The Twenty-Five Points’ trong Anson Rabinbach and Sander L. Gilman, eds, The Third Reich Sourcebook, University of California Press, Berkeley and Los Angeles, 2013, pp. 12–14.
  47. 40. Hitler được trích trong Passmore, Fascism, p. 226; Tim Mason, ‘The Containment of the Working Class in Nazi Germany’, trong Jane Caplan, ed., Nazism, Fascism and the Working Class, Cambridge University Press, 1995, p. 231.
  48. 41. Ian Bruff and Cemal Burak Tansel, ‘Authoritarian neoliberalism: trajectories of knowledge production and praxis’, Globalizations 16: 3 (2019), pp. 233–4; Dorit Geva, ‘On the Ordonationalist Political Party: The French National Front and Hungary’s Fidesz’, trong Jenny Andersson and Olivier Godechot, eds, Destabilizing Orders – Understanding the Consequences of Neoliberalism: Proceedings of the MaxPo Fifth-Anniversary Conference, Paris, January 12–13, 2018; Jostein Jakobsen and Kenneth Bo Nielsen, ‘Narendra Modi’s authoritarian neoliberalism’, Terra Nullius: Repossessing the existent, 16 March 2021; Subir Sinha, ‘“Strong leaders”, authoritarian populism and Indian developmentalism: The Modi moment in historical context’, Geoforum 124 (August 2021), pp. 320–33; Rodrigo Nunes, ‘Of what is Bolsonaro the name?’, Radical Philosophy 2: 9 (Winter 2020–1).
  49. 42. Quinn Slobodian, Globalists: The End of Empire and the Birth of Neoliberalism, Harvard University Press, Cambridge, MA, and London, 2018, Kindle loc. 85; William E. Scheuerman, Carl Schmitt: The End of Law, Rowman & Littlefield, Lanham MD, 1999; Renato Christi, Carl Schmitt and Authoritarian Liberalism: Strong State, Free Economy, University of Wales Press, Cardiff, 1998; Perry Anderson, ‘The Intransigent Right’, in Spectrum: From Right to Left in the World of Ideas, Verso, London and New York, 2005, pp. 13–15; Whyte, The Morals of the Market; N. Davidson and R. Saull, ‘Neoliberalism and the Far-Right: A Contradictory Embrace’, Critical Sociology 43: 4–5 (2017), pp. 707–24.
  50. 43. E. Sheppard, ‘What’s next? Trump, Johnson, and globalizing capitalism’, Environment and Planning A: Economy and Space 52: 4 (2020), pp. 679–87; Manny Mogato, Karen Lema, David Lague and Jerome Morales, ‘Blood and benefits: Duterte imposes his hometown formula on the Philippines’, Reuters Investigates, 28 December 2016; Siegfried Alegado, ‘Duterte Revamps His List of Priority Infrastructure Projects’, Bloomberg, 19 October 2019; Alvin Camba, ‘Cementing development and (un)steeling decarbonization: The political economy of infrastructure drive in Duterte’s Philippines’, Energy Research and Social Science 96 (February 2023); Campos Mellos Advogados, ‘Opportunities of Public-Private Partnerships in New Brazilian Government’, 28 June 2023; Jake Spring, ‘Bolsonaro-backed highway targets heart of Brazil’s Amazon’, Reuters, 2 October 2019; Dom Phillips, ‘“Project of death”: alarm at Bolsonaro’s plan for Amazon-spanning bridge’, Guardian, 10 March 2020; Deepanshu Mohan, Soumya Marri, Bilquis Calcuttawala, Malhaar Kasodekar, Aniruddh Bhaskaran and Hemang Sharma, ‘Modi Govt’s Fiscal Policy on Welfare: Trends So Far and What to Expect’, The Wire, 19 January 2023. ‘“Ensures Upliftment”: PM’s Praise for Public-Private Partnership Model’, NDTV, 24 August 2022.
  51. 44. David Cay Johnston, ‘You Can Thank Donald Trump If You’re Feeling Poorer Today’, org, 8 June 2021; ‘Is It True that Incomes Have Risen $5,000 under Trump?’, Joint Economic Committee, 2019; Jessica Goodhart and Danny Feingold, ‘Household incomes grew more slowly in a majority of states under Trump – even before COVID-19’, USA Today, 26 October 2020; ‘Brazil Became Poorer during Bolsonaro Government’, Folha de Sao Paulo, 18 July 2022; K. N. Ninan, ‘Poverty, inequality have risen in the Modi years’, Deccan Herald, 3 November 2022; ‘As Duterte stepped down, more Filipinos tighten belts to make ends meet’, Philippine Daily Inquirer, 4 August 2022.