Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 2 tháng 9, 2025

Tiểu thuyết “Thương ngàn” nhìn từ chấn thương sinh thái

 Phạm Khánh Duy

 

Không sai khi nói rằng, “Thương ngàn” của nhà văn Vĩnh Quyền là tác phẩm hiếm hoi trong dòng văn học sinh thái của Việt Nam. Bởi lẽ, dấu ấn môi trường sinh thái trong văn học Việt Nam thì nhiều, trải dài từ văn học truyền miệng, qua các thời kỳ khác nhau của văn học viết; nhưng những tác phẩm đảm bảo tất cả các yếu tố của văn học sinh thái thì không nhiều. Bằng sự am hiểu về tự nhiên, khối tư liệu khoa học được xử lý công phu và những trải nghiệm sinh thái mà một nhà báo “cự phách” có được, Vĩnh Quyền đã thể nghiệm thành công vấn đề chấn thương tự nhiên, thẳng thắn chỉ rõ những vết sẹo sinh thái và mối quan hệ ngày càng xấu đi giữa con người với Trái Đất.

  1. “Thương ngàn” và những “mảnh vỡ” sinh thái bị chấn thương

Tiểu thuyết “Thương ngàn” có kết cấu 11 chương, tựa như “11 mảnh vỡ sinh thái” được Vĩnh Quyền liên kết bằng “sợi dây” cảm thức sâu sắc hướng về thế giới tự nhiên. Những nỗ lực “giải trung tâm” của Vĩnh Quyền trong “Thương ngàn” không đi theo trật tự quen thuộc thông thường, nghĩa là khởi đầu từ cuộc khủng hoảng sinh thái, tiếp đến là hệ quả, cuối cùng là kêu gọi và đề xuất giải pháp nhằm giảm thiểu những rủi ro sinh thái. Ngược lại, câu chuyện “Thương ngàn” được Vĩnh Quyền “đập” ra thành nhiều “mảnh vỡ”, kết hợp với kiểu trần thuật phi tuyến tính. Câu chuyện về nhân vật “tôi” – một trí thức Huế “nghiện rừng”, câu chuyện huyền thoại “mùa săn máu” của đồng bào Katu và câu chuyện của người cộng sự từng tham gia giải cứu động vật trong vụ cháy rừng thương tâm ở nước Úc được Vĩnh Quyền khéo léo đan xen, xoắn xuýt, chồng chéo lẫn nhau.

Đặc trưng tiểu thuyết của Vĩnh Quyền là sự phân mảnh (fragmented), có vẻ như nhà văn không chấp nhận để cốt truyện, nhân vật tồn tại trọn vẹn mà phân tách ra thành nhiều mảnh vỡ, thậm chí là “mảnh vỡ của mảnh vỡ” (Debris of Debris – tên một tiểu thuyết Anh ngữ của Vĩnh Quyền). “Thương ngàn” cũng không ngoại lệ. Mặc dù cả cốt truyện, nhân vật, không gian và thời gian trong tiểu thuyết “Thương ngàn” bị cắt mảnh, bởi “người ta thôi không còn tin vào những cái tròn trịa, đầy đặn, dễ nắm bắt… thì “vỡ” tức là tiêu chí bản chất của sự vật” (Lê Huy Bắc, 2013, tr.76), nhưng chung quy đó là những mảnh vỡ sinh thái mà nhà văn kiến tạo. Việc cắt mảnh, đập vỡ trong tác phẩm không làm cho người đọc khó nắm bắt câu chuyện, mà phản ánh một thực tại phức tạp, đa chiều, đôi khi hỗn loạn của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.

Khủng hoảng, đứt gãy, chấn thương tự nhiên là vấn đề nhức nhối mà Vĩnh Quyền tập trung thể hiện trong từng mảnh vỡ sinh thái. Dưới sự tác động tiêu cực của con người, đặc biệt là hành vi khai thác trái phép dẫn đến kiệt quệ, thiên nhiên rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng. Bùi Thanh Truyền (2018) cho rằng: “Sự lạm dụng những tiến bộ khoa học đã làm ô nhiễm và cạn kiệt môi trường tự nhiên. Khai thác thuỷ điện không tính đến những tác động môi trường, đánh bắt huỷ diệt, lâm tặc, khoáng tặc… dẫn tới hậu quả của nó là những dải rừng bị bào mòn huỷ hoại, những con sông, dòng thác bị bức tử, loài vật kêu cứu…” (Bùi Thanh Truyền, 2018, tr. 101). Thực trạng đó đã được Vĩnh Quyền lồng ghép trong “Thương ngàn”, bằng một lối văn vừa đậm tính khoa học, vừa giàu chất văn chương. Trong đó, chấn thương của rừng già là điểm mấu chốt mà nhà văn tập trung thể hiện. Tác giả quan sát, nghiên cứu hiện trạng môi trường thiên nhiên, nhận thức rõ sự biến đổi của tự nhiên dưới tác động của con người. Hành vi tận diệt thiên nhiên hiện rõ trong từng trang viết của Vĩnh Quyền. Sự kết hợp giữa ngòi bút tự sự chấn thương của lý thuyết chấn thương và lối viết sinh thái của văn học sinh thái đã giúp Vĩnh Quyền tái hiện vừa bao quát, vừa chi tiết thực trạng thiên nhiên, minh chứng cho tư duy chủ quan, phiến diện của con người khi cho rằng “nhân loại là trung tâm” (anthropocentrism). Theo hành trình của nhân vật “tôi” – người đang thực hiện dự án “Hành Lang Xanh” phục hồi những cánh rừng nguyên sinh bị tổn hại, có thể thấy, thiên nhiên trong “Thương ngàn” đớn đau, rên xiết dưới bàn tay dã man của con người. Hình ảnh “con khỉ mặt đỏ chưa đến một năm tuổi bị rao bán trước cửa hàng” (Vĩnh Quyền, 2023, tr.17) mà nhân vật “tôi” chứng kiến, “cái nhìn con chim là miếng thịt tươi biết bay” và “con người có thể ăn thịt những loài chim đặc hữu Việt Nam, được các nhà khoa học vinh danh “báu vật quốc gia”, như khướu Ngọc Linh” (Vĩnh Quyền, 2023, tr.150), phản ánh tình trạng săn bắt trái phép các loài động vật quý hiếm ngấm ngầm diễn ra. Vĩnh Quyền mở đầu câu chuyện về “tục săn máu” của đồng bào Katu bằng dấu ấn về sự đổi thay của thiên nhiên Trường Sơn: “Hai năm rồi thời tiết thất thường, năm nay hạn còn gay gắt hơn. Rừng tre đã chuyển thành mảng vàng úa giữa nền thường xanh Trường Sơn. Cây trồng cũng không ngoại lệ. Vào cuối thu, đến kỳ thu hoạch vụ ba trăng, mà lúa ngoài rẫy khô dòn như rơm dưới sức nóng thiêu đốt của mặt trời” (Vĩnh Quyền, 2023, tr.25). Khung cảnh những dãy núi sạt lở mà trong cảm nhận của người kể chuyện, đó là “hậu quả nhãn tiền của tầm nhìn ngắn hạn trong khoa học” (Vĩnh Quyền, 2023, tr.47), cũng được mô phỏng lại, cho thấy bộ mặt sinh thái của Trường Sơn không còn giữ nguyên dáng vẻ sơ khai: “Sau tiếng nổ trầm đục mà dữ dội phát ra từ lòng quả núi bên đường, trên trăm mét cao một khoảng rừng keo trồng bục tách, cùng đất đá xô nhau lao xuống, hở lộ mảng sườn núi đỏ ối như máu trong mưa. Trên trời chim nháo nhác bay, dưới đất lợn chó chạy tán loạn. Tiếng kêu “cứu người”, “cứu người” lạc lõng thê lương giữa vùng trung du chỉ mươi nóc nhà” (Vĩnh Quyền, 2023, tr.47-48). Tất cả những biến đổi trên không còn là tín hiệu dự báo, mà đích thị là sự bùng nổ của những thảm hoạ tự nhiên. Không dừng lại ở đó, Vĩnh Quyền tiếp tục mở rộng phạm vi chấn thương sinh thái, nhằm khẳng định đứt gãy sinh thái là vấn nạn đã và đang diễn ra trên toàn cầu. Vụ cháy rừng nước Úc cuối năm 2019, đầu năm 2020, được Vĩnh Quyền lồng ghép trong câu chuyện nhân vật Kiên kể cho “tôi” nghe. Ở đây, Kiên đóng vai trò là người trải nghiệm (nhân vật chứng nhân) và thuật lại tình trạng chấn thương rừng ở Úc, trong đó, chấn thương của muông thú được nhân vật Kiên đặc biệt quan tâm: “Có lẽ trước đó các loài thú nhanh nhạy khác như kangaroo, hươu, nai… đã kịp phóng đến những khoảnh rừng chưa bén lửa. Chính vẻ đủng đỉnh ngây ngô đáng yêu của koala đã hạn chế khả năng thoát hiểm. Thay vì lánh càng xa ngọn lửa càng tốt, chúng leo lên cây gần nhất, ngồi thu lu trông như quả cầu. Thật đau lòng chứng kiến cảnh những con koala xấu số ôm chặt thân cây, cùng cháy rồi cùng rơi rụng” (Vĩnh Quyền, 2023, tr.158). Những hình ảnh đó không xuất phát từ trí tưởng tượng của nhà văn, mà là hiện thực cháy rừng nhức nhối ở “xứ sở Kanguroo” làm chấn động nhân loại. Bởi thế, diễn ngôn chấn thương sinh thái của Vĩnh Quyền có sự kết hợp hài hoà giữa tính thời sự, tính khoa học và tính văn chương.

“Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã đem đến cho con người nhiều tiện nghi đồng thời cũng đẩy con người đến cuộc đối đầu trực tiếp với thiên nhiên” (Trần Thị Ánh Nguyệt, 2023, tr.106). Vốn dĩ, con người được thiên nhiên ưu ái ban cho rất nhiều thứ quý giá. Thế nhưng, khi con người đối xử tệ bạc với thiên nhiên, bức tử tự nhiên vì lợi ích trước mắt, thiên nhiên sẵn sàng “trả thù” con người. Trong cơn thịnh nộ của thiên nhiên, con người trở thành nạn nhân hứng chịu những hậu quả thảm khốc nhất của cuộc khủng hoảng. Trong ký ức của nhân vật “tôi”, cảnh tượng đồng loại bị thiên nhiên nuốt chửng, sinh mệnh con người mong manh trước sức mạnh của tự nhiên, trở thành nỗi ám ảnh sâu đậm: “không quên ánh mắt ngơ ngáo chết điếng của vợ chồng Bảy Trầu trước núi đất đá cây cối đỏ ngầu chồng lấp vào chỗ vốn dĩ là nếp nhà bao năm tích cóp mồ hôi của họ”, “sẽ còn ám ảnh tiếng bé gái thất thanh trong gió ngàn gào tên con mèo cưng mất tích” (Vĩnh Quyền, 2023, tr.75). Sau khi bị con người bóc tách dã man, những ngọn núi, đồi từ lâu tạo nên phong cảnh hùng vĩ của đất nước, đã sạt lở kinh hoàng, vùi lấp bao người vào sâu trong lòng đất. Câu chuyện về thảm hoạ của con người khi đánh mất tự nhiên trở nên chân thực hơn khi Vĩnh Quyền đan cài sự kiện sạt lở tại thuỷ điện Rào Trăng vào mùa đông năm 2020 trong dòng hồi tưởng của nhân vật “tôi”. Hậu quả để lại là “tình cảnh xót xa mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha ngày cận Tết” (Vĩnh Quyền, 2023, tr.168). Dưới ngòi bút phản tư sinh thái, nhà văn đã “truy tìm nguồn gốc của nguy cơ sinh thái” (Bùi Thanh Truyền, 2018, tr.103), “chỉ ra căn nguyên của những thảm hoạ môi trường hiện nay xuất phát từ tư tưởng thống trị tự nhiên, tự coi mình là chúa tể, khai thác, chiếm đoạt, chém giết, đối xử bất nhẫn, vô trách nhiệm mà không chú ý đến sự phát triển bền vững” (Bùi Thanh Truyền, 2018, tr.114). Từ sự kiện đau lòng tại Rào Trăng, người kể chuyện trong “Thương ngàn” đã dũng cảm “thú tội” với tự nhiên về hành động tận diệt sai trái, tàn nhẫn của con người: “Thư đã dùng phép nhân hoá, gọi hiện tượng mưa lũ kéo dài và vỡ núi dồn dập trong tháng 10.2020 tại miền Trung là cuộc trả thù của tự nhiên dành cho con người về hành vi gây thương tổn thế giới tự nhiên. Tôi thì không muốn gán cảm tính hay thuộc tính của người cho tự nhiên. Thiên tai ngày càng nhiều càng dữ dội là kết quả của diễn tiến biến đổi khí hậu mà con người là một tác nhân, cộng với mức khai thác tự nhiên vượt ngưỡng an toàn, lại cũng do con người. Tự nhiên trở nên cực đoan là hệ quả, không hề mang chứa lòng oán hận hay ý chí trả thù” (Vĩnh Quyền, 2023, tr.169-170). Đó là cái nhìn đầy bao dung của Vĩnh Quyền về thiên nhiên, đồng thời xác định việc thiên nhiên bị khủng hoảng ảnh hưởng đến sinh mệnh con người là kết quả tất yếu chứ không phải vì thiên nhiên “trả thù”, “oán hận”.

Với lối viết chấn thương sinh thái cùng thủ pháp “mảnh vỡ” của văn chương hậu hiện đại, Vĩnh Quyền đã tái hiện trong “Thương ngàn” bức tranh sống động về thiên nhiên trong mối quan hệ không thể tách rời với con người. Ở đó, nhà văn đặc biệt chú ý kiến tạo những “mảnh vỡ sinh thái” đang bị tổn thương nghiêm trọng. Từ sự suy giảm nguồn lợi tự nhiên đến cuộc khủng hoảng kinh hoàng của thiên nhiên, mỗi chi tiết trong “Thương ngàn” đều khắc hoạ rõ nét sự chấn thương mà hệ sinh thái phải gánh chịu. Bên cạnh đó, “Thương ngàn” còn khơi nhắc những ký ức chấn thương của thiên nhiên miền Trung trong suốt chiều dài lịch sử. Nhìn thẳng thực trạng tự nhiên và dũng cảm “thú tội” trước thiên nhiên là biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn sinh thái mà Vĩnh Quyền thể hiện trong tác phẩm.

  1. Thương ngàn – tiếng nói cảnh báo và thông điệp phục hồi

Donald Worster (1996) nhấn mạnh: “Nguy cơ sinh thái mang tính toàn cầu mà ngày nay chúng ta phải đối mặt có nguồn gốc không phải ở bản thân hệ thống sinh thái mà ở hệ thống văn hoá của chúng ta. Muốn vượt qua nguy cơ này, tất yếu phải ra sức lý giải minh bạch ảnh hưởng của văn hoá của chúng ta đối với tự nhiên” (Glotfelty C, 1996, p.xxi). Quả thế, để thay đổi tình trạng sinh thái, điều quan trọng là phải củng cố nền tảng văn hoá con người, đặc biệt là lối ứng xử văn minh của con người với tự nhiên. Một thời gian dài, văn hoá ứng xử với thiên nhiên của con người xuống cấp trầm trọng. Vì lợi ích tức thời, con người đã hành xử tàn bạo với thiên nhiên, muông loài. Hệ sinh thái, vì thế, đã bị ảnh hưởng nặng nề. Tổn thương của thế giới tự nhiên đã dẫn đến sự thương tổn của con người. Bởi lẽ, trong cuộc khủng hoảng của thiên nhiên, con người luôn là nạn nhân hứng chịu hậu quả thảm khốc. Từ “diễn xuất” chấn thương (trauma enactment), “Thương ngàn” của Vĩnh Quyền đã cất lên tiếng nói cảnh báo và đưa ra những thông điệp về sự phục hồi nhằm tái thiết sinh thái, xây dựng lại mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với tự nhiên.

“Toàn tác phẩm là những mất mát đầy ám ảnh xoay quanh một quỹ đạo, đó là rừng. Mất đất là mất nước, nhưng mất rừng là mất cả hành tinh, mất luôn cả nhân loại. Thông điệp mang tính toàn cầu đó khiến tiểu thuyết của Vĩnh Quyền thật sự đã “lắng nghe tiếng khóc của Trái Đất” trong bối cảnh khủng hoảng môi trường hiện nay” (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2023). Để giảm thiểu sự suy giảm sinh thái, trong tiểu thuyết “Thương ngàn”, Vĩnh Quyền đã gióng lên tiếng nói cảnh báo về sự đứt gãy nghiêm trọng của tự nhiên và sự sụp đổ của thế giới sống trong một tương lai gần. Lời cảnh tỉnh và thông điệp phục hồi được Vĩnh Quyền đan cài trong nhiều tầng tự sự. Đó là những câu chuyện ra đời trong từng giai đoạn khác nhau: có câu chuyện nhuốm màu sắc dân gian (truyền thuyết “mùa săn máu”), có câu chuyện đậm chất lịch sử (triều Nguyễn với phong trào “Tây Sơn hy vọng”), có câu chuyện giàu tính thời sự diễn ra trong những năm gần đây (vụ sạt lở ở Rào Trăng - Thừa Thiên Huế, vụ cháy rừng ở nước Úc). Nói cách khác, chính những câu chuyện đó cũng là lời cảnh tỉnh và thông điệp phục hồi, kêu gọi con người ý thức về trách nhiệm của mình trong bảo vệ môi trường, chung sống hài hoà với thiên nhiên để có một tương lai bền vững. Không phải ngẫu nhiên mà Vĩnh Quyền đặt nhan đề cho quyển tiểu thuyết là “Thương ngàn” (Heart for Forests). Trong tác phẩm, nhân vật tôi đã bày tỏ tình yêu và cả những bất an với tự nhiên như sau: “Không thuộc về rừng nhưng tôi có nỗi thương ngàn không nguôi” (Vĩnh Quyền, 2023, tr. 75). “Thương ngàn” nghĩa là yêu thương rừng núi; đồng thời cũng là nỗi xót xa, đau đớn, lo lắng trước sự đổi thay theo chiều hướng tiêu cực của rừng nói riêng, thiên nhiên nói chung. “Thương ngàn” trở thành “sợi dây” cảm xúc thống nhất trong toàn bộ tiểu thuyết, đó cũng là chủ đề lớn của tác phẩm. Từ nỗi “thương ngàn”, nhà văn đã trực tiếp đưa ra dự báo về tương lai của Trái Đất nếu như vấn nạn môi trường tiếp tục diễn ra. “Chó rừng gần như tuyệt chủng” (Vĩnh Quyền, 2023, tr.146), “thuỷ tùng nay chỉ có mặt tại nam Trung Quốc, Lào và Việt Nam với tình trạng nguy cấp” (Vĩnh Quyền, 2023, tr.148), “Giới khoa học dấy lên lo ngại nhiều loài động thực vật bản địa có thể đã bị tuyệt chủng trong biển lửa” (Vĩnh Quyền, 2023, tr.156), “núi rừng là chuỗi túi chứa nước khổng lồ, vị trí nào quá tải, cộng với kết cấu yếu sẽ bục nổ như quả bom hỗn hợp nước - bùn - đất - đá” (Vĩnh Quyền, 2023, tr.161)… Đó là diện mạo và trạng thái của tự nhiên trong tương lai gần mà nhà văn đã dự cảm từ những cứ liệu khoa học được xử lý công phu. Mục đích cuối cùng của việc dự báo là gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh, thúc đẩy nhận thức về mối quan hệ cộng sinh giữa con người với tự nhiên. “Thương ngàn”, do đó, vượt ngoài khuôn khổ của văn học thông thường, trở thành một lời kêu gọi hành động khẩn thiết, mang tính chất của một báo cáo khoa học về sinh thái học ứng dụng dưới hình thức tiểu thuyết.

Theo Oxford Dictionaries, “recovery” được hiểu là “the process of becoming well again after an illness or injury” (quá trình khoẻ lại sau khi bị bệnh hoặc chấn thương). Nó tương đồng với “heal” (chữa lành) thường được nhắc đến trong lý thuyết chấn thương. Thực chất, “heal” (chữa lành) hay “recovery” (hồi phục) vốn thuộc về lĩnh vực y học, thể thao, tâm lý học, sau đó được mở rộng ra các lĩnh vực khác như sinh thái học, văn học. Trong tiểu thuyết “Thương ngàn”, “chữa lành” hay “hồi phục” vừa là những nỗ lực của con người trong quá trình tái thiết sinh thái, vừa là “liệu pháp” hữu hiệu để chữa lành những ký ức về sự chấn thương của môi trường thiên nhiên. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2016) cho rằng: “một trong những sứ mệnh của văn học nghệ thuật sinh thái là thức tỉnh những khách thể trầm lặng đang bị tổn thương một cách nghiêm trọng xung quanh chúng ta, khôi phục thân phận chủ thể vốn có của chúng” (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2016, tr.172). Như một nhà sinh thái học đúng nghĩa, qua “Thương ngàn”, Vĩnh Quyền làm rõ những nỗ lực chữa lành thiên nhiên, hồi phục thế giới sống đang dần xuống cấp, xoa dịu những ký ức con người về những chấn thương của tự nhiên và chính họ trong quá khứ. Nhà văn mở đầu “Thương ngàn” bằng một kế hoạch rất rõ ràng, thiết thực và nhân văn của nhân vật “tôi”. Đó là dự án “Hành Lang Xanh” “phục hồi những cánh rừng nguyên sinh đã bị triệt hạ gần ba mươi năm trước tại Trường Sơn” (Vĩnh Quyền, 2023, tr. 12). Xuyên suốt hành trình chữa lành sinh thái, nhân vật “tôi” vừa chứng kiến những thương tổn mà thiên nhiên hứng chịu, vừa hoà mình vào thiên nhiên, thấu hiểu và tìm cách khôi phục tự nhiên. “Tôi” kịch liệt phản đối hành động phá rừng, khai thác kiệt quệ tài nguyên rừng để mưu sinh của những người thân trong gia đình: “Một lần, trong bữa ăn gia đình, tôi lên tiếng bảo em trai ngừng sử dụng bẫy dây, thứ bẫy cực kỳ đơn giản nhưng rất hiệu quả, có thể tóm từ sóc bé mọn đến voi không lồ. Nói các khác đó là bẫy mù, tuyệt diệt chẳng chừa loài nào. Đặt bẫy dây là vô tình gây tội ác. Cả nhà ngừng đũa nghe tôi, rồi lẳng lặng chia phe. Ba tôi và Tâm cúi mặt, gắng gượng nhai nốt đĩa chim nướng trong khi tôi và mẹ ăn rau” (Vĩnh Quyền, 2023, tr.151). Người cộng sự của nhân vật “tôi” cũng yêu rừng sâu đậm, trong anh mang đậm tâm thức rừng, tâm thức tự nhiên hoang dã nói chung. Tình yêu đó đã khiến anh dũng cảm tham gia vào hoạt động cứu lấy những loài động vật quý hiếm sống trong rừng già nước Úc khi cánh rừng bốc cháy: “Leo từng cây, gỡ từng con koala còn sống, trùm khăn ướt, bế ra khỏi vành đai lửa với sự hỗ trợ của những vòi phun nước “mở cửa”, trao từng con cho nhóm khách qua đường chăm sóc, rồi tôi tất tả quay lại. Ban đầu còn đếm thầm, ba con… năm con… sau đó không nhớ bao nhiêu. Để rồi kết thúc bởi một cành cây cháy đổ quật trúng vào chân trái. Anh lính cứu hoả kịp lao vào cõng tôi ra xe cứu thương chờ sẵn gần đấy” (Vĩnh Quyền, 2023, tr.159). Hành động của nhân vật này không đơn giản chỉ là cứu rừng, cứu động vật, mà còn sẵn sàng hy sinh vì thế giới tự nhiên. Đó không chỉ là biểu hiện của sự đáp trả cho những thừa hưởng từ thế giới tự nhiên mà còn là hành động chữa lành và tái thiết thiên nhiên như chính nhân vật tự sự: “Chẳng thể thay đổi ký ức thương tổn, nhưng tình yêu cuộc sống có thể làm nên ký ức tương lai, thứ ký ức xoa dịu đau buồn trong ký ức quá khứ” (Vĩnh Quyền, 2023, tr.159). Trong một thế giới đầy biến động, vị trí trung tâm của Trái Đất bị lật đổ và thay vào đó là con người, Vĩnh Quyền đã nhìn nhận lại quyền lực của tự nhiên, trả thiên nhiên về với vị trí vốn có của nó. “Cái gì thuộc về nơi nào hãy trả về nơi đó” (Vĩnh Quyền, 2023, tr.90) là thông điệp, là lời kêu gọi thiết thực và ý nghĩa trong công cuộc tái thiết tự nhiên.

Có thể nói, để chữa lành thương tổn trong tâm hồn con người do những ám ảnh về chấn thương tự nhiên gây ra, Vĩnh Quyền đã hàn gắn mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên (đặc biệt là rừng), đồng thời kiến tạo lại một hệ giá trị mới, hướng tới khôi phục tự nhiên. Trong bài viết “Người kể chuyện của những hoà giải”, Xuân Thạch (2023) cho rằng: ““Thương ngàn” có thể coi là một truyện kể về một sự hoà giải, một sự hàn gắn giữa con người với thế giới vượt qua những “nội thương đa cấp đa chiều sâu khuất”” (Xuân Thạch, 2023). Quả thế, toàn bộ tác phẩm là sự đan xen, chồng chéo giữa các mảnh vỡ chấn thương sinh thái và hành động tái thiết môi trường, phá bỏ tư duy “con người là trung tâm”. Câu chuyện về chấn thương sinh thái, tiếng nói cảnh báo và thông điệp chữa lành tự nhiên được Vĩnh Quyền thể hiện bằng một lối viết mang đậm dấu ấn hậu hiện đại. Trong đó, “cốt truyện bị nghiền thành từng viên nhỏ của biến cố và hoàn cảnh, nhân vật bị phân tán thành một bó của những khát vọng nhức nhối” (Nhiều tác giả, 2003, tr.245), là điểm nổi bật, góp phần tạo nên diện mạo mới của tiểu thuyết “Thương ngàn” và chuyển tải một cách đầy sáng tạo vấn đề môi trường sinh thái. Tất cả đã đưa “Thương ngàn” hoà vào dòng chảy của văn học sinh thái thế giới.

  1. Kết luận

Nghiên cứu tiểu thuyết “Thương ngàn” của Vĩnh Quyền từ góc độ chấn thương sinh thái đã hé lộ những tầng nghĩa sâu sắc về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong bối cảnh những tác động tiêu cực của quá trình hiện đại hóa. Tác phẩm không chỉ tái hiện một cách chân thực bức tranh của hệ sinh thái đang bị tàn phá mà còn khắc họa rõ nét những tổn thương tâm lý mà con người phải gánh chịu khi môi trường sống bị xâm hại. Qua lăng kính chấn thương sinh thái, “Thương ngàn” đã thể hiện sự mất mát không chỉ về đa dạng sinh học mà còn là sự xói mòn các giá trị văn hóa gắn liền với tự nhiên. “Thương ngàn” là một tiếng chuông cảnh tỉnh về hậu quả khôn lường của việc khai thác thiên nhiên vô độ. Tác phẩm không chỉ dừng lại ở việc miêu tả chấn thương mà còn gợi mở về khả năng phục hồi và chữa lành, dù quá trình này đầy gian nan. Nó đặt ra câu hỏi về trách nhiệm của con người trong việc bảo vệ môi trường, đồng thời khẳng định giá trị của việc gắn kết lại với tự nhiên để tìm thấy sự bình yên và cân bằng. Có thể nói, “Thương ngàn” là một minh chứng rõ ràng cho thấy văn học có thể trở thành một phương tiện mạnh mẽ để truyền tải thông điệp về bảo vệ môi trường và thức tỉnh nhận thức của con người về chấn thương sinh thái, góp phần thúc đẩy những hành động thiết thực hơn vì một tương lai bền vững.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt:

  1. Lê Huy Bắc, 2013. “Văn học hậu hiện đại: lý thuyết và tiếp nhận”. Nxb Giáo dục.
  2. Nhiều tác giả, 2003. “Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn đề lý thuyết”. Nxb Hội Nhà văn và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây.
  3. Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2016. “Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương” (Phê bình sinh thái). Nxb Khoa học Xã hội.
  4. Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2023. “Giữa một dòng văn chương sinh thái còn thưa thớt”. Báo Văn nghệ, Số 23/2023.
  5. Trần Thị Ánh Nguyệt và Lê Lưu Oanh, 2023. “Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái”. Nxb Giáo dục Việt Nam.
  6. Bùi Thanh Truyền, 2018. “Phê bình sinh thái Văn xuôi Nam Bộ”. Nxb Văn hoá - Văn nghệ.
  7. Vĩnh Quyền, 2023. “Thương ngàn”. Nxb Trẻ.
  8. Xuân Thạch, 2023. “Người kể chuyện của những hoà giải”. Tạp chí Tia sáng. https://tiasang.com.vn/.../nguoi-ke-chuyen-cua-nhung-hoa.../ (Truy cập ngày 24/6/2025).

Tiếng nước ngoài:

  1. Glotfelty, C., 1996. “Introduction: Literary Studies in an Age of Enviromental Crisis”. In Cheryll Glotfelty and Harold Fromm (Eds.), The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology (pp. xv-xxxvi). University of Georgia Press.
  2. Oxford University Press, n.d. Oxford Advanced Learner’s Dictionary (9th ed.). Oxford University Publishing House.