Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Bảy, 9 tháng 8, 2025

Pháp ở Nam Kì

 M. A. Noirot, “La France en Cochinchine III”. Revu du Monde colonial, asiatique et américain, organe politique des deux-mondes, publié sous la direction de M. A. Noirot, 6ème année, 2ème série, No 4, Tome XIème, Avril 1864, Paris, Bureaux de la revue, 3 rue Christine, pp. 389-397.

Phan Văn Song dịch

Sau khi hòa bình được thiết lập, Phan Thanh Giản được cử làm tổng đốc các tỉnh miệt dưới Nam Kì[1] vẫn còn thuộc về Tự Đức; một vị trí khiêm tốn đối với một người có địa vị như ông, nhưng lại càng được nâng cao bởi tình hình đặc biệt của các tỉnh này và sự tế nhị trong quan hệ đang có với Pháp.

Theo tục lệ Nam Kì[2], gia quyến ông ở lại Huế làm con tin; chỉ cần có chút nghi ngờ về lòng trung thành của ông, tất cả sẽ bị chém đầu. Đối với chúng ta việc Phan Thanh  Giản ở lân cận chắc chắn là một sự đảm bảo quý giá, nhưng việc ông rời khỏi kinh đô đã tước đi người lãnh đạo của phe chủ hòa, và phe chủ chiến đã có thể giành lại ảnh hưởng.

Một quốc gia không thể khuất phục trước ách thống trị nước ngoài một ngày một bữa, và quả thật chúng ta đã quá ngây thơ và mê muội khi tưởng tượng rằng dân tộc này sẽ sẵn sàng từ bỏ cội nguồn và phong tục lâu đời ngay lập tức để có được vinh dự đặc biệt tuân theo chúng ta. Đất nước choáng váng trước tốc độ chinh phục của chúng ta, trong phút chốc đã cúi mình dưới cơn bão, sự tĩnh lặng và những sai lầm của chúng ta đã sớm giúp nó trở lại bình thường. Đất nước, vốn bị bọn quan lại quấy nhiễu, quyết thử vận may bằng vũ lực một lần nữa. Ngoại trừ những người lạc quan trong nhóm người thân cận của đô đốc [Bonard], không ai coi sự chiếm đóng của chúng ta là hiệu quả; ngoài bán kính vài kilômét quanh các thành, ảnh hưởng của chúng ta hoàn toàn bằng không, thuế má chỉ được nộp cho triều đình Huế hoặc cho bọn nổi loạn. Chúng ta có thể di chuyển hầu như khắp mọi nơi mà không quá sợ bị bắn, nhưng chỉ có vậy; chúng ta nhận được sự tôn kính tầm thường của các quan lại và người đứng đầu các thị trấn, nhưng kẻ thù của chúng ta cũng nhận được sự tôn kính đó. Một số người bi quan nói về một cuộc nổi loạn, nhưng ý kiến của họ nói chung không được đồng tình; mọi thứ dường như tương đối yên bình trên bề mặt.

Ở Gò Công, cuộc nổi loạn đang được tổ chức, ngày càng mạnh mẽ; các băng nhóm của nó đang thu thuế bí mật hoặc công khai trên một phần lớn lãnh thổ của chúng ta. Gò Công là một vùng đất cực kì bằng phẳng và đầm lầy, gần như không thể đi qua trong mọi mùa; vào giai đoạn lũ lụt và mưa, một vành đai nước và phù sa bảo vệ tuyệt đối con đường tiếp cận. Chính vào thời điểm này trong năm, tầm quan trọng của vành đai bảo vệ này cuối cùng đã được hiểu rõ; thời điểm hành động đã đi qua; cần phải chờ đợi và để vết thương này phát triển. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, sự ngạo mạn của bọn nổi loạn đã trở nên quá khích đến mức sự thiếu kiên nhẫn quá sớm đã dẫn đến hành động chống lại chúng; chúng ta đã cố làm điều không thể, và đã thất bại. Trong những cuộc giao tranh nhỏ này, vinh quang luôn thuộc về vũ khí của chúng ta, nhưng chúng ta chẳng đạt được gì. Quản Định, cho mọi người thấy sự vô ích của những nỗ lực của chúng ta đã khéo léo biến những thành công vô ích của chúng ta thành những thất bại. Do đó, Quản Định dường như đã đúng khi tuyên bố: "Một mình tôi giữ bọn Pháp, hãy cùng đứng lên và chúng ta sẽ ném chúng xuống biển." Người An Nam đã phóng đại tầm quan trọng của Quản Định và những khó khăn về tình cảnh của chúng ta; tinh thần nổi dậy lại dâng trào mãnh liệt. Tất cả những điều này lẽ ra có thể đã kết thúc tệ hại đối với chúng ta; chúng ta đã được hoàn cảnh trợ một cách tuyệt vời.

May thay, bè lũ manh động chia thành hai phe. Phe thứ nhất thấy hoàn cảnh thuận lợi và muốn hành động ngay lập tức, và đã thắng; phe thứ hai muốn tiếp tục ẩn mình và lợi dụng thời điểm lúc đã hoàn toàn an toàn, chúng ta sẽ hành quân về Gò Công, bỏ lại các đồn bót không người. Chúng ta dự định tấn công Gò Công vào khoảng ngày 15 tháng 1, nhưng dịch bệnh đã làm suy yếu lực lượng của chúng ta đến mức để thực hiện cuộc ra quân này, chúng ta phải gần như rút hết lực lượng ở toàn bộ các thành, việc không biết gì về thời kì dậy men ngầm đó đã khiến chúng ta phạm phải sự thiếu thận trọng này, và thật khó để lường trước hậu quả của nó. Do đó, mưu toan nổi dậy thứ hai là mưu toan được phối hợp tốt nhất; còn một lí do rất mạnh mẽ khác đã khịến những người nổi dậy phải chờ đợi. Khi chúng ta chiếm được Nam Kì, các đội quân của chúng ta đã thiêu huỷ một lượng lớn lúa gạo thuộc về cá nhân hoặc kho dự trữ của nhà nước; chiến tranh đã cản trở việc canh tác, diện tích gieo trồng giảm đi rất nhiều so với những năm bình thường, và do đó có nguy cơ xảy ra nạn đói. Vì vậy, điều cấp bách là phải thu hoạch, phe ẩn mình chờ thời đã đáp ứng tình thế cấp bách này với việc hoãn cuộc nổi dậy cho đến sau vụ thu hoạch; nhóm khởi nghĩa ngay lập tức hẳn vẫn chưa tìm thấy tiếng nói chung trong dân chúng, vốn đang dốc hết sức cho việc làm ăn sinh sống. Dù như thế nào, những người chủ chiến nhất đã thắng, và cuộc nổi dậy được quyết định vào ngày 18 tháng 12.

Chúng ta đang trong trạng thái hết sức yên tĩnh thì một sự việc khó tin xảy ra đánh thức chúng tôi dậy. Phe chờ thời có Quản-Fâ[3], một thủ lãnh nổi tiếng trong cuộc chiến trước và là cánh tay phải của Quản Định; ông đã đến tỉnh Tây Ninh để tổ chức cuộc nổi dậy ở đó. Ông đã bất đồng với phe chủ chiến và họ đã bắt giữ và giải ông đến chỉ huy của tỉnh: họ nói rằng đó là Quản-Fâ, thủ lãnh hàng đầu của Quan Định, phải bị chặt đầu ông, và họ chuẩn bị giết ông ngay lập tức. Sự nhiệt tình thái quá này đã khơi dậy sự nghi ngờ của chỉ huy Brière, ông bảo rằng vấn đề không quá cấp bách đến mức không thể hoãn lại đến ngày hôm sau. Về phần mình, Quản-Fâ đã nói nhắn với Brière: Tôi là thằng tù và là kẻ thù của ông, ông có thể chặt đầu tôi, đó là quyền của ông; nhưng như vậy ông sẽ không biết gì hết; hãy thả tôi ra, tháo bỏ gông cùm trói buộc tôi, cho tôi ăn và đối xử tử tế, ông không phải sợ tôi trốn đi; trái lại, tôi còn đòi ông giữ lại, đầu tôi đang ở trên thớt. Brière đồng ý theo yêu cầu của ông ta. Quản-Fâ báo cho Brière biết rằng cuộc nổi loạn sẽ nổ ra vào đêm hôm sau: “Bọn họ giao tôi cho ông để ông mờ mắt,” ông ta nói, “và cũng để làm ông tin là họ trung thành với ông; đó là những kẻ cứng đầu đã mất tất cả, các ông là những người mạnh nhất, các ông sẽ thắng họ, tôi vẫn ở trong hàng ngũ của các ông.” Nếu sự việc không xác nhận từng chi tiết trong câu chuyện kì lạ của ông ta, thật khó để tin vào điều đó.

Thực tế, trong đêm ngày 18, hai đồn và ba lordcha[4] đã bị tấn công. Tại đồn Rạch Tra, bọn nổi dậy đã bò qua cỏ vào trong vòng rào; trước khi có thể kịp hô cầm súng, viên đại úy và hai lính đã bị cắt cổ. Những lính thủy đánh bộ dũng cảm của chúng ta đã đánh tan bầy quân địch đang bao vây họ bằng những nhát lưỡi lê mà không cần bắn một phát súng nào. Nhiều thuyền tiến tới các lordcha với đuốc đang cháy: bị đẩy lùi bằng lưỡi lê, những kẻ tấn công sau đó bị nghiền nát bởi pháo binh và súng trường. Hai bè hỏa công, mỗi bè gồm 7 thuyền cột lại với nhau, được phóng ra chống lại pháo hạm Avalanche, trong khi ba khẩu đội pháo yểm trợ nó bằng đạn đại bác. Tại Thuộc Nhiêu, đồn bị tấn công, đạn súng không thể đẩy lùi quân nổi dậy đang bao vây 50 lính thủy đánh bộ của chúng ta, quân nổi dậy lao vào lưỡi lê của chúng ta và chỉ rút lui khi để lại 217 xác chết trên bãi chiến trường rất hẹp; một số lượng lớn hơn những kẻ rút lui ngã xuống dưới làn đạn súng tiểu liên. Chiến công cuối cùng này có tầm quan trọng hàng đầu. Trước tiên, chúng ta hiểu được tác động tinh thần của hành động tuyệt vời này, trong đó 50 chiến sĩ với vũ khí có lưỡi lê đã đánh ngã 2000 và chỉ phải trả giá cho chiến công này với ba bị thương, đủ nhẹ để không ai bị loại khỏi vòng chiến. Nếu quân đội của chúng ta chịu thua, các nhóm này sẽ trú đóng  trong các phòng tuyến và thành Mĩ Quý. Thành này là căn cứ hoạt động của quân An Nam năm trước; chúng ta đã chỉ chiếm giữ mà không phá hủy nó; hai ngày là đủ để bọn nổi dậy đặt nó vào trạng thái phòng thủ, và việc đánh đuổi chúng sẽ đòi hỏi rất nhiều công sức.

Mặc dù Tự Đức không chính thức ủng hộ cuộc nổi loạn, nhưng sự đồng lõa của ông là rõ ràng; hành vi của ông trong vụ này đáng được xem xét. Đã đến lúc phải trả khoản bồi thường chiến phí đầu tiên, và triều đình Nam Kì đã gửi lời nhắn rằng họ có số tiền đến hạn để chuyển cho chúng ta; thông tin này được truyền đi bởi một sứ giả mang theo nhiều thư quan trọng. Những thư này có nội dung đại khái như sau: Triều đình Huế vẫn rất mong muốn duy trì hòa bình, và tin rằng họ đang cho thấy điều này qua việc đề xuất trả không chỉ nửa năm mà thậm chí là trọn năm; nhưng, họ nói thêm, Phan Thanh Giản và đô đốc, khi thảo luận về việc nhượng lại lãnh thổ, cả hai đều đã vượt quá quyền hạn được vua mỗi nước tương ứng trao cho; hoàng đế đã mở hết lòng trao cho người Pháp quyền định cư và tự do sinh sống ở Nam Kì, nhưng việc nhượng lại lãnh thổ là điều hoàn toàn bất khả mà ông chưa từng nghĩ đến. Điều này đặt lại câu hỏi về mọi thứ.

Thư này đến tay đô đốc đúng vào lúc cuộc nổi loạn nổ ra. Về phần mình, Phan Thanh Giản  đang lan truyền những tuyên bố trong đó thông báo chiến thắng của người An Nam trên khắp đất nước; những tuyên bố này nói rằng người Pháp đang bị nghiền như thịt băm. Nếu cuộc nổi loạn thành công, chắc chắn chúng ta sẽ bị quân đội triều đình vốn đang tụ tập tại biên giới, tấn công. May thay, những thất bại liên tiếp mà quân nổi loạn phải chịu đã dập tắt toàn bộ sự việc. Phan Thanh Giản, mặc dù thuộc phe chủ hòa, chắc chắn đã có nhúng tay vào cuộc nổi loạn; nếu mọi việc diễn ra tốt đẹp ngay từ đầu cho phe chủ chiến và sau đó thất bại mà không có sự hợp tác của ông, thì việc toàn bộ gia đình ông bị thảm sát ở Huế sẽ là cái giá cho lòng trung thành của ông với hiệp ước.

Thất bại ngày 18 tháng 12 đã khiến Phan Thanh Giản lên tiếng và viết thư cho đô đốc: thư của sứ thần Huế không có giá trị, 1° vì nó không qua tay chính ông, thượng thư toàn quyền, người duy nhất được hoàng đế ủy nhiệm để duy trì quan hệ với người Pháp; 2° vì nó chỉ là thư của cấp thượng thư đơn giản và không có dấu hiệu nào cho thấy sự chuẩn thuận của Hoàng đế. ‒ Kể từ thời điểm đó, tổng đốc không ngừng đưa ra những lời phản đối ủng hộ hòa bình nồng nhiệt nhất; nếu hòa bình bị vi phạm, ông nói với một nhà truyền giáo, tôi sẽ đầu hàng người Pháp; nếu hòa bình bị vi phạm, ông ta nói lần khác, tôi sẽ không rời khỏi nhà, quân lính của tôi sẽ án binh bất động, hãy để tôi bị bắt và bị treo cổ. Phan Thanh Giản liên tục mời các sĩ quan từ thành lân cận đến chỗ của mình, và những thể hiện tình bạn của ông thường đi đến mức hèn kém. Về phần mình, Quản Định, không hài lòng với hành vi của Phan Thanh Giản trong mọi trường hợp này, đã đe dọa đốt ngôi làng nơi ông cư trú và chặt đầu ông. Tổng đốc đã lợi dụng hoàn cảnh này để thể hiện lòng nhiệt thành của mình; ông đã yêu cầu và được cho một đội lính Pháp bảo vệ.

Cuộc nổi loạn thất bại, các phiên tòa xét xử những kẻ nổi loạn bắt đầu. Một số người đứng đầu các khu vực quanh Sài Gòn, bị kết án treo cổ, đã tiến đến chỗ chết với sự kiên cường đáng ngưỡng mộ của người phương Đông: 'Các ông treo cổ chúng tôi vì tội làm phản', họ nói, 'các ông có lí; chúng tôi chỉ còn biết cảm ơn sự nương nhẹ của các ông. Theo luật An Nam thì chúng tôi sẽ bị tịch thu gia sản, gia đình chúng tôi sẽ bị giết chết đến người cuối cùng, và bản thân chúng tôi sẽ bị xử lăng trì (bị xẻo từng mảnh nhỏ, bắt đầu từ tứ chi, cho tới chết). Nhưng các ông hãy nhớ cho rõ điều này, nếu chúng tôi làm phản, thì đó là lỗi của các ông: các ông không biết cách bảo vệ chúng tôi. Nếu như các ông để quân lính đóng gần chúng tôi, nếu chúng tôi có thể trông cậy vào sự bảo vệ hiệu quả, thì chúng tôi sẽ vẫn trung thành.'

An tâm trước thất bại của quân nổi dậy, đến phiên chúng ta tấn công. Đầu tiên ở tỉnh Mĩ Tho, sau đó ở Sài Gòn, chúng ta truy lùng các băng đảng Gò Công đang lẫn chạy khắp vùng nông thôn, và chúng ta buộc chúng phải trở về hang ổ với tổn thất nặng nề. Tóm lại, tình hình của chúng ta như sau: chúng ta vẫn có thể tự bảo vệ mình, nhưng phải đòi hỏi sự phục vụ vượt quá sức mạnh quân đội đã bị tiêu hao và kiệt quệ vì bệnh tật. Các tỉnh giáp biên giới Campuchia được giữ theo nhiệm vụ, nhưng chỉ yêu cầu cầm vũ khí ngay khi có cơ hội thành công nhỏ nhất; tại Bà Rịa, chúng ta duy trì thế phòng thủ nghiêm ngặt; tại Gò Công, chúng ta không thể nghĩ đến việc chọc thủng bọn nổi dậy vì chúng ta cần toàn bộ sức mạnh để kiểm soát phần còn lại của lãnh thổ.

Một buổi sáng, pháo hạm Alarme bắt gặp trên chót một cây sào cắm trên bờ một thư của Quản Định gửi cho đô đốc, đại khái nói là: “Triều đình Huế không thừa nhận chúng tôi, nhưng chúng tôi vẫn cứ bảo vệ đất đai của nước mình; hoàng đế gọi chúng tôi là bọn phản loạn, nhưng trong thâm tâm, ông chỉ có thể khen thầm lòng trung của chúng tôi, và vào ngày chiến thắng, ông sẽ không chỉ tha thứ mà ban thưởng cho chúng tôi nữa. Các ông dũng cảm, nhưng không thật đông; mỗi ngày có vài người trong các ông ngã xuống dưới những đòn đánh của chúng tôi; bịnh sốt rét tấn công thay cho chúng tôi bù đắp cho sự yếu kém về vũ khí của chúng tôi. Chúng tôi đang ở trên đất nhà, chúng tôi có mọi lợi thế; chúng tôi chỉ cần chờ, và người An Nam đủ nhẫn nại. Hãy từ bỏ cuộc chinh phạt bất khả này, trả lại đất đai cho chúng tôi, và khi đó chúng tôi sẽ vui mừng tiếp đón người Pháp như  anh em.”

PAUL ÉMILE

Sao lại: A. NOIROT.

Đây rõ ràng là những lời cao quý đáng được lắng nghe. Nhưng liệu chúng ta có thể lùi bước trước một công cuộc to lớn như vậy khi đã đổ biết bao bạc vàng và xương máu? Liệu chúng ta có nên đặt những người An Nam đã đứng về phía chúng ta dưới ách của vị vua ở Huế lần nữa? Liệu chúng ta có nên bỏ rơi họ như đã làm với người Tartar ở Crimea? Liệu chúng ta có nên từ bỏ hi vọng đưa những người dân này, vốn được hình thành một cách rất kì lạ bởi tôn giáo độc đoán, vào thuyết lí tự do hiện đại không?

Quản Định hoàn toàn đúng trong những lời lẽ hào hùng của mình: chúng ta không thật đông ở Nam Kì, cũng như chúng ta không thật đông ở Algeria; nhưng chúng ta có những cách khác để nhân lên hơn là tăng quân trú đóng vô hạn định, đó là du nhập, hay đúng hơn là để cho một cộng đồng dân cư có nguồn gốc, bản năng và sở thích châu Âu phát triển trên bờ những con sông lớn này. Sài Gòn mới chỉ bị chiếm đóng chưa đầy 6 tháng, nhưng đã trở nên quan trọng hơn cả Hồng Kông, nữ hoàng Phương Đông, đã thành lập được 4 năm.

Người Hoa, người Mã Lai, người Ấn Độ, thậm chí cả người Ả Rập đổ xô đến thành phố này mà Hoàng đế Huế đã để mặc cho suy tàn. Anh, Đức, Mĩ đã thành lập những cơ sở thương mại rộng lớn dưới bóng của gian hàng của chúng ta. Công ti Imperial Messageries đã kết nối nữ hoàng tương lai này của quần đảo Ấn Độ[5] với mạng lưới các cơ sở thuộc địa của chúng ta. Một tương lai tươi sáng cuối cùng đã mỉm cười với những nỗ lực của chúng ta, trên những vùng đất mà kể từ Louis XIV, chúng ta đã thèm muốn có một cơ sở. Giờ đây, vận may đã đến; bất kì ai đối địch với sự chiếm đóng Nam Kì  đều phải bị coi là kẻ thù của vinh quang và sự vĩ đại của nước Pháp.

A. NOIROT

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

LA FRANCE EN COCHINCHINE

III

La paix conclue, Phan -Tan-Gian fut envoyé comme vice-roi des provinces de la Basse-Cochinchine réservées à Tu-Duc; c'est une position infime pour un homme de son rang, mais elle est relevée par la situation spéciale de ces provinces et par la délicatesse des relations constantes avec les francais.

Sa famille suivant la coutume Cochinchinoise est restée à Hué en otage, au moindre soupçon sur sa fidélité toutes ces têtes seront abattues. Le voisinage de Phan-Tan-Gian est sans aucun doute pour nous une garantie d'une grande valeur, mais son départ de la capitale priva le parti de la paix de son chef, et le parti de la guerre put ressaisir l'influence.

Une nation ne se soumet pas du jour au lendemain au joug étranger, et vraiment notre naïveté et notre infatuation furent grandes, quand nous nous imaginâmes que ce peuple serait trop heureux d'abandonner à l'instant sa nationalité et ses coutumes séculaires pour avoir l'honneur insigne de nous obéir. Le pays stupéfait par la rapidité de notre conquête s'était un instant courbé sous l'ouragan, le calme et nos fautes le firent vile revenir à lui. Le pays troublé par les mandarins ou quan résolut de tenter encore une fois le sort des armes. À part les optimistes de l'entourage de l'amiral, personne ne considérait notre possession comme effective; en dehors d'un rayon de quelques kilomètres autour des citadelles, notre influence était radicalement nulle, l'impôt se payait à la cour de Huế ou à la révolt. Nous pouvions à peu près circuler partout sans trop craindre de recevoir des coups de fusil, mais c'était tout; nous recevions l'hommage banal des thongs et des maires, mais nos adversaires les recevaient également. Quelques pessimistes parlaient d'insurrection, mais leur opinion n'était point généralement partagée, tout semblait à peu près calme à la surface.

A Go-Cong l'insurrection s'organisait, se fortifiait, ses bandes levaient des impôts claudestinement ou au grand jour sur une bonne partie de notre territoire. Go-Cong est un pays extrêmement plat et marégageux, presque impraticable en toute saison; à l'époque de l'inondation et des pluies une ceinture d'eau et de vase en défend absolument l'abord. Ce fut précisément au moment de cette phase de l'année que l'on comprit enfin l'importance de cette levée de boucliers, le moment d'agir était passé, il fallut attendre et laisser ce chancre se développer. Bientôt cependant l'insolence des rebelles devint telle qu'une impatience intempestive conduisit à agir contre eux; on tentait l'impossible, on échoua. Dans ces petites escarmouches l'honneur resta toujours à nos armes, mais on n'aboutit à rien. Quan-Dinh montrant à tous l'inanité de nos efforts fit habilement passer nos inutiles succès pour des défaites. Quan-Dinh semblait donc avoir raison dans les proclamations oùt il disait: A moi seul je tiens les Français, levez-vous en masse et nous les précipiterons dans la mer. Les Annamites s'exagérèrent l'importance de Quan-Dinh et les difficultés de notre situation; l'esprit de révolte fermenta avec une nouvelle intensité. Tout cela pouvait mal finir pour nous; nous avons été merveilleusement servis par les circonstances.

Heureusement le parti de l'agitation se divisa en deux camps. Le premier trouvait les circonstances favorables et voulait agir immédiatement, il l'emporta; le second voulait continuer à dissimuler et profiter du moment où pleins de sécurité nous aurions marché sur Go-Cong en laissant les postes dégarnis. Nous devions attaquer Go-Cong vers le 15 janvier, la maladie avait tellement réduit nos forces que pour faire cette expédition il fallait désarmer presque entièrement nos citadelles, notre ignorance de la fermentation générale nous eût fait commettre cette imprudence, et il est difficile de prévoir ce qui en serait résulté. Le second plan de révolte était donc de beaucoup le mieux combiné; une autre raison très-puissante devait encore conseiller aux insurgés d'attendre. Lorsque nous fîmes la conquête de la Cochinchine nos colonnes brûlèrent des quantités considérables de riz appartenant soit aux particuliers, soit aux magasins de l'État; la guerre avait gêné la culture, on avait ensemencé bien moins que dans les années normales, on était donc menacé de la famine. Il était donc urgent de récolter, le parti de la dissimulation et de l'attente satisfaisait à cette nécessité en remettant l'insurrection après la moisson; le parti de la révolte immédiate devait encore trouver peu d'écho parmi les populations toutes adonnées à un travail dont dependait leur vie. Quoi qu'il en soit, les plus exaltés l'emportèrent et l'insurrection fut décidée pour le 18 décembre.

Nous étions dans une tranquillité profonde, lorsqu'un incident à peine croyable vint nous mettre en éveil. Le parti de l'attente avait à sa tête Quan-Fâ, chef célèbre de la précédente guerre et bras droit de Quan-Dinh; il s'était rendu dans la province de Tag-nin pour y organiser l'insurrection. Il se prit de querelle avec le parti des exaltés qui l'arrêtèrent et le conduisirent au commandant de la province: c'est Quan-Fâ, dirent-ils, le premier chef de Quan-Dinh, il faut lui trancher la tête, et ils s'apprêtèrent à l'exécuter séance tenante. Ce zèle exagéré éveilla les soupçons du commandant Brière, il répondit que l'affaire n'était point si pressée qu'elle ne pût être remise au lendemain. Quan-Få de son côté fit dire au commandant: Je suis ton prisonnier et ton ennemi, tu peux me couper la tête, c'est ton droit; mais ainsi tu ne sauras rien; fais-moi retirer de prison, enlève ces fers qui me gênent, donne-moi à manger et traite-moi convenablement, tu n'as pas à craindre ma fuite; je demande au contraire à être gardé, ma tête est en péril. Le commandant souscrivit à ses demandes. Quan-Fâ lui annonça que l'insurrection éclaterait dans la nuit du lendemain: ils m'ont livré pour t'endormir, dit il, et pour te faire croire à leur fidélité; ce sont des entêtés qui ont tout perdu, vous êtes les plus forts, vous l'emporterez, je reste dans vos rangs. Si les faits n'avaient point vérifié de point en point son étrange récit il serait difficile d'y ajouter foi.

Dans la nuit du 18, en effet, deux postes et trois lordchas sout assaillis. Au poste du Rach-Kra les insurgés pénètrent dans l'enceinte en rampant dans les herbes; avant qu'on ait le temps de crier aux armes le capitaine et deux fusiliers sont égorgés; nos braves soldats d'infanterie de marine dispersent à coups de baïonnettes et sans tirer un coup de fusil, la nuée d'ennemis dont ils sont environnés. Des barques montent à l'abordage des lordchas avec des torches incendiaires: repoussés à coups de baïonnettes les assaillants sont ensuite écrasés par l'artillerie et la mousqueterie. Deux brûlots composés chacun de sept jonques amarrées ensemble sont lancés sur la canonnière l'Avalanche, tandis que trois batteries la couvrent de leurs boulets. A Touknéou le poste est attaqué, la fusillade ne peut repousser les rebelles qui environnent nos cinquante hommes d'infanterie de marine, les insurgés se précipitent sur nos baïonnettes et ne se retirent qu'en laissant 217 cadavres sur le théâtre si retreint de l'action; un nombre supérieur de fuyards tombe sous les balles de carabine. Ce dernier fait d'armes fut d'une importance capitale. On comprend d'abord l'effet moral de cette action fabuleuse dans laquelle 50 soldats à l'arme blanche en terrassent 2000 et ne paient cet exploit que de trois blessures assez légères pour ne compter personne hors de combat. Si nos troupes avaient cédé, les bandes s'installaient dans les lignes et la citadelle de Miqui. Cette citadelle était la base d'opérations des Annamites l'année précédente; nous nous étions contentės ne nous en emparer sans la détruire; deux jours eussent suffi aux rebelles pour la mettre en état de défense et pour les en déloger il eut fallu de grands efforts.

Si Tu-Duc ne donna pas son adhésion officielle à la révolte, sa complicité fut patente; sa conduite en cette affaire mérite d'être méditée. Le moment était venu de payer le premier terme de l'indemnité de guerre, la cour Cochinchinoise fit prévenir qu'elle avait à notre disposition les sommes dues; cette communication fut transmise par un envoyé porteur de lettres importantes. Ces lettres disaient en substance: La cour de Hué désire toujours vivement le maintien de la paix, et elle croit en donner une preuve en offrant de payer non-seulement un semestre, mais même une annuité entière; mais, ajoutait-elle, Phan-Tan-Gian d'une part et l'amiral de l'autre, en traitant d'une cession de territoire ont tous deux dépassé les pouvoirs accordés par leurs souverains respectifs; l'Empereur accordait aux français de grand cœur le droit de s'établir en Cochinhine et d'y vivre librement, mais une cession de territoire était une impossibilité absolue à laquelle il n'avait pas songé à souscrire. C'était tout remettre en question.

Cette lettre arriva à l'amiral au moment même où éclatait la révolte. Phan-Tan-Gian de son côté répandait des proclamations où il annonçait la victoire des Annamites sur tous les points du pays; les Français, disaient ces proclamations, sont hachés comme de la chair à saucisses. Si l'insurrection avait réussi, nous étions sans aucun doute assaillis par les troupes impériales massées sur les frontières. Les multiples échecs essuyés par les rebelles enrayèrent heureusement toute cette affaire. Phan-Tan-Gian, bien que partisan de la paix trempa sans aucun doute dans la révolte; si les choses eussent bien tourné au début pour le parti de la guerre et que l'entreprise eut ensuite échoué sans sa coopération, le massacre de toute sa famille à Hué eût élé le prix de sa fidélité au traité.

L'échec du 18 décembre conduisit Phan-Tan-Gian à prendre la parole et à écrire à l'amiral: La lettre de l'envoyé de Hué n'est pas valable, 1º parce qu'elle n'a pas passé par ses mains à lui ministre plénipotentiaire, et seul accrédité par 'Empereur pour entretenir des relations avec les Français; 2º parce que c'est une simple lettre ministérielle et ne portant aucun signe de l'adhésion de l'Empereur. ‒ Depuis ce moment le Vice-Roi ne cesse de faire les plus chaleureuses protestations en faveur de la paix; si la paix est violée, dit-il à un missionnaire, je me rends au milieu des Français; si la paix est violée, dit-il une autre fois, je ne bougerai pas de ma maison, mes soldats resteront immobiles, que l'on m'arrête et qu'on me pende. Phan-Tan-Gian ne cesse d'inviter à sa table les officiers de la citadelle voisine et ses marques d'amitié vont souvent jusqu'à la bassesse. De son côté Quan-Dinh peu satisfait de la conduite de Phan-Tan-Gian dans toutes ces circonstances, menace de brûler le village où iI réside et de lui couper la tête. Le Vice-Roi profite de cette circonstance pour faire parade de son zèle, il demande et obtient une garde de soldats français.

La révolte ayant échoué, les procès des rebelles commencèrent. Plusieurs maires des environs de Saïgon condamnés à la potence, marchèrent à la mort avec cet admirable stoïcisme des Orientaux: Vous nous pendez comme traîtres, dirent-ils, et vous avez raison; nous n'avons qu'à vous remercier de votre clémence, d'après la loi annamite nos biens seraient confisqués, nos familles seraient massacrées jusqu'au dernier de leurs membres, et nous-mêmes nous péririons de a mort lente (on coupe le criminel par petits morceaux en commençeant par les extrémités des membres); mais sachez-le bien, si nous avons trahi c'est votre faute: Vous n'avez pas su nous protéger, si vous aviez maintenu des soldats près de nous, si nous eussions pu compter sur une protection efficace, nous serions restés fidèles.

Rassurés par les échecs des insurgés, nous avons pris l'offensive à notre tour. Dans la province de Mitho d'abord, puis dans celle de Saïgon, nous avons donné la chasse aux bandes de Go-Cong qui battaient la campagne, et nous les avons forcées à rentrer dans leur repaire avec de grandes pertes. Voici donc en deux mots notre situation: Nous pouvons nous garder encore mais en exigeant un service au-dessus de leurs forces de troupes décimées et exténuées par la maladie. Les provinces attenant au Cambodge sont maintenues dans le devoir, mais ne demandent qu'à courir aux armes à la moindre chance de succès; à Baria, nous nous tenons sur une défensive sévère, à Go-Cong nous ne pouvons songer à entamer l'insurrection puisqu'il nous faut toutes nos forces pour tenir en bride le reste du territoire.

Un matin la canonnière l'Alarme trouvait au bout d'une perche plantée sur la rive une lettre de Quan-Dinh adressée à l'amiral, elle contenait en substance: La cour d'Hué nous renie, mais nous n'en défendons pas moins le sol de la patrie; l'Empereur nous appelle rebelles, mais au fond il ne peut qu'admirer notre dévouement, et au jour de la victoire, il nous accordera plus que son pardon. Vous êtes braves, mais vous êtes peu nombreux; tous les jours quelques-uns des vôtres tombent sous nos coups; la fièvre combat pour nous et elle compense largement l'infériorité de nos armes. Nous sommes chez nous, nous avons tous les avantages; il nous suffit d'attendre et les Annamites sont patients. Renoncez à une conquête impossible, rendez-nous le sol qui nous appartient et nous serons alors heureux de recevoir parmi nous les Français comme des frères.

PAUL ÉMILE.

Pour copie: A. NOIROT.

Ce sont évidemment de nobles paroles qui méritent d'être écoutées. Mais peut-on reculer dans une entreprise aussi vaste, quand on a déjà versé tant d'or et de sang? Devons-nous remettre sous le joug du roi de Hué les Annamites qui ont pris parti pour nous? Faut-il les abandonner comme on a fait des Tartares de Crimée? Doit-on renoncer à l'espérance d'initier au dogme de la liberté moderne ces populations si étrangement façonnées à la religion autoritaire?

Quan-Dinh a parfaitement raison dans son héroïque langage, nous ne sommes pas assez nombreux en Cochin-chine, pas plus que nous ne le sommes en Algérie; mais nous avons d'autres moyens de nous multiplier que d'augnenter indéfiniment nos garnisons, c'est d'implanter ou plutôt de laisser croître sur les bords de ces grands fleuves une population européenne d'origine, d'instincts, d'intérêts. Saïgon comptait à peine six mois d'occupation incomplète, que déjà elle avait plus d'importance que Hong-Kong, cette reine de l'Orient, quatre ans après sa fondation.

Chinois, Malais, Indiens, Arabes même accourent dans cette ville que l'empereur de Hué avait laissé tomber en décadence. L'Angleterre, l'Allemagne, l'Amérique fondent de vastes établissements commerciaux à l'ombre de notre pavillon. La Compagnie des Messageries impériales a relié cette future reine de l'archipel Indien à notre réseau d'établissements coloniaux. Un avenir brillant sourit enfin à nos efforts, dans ces contrées où depuis Louis XIV nous convoitons un établissement. Le sort en est jeté désormais; celui qui serait ennemi de l'occupation de la Cochinchine devrrait être considéré comme ennemi de la gloire et de la grandeur de la France.

A. NOIROT

[1] Điều này không đúng theo lịch sử, Phan Thanh Giản chỉ được cử làm kinh lược sứ ba tỉnh miền Tây từ 1865, sau khi có bài báo này. (Tất cả các chù thích trong bài này là của người dịch).

[2] Lẽ ra phải là An Nam (Annam) nhưng tác giả viết là Cochinchine (Nam Kì). Tất cả những chữ “Nam Kì” trong bản dịch này đều như vậy.

[3] Quan-Fâ có thể là đội tấn chăng (Tấn bị nhầm thành Fâ)?

[4] Có thể là lorcha (thuyền [chiến] có ba cột buồm bị viết sai thành lordcha.

[5] Lẽ ra phải bán đảo Đông Dương thay vì quần đảo Ấn Độ.