Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 7 tháng 9, 2025

Kỷ yếu Adam Smith 300 năm (1723-2023) ra mắt

 Nhóm Chủ biên: Trần Quốc Hùng, Trần Văn Thọ, Nguyễn Xuân Xanh

Với sự hỗ trợ của Nguyễn Chí Hiếu Nguyễn Minh Thọ

Sự mong muốn cải thiện tình trạng của chúng ta, một mong muốn… đến với chúng ta từ trong bụng mẹ, và không bao giờ rời bỏ chúng ta cho đến khi chúng ta xuống mồ.

Tài sản mà mỗi người có được trong lao động của mình, vì là nền tảng ban đầu của mọi tài sản khác, nên nó là tài sản thiêng liêng và bất khả xâm phạm nhất.

Chúng ta mong đợi bữa tối của mình không phải từ lòng nhân từ của người bán thịt, người nấu bia hay người làm bánh mì, mà từ sự quan tâm của họ đến lợi ích của chính họ.

— Adam Smith

Mỗi trang viết của Adam Smith đều được soi sáng bởi một niềm đam mê lớn, niềm đam mê cho tự do. Đây là lời đầu tiên và cũng là lời cuối cùng trong triết lý chính trị và công nghiệp của ông, cũng như là lời đầu tiên và cũng là lời cuối cùng trong triết lý chính trị và công nghiệp của thời đại này.

Arnold Toynbee, nhà kinh tế học và cải cách xã hội người Anh thế kỷ XIX

Kỷ yếu Adam Smith, 556 trang, bìa mềm, giá bìa 339.000đ. Cty PhanBook và NXB Đà Nẵng.

Không cần điều gì khác để đưa một nhà nước lên mức độ giàu có cao nhất từ tình trạng man di thấp nhất, ngoài hòa bình, thuế khóa nhẹ nhàng và một nền quản lý công lý có thể chấp nhận được; tất cả những thứ còn lại đều do quy luật tự nhiên của mọi sự việc mang lại.

Xã hội không thể tồn tại giữa những kẻ luôn sẵn sàng làm tổn thương và hãm hại lẫn nhau. […] Sự thoái hóa của những tình cảm đạo đức của chúng ta đã bị gây ra bởi khuynh hướng ngưỡng mộ người giàu và kẻ lớn, và khinh miệt hay bỏ quên những người sống nghèo khổ và khó khăn.

— Adam Smith

Ưu điểm lớn nhất của hệ thống thị trường tự do là nó không quan tâm đến màu da của người dân; nó không quan tâm tôn giáo của họ là gì; nó chỉ quan tâm liệu họ có thể sản xuất thứ gì đó mà bạn muốn mua hay không. Đó là hệ thống hiệu quả nhất mà chúng ta đã khám phát ra để giúp những người ghét bỏ nhau có thể giao dịch với nhau và giúp đỡ lẫn nhau.

Milton Friedman, nhà kinh tế học Mỹ giải Nobel năm 1976

Hai trăm năm kể từ khi Adam Smith viết kiệt tác của mình đã chứng kiến ​​sự gia tăng chưa từng có về mức sống trong các nền kinh tế tư bản. Hơn nữa, thành quả của sự tăng trưởng này đã được phân phối rộng rãi. Tôi tin rằng Smith sẽ ngạc nhiên về hiệu quả của bàn tay vô hình, về cách nó đã phục vụ tốt như thế nào để gia tăng sự giàu có của các quốc gia.

— Joseph Stiglitz, nhà kinh tế học Mỹ giải Nobel năm 2001

Ý KIẾN CỦA BA TRONG NHỮNG NGƯỜI CÓ NHIỀU ĐÓNG GÓP CHO KỶ YẾU:

Adam Smith vĩ đại ở chỗ, với hai tác phẩm kinh điển tiêu biểu nhất trong tất cả các sách kinh điển, đã đưa ra các tư tưởng chỉ đạo để vừa xây dựng đất nước phồn vinh vừa duy trì trật tự xã hội. Kinh tế thị trường kết hợp với đồng cảm, đạo đức của những người trong xã hội là nguyên lý phổ quát để xây dựng đất nước cho mọi quốc gia kể cả Việt Nam.

— Trần Văn Thọ, nguyên giáo sư kinh tế tại Đại học Waseda

Tư tưởng chủ đạo của Adam Smith để xây dựng một bền kinh tế phồn vinh là thúc đẩy phân công lao động; bảo đảm trao đổi hàng hoá trong thị trường ổn định, minh bạch; cạnh tranh hữu hiệu không bị độc quyền thương mại lũng đoạn. Nếu Việt Nam cải cách kinh tế theo hướng này, thì sẽ có cơ hội đạt mức thu nhập cao vào năm 2045. Viễn cảnh này khả thi khi trong năm 2025 Việt Nam đã đạt mức thu nhập trung binh cao, theo tiêu chuẩn của World Bank (tổng thu nhập quốc gia trên đầu người trong khoảng $4.496-$13.935)

— TS Trần Quốc Hùng, nguyên Phó Giám đốc Vụ Tiền tệ và Thị trường Vốn tại Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF

Nhìn lại, chúng tôi nhận thấy cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của nhiều nhân vật lịch sử thế giới trong văn học, triết học, khoa học,… chưa được giới thiệu đầy đủ và rộng rãi ở Việt Nam. Giới trẻ nói chung, trong đó có học sinh, sinh viên, giảng viên, hầu như chưa biết nhiều về họ. Vì thế chúng tôi ở Đại học Văn Lang đã tổ chức Hội thảo về Adam Smith nhân 300 năm ngày sinh của ông vào cuối tháng 12/2023, quy tụ nhiều nhà kinh tế, nhà nghiên cứu Việt Nam trong và ngoài nước, Bắc cũng như Nam, tham gia với tất cả sự hào hứng và tinh thần học thuật nghiêm túc, đã gây được tiếng vang lớn, và qua đó thúc đẩy thêm việc hoàn thành tập Kỷ yếu này.

Trước hiện tình đầy bất ổn của nền kinh tế thế giới, khi các cường quốc dùng kinh tế, thương mại… để bắt ép các nước khác phải cúi đầu phục tùng, quyển sách này sẽ giúp người đọc hiểu biết nhiều hơn về Adam Smith và các ý tưởng kinh tế của ông, đầy tính nhân bản, đặt quyền lợi và hạnh phúc con người là trọng tâm của phát triển kinh tế.

— Nguyễn Minh Thọ, Đại học Văn Lang TPHCM & Đại học Leuven, Belgium

MỤC LỤC

Tiểu sử các tác giả

Dẫn nhập (Nhóm chủ biên)

PHẦN 1. Adam Smith: Con người và tư tưởng

Adam Smith, Kinh tế gia khai phóng và ảnh hưởng của ông qua các thời đại (Trần Quốc Hùng)

Adam Smith và Tự do (Trần Lê Anh)

Adam Smith, Người đặt nền móng cho kinh tế chính trị học hiện đại (Nguyễn Xuân Xanh)

Trò chuyện với Adam Smith (Nguyễn Xuân Xanh)

PHẦN 2. Adam Smith và Thế giới

(1) Adam Smith và Kinh tế hậu chiến Tây Đức. Tiếp thu, phê phán để định hướng chính sách (Tôn Thất Thông)

(2) Adam Smith và Kinh tế hậu chiến Tây Đức. Lý thuyết và mô hình (Tôn Thất Thông)

Hóa Thực Liệt Truyện của Tư Mã Thiên (Nguyễn Lê Tiến)

Khai sáng Xcot-len, Adam Smith, Nhật Bản và Trung Quốc (Nguyễn Xuân Xanh)

PHẦN 3. Adam Smith nhìn từ Việt Nam

Adam Smith, Việt Nam và kinh tế thị trường (Trần Văn Thọ)

Bàn tay vô hình và Đổi mới ở Việt Nam (Huỳnh Thế Du)

Từ tác phẩm “Sự thịnh vượng của các quốc gia” tới Kỳ tích Đông Á. Một số bài học cho cải cách kinh tế ở Việt Nam. (Vũ Minh Khương và Nguyễn Chí Hiếu)

Adam Smith và Công cuộc Đổi mới. Một vài suy ngẫm về hành trình phát triển của Việt Nam. (Nguyễn Chí Hiếu)

Tả quân Lê Văn Duyệt và Adam Smith (Emily Hamblin)

PHẦN 4. Hội thảo Văn Lang

Đôi điều về tổ chức Hội thảo kỷ niệm 300 năm Adam Smith tại Trường Đại học Văn Lang (Nguyễn Minh Thọ)

Tư tưởng và Di sản của Adam Smith: Ba thế kỷ nhìn lại. Tham gia: Trần Lê Anh, Nguyễn Xuân Xanh, Lê Đăng Doanh, Hoàng Hải Vân. Nguyễn Chí Hiếu ghi và biên tập. (Tọa đàm sáng)

Tác phẩm “Sự thịnh vượng của các quốc gia và hàm ý cho cải cách kinh tế ở Việt Nam. Tham gia: Vũ Minh Khương, Trần Văn Thọ, Lê Văn Cường, Edmund Malesky, Võ Trí Thành, Lê Đăng Doanh, Trần Đình Thiên, Nguyễn Tú Anh. Nguyễn Chí Hiếu ghi và biên tập. (Tọa đàm chiều)

Thị trường và cạnh tranh: Góc nhìn truyền thống và trong bối cảnh mới (Võ Trí Thành)

Lực lượng lao động, Vốn máy, Tổ chức, Động cơ cá nhân và Tăng trưởng: Tại sao tham nhũng, cơ chế rườm rà gây ra vấn đề? (Lê Văn Cường – Lê Ngọc Anh)

PHỤ LỤC. Trích dẫn Adam Smith

Về Phân công lao động, nguồn gốc, và mối liên quan đến thị trường (trong Sự phồn vinh của các quốc gia, Mai Lý dịch)

Về sự băng hoại của những tình cảm đạo đức (trong Lý thuyết của những tình cảm đạo đức, Nguyễn-Hà Bảo Ngân dịch)

Lời nói đầu

Sau bao lâu chờ đợi, Kỷ yếu mừng Adam Smith 300 năm tuổi cuối cùng đang chuẩn bị ra thị trường trong những ngày sau lễ. Không hẹn mà gặp, Kỷ yếu Adam Smith ra mắt đúng vào dịp kỷ niệm 80 năm lễ quốc khánh Việt Nam! Không hẹn mà gặp, Kỷ yếu Adam Smith ra mắt đúng vào dịp lãnh đạo Việt Nam long trọng tuyên bố đất nước sắp bước vào kỷ nguyên mới với chất lượng mới. Không hẹn mà gặp, Đạo đức là một yếu tố được đề cao trong lần đổi mới này, điều đã được Adam Smith lấy làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế 250 năm trước trong tác phẩm đầu tiên Lý thuyết những tình cảm đạo đức. Do nhiều lý do lịch sử, Adam Smith xuất hiện tại cả nước Việt Nam muộn hơn 150 năm so với Nhật Bản. Nhưng chậm còn hơn không. Cuối cùng ông “đã đến” Việt Nam. Cuối cùng, “chúng ta cũng có Adam Smith”. Kỷ yếu Adam Smith có thể giúp thúc đẩy nghiên cứu kinh tế dưới ánh sáng tư tưởng ông bước vào giai đoạn mới.

Cuốn sách này dễ đọc, dễ hiểu, ngay cả cho những “người ngoại đạo”, Nó vừa là dẫn nhập, giới thiệu, vừa là nghiên cứu sâu những vấn đề kinh tế từ tư tưởng của Adam Smith để hiểu thêm Việt Nam và cả khu vực Đông Nam Á.

Mời anh chị và các bạn xem Dẫn nhập của Kỷ yếu, và Lời bạt sau đó.

Thân mến,

Nguyễn Xuân Xanh

Dẫn nhập

Nhóm chủ biên

Năm 2023 kỷ niệm sinh nhật thứ 300 của Adam Smith, một sự kiện đã diễn ra tại nhiều nơi trên thế giới, tại Glasgow, Edinburgh, Đại học Sydney, Đại học Kinh tế Bắc Kinh, Trường Kinh doanh Booth của Chicago, Viện quản lý Ấn Độ Indore… để tưởng nhớ và ôn lại những đóng góp vĩ đại của ông trong việc hình thành một thế giới mới của thương mại, phồn vinh, đức hạnh và tự do. Tác phẩm kinh điển của ông An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations, hay Sự phồn vinh của các quốc gia được xuất bản năm 1776, sau tác phẩm Principia Mathematica của Newton khoảng một thế kỷ, và ngay trước thềm cuộc Cách mạng công nghiệp Anh. Nó có thể được gọi một cách tương tự là một Principia Oeconomica, và Smith là Newton trong thế giới kinh tế học. Người ta nói, nếu Newton đã tạo ra Bầu trời mới (New Heaven) với các định luật chi phối tinh tú thì Adam Smith tạo ra Trái đất mới (New Earth) với những định luật chi phối sự phát triển kinh tế của con người, xã hội, quốc gia. Năm 1776 cũng đánh dấu hai sự kiện quan trọng: Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ và sự ra đời của chiếc máy hơi nước được cải tiến hoàn hảo của James Watt, mở đầu cuộc Cách mạng công nghiệp ở Anh sắp tới sau khi Adam Smith mất.

Smith cũng nhìn xã hội loài người đi theo một sự tiến hóa về mặt kinh tế, trước tác phẩm tiến hóa tự nhiên của Darwin gần một trăm năm, từ xã hội hái lượm, săn bắn, chăn nuôi để đạt tới xã hội thương mại, trong đó phân công lao động và chuyên môn hóa là những nguyên lý của sản xuất làm ra của cải và phồn vinh cho con người, nguồn gốc của sự giàu có, không phải chỉ có nông nghiệp hay vàng bạc. Ông là người đã “ân xá” cho nhân loại về những “tội lỗi bẩm sinh” để khuyến khích phát triển lợi ích cá nhân khai sáng nhằm thực hiện hóa “hạnh phúc lớn nhất của số đông lớn nhất”.

Con người có khuynh hướng “buôn bán, kinh doanh và đổi chác thứ này lấy thứ khác” (truck, barter and exchange), một đặc tính chỉ có ở con người, và theo Smith chính điều đó đã dẫn đến sự phân công lao động và tạo ra của cải, phồn vinh. Con người luôn luôn có “mong muốn cải thiện tình trạng của mình, một mong muốn… đến với anh từ trong bụng mẹ, và không bao giờ rời bỏ anh ta cho đến khi anh xuống mồ”. Đó là hai tiên đề trong lý thuyết kinh tế của Smith thúc đẩy tiến bộ miễn là không có sự cản trở cho hoạt động của số đông. Trên tờ giấy bạc £20 của Ngân hàng Anh người ta thấy có ghi “Phân công lao động là nguyên lý trong sản xuất ghim” và “kết quả là sự gia tăng lớn về số lượng công việc”.

Quan tâm của Adam Smith là sự phồn vinh, để con người thoát khỏi lời nguyền nghèo đói, chấm dứt thung lũng nước mắt, nhưng phồn vinh không phải được xây dựng trên “lâu đài” của ngã ái (self-love), tư lợi (self-interest), tuy đó là những động lực tự nhiên, mà trên nền tảng đạo đức, lòng trắc ẩn, thương yêu, những yếu tố bẩm sinh của con người có tác dụng điều hòa xã hội và là chất keo giữ nó lại như một vũ trụ khỏi bị tan rã như lực hút của Newton.

Không cần điều gì khác để đưa một nhà nước lên mức độ giàu có cao nhất từ ​​tình trạng man di thấp nhất, ngoài hòa bình, thuế khóa nhẹ nhàng (easy taxes) và một nền quản lý công lý có thể chấp nhận được; tất cả những thứ còn lại đều do quy luật tự nhiên của mọi sự việc mang lại.

Adam Smith là người tranh đấu cho t do. Đối với ông, tự do không chỉ là vấn đề tự do tôn giáo và an ninh thân thể, mà còn là tự do lựa chọn sinh kế và thương mại mà không bị cản trở; tự do làm chủ đời mình (self-ownership), cho phép một người thực hiện phán đoán của mình để đưa ra những lựa chọn có ý nghĩa cho cuộc sống. “Mọi người, miễn là anh ta không vi phạm luật công bằng, được hoàn toàn tự do theo đuổi lợi ích của riêng mình theo cách riêng của mình, và đưa cả ngành công nghiệp (sản xuất) và vốn liếng của mình vào cạnh tranh với bất kỳ người nào khác, hoặc nhóm người nào khác.”

Với tự do kinh doanh được đảm bảo dưới luật pháp và công lý nghiêm minh, hoạt động kinh tế mang một đạo đức riêng làm cho con người trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, sáng tạo, một diễn viên độc lập không phụ thuộc vào ai. Nó cũng giống như quyền tự do và quyền theo đuổi hạnh phúc trong Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ, Tất cả mọi người sinh ra được bình đẳng, rằng họ được phú cho, bởi Đấng tạo hóa của họ, một số quyền nhất định không thể chuyển nhượng được, rằng trong những quyền đó có quyền sống, quyền tự do và quyền theo đuổi hạnh phúc, hay Tự do cho tất cả và, như một hệ quả, đem lại kinh doanh và công nghiệp (sản xuất) cho tất cả như Abraham Lincoln viết trong tuyên bố giải phóng nô lệ năm 1863.

Khái niệm trung tâm của Smith trong kinh tế thị trường là bàn tay vô hình (invisible hand), đôi khi còn được gọi là “định lý thứ nhất” của ông. Chính bàn tay vô hình đó điều hòa thị trường một cách hợp lý và biến tư lợi, self-interest, của những nhà sản xuất hay cung cấp dịch vụ vì lợi ích bản thân họ vô hình trung thành phúc lợi của công chúng; không phải vì ý định hay lòng nhân từ của họ, mà vì “bàn tay vô hình” của thị trường. Thị trường càng tự do, phúc lợi cho công chúng càng nhiều. Chính tư lợi, lao động, sự phân công của nó, sự chuyên môn hóa và thương mại, trong môi trường “tự do tự nhiên”, sẽ tạo ra của cải cho xã hội tốt nhất. Cũng như thế, thương mại tự do giữa các quốc gia sẽ đem lại lợi ích cho mỗi quốc gia bằng cách mở cửa thị trường cho những sản phẩm thặng dư trong nước, đồng thời nhập được những mặt hàng từ nước ngoài ở chi phí thấp hơn trong nước.

Nghe đơn giản, nhưng thực tế sẽ khó hơn nếu muốn thực hiện chức năng bàn tay vô hình này theo nghĩa của ông. Bàn tay vô hình càng phát huy tác dụng, càng đem lại nhiều lợi lộc cho công chúng “khi chế độ cạnh tranh càng tự do và càng toàn diện”.  Vì thế, Smith chống lại mọi sự bóp méo, “khuynh đảo” thị trường tự do tự nhiên, như giới trọng thương làm. Ông lên án các luật “mà các thương gia và nhà sản xuất của chúng ta đã ép buộc cơ quan lập pháp phải hỗ trợ cho các công ty độc quyền vô lý và áp bức của chính họ”. Theo ông, liên minh của các nhà lãnh đạo chính trị và các doanh nhân, các nhóm lợi ích, là một trong những trở ngại lớn đối với thị trường tự do. Thứ này thời nào, nơi nào cũng gặp ở những mức độ khác nhau.

Đối với Smith, thị trường tự do (free market) và thương mại tự do (free trade) là hai nguyên tắc trụ cột của nền kinh tế có năng lực tốt nhất kích thích sự phân công lao động, mở rộng sản xuất hàng hóa buôn bán, và tăng “doanh thu và của cải thực tế” cho tất cả mọi người. Ngày nay Adam Smith được xem như là cha đẻ của kinh tế học laissez-faire (“hãy để người ta làm”), ý tưởng cho rằng chính phủ nên để nền kinh tế yên và không can thiệp vào “diễn biến tự nhiên” (natural course) của thị trường và thương mại tự do. Dưới cái nhìn của Smith, những kẻ độc quyền trọng thương, các thương gia quyền lực với các đặc quyền kinh tế, và các đồng minh của họ trong Quốc hội là kẻ thù lớn của “cơ chế thị trường tự do” của ông – vì đã gây ra sự bất bình đẳng trong việc thương lượng giữa các tác nhân kinh tế. Adam Smith mô tả thị trường tự do là “một hệ thống rõ ràng và đơn giản của tự do tự nhiên”. Ông không ưu đãi chủ đất, chủ nhà máy hay công nhân, mà ưu đãi tất cả xã hội. Tuy nhiên, ông đã nhìn thấy những lực lượng tự làm hại, ngăn cản sự vận hành đầy đủ của thị trường tự do và làm suy yếu sự giàu có của tất cả các quốc gia. Smith kết luận rằng để đạt được tăng trưởng kinh tế và cải thiện xã hội, Anh nên xóa bỏ mạng lưới các đặc quyền và hạn chế kinh tế của chính phủ. Smith khuyên hãy để “cơ chế thị trường tự do” tự vận hành mà không cần sự can thiệp của chính phủ, trừ những nhiệm vụ của chính phủ lo cho giáo dục, bảo vệ đất nước, xây dựng cơ sở hạ tầng từ tiền thuế của nhân dân, như đường sá, cầu cống, kênh mương, bến cảng và hệ thống bưu điện để thúc đẩy dòng chảy tự do của thương mại.

Muốn thế, các chính trị gia cần phải có cái nhìn của một “impartial spectator” (khán giả vô tư, người quan sát công minh), bước ra khỏi bản thân để nhìn lại chính mình từ xa, để có một “impartial judgment” cần thiết và công minh. Trên thực tế, khi các chính trị gia ngừng tham khảo ý kiến khán giả vô tư của họ và chỉ chạy theo phe phái, họ sẽ đánh mất la bàn đạo đức của mình: “Trong tất cả những kẻ làm băng hoại tình cảm đạo đức, do đó, bè phái (fraction) và cuồng tín (fanaticism) cho đến nay luôn là lớn nhất” như Smith viết trong Lý thuyết tình cảm đạo đức.

Smith chống lại kiểu “tư duy hệ thống”. Ông cho rằng, không nhà nước nào có thể tự tiện “dễ dàng sắp xếp các thành viên trong một xã hội như họ có thể sắp xếp các quân cờ khác nhau trên bàn cờ lớn”, bởi vì theo ông, “mỗi quân cờ đều có một nguyên tắc chuyển động riêng của nó, tất cả đều hoàn toàn khác với nguyên tắc mà cơ quan lập pháp có thể chọn để áp đặt”. Mỗi cá nhân có một “spin” tự thân như các hạt trong vật lý.

Song song, Smith cũng không quên rằng cái giá của phân công lao động là làm cho con người thành “ngu muội” (stupid, ignorant), què quặt và biến dạng về đầu óc bởi cả đời người đó chỉ biết một vài động tác chuyên môn. Cho nên cần có giáo dục để giảm bớt tác hại đó. Ông tin rằng có rất ít sự khác biệt về trí thông minh giữa người nghèo và người giàu, giữa một triết gia và phu khuân vác. Ông kết luận, chỉ có điều kiện xã hội của người nghèo mới khiến họ không hiểu biết. Ông kêu gọi một “trường học nhỏ” ở mỗi quận, được hỗ trợ bởi thuế công và phụ phí nhỏ của phụ huynh. “Một dân tộc được giáo dục và thông minh”, Smith viết, “luôn luôn tử tế và nề nếp hơn một dân tộc ngu muội và thiếu hiểu biết”. Cái nhìn của Smith là cái nhìn của khai sáng, của những người quan tâm đến xã hội, đến những tầng lớp thấp kém.

Mười bảy năm trước khi Sự phồn vinh của các quốc gia xuất hiện, Smith cho ra tác phẩm đầu tay về triết học đạo đức có tên Lý thuyết về tình cảm đạo đức (1759), quyển sách làm ông nổi tiếng ngay tức khắc. Mở đầu ông viết:

"Dù con người có được nghĩ ích kỷ đến đâu, rõ ràng vẫn có một số nguyên tắc trong bản chất của anh ta, khiến anh ta quan tâm đến vận mệnh của người khác, và cảm thấy hạnh phúc là điều cần thiết đối với anh ta, mặc dù anh ta không nhận được gì từ điều đó, ngoại trừ niềm vui khi được nhìn thấy nó.”

Chính sự thấu cảm, bằng cách tưởng tượng đặt mình vào người khác, tạo ra cảm xúc và niềm đam mê trong bản thân để chia sẻ với người khác, gắn kết con người với nhau, làm nền tảng cộng đồng con người. “Lòng thương xót” (pity), “Lòng trắc ẩn” (compassion), hay “Lòng nhân từ” (benevolence), là những từ mà Smith đã dùng trong quyển sách Lý thuyết về tình cảm đạo đức để chỉ ra các phẩm chất cơ bản của bản chất con người tạo thành các tình cảm đạo đức của chúng ta. Trong Sự phồn vinh của các quốc gia, ông viết: “Xã hội không thể tồn tại giữa những kẻ luôn sẵn sàng làm tổn thương và hãm hại lẫn nhau”.

Smith tin tưởng rằng, tăng trưởng kinh tế đòi hỏi một nền văn hóa tương thích, và nền văn hóa này phải bắt nguồn từ các khái niệm đạo đức. Tích lũy vốn, cần kiệm, để dành là những đức tính cần thiết để đầu tư cho sản xuất. Bất kể ngành công nghiệp nào, nếu sự tiết kiệm không được thực hiện và tích trữ, thì vốn sẽ không bao giờ lớn hơn. Mọi người sẽ biết sống tiết kiệm khi họ có một ý thức thận trọng lo xa (prudence) nhất định, hoặc hình dung được về tương lai cũng như tình hình hiện tại của mình, dám “hy sinh sự thoải mái và sự tận hưởng khoảnh khắc hiện tại của mình”. Họ sẽ được đền bù tương xứng.

Không những đạo đức, mà cả luật pháp, công lý có hệ quả tốt cho kinh tế và sự phát triển các đức tính khác, đặc biệt là sự thận trọng biết lo xa, khuyến khích tích lũy vốn. Một xã hội giàu có và tự do cần một nền kinh tế tương đối tự do và hiệu quả, thay vì một nền kinh tế can thiệp và ép buộc. Với hệ thống tự do tự nhiên, như Smith quan niệm, sự tôn trọng các đức tính cao hơn sẽ có tác dụng khuyến khích tăng trưởng kinh tế. Luật công lý sẽ khuyến khích mở rộng mạng lưới thương mại và sản xuất phức tạp, trong khi các đức tính khác sẽ giúp tăng cường nguồn vốn và đưa nền kinh tế vào chuyển động nhanh chóng.

Trong ấn bản cuối cùng, lần thứ sáu của Lý thuyết về tình cảm đạo đức (1790), Smith đã đề cao ý tưởng về “những con người khôn ngoan và đức hạnh” như sự hội tụ của nhiều đức tính vĩ đại:

Chúng ta nói về sự khôn ngoan (prudence) của vị tướng vĩ đại, của chính khách vĩ đại, của nhà lập pháp vĩ đại. Sự khôn ngoan, trong tất cả những trường hợp này, được kết hợp với nhiều đức hạnh (virtues) vĩ đại và tuyệt vời hơn, với lòng dũng cảm, với lòng nhân từ rộng lớn và mạnh mẽ, với sự tôn trọng thiêng liêng đối với các quy tắc công lý, và tất cả những điều này được hỗ trợ bởi một mức độ tự chủ đích thực.

Một xã hội bị phân mảnh vì lòng vị kỷ sẽ có ít khả năng được hưởng lợi từ sự thịnh vượng hơn một xã hội gắn kết. Thấu cảm, lòng trắc ẩn là cây cầu kết nối đem con người lại gần nhau, là “lực hút” trong vũ trụ Smith để gắn kết nó hài hòa như trong vũ trụ Newton mà ông đã ngưỡng mộ.

Cuối đời, Adam Smith đã thêm vào Lý thuyết về tình cảm đạo đức một chương có tiêu đề: “Về sự thoái hóa của những tình cảm đạo đức của chúng ta, điều đã bị gây ra bởi khuynh hướng ngưỡng mộ người giàu và kẻ lớn, và khinh miệt hay bỏ quên những người sống nghèo khổ và khó khăn.” Có lẽ ông đã linh cảm những gì sẽ đến trong tương lai ở mức độ lớn.

Sau 300 năm, Smith có lỗi thời không? Không chút nào, như được minh họa bởi những bài báo cáo của Kỷ yếu. Người Việt chưa có điều kiện tham gia các buổi hội thảo thế giới về Adam Smith. Tuy nhiên, lần đầu tiên, tại Thành phố Hồ Chí Minh, một số trí thức đã tổ chức được một Hội thảo tại Đại học Văn Lang về chủ đề mong muốn: Kỷ niệm 300 năm Adam Smith. Những tư tưởng vượt thời gian của “Cha đẻ kinh tế học”. Số đại biểu tham gia trong hai ngày đạt tới những con số đáng ngạc nhiên: 200 đại biểu tham dự trực tiếp, và khoảng 400 lượt tham dự trực tuyến. Điều đó nói lên quan tâm rất lớn của cộng đồng về đề tài Adam Smith. Và sự thành công của Hội thảo cũng nói lên những nỗ lực phi thường của Đại học Văn Lang cũng như nhiều nhà khoa học, nghiên cứu để đảm bảo cho sự thành công tốt đẹp. Số kỷ yếu mà chúng tôi dự định ngay từ đầu qua đó đã có thêm xung lực đáng kể. Chúng tôi đã quy tụ được 18 nhà nghiên cứu tham gia, hai dịch giả và một vị khách mời:

Trần Lê Anh – Nguyễn Ngọc Anh – Nguyễn Tú Anh – Lê Văn Cường – Lê Đăng Doanh – Huỳnh Thế Du – Nguyễn Chí Hiếu – Trần Quốc Hùng – Vũ Minh Khương – Edmund Malesky  – Võ Trí Thành – Trần Văn Thọ – Trần Đình Thiên –  Nguyễn Minh Thọ – Tôn Thất Thông – Nguyễn Lê Tiến – Hoàng Hải Vân – Nguyễn Xuân Xanh – Các dịch giả Nguyễn-Hà Bảo Ngân – Mai Lý. Và khách mời Emily Hamblin.

Trong những điều kiện eo hẹp, chúng tôi hết sức vui mừng được trình bày với công chúng quyển Kỷ yếu Adam Smith như kết quả của hơn hai năm lao động miệt mài, của sự kiện Hội thảo kỷ niệm Adam Smith tại Đại học Văn Lang cuối năm 2023, của nghiên cứu của nhiều học giả, nhà kinh tế v.v. Vượt qua nhiều khó khăn, chúng tôi có thể nói, giờ đây Việt Nam có một quyển sách về Adam Smith mà chúng tôi, mặc cho các thiếu sót không tránh khỏi, tin rằng sẽ làm hài lòng, gây thú vị, và có thể truyền cảm hứng cho độc giả. Các tư tưởng của ông được trình bày ở đây, mối liên hệ với kinh tế thế giới, và đặc biệt như một hệ quy chiếu để nhìn về Việt Nam. Adam Smith là ánh sáng của khai sáng, không khô khan của lý tính, mà ấm áp của tính nhân bản mà Smith đã dành trọn cho con người.

Kỷ yếu Adam Smith cũng là một cột mốc trên đường hòa nhập với thế giới của Việt Nam. Tại Nhật Bản, tác phẩm Sự phồn vinh của các quốc gia đã được dịch rất sớm, thập niên 1880, bởi hai học trò của Fukuzawa. Học thuật của Nhật Bản luôn luôn sinh động và tiên phong. Họ sớm hiểu và tìm đến Phong trào Khai sáng Scotland như một concept phát triển kinh tế-xã hội hài hòa. Tại Trung Quốc, đầu thế kỷ XX, Sự phồn vinh của các quốc gia được dịch sang tiếng Trung “để tiết lộ những bí mật về sức mạnh và sự thịnh vượng của phương Tây cho đồng bào của mình biết” như lời của dịch giả Nghiêm Phục. Ông hiểu Sự phồn vinh của các quốc gia là tác phẩm của sự chiến đấu để sinh tồn trong tinh thần định luật tiến hóa mà mỗi dân tộc phải trải qua nếu muốn thích nghi để sinh tồn. Từ những năm 1950 trở đi, các nhà kinh tế Trung Quốc chịu ảnh hưởng sâu đậm từ Liên Xô, và Sự phồn vinh của các quốc gia bị coi là “tư sản, lỗi thời”. Tuy nhiên, Lenin chính là người đưa ra định hướng cơ bản cho những người Marxist Nga đối với Smith, gọi nền kinh tế chính trị của Smith và Ricardo là “nguồn gốc của chủ nghĩa Marx”, cho nên Sự phồn vinh của các quốc gia không bị cấm mà vẫn được lưu hành. Từ giai đoạn cải cách và mở cửa những năm 1980 trở đi, Sự phồn vinh của các quốc gia và cả Lý thuyết về tình cảm đạo đức của Smith sống lại mạnh mẽ chưa từng thấy ở Trung Quốc. Quốc gia này muốn tìm một biện minh đạo đức cho kinh tế thị trường, giống như người Nhật đã làm một thế kỷ trước. Để làm điều đó, họ dịch thêm nhiều tác phẩm, trong đó có Milton Friedman (Free to Choose, Tự do để lựa chọn) và Ludwig Erhard (Wohlstand für alle, Phồn vinh cho tất cả, về mô hình Kinh tế thị trường xã hội Đức). Ngoài ý nghĩa đi tìm sự biện minh, Luo Wei-Dong, Giáo sư Kinh tế và là Phó chủ tịch của Đại học Chiết Giang, còn giải thích thêm ý nghĩa của nghiên cứu Adam Smith ở Trung Quốc như sau: “Với tôi, dường như trong thời đại mà sự quan tâm đến Adam Smith ngày càng tăng, chúng ta vẫn cần những nỗ lực chung của giới trí thức để thoát khỏi hình ảnh ý thức hệ về Adam Smith (của quá khứ) và khôi phục lại sự đánh giá trân trọng đối với những hiểu biết sâu sắc của ông”.

Chúng tôi sẽ rất biết ơn sự tiếp nhận trân trọng quyển sách từ phía độc giả và giúp cho tinh thần Adam Smith lan tỏa rộng rãi trong cộng đồng. Chúng tôi cảm ơn các học giả, nhà nghiên cứu, và nỗ lực của Đại học Văn Lang đã giúp viết nên những trang kỷ yếu đẹp. Cuối cùng, nhưng cũng rất quan trọng, chúng tôi cảm ơn Công ty PhanBook, đội ngũ biên tập và kỹ thuật viên đã giúp cho Kỷ yếu cuối cùng đến tay bạn đọc một cách tốt đẹp.

Nhóm chủ biên

Lời bạt

Những người làm thực tiễn tin rằng mình hoàn toàn miễn nhiễm với bất kỳ ảnh hưởng trí tuệ nào (của người khác) thường lại là nô lệ của một nhà kinh tế học đã khuất.

 John Maynard Keynes, nhà kinh tế học lớn của Anh, lúc đó chưa có giải Nobel cho môn kinh tế học

Kỷ yếu Adam Smith là chuyên san nghiên cứu giới thiệu Adam Smith nhân kỷ niệm 300 năm sinh nhật của ông dành cho độc giả Việt Nam. Adam Smith thật sự đã có mặt tại Việt Nam ở dạng “kinh tế ứng dụng” từ lúc Việt Nam chuyển kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường những năm 1986. Ông cũng đã có mặt từ trước 1975 ở Miến Nam. Nhưng cho đến nay, một sự giới thiệu Adam Smith quy mô ở dạng chuyên san và hội thảo thì dường như chưa có.

Các tác giả tham gia Kỷ yếu đã hết sức nỗ lực trình bày tư tưởng, ảnh hưởng của ông lên thế giới như thế nào trong suốt chiều dài lịch sử 250 năm từ khi tác phẩm Sự phồn vinh của các quốc gia của ông ra đời năm 1776; dấu ấn của ông để lại trên cá châu lục, từ Âu, đến Mỹ qua Á ra sao; Nhật Bản như quốc gia với cuộc bứt phá đầu tiên về kinh tế đã đi tìm khai sáng thế nào để biện minh cho sự phát triển làm rung chuyển lịch sử dân tộc họ, rồi tiếp theo Trung Quốc đã cuối cùng tìm đến Adam Smith thế nào để biện minh triết lý của kinh tế thị trường, của sự phát triển bùng nổ mang tính Smithian của họ. Đặc biệt nhiều tác giả đã đã đặc trưng vị trí của Adam Smith trong sự phát triển kinh tế Việt Nam từ khúc quanh Đổi mới như thế nào và thảo luận về dư địa, hay những khoảng trống còn dành cho ông là bao nhiêu, với nguy cơ mắc kẹt vào bẫy thu nhập trung bình mà mọi người đang quan tâm.

Ai quan tâm đến những điều đó không thể bỏ qua Kỷ yếu Adam Smith của 20 nhà nghiên cứu và dịch giả đã góp sức để làm cho những đề tài trên nổi bật lên. Kỷ yếu cũng trình bài những đề tài như Adam Smith là ai, đời sống cá nhân của ông như thế nào, các chặn đường phát triển của ông, ý tưởng các tác phẩm chính của ông. Cả đời, ông chăm chút hai tác phẩm lớn của ông, Lý thuyết về những tình cảm đạo đức, và Sự phồn vinh của các quốc gia. Ông tu chỉnh và bổ sung chúng cho đến khi ông mất. Hai tác phẩm đó là tượng đài vĩnh cửu của ông.

Một quyển sách rất đáng đọc. Đó cũng là một tác phẩm khai sáng về kinh tế chính trị, bản chất con người, sự phát triển hài hòa của các quốc gia, chủ đề chính của trường phái Khai sáng Scotland thế kỷ XVIII.

Bia mộ của Adam Smith ở thủ đô Edinburgh có ghi mấy dòng chữ đơn giản, như con người ông trong cuộc sống:

ADAM SMITH

TÁC GIẢ CỦA

“LÝ THUYẾT VỀ NHỮNG TÌNH CẢM ĐẠO ĐỨC”

“SỰ PHỒN VINH CỦA CÁC QUỐC GIA”

Tôi hy vọng, với số Kỷ yếu này, Adam Smith sẽ không nhanh chóng quay về nước Anh, mà ông ấy sẽ còn ở lại Việt Nam lâu dài. Dĩ nhiên, để cầm chân ông, Việt Nam cần nỗ lực cho ra tiếp những tác phẩm của ông và về ông để tạo ra một mảng học thuật thực sự về Adam Smith, và nhất là áp dụng những định luật kinh tế của ông một cách tinh tế. Có thể nói, ở đâu có nhiều Adam Smith thì ở đó có nhiều bánh mì. Và ngược lại, ở đâu có ít ít Adams Smith thì ở đó có bánh mì. Không có quốc gia nào đạt được sự phồn vinh mà sự vận hành kinh tế lại không tuân thủ những nguyên lý kinh tế học chính trị căn bản của ông. Ở châu Âu, nước Đức đã hai lần áp dụng Adam Smith. Lần đâu tiên vào đầu thế kỷ XIX khi nhà nước Phổ sau khi bị Napoleon đánh sập làm cuộc cải cách mà bước đầu tiên là giải phóng con người, giải phóng giai cấp nông nô, tuyên bố mọi người đều có quyền tham gia vào kinh tế thị trường theo tinh thần của Smith. Lần thứ hai là sau Thế chiến II, khi các nhà kinh tế Đức đã tái lập lại nền kinh tế thị trường đã bị quyền lực vua chúa và giới địa chủ, tài phiệt, công nghiệp bóp mép. Đó là thể chế Kinh tế thị trường xã hội, Soziale Marktwirtschaft, của Đức, vừa có chất Adam Smith, có vai trò nhà nước bảo đảm sự tự do trong cạnh tranh được lớn nhất, và vừa có tính xã hội cao. Đó là sự ứng dụng của kinh tế học của Adam Smith với những điều kiện biên nhất định.

Ở châu Á, quốc gia có lẽ “rước” Adam Smith đến sớm nhất là Nhật Bản thời Minh Trị. Họ đã dịch tác phẩm của ông và ứng dụng vào sự phát triển kinh tế làm thay đổi bộ mặt Nhật Bản. Họ đã sớm loại bỏ giai cấp samurai là giai cấp cầm quyền cha truyền con nối ở các han (bang) để tạo sự bình đẳng và tự do cho sự đóng góp của mọi người. Họ rất biết ơn Adam Smith. Có hai người Nhật đã từng đến Edinburgh để tìm mộ ông, và khi tìm được, họ sụp lạy để tỏ lòng biết ơn vô hạn cho sự phát triển của Nhật Bản. Người Nhật không chỉ học hỏi, nhận thức bằng cái đầu, mà bằng cả trái tim.

Cuộc trò chuyện với Adam Smith tại Edinburgh trước đây xin tiếp tục phần cuối:

– Nguyên: Chào ông Smith kính mến!

– Smith: Ô, chào ông Nguyên! Ông đi thăm tôi phải không? Ông vẫn khỏe chứ? Chắc ông có niềm vui mang đến cho chúng tôi?

– Nguyên: Thưa có ạ. Số Kỷ yếu kỷ niệm sinh nhật thứ 300 của ông sắp ra mắt công chúng Việt Nam nay mai! Mừng quá, tôi vội báo tin ông. Sau lần thăm và trò chuyện lần thứ nhất với ông khi Hội thảo Văn Lang đầu tháng 12, 2023, chúng tôi đã nỗ lực viết bài để cho ra số Kỷ yếu kỷ niệm ông. Công việc đã kéo dài khá lâu, và nay đã có kết quả! Ông xem nè có đẹp không?

– Smith: Ô, quá tuyệt vời! Tôi cảm thấy rất vinh dự được các bạn nghiên cứu và giới thiệu công phu ở một đất nước xa xôi đối với tôi. Một nỗ lực lớn lắm, tôi biết. Rất cảm ơn công lao của các bạn!

– Nguyên: Thưa ông, công việc kéo dài là bởi vì tư tưởng và ảnh hưởng của ông 250 năm qua quá lớn và bao trùm. Ông vừa là nhà kinh tế chính trị, vừa là nhà triết học, nhà lập pháp, một học giả có tri thức sâu rộng bao trùm nhiều ngành học thuật. Ông chính là tấm gương và động lực của chúng tôi. Ở Việt Nam, ảnh hưởng của ông đã bắt đầu cảm nhận được rõ nét và có tính transformational, chuyển biến, chuyển pha, từ những năm nhà nước ban hành chính sách Đổi mới thập niên 1980 thế kỷ trước, dưới cái tên khiêm tốn Kinh tế thị trường, mặc dù không ai nhắc đến tên ông cả. Nhưng câu nói rất hay của Maynard Keynes làm cho người ta ý thức về ảnh hưởng âm thầm của ông. May mắn thay, thời kỳ kinh tế kế hoạch đã qua. Sau Đổi mới, con người được cởi trói, và trở thành chủ thể tự do đi tìm hạnh phúc của mình, mọi sự đặt để con người vào vị trí mà họ không muốn đều là xa lạ.

Nhìn lại lịch sử, đổi mới của Việt Nam chẳng phải có những nét giống với sự “đổi mới” thời ông, đúng không ạ?, là nhằm thoát ra khỏi những định kiến xem tư lợi (self-interest), ngã ái (self-love) của con người là tội lỗi cần nên tránh xa và cấm đoán, kinh tế tư nhân từ đó bị cho là ích kỷ, tội lỗi như thời ông dưới tác động của tôn giáo và chủ nghĩa khắc kỷ. Và ông chính là người đã “ân xá” cho con người khỏi những “tội tổ tông” ấy để tham gia vào kinh tế thị trường như những chủ thể tự do, không mặc cảm, mà hãnh diện, hầu đóng góp vào phúc lợi xã hội qua bàn tay vô hình của ông. Một xã hội nghèo khổ mới đáng sợ hơn, bởi, như ông nói, đạo đức của nó sẽ suy đồi, và con người nhẫn tâm hơn.

Có lẽ vì thế mà Nghiêm Phục (Yan Fu), người đầu tiên dịch tác phẩm Wealth of Nations của ông đầu thế kỷ XX tại Trung Quốc đã tâm sự có những lúc đọc những câu nói của ông mà không cầm được nước mắt! Những ai thực sự từng trải qua giai đoạn bản chất tự nhiên của con người, “to truck, barter and exchange” như ông diễn tả, bị chối bỏ, rồi đọc sự bảo vệ kiên quyết của ông, khái niệm “hệ thống tự do tự nhiên” của kinh tế thị trường với tư do kinh doanh rộng rãi cho mọi người để tự mưu sinh cho mình, sự thừa nhận tư hữu là thiêng liêng, chắc chắn không khỏi không xúc động. “Mọi người, miễn là không vi phạm luật công lý, được hoàn toàn tự do theo đuổi lợi ích của mình theo cách riêng của mình, và đưa cả công nghiệp (tri thức kinh doanh) lẫn vốn của mình cạnh tranh với công nghiệp và vốn của bất kỳ người, hoặc nhóm người nào khác.” Và bằng sự theo đuổi lợi ích riêng, cá nhân thường làm giàu cho lợi ích của xã hội hiệu quả hơn khi cá nhân  có chủ đích làm việc đó.

Qua sự biện hộ sâu sắc của ông, những cái xấu (vices) cá nhân của con người có thể biến thành cái tốt (goods) cho xã hội – qua bàn tay vô hình thần kỳ của ông. Ông là người đã phục hồi nhân phẩm con người, nhìn sự tiến hóa của nhân loại một cách tích cực và nhân bản hơn. Mà chẳng phải Chúa Giêsu Christ là người đã từng đối xử với những người phạm tội rất nhân từ hay sao?

Nhìn lại, chúng tôi thấy, Kỷ yếu Adam Smith hôm nay có thể xem là “tiếng vang” của những năm Đổi mới ạ. Nếu không có Đổi mới, thì chắc không thể có Kỷ yếu Adam Smith như hôm nay, sau gần 40 năm. Cũng như thế ở Trung Quốc, nếu không có đổi mới những năm 1980 thì chắc giới tri thức Trung Quốc hôm nay cũng không thể làm ông sống lại một cách sôi động. Một vị thủ tướng cũng từng đọc Lý thuyết những tình cảm đạo đức của ông một cách hứng thú.

– Smith: Vâng, có lẽ đúng như ông Nguyên nói. Tôi đã cố gắng hiểu con người, một cách khách quan và tích cực như có thể, điều cũng là chủ đề nghiên cứu của các nhà khai sáng Scotland, làm sao cho phù hợp với bản chất con người, vượt qua các hàng rào định kiến từ tôn giáo hay ý thức hệ, cởi trói họ khỏi những trói buộc về kinh tế, thì mới đề ra được đúng các chính sách phát triển kinh tế, xã hội một cách lành mạnh và hiệu quả. Điều đó tôi đã làm trong tác phẩm Lý thuyết các tình cảm đạo đức, nền tảng đạo đức để phát triển một nền kinh tế phồn vinh và vững bền.

Nhưng chắc ông Nguyên cũng biết, lịch sử phương Tây cũng có đêm “phá rào” như ở Việt Nam, đã diễn ra vào thế kỷ XVI và XVII khi những người Tin lành Thanh giáo (Puritan) ở Anh, bằng sự tái diễn giải khái niệm đạo đức tôn giáo của mình, đã xây dựng chủ nghĩa tư bản (kinh tế thị trường) phát triển mạnh mẽ đầu tiên của châu Âu. “Nghèo khó là dấu hiệu cho thấy Chúa vắng mặt, sự thịnh vượng là dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của Người.” Max Weber đã cắt nghĩa điều đó chi tiết rất thuyết phục trong tác phẩm nổi tiếng của ông Đạo đức Tin lành và Tinh thần của Chủ nghĩa tư bản.

– Nguyên: Nhưng sự phát triển thời đó được khoác lên màu áo tôn giáo, đúng không ạ, trong khi ông là người đặt học thuyết kinh tế của mình trên nền tảng thuần bản chất con người (human nature), mang tính phổ quát, được nghiên cứu và lý giải cặn kẽ, không mang tính tôn giáo hay ý thức hệ nào cả. Nghiên cứu bản chất con người là nét chung chủ đạo hết sức đặc biệt của Khai sáng Scotland, khác với mối quan tâm của các phong trào khai sáng khác ở châu Âu. Có lẽ vì thế mà sau khoảng một trăm năm, nhà khai sáng vĩ đại Nhật Bản Minh Trị Fukuzawa Yukichi là người đầu tiên tìm khai sáng không phải ở Pháp hay Đức mà ở Scotland! Đạo đức của ông cũng phù hợp với “chủ nghĩa tư bản đạo đức” được doanh nhân Eiichi Shibusawa xây dựng ở Nhật Bản sau đó. Người Nhật rất tinh tế trong việc khám phá những giá trị phương Tây, từ Fukuzawa trước đây cho tới nhà văn đương đại giải Nobel Kenzaburo Oe. Thật đáng ngưỡng mộ.

– Smith: Samurai Nhật Bản và người Scots của chúng tôi thật sự có nhiều duyên nợ hơn trong thực tế. Không phải chỉ có câu chuyện ảnh hưởng của Khai sáng Scotland lên Fukuzawa rồi hết.

Ông Nguyên chắc biết câu chuyện Trường Châu Ngũ Kiệt rất phổ biến trong lịch sử Nhật Bản, gồm năm samurai từ bang Choshu liều mình vượt biên để sang Anh học hỏi khoa học công nghệ. Người đã đứng ra tổ chức chuyến đi bí mật và rất nguy hiểm mùa hè 1863 cho năm sinh viên gồm thủ tướng tương lai Ito Hirobumi, Inoue Kaoru, Inoue Masaru, Endo Kinzuke và Yamao Yozo ra khỏi Nhật Bản lại là một thương nhân người Scot có tên Thomas Blake Glover. Nguy hiểm lắm ông Nguyên ạ. Lúc này vẫn còn lệnh bế môn tỏa cảng sakoku của Mạc Phủ, ai bị bắt sẽ bị chém đầu, như Yoshida Shoin, thầy của họ, đã từng bị, Các vị Inoue Kaoru và Ito Hirobumi cũng đã từng đến thăm thành phố Aberdeen, thành phố lớn thứ ba và nổi tiếng về đóng tàu của Scotland. Sự hỗ trợ của Glover thời cải cách Minh Trị là một phần quan trọng trong nỗ lực lớn hơn của ông nhằm hiện đại hóa Nhật Bản bằng cách cung cấp tàu thuyền, súng ống và giới thiệu công nghệ phương Tây, mang lại cho ông biệt danh "Samurai người Scot".

Nhưng câu chuyện không dừng lại ở đó. Khi Nhật Bản mở cửa, thì tất cả skill kỹ thuật đều được mang từ nước ngoài vào mà phần quan trọng trong đóng góp của Anh trong những ngày đầu là của Scotland. Người có công nhiều nhất có lẽ là kỹ sư đường sắt Richard Henry Brunton, người chuyển sang sống ở Nhật năm 1868 và làm việc ở đó tám năm liền. Ông giúp xây dựng bên cạnh hệ thống đường xá rất thô sơ của Nhật Bản hệ thống hải đăng Nhật Bản để mở đường cho tàu bè thông thương an toàn, giúp xây dựng chiếc cầu sắt đầu tiên ở Nhật Bản nối liền Yokohama và Tokyo, được xem là một thần kỳ, trong bối cảnh Nhật Bản thiếu thốn mọi thứ cho công nghiệp, kể cả sắt thép. Cầu sắt đầu tiên đó có thể xem là biểu tượng của công nghiệp hóa Nhật Bản! Sau đó Brunton và Glover cùng hợp tác để xây dựng đoạn đường sắt nối Yokohama và Tokyo, cũng là một kỳ công. Sự đóng góp của Scotland vào cuộc công nghiệp hóa Nhật Bản là rất lớn.

– Nguyên: Vâng, hay quá ông! Phái đoàn Iwakura có ghé thăm Scotland và trên đường về cũng đã thuê kỹ sư Henri Dyer của Đại học Glasgow để mở Đại học Kỹ thuật đầu tiên hết ở Tokyo, lúc đó chỉ sau M.I.T. mười năm thôi. Ông xây dựng đại học này trong gần mười năm rất thành công. Tại lễ khai mạc Phòng thí nghiệm kỹ thuật mang tên James Watt tại Đại học Glasgow, Lord Kelvin đã mô tả trường kỹ thuật của Dyer là “trường tiến bộ nhất loại này trên thế giới”, một vinh dự cho Đại học Kỹ thuật Nhật Bản, cho bản thân Dyer, và cũng cho Đại học Glasgow, nơi ông đã tốt nghiệp (Benjamin Duke). Thật lạ thật ông nhỉ! Đất nước nhỏ bé này, với dân số ít ỏi, có nền kinh tế lạc hậu, nhưng có nền khai sáng độc đáo rất ảnh hưởng, và sau khi liên minh với Anh năm 1707, kinh tế đã nhanh chóng bắt kịp các nền kinh tế tiên tiến không chỉ về công nghiệp mà còn về các kỹ năng công nghiệp chất lượng cao.

– Smith: Vâng, hệ thống giáo dục dân chủ, khai sáng và tiến bộ là đáng chú ý, cho phép đất nước khai thác một nguồn nhân lực dồi dào trên một số dân nhỏ, mở ra con đường dẫn đến tài năng rộng lớn hơn nhiều so với nước Anh. Người Scotland đóng một vai trò lớn không cân xứng trong lịch sử phát minh và đổi mới kỹ thuật: James Watt trong động cơ hơi nước là trường hợp nổi bật đã kích hoạt cuộc công nghiệp hóa ở Anh, và nhiều doanh nhân kỹ thuật tên tuổi khác. (Eric Hobsbawm)

– Nguyên: Tuyệt vời quá. Dân tộc nhỏ bé Scotland rất đáng ngưỡng mộ ạ! Ông Smith ơi, cho phép tôi trở lại tác phẩm Lý thuyết những tình cảm đạo đức của ông một chút nhé. Một trong những đoạn văn tôi cho hay nhất là đoạn văn khi ông bàn về đạo đức, bổn phận (On Duty) sau đây:

Đó là lý trí (reason), nguyên tắc, lương tâm, cư dân của lồng ngực, con người bên trong, vị thẩm phán và trọng tài vĩ đại của hành vi của chúng ta. Chính Ngài, bất cứ khi nào chúng ta sắp hành động để ảnh hưởng đến hạnh phúc của người khác, kêu gọi chúng ta, bằng một giọng nói có thể làm kinh ngạc những đam mê tự phụ nhất của chúng ta, rằng chúng ta chỉ là một trong số đông, không có khía cạnh nào tốt hơn bất kỳ ai khác trong đó; và rằng khi chúng ta tự coi mình là kẻ phục tùng người khác một cách đáng xấu hổ và mù quáng như vậy, chúng ta sẽ trở thành đối tượng thích hợp của sự oán giận, ghê tởm và nguyền rủa. Chỉ từ Ngài mà chúng ta học được sự nhỏ bé thực sự của chính mình, và bất cứ điều gì liên quan đến chính mình, và những sự trình bày sai lệch tự nhiên của tình yêu bản thân chỉ có thể được sửa chữa bằng con mắt của người quan sát vô tư này (nghiêng được thêm vào). Chính Ngài là người cho chúng ta thấy sự đúng đắn của lòng hào phóng cũng như sự biến dạng của sự bất công; Sự đúng đắn của việc từ bỏ những lợi ích lớn nhất của bản thân vì những lợi ích còn lớn hơn của người khác, và sự bệnh hoạn của việc gây ra tổn thương nhỏ nhất cho người khác để đạt được lợi ích lớn nhất cho chính mình. Không phải tình yêu thương dành cho người lân cận, không phải tình yêu thương dành cho nhân loại, trong nhiều trường hợp thúc đẩy chúng ta thực hành những đức tính thiêng liêng đó. Chính một tình yêu mạnh mẽ hơn, một tình cảm mãnh liệt hơn, thường diễn ra trong những dịp như vậy; tình yêu dành cho những gì đáng kính trọng và cao quý, cho sự vĩ đại, phẩm giá, và sự vượt trội của chính những phẩm chất của chúng ta. (TMS, Part III, Chap. II)

Chẳng phải đó là một áng văn chương tuyệt đẹp về đạo đức hay sao? Tôi có thể lộng kính đoạn văn trên để treo trên tường, để luôn luôn nhớ rằng con người quả thật vốn sinh ra cao quý, O nobly born, như Jack Kornfield từng trích dẫn Buddha’s teachings. Ông dẫn dắt quốc gia và thế giới trong cuộc mưu tìm hạnh phúc, nhưng không phải chỉ biết có lợi nhuận lạnh lùng của chủ nghĩa tư bản, mà trên hết đặt con người như một thực thể đạo đức cao cả làm trung tâm.

Tôi tin rằng Lý thuyết tình cảm đạo đức là quyển sách được viết hay và quy mô nhất trong truyền thống đạo đức sâu đậm của nền văn minh Hy-La, từ Plato, Aristote, Seneca, Cicero, những người khắc kỷ etc. tại Xứ sở buổi chiều xuyên qua các thời đại Trung cổ, Phục Hưng cho đến hiện đại. Immanuel Kant cũng khen tác phẩm của ông lắm. Thật độc đáo và đáng ngưỡng mộ. Nói như nhà toán học vĩ đại Pháp Henri Poincaré, rằng không nên chỉ vì cuộc sống mà chúng ta đánh mất lý do tồn tại cao quý của mình (et propter vitam vivendi perdere causas)

– Smith: Cảm ơn nhận xét của ông. Vâng, truyền thống đạo đức ở châu Âu có chiều dài lịch sử đáng kính sợ thật như ông nói. Không thời đạo nào lại thiếu vắng những người thầy, nhà giáo dục, học giả, những người viết sách về đạo đức để rèn luyện con người, làm tốt xã hội. Không có lực lượng đông đảo các nhà nhân văn đạo đức đó, chúng ta khó hình dung xã hội châu Âu sẽ tiến hóa về đâu nào? Những tình cảm tốt đẹp đó đóng vai trò lực hút của Newton, giúp giữ cho vũ trụ con người được hài hòa và bền vững. Lý thuyết những tình cảm đạo đức cũng nằm trong truyền thống đó. Theo những người Khắc kỷ xưa,

Con người nên coi trọng chính mình. . . như là một công dân của thế giới, một thành viên của cộng đồng tự nhiên rộng lớn. . . . Chúng ta nên nhìn chính mình. . . dưới ánh sáng mà bất kỳ công dân nào khác trên thế giới sẽ nhìn chúng ta. Những gì xảy ra với bản thân chúng ta, chúng ta nên coi đó là những gì xảy ra với người hàng xóm của chúng ta, hoặc, điều đồng nghĩa, như người hàng xóm của chúng ta coi những gì xảy ra với chúng ta. (TMS, 159)

Trở lại số Kỷ yếu của các bạn, tôi hết sức vui mừng và muốn khen ngợi những nỗ lực to lớn của các bạn để có số kỷ yếu hôm nay. Nó cũng rất đáng bỏ công. Học thuật là dày công. Tôi nghe ‘tin hành lang’ rằng có vài quyển sách nữa liên quan cũng sẽ ra mắt sau số Kỷ yếu của các bạn. Nỗ lực của Kỷ yếu, và các hoạt động kỷ niệm của các bạn trong năm 2023, có lẽ đã tạo ra bầu không khí lên men, thúc đẩy sự quan tâm đến chủ đề kinh tế chính trị học. Tình hình Việt Nam lúc này có lẽ cũng thuận lợi cho sự tiếp thu, phải không ông?

– Nguyên: Vâng tôi cũng tin như thế. Sự đóng góp của chúng tôi là rất khiêm tốn, nhưng hy vọng nó đánh dấu một cột mốc cho sự phát triển Adam Smith về mặt nghiên cứu, học thuật, trong những năm tới ở Việt Nam. Được như thế chúng tôi sẽ rất hạnh phúc. Kỷ yếu cũng có thể coi là công trình nghiên cứu kỷ niệm 250 năm tác phẩm vĩ đại Sự phồn vinh của các quốc gia trong năm tới, 2026. Năm mươi năm trước, khi thế giới kỷ niệm 200 năm tác phẩm này đã có một đợt bàn luận sôi nổi của các nhà kinh tế thế giới về tầm quan trọng và ảnh hưởng của nó. Nhà kinh tế học Mỹ giải Nobel Joseph Stiglitz đã có nhận định sau: “Hai trăm năm kể từ khi Adam Smith viết kiệt tác của mình đã chứng kiến ​​sự gia tăng chưa từng có về mức sống trong các nền kinh tế tư bản. Hơn nữa, thành quả của sự tăng trưởng này đã được phân phối rộng rãi. Tôi tin rằng Smith sẽ ngạc nhiên về hiệu quả của bàn tay vô hình, về cách nó đã phục vụ tốt như thế nào để gia tăng sự giàu có của các quốc gia.” Tôi tin rằng đánh giá đó của Joseph Stiglitz ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.

– Smith: Cảm ơn ông Nguyên. Hiện tại đất nước các bạn đang có những chuyển biến thuận lợi về mặt nhận thức và tư tưởng. Điều Việt Nam cần tránh là trở thành “quốc gia của những shopkeeper”, chỉ làm thuê cho nước ngoài! Làm thuê cho nước ngoài theo giai đoạn thì được, để học hỏi kinh nghiệm rồi vươn lên, nhưng làm thuê mãi mãi mà không có perspective để tự chủ thì không nên. Việt Nam đang bước vào giai đoạn xã hội thương mại (commercial society) như tôi thường nói trong Sự Phồn vinh của các Quốc gia. Để thành công trong xã hội đó, các bạn cần phải sản xuất hàng hóa dồi dào, phong phú, ngày càng tinh tế, trước để đáp ứng nhu cầu nội địa ngày càng gia tăng, sau để xuất khẩu lấy ngoại tệ trang bị cho máy móc, công nghệ. Phân công lao động, chuyên môn hóa, ngôn ngữ hiện đại: công nghiệp hóa và hiện đại hóa, với công nghệ ngày càng cao, là những công cụ hữu hiệu nhất kích thích sáng tạo, đổi mới thường xuyên, để chế tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao giúp đất nước tiến lên phồn vinh. Các xã hội đi trước như ở nước Anh thế kỷ thứ XVIII hay ở Đức, Pháp kỳ thứ XIX hay ở Nhật Bản và các nước Đông Á sau đó đều như thế cả. Xung quanh các bạn đã và đang diễn ra quá trình đó sôi động ở quy mô chưa từng thấy, và họ rất thành công, với nhiều thần kỳ xuất hiện! Phát triển kinh tế với tăng trưởng theo hàm mũ là đặc trưng của thời đại. Các bạn nên học hỏi để làm chủ đất nước của mình.

— Nguyên: Vâng, cảm ơn ông. Chủ đề được ông bàn trong chương đầu tiên hết của tác phẩm Sự phồn vinh của các quốc gia không phải là vàng bạc, đất đai, ngân hàng hay thương mại quốc tế, mà đơn giản là cây kim ghim (pin), đúng không ạ, và việc sản xuất nó theo phương pháp phân công lao động được ông giảng giải là phương pháp hữu hiệu để làm ra thật nhiều sản phẩm hơn tổng số năng suất các cá nhân riêng lẻ mỗi người làm tất cả các công đoạn từ A-Z, từ đó phát sinh ra nhu cầu chuyên môn hóa, sáng tạo, cải thiện kỹ thuật v.v. Với tiến bộ kỹ thuật công nghệ, cơ khí hóa, số lượng sản phẩm mỗi công nhân làm ra lại tăng lên đáng kể, khoảng 8.000 ghim mỗi ngày (1832), lên đến 800.000 ghim mỗi ngày (150 năm sau) chứ khong còn 20 ghim như ban đầu. (Ha-Joon Chang, Economics)

Ngày nay, tư duy tuyến tính của những thế kỷ trước, tuy từng mang tính chất cách mạng, đưa các quốc gia nông nghiệp lên công nghiệp hóa, là không còn đủ, đúng như ông nói. Các nhà chính trị, và doanh nhân, cần phải học cách tư duy mới, nếu không muốn bị lạc hậu. Thung lũng Silicon là nơi đầu tiên đã ấp trứng đại bàng. Những công ty nhỏ, có cái thành lập từ các ga-ra xe, đã nhanh chóng có sức tăng trưởng hàm mũ. Mà muốn có tăng trưởng hàm mũ cần có công nghệ bứt phá (disruptive), phần lớn xuất phát từ các đại học nghiên cứu hoặc từ những doanh nhân trẻ giàu óc sáng tạo.

Nhưng điều quan trọng trên hết là phải có niềm khao khát gì trong trái tim, phải không ạ? Lấy thí dụ Triều Tiên (Choson) chẳng hạn. Trước sự đình trệ của xã hội phong kiến nho giáo, họ đã từng có phong trào Silhak (Sirhak) vào thế kỷ XVII, cái học thực tiễn (practical learning), để thoát ra khỏi sự độc diễn của cái học nho giáo của giai cấp thống trị yangban vô sinh để trở nên hữu ích cho xã hội. Silhak bao gồm nhiều cải cách xã hội, chính trị, kinh tế, thương mại và nông nghiệp. Phong trào này là khát vọng đổi mới của người Triều Tiên muốn đổi mới đất nước của họ, tuy vẫn phải tiếp tục sống dưới trướng của sự thống trị của giai cấp yangban độc quyền của các ‘học giả-quan lại’ quá mạnh trong xã hội nên không thể phát triển sức mạnh của mình. Rồi quyền lực của giới yangban dần dần cũng suy tàn theo sự suy tàn của xã hội triều đại Choson phong kiến dài nhất trong lịch sử Triều Tiên vì đơn giản đã mất hết sức sống. Nhưng phải đợi đến khi Park Chung Hee lên nắm quyền năm 1961, khát vọng Silhak bị dồn nén hàng thế kỷ mới có dịp bung ra phát triển tự do và cuồng nhiệt, nhanh chóng kiến tạo một nửa đất nước gọi là Hàn Quốc (Hanguk) từ đống tro tàn thành một quốc gia mới phồn vinh, công nghiệp hóa được thế giới hết sức ngưỡng mộ — tiến trình đó diễn ra chỉ trong một thế hệ thôi. Tinh thần Silhak có nét giống với tư tưởng cái học hữu ích (useful learning) của Francis Bacon ở Anh thế kỷ XVI, mà tư tưởng của ông có ảnh hưởng lớn lên cuộc cách mạng công nghiệp Anh sau đó, và giống thực học của Fukuzawa Yukichi trong thời Minh Trị.

— Smith: Thôi, cảm ơn ông Nguyên đã đến thăm và có cuộc trò chuyện rất thú vị với tôi. Một lần nữa, tôi xin chúc mừng các bạn về sự thành công nhé, và cảm ơn những tình cảm hết sức cao quý mà các bạn đã dành cho tôi. Chúc đất nước Việt Nam thành công trong cuộc đổi mới tăng cường. Không cò gì là không thể!

– Nguyên: Cảm ơn ông! Cảm ơn sự truyền cảm hứng và động lực từ ông. Chúng tôi sẽ cố gắng, và xin tạm biệt!

(Có thể xem cả hai cuộc trò chuyện được tách ra ở đây: Cuộc trò chuyện với Adam Smith Phần II )

Tôi hy vọng sẽ có người Việt Nam đến Edinburgh thăm mộ ông, và ngôi nhà Panmure của ông gần đó, nơi ông đã sống 12 năm cuối đời để hoàn chỉnh những lần tái bản cuối các tác phẩm vĩ đại của ông, có thể có một bài phát biểu. Đó cũng chính là biểu hiện của sự tiến bộ của học thuật Việt Nam.

Tôi xin nhiệt liệt giới thiệu anh chị và các bạn cái tạm gọi là phiên bản “Adam Smith của Việt Nam”. Ông đã mang lại sự “Khai sáng ấm áp” tình người, như nữ học giả Emma Rothschild của Đại học Harvard nói. Vâng, rất ấm áp tình người.

Xin đón xem hai bài khác liên quan của tôi:

1. Ảnh hưởng của Isaac Newton lên mô hình hóa Vũ trụ kinh tế của Adam Smith. Mô hình thiên văn học của Newton có ảnh hưởng lớn lên mô hình kinh tế chính trị của Smith. Đạo đức và kinh tế của Smith không mâu thuẫn nhau, mà hợp thành một vũ trụ hài hòa. Cái đó chính là “kinh tế chính trị học”, political economy. Ngoài ra, bày viết này cũng cho thấy ảnh hưởng của Newton lên phong trào khai sáng châu Âu là rất to lớn, rất thôi thúc và quyết định. Sự thật là khai sáng Newton đã thâm nhập vào giới tinh hoa của phương Tây rất đáng ngạc nhiên, và họ cảm thấy lôi cuốn và can đảm đáng ngạc nhiên. Giới tinh hoa phương Tây có đặc tính thượng tôn lý tính, tính khoa học, và đặc tính đó không thể dập tắt được dù phải trải qua cả ngàn năm trong thời kỳ đen tối. Quá trình sapere aude, dám biết, và cả dám làm, của khai sáng Immanuel Kant thật sự đã bắt đầu mạnh mẽ sau tác phẩm Principia của Newton giống như lửa gặp gió, không thể ngăn chặn được nữa.

2. Tôn giáo và sự hình thành của Chủ nghĩa tư bản. Chủ đề này vô cùng thú vị: Tại sao ở phương Tây (châu Âu), xứ sở rất mộ đạo và chịu ảnh hưởng to lớn của chủ nghĩa khắc kỷ, con người phải gánh chịu nhiều định kiến trên vai hàng thế kỷ, nhưng cuối cùng đã thoát ra khỏi để phát triển chủ nghĩa tư bản, mà không phải ở Trung Hoa, nơi có truyền thống market economy từ cả nghìn năm cũng như có khổng giáo có vai trò tương tự như tông giáo ở châu Âu? Câu hỏi đó tương tự như câu hỏi của nhà Trung Hoa học Joseph Needham: Tại sao châu Âu có khoa học mà Trung Hoa lại không có?

Về ảnh hưởng của Khai sáng Scotland, và Adam Smith lên Nhật Bản và Trung Quốc, đề tài bổ ích cho Việt Nam, xin xem trong số Kỷ yếu này.

Chắc chắn trong kỷ yếu đó đây vẫn còn nhiều lỗi, mong độc giả cảm thông, chúng tôi sẽ cải thiện trong lần in tới.

Xin cảm ơn tất cả mọi người.

Nguyễn Xuân Xanh