Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Ba, 26 tháng 8, 2025

Một Việt Nam gắn với biển – từ thời kỳ sơ khai cho đến thế kỷ 19 (kỳ 4)

 Tác giả: Li Tana

Việt dịch: Phan Văn Song

Cambridge University Press

2 Chất thơm, đạo Phật và việc hình thành trung tâm thương mại ở biển Nam

 

Du khách đến Giao Châu[1] (trước đó là Giao Chỉ) vào thế kỉ 4 sẽ rất ngạc nhiên khi nhìn thấy một loại cây bụi có hoa màu trắng hồng nhạt mọc khắp một vùng rộng lớn trải dài từ miền nam Vân Nam đến miền Trung Việt Nam. Đây là một loại cây thơm được gọi là huoxiang (hoắc hương, tiếng Anh là patchouli).[2] Sau khi trưởng thành hoàn toàn, cây hoắc hương “sau đó được thu hoạch và phơi nắng cho khô”. Ji Han [Kê Hàm] lưu ý: 'Khi khô, chúng có mùi thơm.'[3]

 

Loại cây này không phải là cây bản địa của Giao Châu. Thật ra, tên tiếng Trung của nó là huoxiang [藿香], xuất hiện lần đầu tiên trong một tường trình thế kỉ 3 được viết bởi hai viên quan triều đình nước Ngô, kế tục đế chế Hán ở phía đông nam Trung Quốc, họ đã đến 130 công quốc ở khu vực biển Nam vào năm 243 CE. Sau khi trở về Trung Quốc, một trong hai vị quan, Khang Thái, có khả năng là người gốc Sogdian,[4] đã viết Ngô thời ngoại quốc truyện (Chuyện về các nước ngoài thời Ngô), trong đó ông xác định hoắc hương là một loại cây bản địa ở 'Dukun' (Đô Côn), Dunxun (Đốn Tốn), hoặc Dianxun (Điển Tốn), một cảng thương mại nằm lân cận Tenasserim ngày nay, dọc theo eo đất Kra hẹp hướng ra biển Andaman.[5] Viên quan kia là Chu Ứng viết về việc buôn bán chất thơm ở đó: “Ở xứ Đốn Tốn người ta thường xuyên cúng tế thần thánh trên trời… Mùa đông hay mùa hè, luôn có hàng ngàn xe chở hoa ra chợ bán. Hoa càng khô thì càng thơm.”[6]

 

Đốn Tốn là một trong những đối tác thương mại chủ yếu của Giao Châu ở khu vực biển Nam. Hơn hai thế kỉ sau, vào thời Nam Lương (502-560 CE), một tác giả Trung Quốc đã ghi nhận, 'Đốn Tốn giao thương với Giao Châu về phía đông, với Ấn Độ và Parthia về phía tây '.[7] Một phần lí do cho mối quan hệ này nằm ở sức mạnh của Giao Châu như một trung tâm chính yếu trong mạng lưới giao thông đường biển trải dài khắp châu Á trong thiên kỉ thứ nhất. Đốn Tốn đóng một vai trò nổi bật trong thương mại liên Á. Thay vì đi về phía tây nam qua vịnh Xiêm La (Thái Lan) đến bán đảo Malay rồi lên phía bắc để đến biển Andaman và Ấn Độ qua eo biển Malacca, trong thiên kỉ đầu tiên các thương nhân đã bỏ qua eo biển này bằng cách đi đường tắt trên bộ qua eo đất Kra ở chỗ Đốn Tốn. Ở đó, 'các [thương nhân của] các quốc gia ngoài biên giới [Trung Quốc] đều đi lại buôn bán ở đó. Tại các chợ ở Đốn Tốn, phương đông gặp phương tây, và hàng ngày có hơn 10 000 người [buôn bán ở đó]. Không thiếu bất kì sản phẩm có giá trị và hàng hoá quý giá nào [có nhu cầu ở đó]'.[8]

 

Nhờ tuyến đường phía nam và việc xuất khẩu các sản phẩm địa phương sang các thị trường ở biển Nam, khu vực này đã thu hút các thương nhân từ bên ngoài Trung Quốc và những nơi xa xôi ở phía tây như Ấn Độ, Iran và thậm chí cả các thành phố trong nội địa Trung Á như Samarkand. Điển hình của những trung tâm thương mại và quốc tế như vậy, những người lữ hành và di cư từ những vùng đất xa xôi này đã mang theo những ý tưởng và tập quán văn hoá mới. Đó là trường hợp của khu vực phía tây vịnh Bắc Bộ, nơi việc trồng trọt và xuất khẩu gỗ thơm ngày càng gắn liền với sự phát triển và truyền bá Phật giáo ở Trung Quốc. Điều này cho phép chúng ta chứng kiến một khía cạnh quan trọng khác về ảnh hưởng của biển trong lịch sử Việt Nam, cụ thể là nó góp phần làm cho sự thay đổi về văn hoá cũng như nhân khẩu học và kinh tế thuận lợi.

 

Ai đã tổ chức việc trồng, chế biến và xuất khẩu những chất thơm đó ở Giao Chỉ? Mặc dù tồn tại một lượng lớn người Hán nhưng phần lớn những người tham gia chắc chắn là người Việt và người Tai-Kadai địa phương. Ít nhất, dường như có rất nhiều khả năng là giới tinh hoa địa phương giữ vai trò lãnh đạo trong hoạt động kinh doanh béo bở này. Ở đây, phân tích của Erica Brindley về tầng lớp quý tộc địa phương ở lãnh thổ phía nam đế quốc Hán rất sáng tỏ: 'Còn xa mới chỉ đơn thuần là những con rối của các lãnh chúa người Hán, giới ưu tú, quý tộc ở vùng biên viễn này còn là những người tiên phong trong việc thay đổi văn hoá và xã hội. Hơn nữa, giới tinh hoa này đã cho thấy họ là bộ phận không hoàn toàn chấp nhận hay chống lại nhà Hán, mà cố gắng tạo ra những bản sắc nguyên bản, hỗn hợp và phản ứng trước ảnh hưởng và áp lực của nhà Hán vì lợi ích riêng của họ.'[9]

 

Chương này tập hợp những dấu vết mờ nhạt và tạp nham của thương mại Giao Chỉ về các sản phẩm thơm bản địa và ghép chúng lại với nhau nhằm tái tạo một nền kinh tế trong đó các cộng đồng được tổ chức bởi giới tinh hoa địa phương đang thúc đẩy sự chuyên môn hoá và các ngôi chùa đang hình thành thể chế trung tâm của mình, giống như các hội nhóm ở nhiều thời điểm và nhiều nơi trên khắp Đông Nam Á.[10] Câu chuyện về chất thơm Giao Châu này minh họa cách mà người Giao Châu khai thác vị trí địa lí thuận lợi của họ, cả về tài nguyên thiên nhiên lẫn như một điểm nút quan trọng trong mạng lưới thương mại trải dài khắp Nam Á, Đông Nam Á và Đông Á. Nhưng hơn những đối tác của Giao Chỉ ở Đông Nam Á, và hơn một quận của Trung Quốc, Giao Chỉ rất giống Hong Kong thời nhà Thanh, như một trung tâm trung chuyển, một không gian an toàn cho các sắc dân khác nhau gặp gỡ, một trung tâm chính của những ý tưởng mới từ phía nam du nhập, và một trung tâm quốc tế, nơi mà nhiều học giả hàng đầu của Trung Quốc thời đó tìm đến nương náo.

 

Giao Châu và Ấn Độ

 

Nép mình trong vịnh Bắc Bộ có vẻ xa xôi, đồng bằng sông Hồng dường như quá xa Ấn Độ – cách hơn 7 000 km – để cho người dân hai khu vực này hình thành phần lớn quan hệ kinh tế hoặc văn hoá. Tuy nhiên, ngay từ những ngày đầu tiên Trung Quốc cai trị vùng vịnh này và trong nhiều thế kỉ sau đó, Giao Chỉ đã đóng vai trò là điểm dừng cuối cùng trong hành trình của du khách đi từ Ấn Độ đến Trung Quốc. Vào cuối thế kỉ 8, các nghiên cứu như Cựu Đường thư đã xác định, 'Kể từ [thời] Hán Vũ đế [r.156-87 BCE], họ nhất thiết phải đi qua Giao Chỉ để đến triều cống.[11] Điều đó có nghĩa là, trong những thế kỉ đầu của lịch sử đế quốc Trung Quốc, các tiếp xúc Trung–Ấn đều qua trung gian các cảng ở vịnh Bắc Bộ. Một ghi chép của Trung Quốc vào thế kỉ 3 về biển Nam của Khang Thái, một viên quan nước Ngô, đã nêu rằng tuyến đường ‘từ Giao Châu đến Thiên Trúc [Ấn Độ]’ là con đường ‘gần nhất’ đối với bất kì ai đi đến hoặc ra đi từ Trung Quốc.[12] Chắc chắn, các kết nối hàng hải giữa Giao Chỉ và các xã hội biển ở Nam và Đông Nam Á đã tồn tại từ lâu trước khi bị nhà Hán chinh phục, vì triều đại Trung Quốc đã tận dụng các kết nối có sẵn của các dân tộc gắn với biển bị họ chinh phục. Sự can thiệp của người Hán vào các cấu trúc thương mại đường biển lâu đời đã kích thích mạnh mẽ sự trao đổi giữa Nam và Đông Nam Á, nâng cao vai trò của Giao Chỉ và đảm bảo vị thế của Trung Quốc trong thương mại liên khu vực đang phát triển ở châu Á.

 

Có hai hiện vật xác nhận rằng các tiếp xúc trực tiếp đã tồn tại giữa Ấn Độ và Giao Chỉ/Giao Châu trong những thế kỉ đầu của thiên kỉ thứ nhất CE và cho thấy mức độ ảnh hưởng của chúng lên xã hội đồng bằng sông Hồng trong thế kỉ 3. Một loại ngói có hình mặt người xuất hiện trong số các hiện vật được khai quật tại di chỉ thành Luy Lâu.[13] Các học giả lần đầu tiên tin rằng việc sản xuất loại ngói này bắt đầu vào thế kỉ 3 ở Jianye (建鄴: Kiến Nghiệp), một thành phố của Trung Quốc trên sông Dương Tử (nay thuộc Nam Kinh) và là kinh đô của nước Ngô cai trị Giao Châu sau khi nhà Hán sụp đổ vào năm 220.[14] Tuy nhiên, các cuộc khai quật của nhà khảo cổ học Nishimura Masanari cho thấy hướng ảnh hưởng đi theo chiều ngược lại, từ Nam tới Bắc Giao Chỉ đến Kiến Nghiệp, vì chúng được khai quật từ lớp đào tương ứng với cuối thế kỉ 2 CE. Điều này có nghĩa là kiểu gạch này được sản xuất đầu tiên ở Giao Châu, có lẽ khoảng một thế kỉ trước khi người Trung Quốc sản xuất chúng ở Nam Kinh.[15] Khi một vật thể khác, cũng được khai quật từ thành Luy Lâu, được thêm vào bức tranh lớn, sự tiếp xúc trực tiếp của Giao Châu với Ấn Độ trở nên rõ ràng hơn.[16] Vật này, kendi, là một dụng cụ được các nhà sư Ấn Độ sử dụng để uống nước. Một dụng cụ và tập quán như vậy không thấy có ở Trung Quốc trước thế kỉ 7 CE, điều này giải thích tại sao nhà sư Phật giáo Trung Quốc Yijing (Nghĩa Tịnh) lại dành nhiều lời khen ngợi về bình nước này trong cuốn hồi kí du hành đến Ấn Độ của ông.[17] Những hiện vật này cung cấp bằng chứng vật chất cho quan điểm của Hu Shi [Hồ Thích] (1891-1962), một học giả hàng đầu của Trung Quốc trong thế kỉ 20, rằng Phật giáo du nhập vào miền nam Trung Quốc vào thế kỉ 3 CE có lẽ sau khi nó đến Giao Chỉ 4 đến 5 thế kỉ trước nó.[18]

 

Tuy nhiên, hai hiện vật này đều có khả năng liên quan đến đạo Bà la môn, vốn có lịch sử lâu đời ở Giao Chỉ hơn. Phân tích những ghi chép đầu tiên của người Việt về sự xuất hiện của Phật giáo, Keith Taylor phát hiện nguồn gốc của Ấn Độ giáo Tamil bị chôn vùi dưới truyền thống kinh sách Phật giáo Trung Hoa, trong đó Amman, tên tiếng Tamil của một thần Mẫu nổi tiếng có chức năng chính là tạo mưa, được trộn lẫn với các tín ngưỡng phổ biến ở Giao Chỉ.[19]

 

Những cuộc khai quật tại các trung tâm đô thị đã biến mất từ lâu như Luy Lâu tiết lộ một bức tranh sống động về Giao Chỉ như một trung tâm hành chính và thương mại dưới thời đế chế nhà Hán. Điều này đặc biệt có ý nghĩa vì Shi Xie (Sĩ Nhiếp, 137-226 CE), thái thú người Hán của quận Giao Chỉ, có tiếng là người khuyến khích các tôn giáo mới cho vùng vịnh Bắc Bộ. Nhiệm kì của Sĩ Nhiếp và lai lịch cùng thời của các hiện vật được khai quật nêu trên, như ngói mặt người và kendi, có liên quan đến một sự kiện mang tính bước ngoặt trong lịch sử Phật giáo ở cả Việt Nam lẫn Trung Quốc, cụ thể là cuộc đời và sự nghiệp của một trong những nhà sư có ảnh hưởng lớn nhất ở Giao Châu, sư Kang Senghui [康僧會: Khang/Khương Tăng Hội]. Cái tên này vốn được sử dụng khi tiếp xúc với văn hoá Hán ở Giao Chỉ, có nghĩa đen là ‘nhà sư đến từ Samarkand'.

 

Các nhà sư du hành

 

Cha mẹ của Khang Tăng Hội là người Sogdian (Khang Cư), một dân tộc tập trung ở vương quốc Sogdiana với thủ đô là Samarkand ở Trung Á nhưng phân tán trong các cộng đồng thương nhân trên khắp châu Á, nơi họ đóng vai trò quan trọng là người trung gian trong thương mại giữa đế quốc Hán của Trung Quốc ở phía đông và các nước như đế chế Parthia của Iran ở phía tây.[20] Họ theo đạo Phật và sống vào thời điểm mà đế quốc Kushana – bao gồm Afghanistan, Pakistan và miền bắc Ấn Độ vào lúc bành trướng rộng nhất và nối liền với biển dọc theo sông Indus – đồng thời kích thích thương mại và truyền bá Phật giáo đến mọi nơi ở châu Á.[21] Trong môi trường này, vào buổi bình minh của thế kỉ 3 CE, cha của Tăng Hội đã rời Ấn Độ, nơi tổ tiên của ông đã sống qua vài thế hệ, rồi định cư ở Giao Châu để coi sóc công việc kinh doanh của mình. Ở đó, Tăng Hội được sinh ra. Vài năm sau đó khi cha mẹ qua đời, cậu bé mồ côi được các nhà sư địa phương nhận nuôi, cho quy y và dạy dỗ. Việc học của ông đã cho thấy tầm quan trọng của lịch sử Phật giáo ở Việt Nam và Trung Quốc. Vào lúc đó, đầu thế kỉ 3, người dân Giao Châu đã bảo trợ cho ít nhất 20 ngôi chùa và 500 nhà sư cư trú, làm cho nơi đây trở thành trung tâm hành đạo Phật giáo quan trọng nhất ở khu vực biển Đông.[22] Các trường nghiên cứu các ngôn ngữ Phật giáo chủ yếu như tiếng Phạn và tiếng Trung, và có lẽ cả tiếng Pali, đã tạo điều kiện cho sự phát triển của các trung tâm dịch thuật, nơi mà các học giả đã làm ra hơn 15 ấn bản đầu tiên của kinh sách Phật giáo dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Trung.[23] Công việc như vậy đã chuẩn bị cho Tăng Hội khả năng thông thạo giáo lí Phật giáo. Hình thức Phật giáo mà Khang Tăng Hội đưa vào nước Ngô trong thế kỉ 3 chủ yếu bắt nguồn từ kinh Theravada (kinh nguyên thuỷ), mặc dù các thuyết Mahayana (Đại thừa) cũng ảnh hưởng đến ông cũng như các phương pháp truyền thống Veda (Vệ Đà).

 

Năm 247 CE Khang Tăng Hội rời Giao Châu và đi về phía bắc đến Kiến Nghiệp (Nam Kinh ngày nay), kinh đô của nước Ngô, nơi mà Phật giáo phần lớn vẫn chưa được biết đến. Bị cắt đứt khỏi Con đường tơ lụa trên đất liền vốn đã bị đóng vào cuối thế kỉ 2 CE, dân nước Ngô phía bắc vẫn chưa trải nghiệm việc học Phật giáo. Kết quả là có vẻ như sự xuất hiện của Tăng Hội đã trở thành một sự kiện ở Kiến Nghiệp: dân Ngô kinh ngạc khi nhìn thấy gương mặt người Sogdian, đầu cạo trọc với tấm vải đỏ quấn quanh cơ thể trần trụi của ông.[24] Còn ở Giao Châu, nhìn thấy một người Hồ – từ tiếng Trung dành cho những người đến từ Trung và Nam Á – không phải là chuyện lạ thường vì là một phần của cuộc sống hàng ngày ở đó, như được chỉ ra trong câu chuyện của Sĩ Nhiếp, thái thú cuối cùng của nhà Hán, người mà người Hồ đi theo thắp nhang mỗi khi ông bước đi trên đường phố Luy Lâu.[25] Lúc đầu còn hoài nghi, vua nước Ngô được cho là đã thay đổi ý định và chỉ bắt đầu tôn kính Đức Phật sau khi Tăng Hội có được xá lợi của Đấng giác ngộ qua việc đốt nhang và cầu nguyện.[26] Điều này cho phép Tăng Hội dành phần đời còn lại của mình ở Kiến Nghiệp, nơi ông đã đặt nền tảng quan trọng cho Phật giáo ở Trung Quốc.

 

Nhờ kết nối biển mà thương nhân Sogdian đã đến vịnh Bắc Bộ, các nhà truyền giáo Phật giáo đã di cư đến Giao Châu; ở đó, các tu viện đã đào tạo một thế hệ tu sĩ mới như Khang Tăng Hội, những người có khả năng dịch các ý tưởng Phật giáo cho đối tượng người Trung Quốc. Ví dụ, từ 'rồng' trong kinh điển Phật giáo được dịch từ tiếng Phạn 'Naga' – 'rắn'. Ji Xianlin [Quý Tiện Lâm] chỉ ra: “Sau khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, cách hiểu của chúng ta về từ ‘rồng’ không còn như cũ nữa.”[27] Giao Châu chắc hẳn đã đóng một vai trò quan trọng trong việc biến đổi biểu tượng quan trọng này của văn hoá Trung Quốc. Ở Việt Nam, mãi cho đến thời Trần kiểu dáng của rồng vẫn còn ở dạng rắn. Đây là hệ quả quan trọng của sự trao đổi hàng hải đã phát triển giữa Ấn Độ và Trung Quốc qua vùng vịnh Bắc Bộ và lí giải bằng chứng về ảnh hưởng mạnh mẽ của Phật giáo Nguyên thủy ở miền Bắc Việt Nam vốn theo Phật giáo Đại thừa.

 

Ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ qua đường biển kéo dài suốt thiên kỉ cai trị của Trung Quốc ở phía tây vịnh Bắc Bộ. Trái ngược với giả định thông thường rằng Phật giáo sơ khai ở Việt Nam phát triển từ các phái Đại thừa gắn liền với Trung Quốc, bằng chứng từ thế kỉ 6 và 7 cho thấy rằng các phái đó có thể có nguồn gốc Ấn Độ, như Vajrayana [Kim Cương thừa] (tiếng Phạn nghĩa là 'cỗ xe kim cương') hay phái Tantra [Mật tông], tiếp tục tạo ra ảnh hưởng trong khu vực. Điều này bao gồm các nguồn sử liệu ghi lại các nhà sư Giao Châu du hành đến Nam Á, cụ thể là Sri Lanka, đáng chú ý nhất là cuốn sách Trung Quốc nổi tiếng, Tây vực cầu pháp cao tăng truyện. Ở đây, chúng ta thấy nhiều nhà sư Giao Châu đi thuyền đến khu vực Nam Á đảo trước khi đi đến phía bắc đến Ấn Độ vào thế kỉ 7:

 

Thầy Kuichong [窺沖: Khuy Xung], người gốc Giao Châu ... [đi thuyền] đến Nam Hải, đến Sinhala (Sri Lanka), và từ đó du hành đến miền Tây Ấn Độ.

Thầy Huidan [慧旦: Huệ n], người Giao Châu... theo thầy đi đến Sinhala và sống ở đó.

Thầy Dachendeng [大乘登: Đại Thừa Đăng], người Ái Châu [nay là tỉnh Thanh Hoá, miền Trung Việt Nam], khi còn trẻ, đã cùng cha mẹ đi đến Dvāravatī [Nakhon Pathom ở miền trung Thái Lan]. Ở đó, ông trở thành một nhà sư [trước khi] đi thuyền qua Nam Hải để đến Sinhala.... Từ Nam Ấn Độ, ông đến Tamluk [Tamralipti] ở miền đông Ấn Độ.[28]

 

Ngay cả khi theo xu hướng chung của các thương nhân là chọn Quảng Châu hơn là Giao Châu, một số nhà sư Trung Quốc vẫn cứ đi qua vịnh Bắc Bộ để đến các nước ở biển Nam như Sri Lanka, đặc biệt là trong thế kỉ 6 và 7. Ví dụ, hai đoạn văn thú vị cũng từ cuốn Cao tăng truyện này kể lại câu chuyện của hai nhà sư đến từ Tứ Xuyên, xa về phía tây bắc của Giao Châu. Tiểu sử của Mingyuan [鳴遠: Minh Viễn] viết:

 

Vì tôn giáo thiêng liêng huy hoàng đã ở trong tình trạng suy đồi nên [Minh Viễn] đã đến vùng Viễn Nam [ở Ấn Độ]. Từ đó ông đi thuyền đến Giao Châu. Ông đã vượt qua biển cả bao la để đến Kolinga [Ha Lăng], rồi từ đó ông đến Sinhala [Sri Lanka].

 

Tiểu sử của Yilang [一良: Nhất Lương] kể một câu chuyện có nhiều sự kiện hơn:

 

Thầy Nhất Lương gốc người Thành Đô [thuộc Tứ Xuyên ngày nay]. Ông rất thông thạo Ludian (Lục điển: tức là kinh Vinaya) và các diễn giải về hệ thống Yoga. Ông đến núi Wulei [ở vịnh Bắc Bộ] và lên một tàu buôn. Vượt qua hàng ngàn sóng lớn, con tàu đi qua Phù Nam và neo đậu tại Langka [Linga ở bán đảo Malay], [ở đó] ông được nhà vua đối đãi như một khách danh dự.

 

Từ biệt vua của Langka, '[Nhất Lương] và anh ông sau đó lên một tàu buôn đi Sinhala.[29]

 

Tại sao tuyến đường giữa Giao Châu và Sri Lanka lại quan trọng đến như vậy đối với hành trình của các nhà sư như Minh Viễn và Nhất Lương vào cuối thế kỉ 6 và 7 CE? Câu trả lời có cả khía cạnh tôn giáo lẫn thực tế. Tuyến đường Trung Quốc – Srivijaya/Java – Sri Lanka – bờ biển phía đông của Ấn Độ được ghi chép rõ ràng từ thế kỉ 5. Từ thế kỉ 6 trở đi Sri Lanka đã là điểm dừng chân quan trọng trên tuyến đường biển này, nơi các thương nhân Sogdian buôn bán tại Anuradhapura, kinh đô của Sri Lanka.[30] Mối liên hệ này đưa chúng ta trở lại với Khang Tăng Hội đã thảo luận ở trên. Nói theo tôn giáo, các nhà sư dường như đã tìm kiếm Abhayagiri Vihara, nằm ở Anuradhapura, một trung tâm hành đạo chính cho cả hai hình thức Phật giáo Đại thừa và Kim Cương thừa. Kim Cương thừa bị các tu sĩ Mahavihara bảo thủ hơn ở Trung Quốc thế kỉ 7 coi là dị giáo, vì vậy Sri Lanka có thể đã cung cấp một nơi nương thân để các tu sĩ Trung Quốc có thể khám phá hình thức thực hành Phật giáo bí truyền này. Có lẽ hành trình này vừa thuận tiện vừa mang lại hiệu quả về mặt tôn giáo. Cho dù động lực cá nhân của Minh Viễn và Nhất Lương là gì khi đi qua Giao Châu, một góc nhìn rộng hơn cho thấy rằng Giao Châu vẫn tiếp tục giữ một vai trò quan trọng trong các cuộc trao đổi xuyên văn hoá đường dài ở châu Á.

 

Yếu tố Kim Cương thừa đối với sự lưu thông đường biển của các nhà sư giữa Nam Á và Giao Châu có ý nghĩa quan trọng đối với lịch sử Việt Nam vì có một nhà sư, có lẽ là nhà sư quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam, đã xuất hiện từ sự lưu thông này để đến Giao Châu. Ông tên là Vinitaruci (Tì Ni Đa Lưu Chí, m.594 CE). Ông là một Bà la môn đến từ Oddiyana, một quốc gia nhỏ ở miền bắc Pakistan có vai trò quan trọng trong việc truyền bá Phật giáo Kim Cương thừa. Vinitaruci du hành đến Trung Quốc vào năm 574 CE, nơi ông ở lại 5 hoặc 6 năm trước khi đến Long Biên (Luy Lâu) vào khoảng năm 580, ở đây ông thành lập một phái mới tại chùa Pháp Vân, một trong những ngôi chùa Phật giáo sớm nhất tại Việt Nam có mối liên hệ lâu đời nhất với Ấn Độ.[31] Tại đây, ông đã dịch Đại thừa phương quảng tổng trì kinh (Sarvavaipulyasamgraha – mahāyānasūtra), một cuốn kinh quan trọng trong truyền thống Kim Cương thừa.[32] Có lẽ đây là một phản ứng trước sự bài bác ngày càng tăng cả hai phái Nguyên thủy và Kim Cương thừa ở Trung Quốc, còn Giao Châu vẫn cởi mở với các truyền thống Phật giáo khác nhau.

 

Sự nổi tiếng của phái Vinitaruci và nhiều đệ tử của ông ở chùa Pháp Vân dường như đã biến Giao Châu trở thành cơ sở cho cái mà Andrea Acri gọi là 'Phật giáo bí truyền của châu Á biển'.[33] Ở đây, tại cửa ngõ giữa Trung Quốc và các nước ở biển Nam, Phật giáo có thể cùng tồn tại với đạo Shiva, nhờ vào sự kết nối lâu dài với những người tu theo Kim Cương thừa trong xã hội Ấn Độ và những người tu theo Mật tông ở các xã hội Chăm, Java, Khmer và Sinhala trong thế kỉ 6 và 7. Các nhà sư thế kỉ 7 như Huining [慧能: Huệ Năng] và đệ tử của ông là Yunqi [運期: Vận Kì] đã đi thuyền qua lại giữa Giao Chỉ và Kalinga (Ha Lăng) ở Java, một trung tâm của Phật giáo Mật tông ở Đông Nam Á, khi họ tìm cách giới thiệu những bản dịch và diễn giải mới về kinh Agama Sutra (một bộ sưu tập các tác phẩm Phật giáo đầu tiên) cho người dân ở Trung Quốc, bao gồm cả Giao Châu, nơi các quan cai trị đã cấp cho Vận Kì ngựa để đi lại.[34] Quả vậy, Phật giáo Kim Cương thừa đã được xác lập từ lâu ở đồng bằng sông Hồng trước khi đến Vân Nam và Tây Tạng, nơi nó trở thành truyền thống chiếm ưu thế vào thế kỉ 8. Nghiên cứu cẩn thận của David Holm về Phật giáo trong những người nói tiếng Tai-Kadai chỉ ra rằng “có đủ thông tin để chỉ ra rằng Luy Lâu ở Giao Chỉ đã phát triển thành một trung tâm dịch thuật lớn tách biệt với các trung tâm khác ở phía bắc Trung Quốc”.[35] Ngoài ra, và quan trọng hơn,

 

việc truyền bá tri thức Ấn Độ sớm nhất và mạnh mẽ nhất vào người Tày có thể đã từ đó đến. Hơn nữa, đây có thể cũng là cội nguồn mà từ đó các nhà truyền giáo Phật giáo và tri thức Ấn Độ đã lan truyền đến các dân tộc khác ở khu vực ngày nay là miền nam và tây nam Trung Quốc.[36]

 

Các nguồn tài liệu cung cấp cơ hội nhìn vào sự trao đổi trí tuệ vốn đã làm giàu thêm mảnh đất văn hoá vịnh Bắc Bộ với các ý tưởng ngoại sinh phi Hán từ Nam và Đông Nam Á cũng chỉ ra một hoạt động nhập khẩu khác từ biển Nam đã củng cố các nối kết của Giao Châu với các mạng lưới liên-Á, cả về thương mại lẫn tôn giáo. Các nối kết thương mại đã thúc đẩy người có đầu óc làm ăn của địa phương trong phát triển việc sản xuất thương mại các loại cây ngoại nhập để xuất khẩu. Một số loài thực vật này có nguồn gốc bản địa; những loài khác được du nhập từ bên kia biển đến Giao Châu, như huoxing [hoắc hương], loại cây có mùi thơm được đề cập ở trên. Gần như tất cả chúng đều được sản xuất để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cả những người theo đạo lẫn người tiêu dùng xa xỉ.

 

Chất thơm trong thương mại Giao Châu

 

Hậu quả lâu dài của sự tương tác đa văn hoá giữa người dân biển Nam và Giao Châu được phản ánh trong hai cuốn sách đầu tiên của Trung Quốc viết về hệ động vật và thực vật của khu vực này: Giao Châu dị vật chí ((交州异物志i),[37] được viết vào thời Đông Hán (25-220 CE) và Nam Phương Thảo Mộc Trạng (南方草木狀), do Kê Hàm hoàn thành vào khoảng năm 304.[38] Các học giả thường nhấn mạnh hai cuốn sách này như một cửa sổ để nhìn vào hệ thực vật bản địa của khu vực; tuy nhiên, khi xem xét kĩ hơn sẽ cho thấy nhiều loại thực vật và sản phẩm được đề cập trong hai cuốn sách này có nguồn gốc từ nơi khác, chủ yếu là Ấn Độ.

 

Mặc dù không phải là chất thơm nhưng đường là một ví dụ tuyệt vời về sự dịch chuyển sinh học từ Ấn Độ đến vịnh Bắc Bộ, bởi vì nó xuất hiện trong nhiều nguồn lịch sử khác nhau. 'Mật ong đá' (shimi 石蜜: thạch mật), hay kẹo đường, nổi bật trong số các cống phẩm do Giao Châu dâng cho triều đình nước Ngô Trung Quốc vào thế kỉ 3 CE.[39] Mặt hàng này được coi là quý giá vì việc tiêu thụ chỉ giới hạn ở nhà vua.[40] Việc hầu hết người Trung Quốc đều chưa biết đến đường được hậu thuẫn bởi sự thiếu vắng bằng chứng văn bản về bất kì kiến thức nào về loại cây này, các sản phẩm phụ hoặc các công nghệ liên quan của nó trước thời nhà Đường (thế kỉ 7-10).[41] Về nguồn gốc của nó, nguồn tài liệu nêu rõ ràng; cả tên và toàn bộ kiến thức cần thiết để trồng ra loại cây này cũng như các sản phẩm phụ của nó đều từ Ấn Độ; cái tên của đường, sarkara, ban đầu có nghĩa là 'sỏi', mà người ta dùng như một phép ẩn dụ để mô tả các tinh thể đường.[42]

 

Nam phương thảo mộc trạng của Kê Hàm mô tả nhiều loài thực vật nhiệt đới có thể tìm thấy ở Giao Châu và Cửu Chân từ thế kỉ 3 đến thế kỉ 4, cụ thể là đồng bằng sông Hồng và bờ biển phía nam lân cận, rất nhiều trong số đó có nguồn gốc từ nước ngoài và có thể được các thương nhân Ấn Độ đưa vào. Ví dụ, một thuật ngữ nổi tiếng trong danh mục thuốc của Trung Quốc được gọi gộp là sanle [tam lặc] , hay 'ba lặc', là ba dạng cây myrobalan có trái có nguồn gốc từ tiểu lục địa Ấn Độ. Cái tên 'ba lặc' bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng Phạn triphala , 'ba loại trái’, nền tảng cho việc điều trị về tiêu hoá và làm trẻ lại được mô tả trong tài liệu y học Ayurvedic (tiếng Phạn có nghĩa là 'kiến thức về cuộc sống').[43] Kê Hàm xác định được gốc gác của hai trong số đó, hārātaka amalaka, là từ Cửu Chân.[44] Các nhà sư hoặc thương nhân Ấn Độ rất có thể đã đưa loài thực vật này đến khu vực này từ rất lâu trước khi nhà Tấn ghi nhận sự hiện diện của chúng ở đó.

 

Chất thơm xuất hiện ngày càng nhiều trong sách vở Trung Quốc từ thế kỉ 4 trở đi; có hai yếu tố giải thích tại sao. Thứ nhất, dân số người Hán đã tăng lên đáng kể ở vùng vịnh Bắc Bộ trong những thế kỉ đầu dưới sự cai trị của nhà Hán do làn sóng nhập cư hàng loạt. Như John Phan đã lập luận, Giao Chỉ rõ ràng là Hán về tính cách sau cuộc nổi dậy nổi tiếng do Hai Bà Trưng lãnh đạo vào năm 41-43 CE.[45] Khi cuộc nổi dậy nổ ra, triều đình nhà Hán đã cử vị tướng huyền thoại Mã Viện dẫn theo đội quân 100 000 người đến dẹp loạn; sau khi xung đột kết thúc, nhiều binh sĩ vẫn ở lại Giao Chỉ. Quả thật, những dấu hiệu rõ ràng về một xã hội Hán hoá triệt để hơn ở vùng đồng bằng sông Hồng đã có từ thời điểm này.[46]

 

Hơn một thế kỉ sau, lượng người Hán nhập cư lại tăng mạnh. Lần này, trái với những người bình thường, bao gồm cả những người lính định cư từ đội quân của Mã Viện, giới trí thức ưu tú chiếm tỉ lệ lớn trong những người nhập cư đến vùng vịnh Bắc Bộ, và nhiều người trong số họ đã từ đồng bằng sông Dương Tử đến Giao Chỉ bằng đường biển.[47] Điều này nhắc nhở chúng ta về con đường của người Việt từ Dương Tử Chiết Giang di cư hàng thiên kỉ trước họ, theo 'một tuyến đường biển được thiết lập tốt cho phép di chuyển lên xuống bờ biển'.[48]

 

Trái ngược với những giả định có từ lâu, họ không trốn đến một nơi hoang dã nào đó mà tìm kiếm một thành phố quốc tế yên bình, nơi mà đời sống xã hội và trí tuệ sôi động và hướng ngoại, điều mà họ tìm thấy ở Giao Châu. Làn sóng nhập cư lớn thứ ba bắt đầu ở Trung Quốc vào thế kỉ 4, việc các bộ lạc du mục thảo nguyên di cư về phía nam vào các vùng đất lịch sử của Trung Quốc trong và xung quanh khu vực sông Hoàng Hà đã thúc ép một cuộc di cư ồ ạt của người miền bắc Trung Quốc – tổng cộng hơn một triệu người và 60-70% giới ưu tú người Hán – sống ở miền bắc Trung Quốc di cư về phía nam tới đồng bằng sông Dương Tử và xa hơn – trong một số trường hợp, xa về phía nam tới tận vịnh Bắc Bộ và đồng bằng sông Hồng. Như John Phan minh họa, dòng người nhập cư như vậy đã làm biến đổi bối cảnh xã hội và ngôn ngữ của khu vực rộng lớn này.[49]

 

Việc tiêu thụ chất thơm tăng lên song song với sự gia tăng dân số người Hán. Tầng lớp tinh hoa bị mất gốc rễ thích ứng với môi trường quê hương mới của họ ở những vùng đất phía nam xa xôi như Giao Châu đã nỗ lực trau dồi ý thức hiểu biết sâu sắc về văn hoá Hán thông qua sự phát triển của triết học, văn học, âm nhạc và nghệ thuật Hán. Việc tiêu thụ chất thơm lạ của các nước biển Nam đóng vai trò quan trọng trong tất cả các mặt nêu trên. Dưới triều đại Nam Lương (502-557 CE), nhu cầu về chất thơm của giới thượng lưu nhà Hán ngày càng lan rộng. Một người thời đó tên là Nghiêm Chi Thôi [顏之推] đã lưu ý: 'Mọi quý tộc trẻ tuổi đều xịt chất thơm lên quần áo, đánh phấn lên mặt và tô son môi'.[50] Theo Tề dân yếu thuật, hoắc hương là thành phần chính để làm mĩ phẩm như kem bôi mặt, phấn, màu son, sản phẩm bảo vệ tóc và mùi thơm cho vải.[51] Giao Châu tiên phong trong xu hướng mới này, vì họ hẳn phải là thần dân đầu tiên của đế chế phương bắc tiêu thụ hoắc hương và các sản phẩm thơm khác.

 

Tôn giáo là yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến nhu cầu hoắc hương ở Giao Chỉ thế kỉ 4. Việc đốt nhang vì mục đích tôn giáo chưa được biết đến ở đó trước thế kỉ 2 CE, khi tôn giáo đến đó qua ngã Giao Châu.[52] Các kinh sách Phật giáo đầu tiên như Kinh Hoa nghiêm (tiếng Phạn: Avataṃsaka Sūtra; tiếng Trung: Huayan jing), một trong những kinh có ảnh hưởng nhất trong Phật giáo Đông Á, trình bày chi tiết về việc sử dụng các chất thơm. Kinh này mô tả một vũ trụ gồm vô số cõi (realm) trong các cõi, mỗi cõi chứa đựng lẫn nhau. Ở trung tâm của vũ trụ là một biển nước hoa rực rỡ: kho báu lung linh khi chúng trôi nổi trên bề mặt của nó, trong khi bụi gỗ đàn hương lắng xuống dọc theo đáy của nó. Xung quanh biển hương thơm vô tận này có vô số dòng sông hương thơm chảy xoáy về bên phải.[53]

 

Quan hệ giữa chất thơm và Phật giáo là một quan hệ chặt chẽ. Thật vậy, Edward Schafer đã chỉ ra rằng từ tiếng Phạn gandha, có nghĩa là “mùi thơm”, thường có nghĩa đơn giản là “liên quan đến Đức Phật”.[54] Khói của nhang được cho là chuyển tải đức tin của một người vào Đức Phật lên tận trời hoặc phóng chiếu lời cầu xin được thương xót của người đó tới đức Phật.[55]

 

Ví dụ, tiểu sử xưa nhất của Đức Phật kể lại rằng nếu một người cầm trầm hương, hoắc hương hoặc xạ hương, hương thơm của chúng sẽ thấm vào cơ thể và mang lại may mắn cho người thân và bạn bè.[56] Nhờ niềm tin này, các nguồn tài liệu về Phật giáo sơ khai có nhiều chỗ nói đến chất thơm và việc trồng trọt, buôn bán và tiêu thụ nó ở Giao Chỉ. Có thể không phải ngẫu nhiên mà truyền thuyết Việt Nam cho rằng nhà sư đầu tiên từ phương Tây đến kinh đô Luy Lâu của Giao Chỉ được gọi là kalachali (già la xà lê), tên có nghĩa là 'tu sĩ Phật giáo Calambac (trầm hương)'.[57] Vì vậy, bằng chứng về việc sử dụng chất thơm trong xã hội Phật giáo thời kì đầu ở Giao Chỉ làm nổi bật một chủ đề cơ bản trong lịch sử Việt Nam, đó là sự tiếp xúc với biển và tầm quan trọng của nó như một nguồn gốc của nền văn minh.[58] Hình ảnh phong phú này minh họa cách các chất thơm đã thấm sâu vào văn hoá của khu vực và tôn giáo mới Phật giáo.

 

Sự lan truyền của Phật giáo đến Giao Châu cũng phản ánh cách mà tôn giáo và văn hoá của các nhà truyền giáo ảnh hưởng đến công nghiệp và thương mại chất thơm. Bằng chứng ủng hộ luận điểm này vẫn bắt nguồn từ các mảnh dấu vết; tuy nhiên, việc ghép những thông tin có vẻ ngẫu nhiên và không quan trọng này lại với nhau cho thấy rõ rằng nền kinh tế chất thơm của Giao Châu đã phát triển cả về quy mô lẫn về phạm vi, vì địa phương này không chỉ hoạt động với tư cách là nơi sản xuất mà còn là trung tâm nhập khẩu và trung chuyển cho những người trung gian vận chuyển các mặt hàng chất thơm giữa các nước Đông, Đông Nam và Nam Á. Bằng chứng như vậy khiến một hiểu biết về nền kinh tế chất thơm của Giao Châu trong bối cảnh khu vực rộng lớn hơn thành tất yếu.

 

Giao Châu hợp nhất vào các nền kinh tế chất thơm khu vực

 

Việc buôn bán chất thơm là hoạt động thương mại quan trọng nhất duy nhất ở khu vực biển Nam từ thế kỉ 4 trở đi. Tại các khu chợ ven biển Đốn Tốn, như đã thấy ở trên, hàng ngàn xe chở đầy hoa thơm buôn bán hàng ngày. Vượt qua biển, người dân sống ở vùng cao phía trên các thành phố cảng như Srivijaya và Tapanuli ở Sumatra và những người sống trên eo đất Malay đã thu thập benzoin (nhựa cánh kiến). Nhật Nam, quận cực nam của tỉnh (cishibu 刺史部: thứ sử bộ) Giao Chỉ thời nhà Hán, nơi có một cảng quan trọng, nổi tiếng với những khu chợ chất thơm mà các thương nhân phương xa mua bán ở đó (xem Chương 3). Tất cả điều này cho thấy các sản phẩm thơm đã có chỗ đứng vững chắc trong nền kinh tế Đông Nam Á, và Giao Châu là một phần trong đó. Hình ảnh sống động về các sắc dân đi lại và buôn bán chất thơm được trình bày trong kinh sách Phật giáo. Để minh họa, The Flower Garland Sutra [Kinh Hoa nghiêm] kể câu chuyện về một cậu bé háo hức tìm kiếm tri thức, du hành qua biển Nam, ở đó cậu được 10 nhà thông thái chỉ dạy. Trong số đó có một ông lão buôn bán chất thơm ở phía Nam. Ông 'biết đủ loại chất thơm, và hiểu đủ cách pha chế các chất thơm, dù để đốt, để xoa hay để tạo bụi'. Kiến thức của ông về các lĩnh vực làm ra chất thơm cũng như các phương pháp chữa bệnh bằng thảo dược rất đầy đủ.[59] Trong một câu chuyện Phật giáo khác được viết vào thế kỉ 7, Rừng ngọc trong vườn [Phật] pháp (法苑珠林: Pháp uyển châu lâm), dùng chợ để mô tả thiên đường: 'có bảy chợ trên Thiên đường. Chợ đầu buôn bán gạo, chợ thứ hai buôn bán quần áo, chợ thứ ba buôn bán chất thơm,’ chợ thứ bảy chuyên về gái mại dâm. Quan lại kiểm soát hoạt động buôn bán ở những khu chợ này, còn các hoàng tử và công chúa đi lang thang buôn bán tự do.[60]

 

Theo cách này, chất thơm đã trở thành một trong những nguồn thu quan trọng nhất đối với các nhà cai trị Đông Nam Á. Ở vùng đồng bằng sông Mekong nằm ngoài biên giới phía nam Giao Châu, triều đình Phù Nam dựa vào ba mặt hàng vàng, ngọc trai và chất thơm – để có thu nhập.[61] Giống như Phù Nam, Giao Chỉ dựa vào chất thơm như một nguồn thu chính của triều đình, và rất có thể, thậm chí còn phụ thuộc nhiều hơn vào chúng vì nằm gần thị trường Trung Quốc ở phía bắc. Chất thơm ngoại là một phần thu nhập quan trọng của cả triều đại Bắc và Nam Tống. Triều đình bán chất thơm cho thương nhân để kiếm lời, thu nhập sau đó được sử dụng để trang trải chi phí quản lí hoặc đổi lấy ngũ cốc nuôi quân đội. Thu nhập từ chất thơm đã tăng từ 300 000 xâu lên 2 400 000 xâu tiền đồng nhà Tống vào giữa thế kỉ 12, chiếm 10% tổng thu nhập.[62] Một thị trường rộng lớn như vậy đồng nghĩa với thu nhập tăng cao nhưng đồng thời cũng bị phụ thuộc nhiều hơn. Tuy nhiên, lợi nhuận từ việc buôn bán chất thơm là rất đáng kể: vào thời nhà Đường, ngay cả một người buôn bán chất thơm nhỏ cũng có thể dựa vào một số vốn nhỏ để sống thoải mái, chưa nói một thương nhân lớn từ nước ngoài có thể kiếm được bao nhiêu.[63]

 

Chuyến đi của nhà sư Phật giáo nổi tiếng tên là Jianzhen [鑒真: Giám Chân] đã chuyển quy mô buôn bán chất thơm ở Trung Quốc thế kỉ 8. Để chuẩn bị cho chuyến hành trình từ Dương Châu, một thành phố và trung tâm thương mại lớn ở đồng bằng sông Dương Tử, đến Nhật Bản vào năm 742, ông đã mua trầm, onycha (một từ tiếng Hi Lạp có nghĩa là ốc biển, một trong bốn nguyên liệu dùng làm hương trong đền thờ Solomon ở Jerusalem), cánh kiến long não, trầm hương và các loại gỗ thơm khác – mỗi loại nặng tới 300 kg – cộng với hơn 100 kg hạt tiêu và đường. Không có sản phẩm nào trong các sản phẩm của Nam, Đông Nam và Tây Á này được sản xuất tại địa phương. Tàu bị đắm khiến ông dạt tới đảo Hải Nam. Người đứng đầu địa phương ở đó, Feng Ruofang [馮若方: Phùng Nhược Phương], đã tiếp đón ông. 'Hàng năm', Phương 'cướp hai đến ba chiếc tàu từ Ba Tư (Iran)… ông thường đốt trầm hương làm nến, [đốt] hơn 100 jin [cân] (1 cân = 500 gram) trong một lần. Phía sau nhà ông, gỗ sappan (vang) chất đống như núi'.

 

Tại Quế Lâm (tỉnh Quảng Tây), ông được chào đón tại một ngôi chùa Phật. 'Ngay khi cổng chùa mở ra, hương thơm lan tỏa khắp thành phố'. Tại Quảng Châu, nơi mà ông tìm cách lên một con tàu khác, ông nhìn thấy vô số tàu Bà-la-môn, Ba Tư và 'Côn Lôn' – tàu Đông Nam Á – tất cả đều chở chất thơm và kho báu 'chất như núi'.[64] Những giai thoại về các loại gỗ thơm có kích thước lớn và số lượng nhiều không thể tưởng tượng được ngày nay – được lưu truyền năm này qua năm khác. Thương mại và sản xuất chất thơm ở châu Á trong thiên kỉ thứ nhất không hề mang tính ngẫu nhiên hay không đáng kể đối với nền kinh tế Đông Nam Á.

 

Long não tốt lành và Giao Châu trỗi dậy như một trung tâm chế biến

 

Giao Châu nổi lên như là trung tâm chế biến chất thơm nổi tiếng nhất ở châu Á vào thời đó. Ví dụ, vào một năm giữa thế kỉ 8, xứ này đã gửi 50 phiến chất thơm gọi là 'não rồng tốt lành' (ruilong naoxiang: thuỵ long não hương) cho hoàng đế Đường Huyền Tông (trị vì 685-762).[65] Mùi thơm của loại chất thơm này mạnh đến nỗi có thể nhận ra được ở cách xa hơn 10 bước. Các nhà sản xuất đúc chúng thành những phiến rất đẹp, 'trong mờ như cánh ve sầu’. Hoàng đế đã ban 10 phiến chất thơm này cho người phi yêu quý của mình, Yang Guifei [Dương Quý Phi], trong cùng đêm đó bà đã gửi ba phiến chuyển bằng lạc đà cho con nuôi của bà, tướng An Lushan [An Lộc Sơn], một người Sogdian, đóng quân cách đó hàng ngàn dặm ở miền bắc Trung Quốc. Một ngày nọ, nàng dùng chất thơm này như nước hoa, khi đang ngồi trong vườn xem hoàng đế chơi cờ với một vị quan thì một cơn gió bất ngờ thổi tung chiếc khăn quàng của nàng lên mũ của vị quan đang chơi cờ, lập tức làm mũ ông thấm đẫm mùi hương. Vài năm sau, khi con nuôi An Lộc Sơn chỉ huy cuộc nổi dậy chống lại chồng bà, hoàng đế buộc phải ra lệnh giết chết Dương Quý Phi, điều mà ông vô cùng hối tiếc. Thấy hoàng đế đau khổ nhớ thương Quý Phi, viên quan đã tặng ông chiếc mũ bị khăn quàng của bà phi quét qua nhiều năm trước. Khi cầm chiếc mũ, hoàng đế đã khóc: 'Đây là hương long não !'.[66]

 

Sự phát triển kiến thức về pha chế chất thơm ở Giao Châu đã được hưởng lợi từ sự suy tàn của người hàng xóm ven biển ở phía nam bán đảo Đông Dương, Phù Nam. Đến giữa thế kỉ 5, nước này không còn hoạt động như một trung tâm thương mại quốc tế lớn nữa. Khi vị thế của nó giảm đi, cư dân đi biển của nước này đã di cư lên phía bắc đến các cảng thịnh vượng hơn ở miền Trung Việt Nam, như Lâm Ấp, từng là một phần của quận Nhật Nam và sau năm 192 là một quốc gia buôn bán độc lập (được thảo luận chi tiết trong Chương 3).[67] Thợ thủ công ở Giao Chỉ nổi tiếng với nhang chất lượng cao, và việc họ gần gũi với thợ thủ công có nhiều kiến thức của các nước láng giềng ở biển Nam chắc chắn đã mang lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế của nó.

 

Thành phần thiết yếu cần thiết để tạo ra chất thơm ‘não rồng tốt lành’ – long não – lại không trồng ở Giao Chỉ. Có lẽ các nhà sản xuất nó đã tìm kiếm long não Barus từ Sumatra, mà theo Marco Polo, có giá trị ngang với vàng về trọng lượng;[68] có lẽ họ đã tìm long não của Borneo, loại mà một tác giả châu Âu thế kỉ 19 nghe nói được đánh giá là 'tốt hơn long não Barus nổi tiếng của Sumatra'.[69] Có lẽ long não dùng cho pha trộn được nhập khẩu từ các đối tác thương mại ở nước láng giềng Champa (Cām), nước kế thừa Lâm Ấp và là đối tác thương mại thân thiết của Borneo.[70] Có lẽ nó đến từ một nguồn gần hơn. Theo một du khách Ả Rập ở thế kỉ 10, người ta có thể lấy long não và long não lỏng từ 'biển thứ năm, biển Kundrang', ông viết, nơi 'có nhiều núi và đảo mà trên đó thấy có long não và long não lỏng'.[71]

 

Long não dâng lên hoàng đế nhà Đường là một sản phẩm tinh chế, có giá trị tăng cao, không phải là nguyên liệu thô. Một công thức của Tangera cho 'Hương long não', vẫn còn tồn tại trong bộ sưu tập các công thức làm chất thơm thời Tống, cho thấy sự phụ thuộc nặng nề của những hỗn hợp như vậy vào các loại chất thơm từ Champa, quần đảo Đông Nam Á và Ả Rập:

 

50 gram trầm hương (aloeswood); 15 gram gỗ xạ hương (musk wood) Champa; 15 gam trầm hương Champa; 10 gram calambac [từ Champa]; 5 gram nước bọt rồng (long diên hương); 10 gam Dryobalanops Aromatica.Gaertn [long não, ở dạng 'cặn vàng']; 2,5 gam gỗ đàn hương; 2,5 gram Pistacia |terebinthus [cây nhựa thông];[72] 5 giọt nước hoa Đại Thực [Ả Rập]; nước hoa hồng [số lượng tùy ý]; và 5 gram Gardenia jasminoides [Cape Jasmine và các loại cây dành dành khác] từ Đại Thực [Ả Rập].[73]

 

Nguồn nguyên liệu tạo ra loại sản phẩm thơm này đều nằm ở nước ngoài, ngoài tầm kiểm soát của Giao Châu hoặc triều đình nhà Đường. Để tạo ra một dạng sản phẩm thơm hình cánh ve sầu giống thứ Dương Quý Phi dùng, người chế tạo phải ‘tán nhuyễn các nguyên liệu trên một tảng đá sạch thành bột cực mịn, trộn với nước hoa hồng và nước hoa Ả Rập rồi đúc thành [hình dạng cuối cùng của nó]'.[74] Kĩ năng pha trộn hương liệu này được tìm thấy trong một công thức cổ điển, ban đầu được viết bằng tiếng Phạn, để làm nước thơm dùng để rửa tượng Phật. Nó đòi hỏi người pha chế trộn các thành phần thơm và 'nghiền mịn chúng trên đá sạch'.[75] Việc đúc các nguyên liệu được chế biến tinh xảo thành hình cánh ve sầu có thể là một sáng tạo của Giao Chỉ.

 

Trong suốt thời kì đầu của Đông Nam Á, giới tinh hoa độc quyền chế biến chất thơm; điều này có vẻ đặc biệt đúng với Giao Chỉ. Một bài thơ Trung Quốc thế kỉ 5 miêu tả hình ảnh “vua Việt nghiền hương hun luk [huân lục]”.[76] Ở nước láng giềng phía nam của Giao Chỉ là Champa, việc chế biến chất thơm cũng được giới thượng lưu thực hiện, một người cô của vua Chăm được tôn vinh là 'rất khéo trong việc chế tạo nước hoa'.[77] Chất thơm cũng được tầng lớp thượng lưu trong xã hội Hồi giáo xử lí. Theo Phạm Thị Thanh Huyền, gỗ trầm 'được mẹ của Abassid Caliph al Muqtadir (908-932) pha trộn và dâng làm nhang vào thứ Sáu hàng tuần tại Dome of the Rock ở Jerusalem (Bait al-Maqdis)'.[78] Có những công thức chế bịến nhang trầm nguyên chất hoặc các mùi hương hỗn hợp, có thể cũng được giới thượng lưu, thậm chí cả hoàng gia soạn ra. Tất cả những điều này cho thấy vị thế cao mà công việc chế biến chất thơm được hưởng trong những cư dân thượng lưu ở vùng biển Nam vì điều này liên quan trực tiếp đến nghi lễ và kiến thức. Điều này khác với Trung Quốc. Như một nguồn tài liệu Trung Quốc từ thời nhà Tống giải thích:

 

Lâm Ấp, Champa, Java và Giao Chỉ sản xuất nhiều loại sản phẩm thơm đặc biệt khác nhau và [họ biết cách] pha chế chúng. Khi đốt, chúng có mùi cực kì thơm và thanh thoát. [Do điều này mà] những người đó [Lâm Ấp, Champa, Java và Giao Chỉ] đã nhận xét rằng các sản phẩm thơm Trung Quốc được gọi là 'sanyun' (三運: tam vận) hay 'sijue’ (四絕: tứ tuyệt ) chẳng qua chỉ là chất thơm của bọn ăn xin .[79]

 

Định vị lại trong bối cảnh được mô tả ở trên, có thể thấy rõ rằng người Đông Nam Á không chỉ chế giễu mùi thơm chất lượng thấp và kém cỏi của các loại sản phẩm thơm do Trung Quốc chế biến; họ cũng đang nói về những người đã tạo ra chúng. Các thợ thủ công Trung Quốc hầu như chắc chắn là từ các tầng lớp xã hội bình thường, trong khi những người chế biến hương liệu ở Đông Nam Á thường thuộc các tầng lớp xã hội cao nhất.

[1] Để có cái nhìn toàn diện về những thay đổi hành chính ở Giao Chỉ và Giao Châu trong suốt lịch sử, xem Phạm Lê Huy, 'A Reconsideration of the Leilou - Longbian Debate: A Continuation of Research by Nishimura Masanari' [Xem xét lại cuộc tranh luận Luy Lâu - Long Biên: Tiếp nối nghiên cứu của Nishimura Masanari], Asian Review of World Histories 5 (2017), 28-52.

[2] Tiếng Latin: Pogostemon patchouli. Tên tiếng Trung 藿香. Trong cuốn sách Bổn thảo cương mục 本草綱目, Lí Thời Trân 李时珍 (1518-1593) nói rằng hoắc hương còn được gọi là douloupo xiang 兜婁婆香 (đâu lũ bà hương). Xem Bổn thảo cương mục (Oakland, CA: Nxb Đại học California, 2016), tr. 517. Tuy nhiên, từ tiếng Phạn patchpan nghe không giống doulo mà giống patchouli hơn. Huoxiang dường như vẫn giữ nguyên dạng Hán Nôm và chưa từng có tên địa phương. Hoắc hương tiếng Việt là tên [Hán Việt] dịch trực tiếp từ tiếng Trung.

[3] Kê Hàm 嵇含 (262-306), Nam phương thảo mộc trạng [南方草木狀: Thảo mộc phương nam], trích dẫn trong Lí Phưởng, 李昉 Thái bình ngự lãm 太平御覽, hoàn thành năm 977-983 CE, chương 982. (www.guoxue123.com/shibu/0301/0000/019.htm , truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2000).

[4] Duẩn Ba Đào 尹波涛, 'Túc đặc Khang thị Cối Kê quận vọng khảo luận luận 粟特康氏会稽 郡望考論论 [Nghiên cứu về quê hương quận Cối Kê của họ Khang gốc Sogdian], Đôn Hoàng học tập san 敦煌學輯刊 1 (2017), 156-164.

[5] Khang Thái 康泰 Ngô thời ngoại quốc truyện 吳時外國傳, trong Trần Giai Vinh 陳佳榮 (ed.), (Ngô) Khang Thái, Chu Ứng Ngoại quốc truyện (吴) 康泰朱應外國傳 [tuyển tập có chú thích Ngoại quốc truyện của Khang Thái & Chu Ứng ] (Hong Kong: Xianggang haiwai jiaotongshi xuehui, 2006), tr. 25. Ở đây tôi coi Đô Côn 都昆 và Đốn Tốn 顿逊 là cùng một cảng với cách viết khác nhau ở các thời kì khác nhau. Đô Côn và Đốn Tốn đều được ghi nhận là nằm cách Phù Nam 3000 (1 500 km) về phía nam và hoắc hương là sản phẩm địa phương của nó.

(吳時外國傳:'都昆在扶南南三千餘里出 藿香'; 梁書/卷54: 扶南'其南界三千馀里有顿逊國';万震,南州异物志: '藿香出 典逊').

[6] 'Phù Nam truyện', trong Diêu Tư Liêm 姚思廉(557-637), Lương thư (Liangshu 梁書), chương 54 (Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 2013), 3: 787.

[7] Được trích dẫn trong Wang Gungwu, 'The Nanhai Trade', trong Geoff Wade (ed.), Southeast Asia-China Interactions (Kuala Lumpur: The Malaysia Branch of the Royal Asiatic Society, 2007), p. 95..

[8] Như trên.

[9] Erica Brindley, 'Representations and Uses of Yue Identity along the Southern Frontier of the Han’ [Những biểu hiện và cách sử dụng bản sắc Việt dọc theo biên giới phía Nam của nhà Hán], ca. 200-111 BCE', Early China 33 (2011), 2.

[10] Andrea Yankowski, 'Trade, Technologies and Traditions: The Analysis of Artifacts Recovered from a Metal Age Burial in District Ubujan, Tagbilaran City, Bohol’ [Thương mại, Công nghệ và Truyền thống: Phân tích các đồ hiện vật được phục hồi từ một di chỉ chôn thời đại kim loại ở Quận Ubujan, Thành phố Tagbilaran, Bohol', Luận án Thạc sĩ, Đại học bang San Francisco, 2005, tr. 10.

[11] 'Nam hải chư quốc' [Các quốc gia ở biển Nam], từ 'Dili zhi' [Địa lí chí] trong Lưu Quân 劉昀, Cựu Đường thư, hoàn thành năm 945 CE, chương 41 (Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 2013 ), 5:1750.

[12] Lí Đạo Nguyên, Thuỷ kinh chú [水經注] ( https://ctext.org/shui-jing-zhu , truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2010).

[13] Các học giả có ý kiến khác nhau về vị trí của thành Luy Lâu và Long Biên, đặc biệt liệu hai thành này có phải là một hay không. Học thuật thông thường cho rằng 'Luy Lâu = Long Biên = Lũng Khê.' Tiếp nối Nishimura, Phạm Lê Huy đã khẳng định Luy Lau ≠ Long Biên, Long Biên = Lũng Khê. Luy Lau, theo Huy, có thể tìm thấy ở Quốc Oai, phía tây Hà Nội. Xem Phạm Lê Huy, 'A Reconsideration of the Leilou - Longbian Debate: A Continuation of Research by Nishimura Masanari', Asian Review of World Historys 5 (2017), 28-52. Huy đã đúng khi chỉ ra rằng Luy Lâu và Long Biên được ghi chép riêng biệt trong các nguồn sử liệu cổ của Trung Quốc. Dù vậy tôi vẫn tiếp tục theo học thuật truyền thống trong cuốn sách này, sau khi xem xét tuyến đường đi chính, cụ thể là “con đường xâm lược” từ Thuỷ Nguyên đến Bắc Ninh, hàng ngàn ngôi mộ Hán dọc theo tuyến đường này và vị trí của ngôi chùa Phật giáo lâu đời nhất được biết đến, Pháp Vân. Những bằng chứng khảo cổ học vẫn chưa được tìm thấy ở Quốc Oai. Về 'Con đường xâm lược', xem Li Tana, 'A Historical Sketch of the Landscape of the Red River Delta', TRaNS: Trans-Regional and -National Studies of Southeast Asia (2016), 1-13.

[14] Ngoài Đồng bằng sông Hồng, những viên gạch có hình mặt người này còn được khai quật tại các di chỉ ở Tam Thọ gần Đông Sơn và xa hơn về phía nam ở Trà Kiệu và Mĩ Sơn ở miền Trung Việt Nam. Olov R.T. Janse, Archaeological Research in Indo-China (Cambridge, MA: Nxb Đại học Harvard, 1947-1958), bản 157; Yamagata Mariko, Tra Kieu during the Second and Third Centuries CE: The Formation of Linyi from an Archaeological Perspective' [Trà Kiệu trong thế kỉ 2 và 3 CE: Sự hình thành của Lâm Ấp từ góc nhìn khảo cổ học], trong Trần Kỳ Phương và Bruce Lockhart (eds), The Cham of Vietnam: History, Society and Art (Singapore: US Press , 2011), tr. 96.

[15] Nishimura Masanari, Betonamu no Koko-Kodaigakuベトナムの考古・ 古代学 [Khảo cổ học và lịch sử cổ đại Việt Nam] (Tokyo: Doseisha, 2011), tr. 169. Những viên ngói có trang trí hoa sen cũng được tìm thấy từ cùng một lớp, đã trở nên phổ biến với sự phát triển của Phật giáo ở Trung Quốc từ thế kỉ 3 đến cuối thời nhà Đường. Nishimura, Betonamu no Koko , tr. 168.

[16] Nishimura Masanari, Betonamu no Koko, pp. 170-171.

[17] Vào cuối thế kỉ 7 CE, Nghĩa Tịnh (cũng được phiên âm là I Ching, viết bằng tiếng Trung Quốc là 義淨), một nhà hành hương Phật giáo đến Ấn Độ, đã mô tả các bhiksus hoặc tu sĩ Ấn Độ sử dụng dụng cụ đựng nước uống như sau: 'Cái bình nên được làm sao cho đầu luôn nối với miệng; đầu nhọn phía trên mép bình và phải cao bằng hai ngón tay; trong đó có một cái lỗ nhỏ bằng chiếc đũa đồng.” Ananda K. Coomaraswamy và Francis Stewart Kershaw, 'A Chinese Buddhist Water Vessel and its Indian prototype’ [Một chiếc bình đựng nước của nhà sư Trung Quốc và Nguyên mẫu Ấn Độ của nó'] Artibus Asiae 3,2/3 [1928-1929], 122-123.

[18] Yuanlai ruci: Hu Shi shuo fo [Nghiệp là như thế này: Hồ Thích nói  về Phật giáo] (Bắc Kinh: Qunyan chubanshe, 2013), trang 8-10. Câu gốc của Hồ: 'Phật giáo đến Giao Châu từ rất sớm, có lẽ sớm hơn bốn đến năm thế kỉ so với Master Mou’s treatise dispelling doubts [Luận thuyết của Thầy Mou xua tan nghi ngờ].'

[19] Keith W. Taylor, 'What Líe behind the Earliest Story of Buddhism in Ancient Vietnam?’ [Điều gì nằm đằng sau câu chuyện sớm nhất về Phật giáo ở Việt Nam cổ?] Journal of Asian Studies 77, 1 (2018), 107-122.

[20] Họ 'Khang' rõ ràng ám chỉ Samarkand. Vinh Tân Giang 榮新江, Trung cổ Trung Quốc dữ ngoại lai văn minh [中古中國與外来文明: Trung Quốc thời trung cổ và nền văn minh nước ngoài] (Bắc Kinh: Sanlian, 2014), trang 60-62.

[21] Keith W. Taylor, The Birth of Vietnam (Berkeley: Nxb Đại học California, 1983), tr. 80.

[22] Kenneth Hall, Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia [Thương mại biển và Phát triển Nhà nước ở Đông Nam Á thời kì đầu] (Honolulu: Nxb Đại học Hawaii, 1985), tr. 37.

[23] Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh), Việt Nam Phật giáo sư luân (Hà Nội: Nxb. Văn học, 2000), tập. 1, trang 37, 39; Karashima Seishi 辛嶋靜志, một học giả hàng đầu về kinh sách Phật giáo, đã chỉ ra rằng những kinh sách Phật giáo sớm nhất (thế kỉ 3 CE) được truyền miệng chứ không phải bằng văn bản tiếng Phạn và nhiều trong số đó là những cuộc đối thoại giữa các nhà sư. Giao Chỉ chắc hẳn đã có rất nhiều nhà sư từ Ấn Độ dịch và phiên âm sang nhiều ngôn ngữ khác nhau để biên soạn kinh sách. Karashima Seishi, '誰 創造了大乘經典–大眾部與方等經 典' [Ai sáng tác kinh Mahāsāmghika], Phật Quang học báo 佛光學報 3, 1 (2017), 1-4.

[24] 'Lương cao tăng truyện' 梁高僧傳 [Tiểu sử của các nhà sư lỗi lạc thời Lương], https://zh.wikisource.org/zh/梁高僧傳/卷一l; 'Mưu Tử lí hoặc luận' 牟子理惑論 [Chuyên luận xua tan nghi ngờ của Mưu Tử] ( https://zh.wikisource.org/zh/理惑論, truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2010).

[25] 'Sĩ Nhiếp truyện', trong Tam quốc chí, chương 49 (Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 2013), tập. 5:1192.

[26] Nhậm Kế Dũ 任继愈 (ed.), Trung Quốc Phật giáo sử (Bắc Kinh: Zhongguo shehui kexue chubanshe, 1981), tập. 1, tr. 178.

[27] Quý Tiện Lâm 季羨林, Dân gian văn học dữ tỉ giảo văn học 民間文學與比較文學 [Văn học dân gian và văn học so sánh) (Bắc Kinh: Nxb Đại học Bắc Kinh, 1991), tr. 2.

[28] Bản dịch tiếng Anh của cuốn sách của Latika Lahiri có tựa đề Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện (Delhi: Nxb Motilal Bankarsidass, 1986, tái bản 2015), tr. 39-40.

[29] Lahiri, Chinese Monks in India [Các nhà sư Trung Quốc ở Ấn Độ], trang 32-35.

[30] Rila Mukherjee, India in the World: From the Earliest Times to 1800 CE [Ấn Độ trên thế giới: Từ thời kì sớm nhất đến năm 1800 CE] ( Singapore: Springer, 2022), trang 65-66.

[31] Taylor, The Birth of Vietnam , tr. 156.

[32] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận , p. 125.

[33] Andrea Acri (ed.), Esoteric Buddhism in Mediaeval Maritime Asia: Networks of Masters, Texts, Icons [Phật giáo bí truyền ở vùng châu Á biển thời trung cổ: Mạng lưới các bậc thầy, văn bản, biểu tượng] (Singapore: Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, 2016).

[34] Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp Cao Tăng Truyện 大唐西域求法高僧傳 (https://zh.wikisource.org/zh-hans/大唐西域求法高僧傳/卷上, truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2010). Để biết thêm về Vận Kì và lụa từ đồng bằng sông Hồng, xem Chương 7.

[35] David Holm, ‘"Crossing the Seas": Indic Ritual Templates and the Shamanic Substratum in Eastern Asia' ["Vượt xuyên qua biển": ‘Các khuôn mẫu nghi lễ Ấn Độ và nền tảng pháp sư ở Đông Á', Sino-Platonic papers, số. 281 (Đại học Pennsylvania, 2018), 15.

[36] Holm, 'Crossing the Seas', 15.

[37] Còn gọi là Dị vật chí 異物志. Do Dương Phu 楊孚 biên soạn vào thời Đông Hán. Trong Hán Đường phương chí tập dật 漢唐方誌輯佚 [Bộ sưu tập các phương chí thất lạc được biên soạn thời Hán - Đường] (Bắc Kinh: Thư viện Bắc Kinh, 1997), tr. 14.

[38] Kê Hàm 嵇含, Nam phương thảo mộc trạng 南方草木狀 [Thảo mộc và cây cối phương nam] (www.guoxue123.com/shibu/0301/0000/019.htm , truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2000).

[39] Trong đoạn văn này, Âu Dương Tuân trích dẫn một nguồn trước đó có tựa đề Ghi chép về tám quận phía Nam [南中八郡志: Nam trung bách quận chí]: 'Có cây mía ở Giao Chỉ, bề tròn vài cm và dài hơn 200 cm. Nó trông giống như tre. Nó rất ngọt khi được cắt ra ăn. Khi ép và làm khô trong vài giờ, nó sẽ trở thành kẹo, tan ngay khi đưa vào miệng. Người ta gọi nó là “mật đá”.' Xem Nghệ văn loại tụ 藝文類聚 [Bách khoa toàn thư văn học) (Đài Bắc: Xinxing shuju, 1969), 6:2233.

[40] Kê Hàm, Nam phương thảo mộc trạng.

[41] Quý Tiện Lâm, Đường thư (Nanchang: Jiangxi jiaoyu chubanshe, 2009), tập. 1.

[42] Henry Yule và AC Burnell, Hobson-Jobson: The Definitive Glossary of British India (Oxford: Nxb Đại học Oxford, 2013), tr. 486; xem thêm Thái bình ngự lãm 太平御覽, chương 974 ( www.guoxue123.com/zhibu/0201/03tpyl/0973.htm , truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2019).

[43] Christine Tara Peterson và cộng sự, 'Therapeutic Uses of Triphala in Ayurvedic Medicine' [Công dụng trị liệu của Triphala trong Y học Ayurvedic], Journal of Alternative and Complementary Medicine’ 23, 8 (2017), 607-614, tại đây 607.

[44] Thuật ngữ sanle 三勒 [tam lặc] dùng để chỉ ba loại cây sau: (1) hārātaka (C. halele 訶黎勒 [ha lê lặc]) hoặc myrobalan đen; (2) āmalaka (C. anmole庵 摩勒 [am ma lặc] ) hoặc quả lí gai Ấn Độ; và (3) vibhātaka (C. billile 毗梨勒 [bì lê lặc]) hoặc beleric myrobalan.

[45] 'Tầng lớp quý tộc đất đai, cho đến lúc đó ít bị cản trở - đúng hơn là đã được củng cố - nhờ hợp tác với người Trung Quốc, đột nhiên thấy mình bị loại khỏi sự giàu có, giờ đây dựa vào trao đổi thương mại và hàng hải, và bị tướt đi quyền lực do quan lại địa phương được tuyển dụng dựa trên những tiêu chí không liên quan gì đến nguồn gốc xã hội. Đây chính là ý nghĩa cuộc nổi dậy của hai chị em bà Trưng'. Philippe Papin, 'Géographie et politique dans le Viêt-Nam ancien', Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient 87, 2 (2000), 615.

[46] John Phan, 'Lacquered Words: The Evolution of Vietnamese under Sinitic influences from the 1st century BCE through the 17th century CE’ [Từ ngữ được sơn phết: Sự tiến hoá của tiếng Việt dưới ảnh hưởng chữ Hán từ thế kỉ 1 trước Công nguyên đến thế kỉ 17 CE', Luận án Tiến sĩ, Đại học Cornell, 2013, trang 74-75.

[47] Ví dụ, xem các chỗ nói về cuộc di cư này trong An Nam Chí Lược của Lê Trác , chẳng hạn như Viên Trung 袁忠, Hằng Diệp 恒曄 và Hứa Tĩnh 許靖, tất cả họ đều đến Giao Chỉ bằng đường biển. Lê Trác, An Nam Chí Lược [Lược sử An Nam] (Repr. Beijing: Zhonghua shuju, 2000), tr. 251-252.

[48] James R. Chamberlain, ‘'Kra-Dai and the Proto-History of South China and Vietnam' [Kra-Dai và lịch sử sơ khai của Nam Trung Quốc và Việt Nam’, Journal of the Siam Society 104 (2016), 37.

 

[49] John Phan, 'From Sino-to-Vietnamese: A New Hypothesis for the Birth of the Vietnamese Language' [Từ tiếng Hán sang tiếng Việt: Một giả thuyết mới về sự ra đời của tiếng Việt], bài viết trình bày tại hội thảo quốc tế, 'Vietnam, China and Chinese in Vietnam: New Research on Chinese in Vietnam, Past and Present' [Việt Nam, Trung Quốc và tiếng Hoa ở Việt Nam: Nghiên cứu mới về tiếng Trung ở Việt Nam, quá khứ và hiện tại]', Đại học Quốc gia Úc, Canberra, 28-29 tháng 7 năm 2010, tr. 4.

[50] Nhan thị gia huấn [Lời dạy trong gia đình họ Nhan], chương 3, trong C-Text trực tuyến (https://ctext.org/yan-shi-jia-xun/mian-xue/zhs , truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2019).

[51] Giả Tư Hiệp 賈思勰, Tề dân yếu thuật 齊民要術, hoàn thành năm 544 CE (Bắc Kinh: Nongye chubanshe, 1982), 263-264.

[52] Fukui Kōjun, 'A Study of Moutzu' [Nghiên cứu về Mưu Tử], Bukkyo Shigaku [Tạp chí lịch sử Phật giáo] 2, 2 (1951), 12-14. Fukui Kōjun lập luận rằng Mưu Tử được viết vào giữa thời Tam Quốc, khoảng giữa thế kỉ 3. Béatrice L'Haridon cho rằng tác phẩm được hoàn thành sớm hơn, vì hình thức lập luận của văn bản liên quan chặt chẽ đến các hình thức tranh luận thời Hán muộn (biện 辯) trong giới trí thức Nho giáo. Béatrice L'Haridon, Meou-tseu: Dialogues pour dissiper la confusion (Paris: Les Belles Lettres, 2017), xi-xxi; trích dẫn trong David Holm, 'Crossing the Seas', 20. Triết gia Trung Quốc Nhậm Kế Dũ 任继愈 cho rằng tác phẩm rất có thể được viết vào đầu thế kỉ 3. Nhậm Kế Dũ, Trung Quốc Phật Giáo sử, tập. 1, trang 188-189.

[53] Đại phương quảng phật hoa nghiêm kinh 大方廣佛華嚴經 [Kinh Hoa nghiêm] (www.fomen123.com/fo/jingdian/huayanjing/huayanjing/5478.html卷第八, truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2006).

[54] Edward H. Schafer, The Golden Peaches of Samarkand: A Study of T'ang Exotics [Những quả đào vàng ở Samarkand: Nghiên cứu về những món lạ thời Đường Exotics] (Berkeley: Nxb Đại học California, 1963), tr. 157.

[55] Silvio A. Bedini, The Trail of Time: Time Measurement with Incense in East Asia [Dấu vết thời gian: Đo thời gian bằng nhang ở Đông Á] (Cambridge: Nxb Đại học Cambridge, 1994), tr. 44.

[56] Phật bổn hành tập kinh 佛本行集經 [Kinh Abhinişkramaņa], dịch. sang tiếng Trung trong khoảng thời gian từ 587 đến 591 CE. Chương 57 ( http://m.fodizi.tw/fojing/02/557.html, truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2016).

[57] Già la xà lê 伽羅闍黎. Xem Keith W. Taylor, 'What Lies behind the Earliest Story of Buddhism in Ancient Vietnam?'[Điều gì nằm đằng sau câu chuyện sớm nhất về Phật giáo ở Việt Nam cổ đại?' The Journal of Asian Studies 77, 1 (2017), 1-16. Cái tên calambac ám chỉ phần lõi nhựa của cây trầm hương, một loại cây có hương thơm có giá trị cao có nguồn gốc từ Champa, nhưng cái tên calambac dường như không xuất hiện trong bất kì văn bản nào trước thời nhà Tống.

[58] Taylor, The birth of Vietnam , tr. 183.

[59] Flower Garland Sutra [Kinh Hoa nghiêm] (Avatamsaka Sūtra 大方廣佛華嚴經) chương 80 (https://tripitaka.cbeta.org/T10n0279_080 , truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2015).

[60] Thích Đạo Thế 釋道世, trong Pháp uyển châu lâm 法苑珠林 [Rừng ngọc trong vườn pháp], viết: 'Có 7 khu chợ trên thiên đường. Chợ đầu là chợ gạo, thứ hai là chợ quần áo; thứ ba là chợ chất thơm, thứ tư là chợ thực phẩm; thứ năm là chợ làm tóc; chợ thứ sáu là chợ đồ thủ công và chợ thứ bảy là chợ gái mại dâm. Mọi khu chợ đều do quan lại quản lí, các hoàng tử và công chúa đi lại và buôn bán tự do.''莊飾部'第十一 [‘trang sức bộ' đệ thập nhất], CBETA phiên bản điện tử, tr. 33.

[61] 'Phù Nam truyện', Tân Đường thư, xuất bản lần đầu năm 1060, chương 222b (Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 2013), tập. 20:6301.

[62] Lâm Thiên Uý 林天蔚, Tống đại hương dược mậu dịch sử 宋代香藥貿易史 (Đài Bắc: Zhong-guo wenhua daxue chubanshe, 1960), 265, 339-344.

[63] Lí Phưởng 李昉, Thái bình quảng kí 太平廣記, hoàn thành năm 978 CE (Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 1961), tr. 1210.

[64] Tōdaiwajō tōseiden [Đường đại hoà thượng đông chinh truyện: Truyện về chuyến du hành về phía đông của đại hoà thượng nhà Đường], comp. 779 CE ( https://zh.wikisource.org/wiki/唐大和上東征傳, truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2019).

[65] Để biết thêm về 'não rồng tốt lành' (ruilong naoxiang 瑞龍腦香), xem Bedini, Trail of Time, p. 31.

[66] Đoàn Thành Thức 段成式 (803-863), Dậu Dương tạp trở 酉陽雜俎 [Những điều linh tinh từ Dậu Dương] trong Sibu congkan chubian (Thượng Hải: Shangwu, 1937), 1:1-2.

[67] Kenneth Hall, A History of Early Southeast Asia: Maritime Trade and Societal Development [Lịch sử Đông Nam Á thời kì đầu: Thương mại đường biển và Phát triển Xã hội], 100-1500 (Lanham: Rowman & Littlefield, 2011), tr. 64.

[68] Xem Mã Khả Ba La hành kí [Chuyến du hành của Marco Polo], bản dịch Feng Chengjun (Thượng Hải: Shanghai shudian chubanshe, 2006), tr. 381. Xem thêm nguồn tiếng Ả Rập thế kỉ 12 của Ibn Al-Baytār, trong đó liệt kê bốn loại long não trong đó loại từ Farusi (Pasuri) được xếp hạng tốt nhất (Alabo, Bosi, Tujue ren dongfang wenxian jizhu ). Bản tóm tắt sách vở của các dân tộc Ả Rập, Ba Tư và Thổ Nhĩ Kì ở phía Đông], bản dịch. Geng Sheng và Mu Genlai (Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 1989), tr. 312. 'Dragon brain trees grown in the kingdom of Poli’ [Cây long não trồng ở nước Bà Lợi]; Đoàn Thành Thức, Dậu Dương tạp trở 2:150.

[69] Earl, George Windsor, The Eastern Seas, or, Voyages and Adventures in the Indian Archipelago, in 1832-33-34 [Các biển Đông hay, các cuộc du hành và phiêu lưu ở quần đảo Ấn Độ, năm 1832-33-34] (London: WH Allen, 1837), tr. 249.

[70] Theo sử sách triều đình nhà Đường, vào năm 627 CE 'vua [Poli (Bà Lợi)] đã cử sứ giả cùng đi với sứ giả của Lâm Ấp đến dâng các sản phẩm địa phương' cho hoàng đế. Cựu Đường Thư , chương 197, tập. 16:5271.

[71] Al-Mas'udi (?-957), 'Muruj al - Dhahab wa Ma'adin al- Jawhar' [Đồng cỏ vàng], trong Relations de voyage et textes géographiques arabes, persans et turks relatifs à l'Extrême-Orient du 8e au 18e siècles, do G. Ferrand (Paris: E. Leroux, 1913) viết, tập. 1, tr. 99. “Kundrang” ở đây có thể ám chỉ vùng Ninh Thuận và Phan Thiết ngày nay. Phạm Thị Thanh Huyền, 'Champa và thế giới Hồi giáo, thế kỉ 7-15', luận án tiến sĩ, Đại học Quốc gia Singapore (2021), tr. 13.

[72] Pistacia terebinthus , thường được gọi là cây nhựa thông, có nguồn gốc ở vùng Địa Trung Hải.

[73] Trần Kính 陳敬, Trần thị hương phố 陳氏香譜 [Phổ thơm của tộc Trần], viết c. Thế kỉ 13, trong Tiền lục 錢錄 (Ghi chép về tiền tệ), do Lương Thi Chính 梁詩正 biên soạn, xuất bản lần đầu năm 1750 (Thượng Hải: Shanghai guji chubanshe, 1991), tr. 306.

[74] Như trên.

[75] Nghĩa Tịnh, Dục phật công đức kinh 浴佛功德經 [Kinh tắm Phật để tạo công đức], CBETA trực tuyến, tr. 2 ( http://buddhism.lib.ntu.edu.tw/BDLM/sutra/chi_pdf/sutra9/T16n0698.pdf , truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2012).

[76] Trúc Pháp Chân 竺法真, ‘La phù sơn sớ' [Bình luận về núi La Phù], trong '香部’ [Phần hương], Thái bình ngự lãm, chương 982 ( www.guoxue123.com/zhibu/0201/03tpyl/0981.htm , truy cập ngày 5 tháng 4 2014). Hun-luk 薰陸香 [huân lục hương], một từ tiếng Trung cổ có nguồn gốc từ tiếng Ả Rập kundur , dùng để chỉ trầm hương (nay được phát âm là xunlu ), có nguồn gốc ở Yemen và Somalia. Tuy nhiên, vì Giao Chỉ đóng vai trò là điểm dừng chân đầu tiên cho bất kì hàng nhập khẩu lạ nào từ nước ngoài vào đế quốc Trung Quốc, nên thần dân Trung Quốc thường coi nhựa thơm là sản phẩm của quận này. Văn bản tiếng Trung viết: 'Huân lục được sản xuất tại Giao Châu' [薰六,出交州].

[77] Cụ thể, văn bia ghi nhận một người cô của vua Chăm Jayasimhavarman I vào thế kỉ 9. 'Văn bia Đồng Dương của Jayasimhavarman I', no. 36, trong RC Majumdar, Champa: History and Culture of an Indian Colonial Kingdom (Delhi: Gian Pub. House, 1985), tr. 103.

[78] Phạm Thị Thanh Huyền, 'Champa and the Islamic World, 7th-15th Centuries’ [Champa và thế giới Hồi giáo, thế kỉ 7-15], tr. 137.

[79] Chu Gia Trụ 周嘉胄, Hương thặng 香乘 , chương 11, tr. 439.