Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2025

Một Việt Nam gắn với biển – từ thời kỳ sơ khai cho đến thế kỷ 19 (kỳ 3)

 Tác giả: Li Tana

Việt dịch: Phan Văn Song

Cambridge University Press

Tìm kiếm các cảng biển sâu của Giao Chỉ

 

Vận tải Trung Quốc được cho là dùng các phương tiện trên bộ, tàu thuyền trên sông và thuyền chạy ven biển để vào ra vịnh Bắc Bộ, còn tuyến đường qua kênh Linh cung cấp mối liên kết chính của châu quận (commandery) này với miền Trung Trung Quốc. Tuy nhiên, các nguồn tài liệu lịch sử cho thấy một bức tranh phức tạp hơn xuất phát từ thực tế là vào thời đó người ta sợ vịnh Bắc Bộ hơn là sử dụng nó. Các tài liệu thời Hán chỉ ra rằng cống phẩm của Giao Chỉ đến triều đình trên những chiếc thuyền đi về phía đông qua Trướng Hải, 'biển trướng’ đến Phúc Châu thuộc Phúc Kiến hiện nay.[1] Trong chiến dịch dập tắt cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng vào năm 41-43 CE, ‘tướng Phục Ba' Mã Viện thà chịu khó nhọc mở đường núi hơn là để quân đội của mình đánh liều đi vào vùng biển nguy hiểm của vịnh Bắc Bộ.[2] Hai điều kiện đặc biệt của vịnh Bắc Bộ khiến việc đi lại ven biển trở thành điều đáng sợ. Thứ nhất, một chuỗi đá khổng lồ ẩn mình dưới sóng biển, thường không bị phát hiện, trải dài từ bờ biển phía đông đồng bằng sông Hồng đến bờ biển Quảng Tây. Mãi cho đến cuối thế kỉ 9 CE, Cao Biền (tr.821-887 CE), tiết độ sứ vùng đồng bằng được gọi là Phủ bảo hộ An Nam, mới ra lệnh loại bỏ chúng.[3] Thứ hai, các tàu Trung Quốc khởi hành từ các cảng Trung Quốc đến Đông Nam Á khi gió mùa đông bắc bắt đầu, thường vào tháng 12 và kéo dài đến tháng 4 năm sau. Nói cách khác, tàu thuyền sẽ nhờ gió đông bắc đẩy đi. Tuy nhiên, ở vịnh Bắc Bộ gió thổi theo hướng tây nên quanh năm không có gió bắc-nam thuận lợi cho giao thông bắc-nam. Cường độ và hướng gió tây này được thể hiện rõ ràng khi nhìn vào Hình 1.3, cho thấy sự biến đổi hàng tháng về hướng và lực gió của vịnh.

Hình 1.3 Áp lực trung bình của gió hàng tháng ở vịnh Bắc Bộ

 

Nguồn: Nguyễn Minh Nguyệt, 'Đặc điểm thủy triều Vịnh Bắc Bộ: Đại dương, Khí quyển', Luận án Tiến sĩ, Đại học Paul Sabatier - Toulouse III (2013), tr. 12.

 

Hai điều kiện này kết hợp với nhau gây nguy hiểm cho người đi biển vì gió đông bắc vào mùa đông có thể thổi tàu thuyền lệch về phía tây về phía đồng bằng sông Hồng và dập chúng vào một trong nhiều khối đá ngầm ngoài khơi. Điều này chính xác đã xảy ra trước thế kỉ 9, như một nguồn lịch sử đã khuyên: ‘Nếu bị gió cuốn đi mà chạy thuyền ôm lấy bờ biển thì chắc chắn sẽ bị đắm.’[4]

 

Các chi tiết liên quan đến những mối nguy hiểm hàng hải này giải quyết một số bí ẩn lớn về việc đi lại trên biển thời Hán sơ. Hán Thư, bộ sử lúc ban sơ của triều đại được viết vào thế kỉ 1 CE, liệt kê ba cảng xuất phát từ Trung Quốc đi Đông Nam Á và Ấn Độ: 'Từ rào chắn của Nhật Nam (ở phần phía nam của vịnh Bắc Bộ ở miền Trung Việt Nam), của Từ Văn (Xuwen, trên bán đảo Lôi Châu của Trung Quốc), hoặc của Hợp Phố (Hepu, trên bờ biển Quảng Tây của Trung Quốc), đi 5 tháng sẽ đến nước Duyuan (都元: Đô Nguyên, trên bán đảo Malay).'[5] Thật lạ là danh sách này không chứa một cảng nào ở vùng đồng bằng sông Hồng. Giao Chỉ, nơi có thái thú nhà Hán trú đóng, nằm ở đồng bằng sông Hồng và nổi tiếng với vị trí phía nam và việc tham gia vào thương mại biển. Tuy nhiên, rõ ràng hoạt động làm ăn thương mại thực tế lại chủ yếu diễn ra ở nơi khác. Điều kiện đi thuyền ở vịnh Bắc Bộ đã cản trở việc sử dụng bất kì cảng nào ở đồng bằng sông Hồng cho vận chuyển đường dài trên biển.

 

Trong những năm 1950, nhà sử học Wang Gungwu [王赓武: Vương Canh Vũ] đã chỉ ra rằng ‘giá trị rất lớn của Giao Chỉ đối với Trung Quốc nằm ở hoạt động ngoại thương.’[6] Thời Hán, Giao Châu nổi tiếng là cửa ngõ chính của Trung Quốc cho loại thương mại đó, thu hút phần lớn thương mại đường biển ở biển Đông và duy trì vị thế cao của mình ngay cả sau khi Quảng Châu nổi lên vào thế kỉ 6 CE, tạo ra hai cảng lớn trong thời nhà Đường (617-906). Mô tả sau đây của một vị quan triều đình của Nam Tề thế kỉ 6 - triều đại Trung Quốc nắm được tốt nhất thông tin về Đông Nam Á - đưa ra cái nhìn sâu sắc về tầm quan trọng của Giao Chỉ đối với Trung Quốc:[7]

 

Bọn man di phía Nam đã chiếm giữ nhiều đảo khác nhau để lập ra các vương quốc. Không nơi nào có nhiều kho báu trần thế hơn [những đảo này]. Những kho báu này được giấu trong núi và biển, nơi ngọc trai và châu báu tỏa sáng trong mắt người. Tàu bè phương xa đều tụ tập về Giao Châu, làm giàu cho Giao Châu và Quảng Châu, nơi kho báu chất đống trong các công thự châu phủ. [Chữ nghiêng được thêm vào]

 

Tuy nhiên, bất chấp sự giàu có nổi tiếng của Giao Chỉ, dường như không ai chắc chắn được cái cảng thịnh vượng này của Giao Châu nằm ở đâu,[8] trong khi vị trí của cảng Quảng Châu lại luôn luôn rõ ràng. Có vẻ khó tin rằng chúng ta không thể tìm thấy bằng chứng về một cảng đủ lớn để đóng vai trò là trung tâm hàng hải của đế quốc Trung Hoa trong thiên kỉ tồn tại đầu tiên của nó, dù bằng chứng lịch sử cho thấy nó rõ ràng đã tồn tại. Cảng bị mất dấu này có thể nằm ở đâu?

 

Cửa ngõ Lạch Trường ở Thanh Hoá

 

Để tìm ra cảng mất dấu này của Giao Chỉ, phải nhìn về phía nam đồng bằng sông Hồng đến tỉnh Thanh Hoá lân cận. Tầm quan trọng của nó đối với lịch sử Việt Nam là rất nhiều mặt, và việc nghiên cứu chứng minh rằng tầm quan trọng của nó đối với lịch sử quan đến biển của đất nước cũng không kém phần quan trọng, như các chương tiếp theo sẽ cho thấy. Ngoài bản đồ khu vực hữu ích kèm theo, tiểu luận của Keith Taylor năm 1998 về các yếu tố khu vực trong lịch sử Việt Nam còn cho thấy vai trò then chốt của Thanh Hoá trong tất cả các cuộc đấu tranh chính trị mang tính chuyển đổi của lịch sử Việt Nam thời cuối đế quốc và thời hiện đại. Như ông cho thấy, một số học giả tinh tế đã quy một cách chính xác động lực tương tác liên vùng của Thanh Hoá cho sự kết hợp của các đặc điểm văn hoá vùng, sự cạnh tranh liên vùng giữa những người Việt Nam miền xuôi, và có lẽ quan trọng nhất là những xung đột đang diễn ra của họ với các dân tộc không phải Việt Nam mà họ gặp phải hoặc bị đẩy về vùng nội địa phía Tây.[9] Việc thêm vào góc nhìn biển sẽ làm rõ hơn nguồn gốc, sức mạnh và tính xưa cũ của ảnh hưởng của Thanh Hoá bằng cách đặt khu vực này vào trong tầm nhìn rộng hơn của vịnh Bắc Bộ. Ví dụ, nhìn vào thời kì Giao Chỉ trong lịch sử Việt Nam, động lực đằng sau sự chinh phục và định cư của người Hán vào thế kỉ 2 BCE có thể khẳng định chắc chắn vai trò trung tâm của Thanh Hoá trong việc hình thành vương quốc Việt Nam độc lập đầu tiên vào thế kỉ 10 CE, rõ ràng nằm ngay ở khả năng phục vụ trung tâm hành chính Luy Lâu của Giao Chỉ cũng như giao thương đường biển (xem Bản đồ 1.1).

 

Tầm quan trọng của Thanh Hoá đối với giai đoạn Giao Chỉ trong lịch sử gắn với biển của Việt Nam nằm ở hai nơi: Đa Bút và Lạch Trường. Đầu tiên là Đa Bút, hiện nằm ở trong đất liền, cách bờ biển Việt Nam hiện nay khoảng 100 km, thuộc thị trấn Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc. Đây là nơi có nền văn hoá ven biển sớm nhất trong khu vực, có niên đại từ 4500 đến 3700 năm BCE.[10] Bản đồ 1.2 thể hiện đường bờ biển tồn tại ở đồng bằng sông Hồng và Thanh Hoá 4000 năm trước và hiện tại.

Bản đồ 1.2 (a và b) Đường bờ biển từ Vịnh Hạ Long đến Thanh Hoá, 4.000 năm trước và hiện tại

Nguồn: Đường bờ biển 4000 năm trước được phỏng theo Susumu Tanabe và cộng sự, 'Tiến hoá Holocene của hệ thống đồng bằng sông Hồng, miền Bắc Việt Nam', Sedimentary Geology 187 (2006), 53. Dòng chảy của sông trong bản đồ này là đương đại nhưng sẽ rất khác 4000 năm trước.

 

Như đã lưu ý trước đây, tất cả các địa điểm ở đồng bằng quan trọng đối với Giao Chỉ đều rất gần với biển hơn hiện nay.[11] Tại Đa Bút, sông Mã cổ – thay vì đi theo hướng nam ngày nay để chảy vào sông Chu đổ ra biển – từng chảy về phía bắc một chút và đổ ra biển ở một nơi gọi là Lạch Trường, hiện nay nằm cách cảng chính Cửa Hội ngày nay khoảng 10 km về phía bắc.[12] Chính tại đây, tàu buôn và tàu của triều đình Hán tìm cách vào Giao Chỉ đã cập bến.

 

Lạch Trường cung cấp một vị trí chiến lược mà từ đó người ta có thể tới lui trung tâm hành chính của Giao Chỉ tại Luy Lâu và đồng bằng sông Hồng nói chung. Điều này được thực hiện bằng cách trước tiên đi thuyền về phía tây đến cửa sông Đáy, nhánh cực nam của sông Hồng, nằm ở vị trí ngày nay thuộc tỉnh Ninh Bình. Bản đồ 1.3a thể hiện khoảng cách giữa cảng Lạch Trường và tuyến sông cổ nối Thanh Hoá với thủ phủ của Giao Chỉ. Con ‘đường trên’ (thượng đạo) này là con đường ngắn nhất đến trung tâm vùng đồng bằng. Ngược dòng sông Đáy, người ta có thể đi xa đến Chương Mĩ, ngay phía tây nam Hà Nội ngày nay.[13] Điều này được bản đồ thứ hai hậu thuẫn (Bản đồ 1.3b), cho thấy ba tuyến đường mà nhiều thế kỉ sau vào năm 1426, anh hùng kháng Minh Lê Lợi đã tiến hành tấn công quân xâm lược nhà Minh của Trung Quốc từ căn cứ của ông ở Thanh Hoá.[14]

Bản đồ 1.3 (a và b) Lạch Trường và ‘đường trên’ đi Thăng Long

 

Thoạt nhìn, vị trí của Lạch Trường dường như không có bất kì lợi thế gì đối với khu vực hành chính rộng lớn như Luy Lâu, trải dài từ Quảng Đông đến miền Trung Việt Nam. Một lần nữa, cái nhìn từ biển đặt Thanh Hoá và đồng bằng sông Hồng vào bối cảnh vịnh Bắc Bộ sẽ làm sáng tỏ sự nhầm lẫn này. Bản đồ 1.4 mô tả dòng chảy của vịnh Bắc Bộ cho thấy nước từ biển Đông chảy về phía tây qua eo biển Qiongzhou (Quỳnh Châu) giữa bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam để đến vịnh Bắc Bộ. Từ đó, dòng chảy thường di chuyển về phía tây, thỉnh thoảng có dạng gợn sóng về phía nam. Nhìn vào bản đồ này, có vẻ rõ ràng vì sao Hợp Phố (Hepu) và Từ Văn (Xuwen) lại phát triển thành các cảng trọng yếu cho nhà Hán. Hợp Phố (nằm ở 21°40' N và 109°12' E) và Từ Văn (20°19'30” N và 110°10'37” E) đều có vị trí lí tưởng cho việc đi về phía nam vào mùa đông. Bất kì ai cố đi thuyền từ miền Trung Trung Quốc tới biển Đông sẽ phải khởi hành từ các cảng chính Hợp Phố và Từ Văn và sau đó đi về phía tây trong khoảng từ 250 đến 270° để đến đầu phía tây của đồng bằng sông Hồng và Lạch Trường.[15] Khi Lạch Trường, Hợp Phố và Từ Văn được vẽ trên bản đồ vịnh Bắc Bộ, như được thể hiện trong Bản đồ 1.5, và so sánh với các dòng chảy được mô tả trong Bản đồ 1.4, rõ ràng Lạch Trường là điểm hội tụ thuận tiện nhất cho các tàu thuyền từ Hợp Phố và Từ Văn đi về phía tây. Lạch Trường chỉ cách Mán Bạc một đoạn ngắn, nơi cộng đồng di cư từ đồng bằng Dương Tử 3000 năm trước định cư, đã được thảo luận trước đó.

Bản đồ 1.4 Các dòng chảy mùa đông ở vịnh Bắc Bộ

Bản đồ 1.5 Vị trí của Hợp Phố, Từ Văn, Lạch Trường, và Mán Bạc

 

Nguồn: Nguyễn Minh Nguyệt,"Đặc điểm thủy triều của Vịnh Bắc Bộ', trang 12; xem thêm Chen Changlin và cộng sự, 'Nghiên cứu số liệu về thủy triều và dòng chảy dư ở eo biển Quỳnh Châu', Chinese Journal of Oceanology and Limnology 27, 4 (2009), 933.

 

Từ Văn đặc biệt đáng chú ý. Nếu như việc đi lại trên biển trong thời Hán thật sự bám theo bờ biển vịnh Bắc Bộ như các nhà sử học từ lâu giả định, thì Từ Văn sẽ trở thành một cảng tệ hại, vì vị trí của nó sẽ khiến nó trở nên dư thừa so với Hợp Phố, đặc biệt là do Hợp Phố nằm gần đồng bằng sông Hồng hơn khi đi thuyền dọc theo bờ biển. Chỉ khi đi thuyền xuyên qua vịnh Bắc Bộ thì Từ Văn mới có được vị trí cạnh tranh thuận lợi với Hợp Phố. Điều này giải thích cho câu tục ngữ nổi tiếng thời Hán: 'Muốn thoát nghèo phải đến Từ Văn.'[16]

 

Bằng chứng khảo cổ học khác cũng hậu thuẫn mối quan hệ giữa Lạch Trường, Hợp Phố và Từ Văn. Vào đầu những năm 1930, nhà khảo cổ học người Thụy Điển Olov Janse đã phát hiện ra một kho tàng hiện vật thời Hán vô cùng phong phú ở Lạch Trường. Điều này khiến ông kết luận rằng Lạch Trường đã từng là một cảng thời Hán.[17] Trong 80 năm đào bới tính từ cuộc khai quật của Janse, vẫn chưa có ai tìm ra bằng chứng về một cảng thời Hán ở đồng bằng sông Hồng có quy mô hay sự phong phú như Lạch Trường, ngay cả với sự trợ giúp ngày càng tăng của công nghệ không ngừng cải tiến và nguồn tài nguyên ngày càng mở rộng. Điều này gợi ra khả năng là không có cảng nào có tầm cỡ như Lạch Trường từng tồn tại ở đồng bằng sông Hồng vào thời nhà Hán. Nếu đúng thì Lạch Trường là cảng biển quan trọng đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.

 

Tuy nhiên, một số phát hiện khảo cổ học tiết lộ nhiều mối liên hệ biển đa dạng hơn. Cùng với nhau, chúng đặt ra một câu hỏi hóc búa quan trọng về việc làm thế nào mà một số loại trống đồng nhất định xuất hiện ở khu vực Đông Nam Á quần đảo mà không ở nơi nào khác. Ambra Calo tiết lộ rằng chỉ có 3 trống đồng trong một cụm cụ thể, Cụm 3, đã được tìm ra ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam, trong khi 20 trống tương tự trực tiếp đã xuất hiện ở miền Đông Indonesia. Trong số 3 trống được tìm thấy ở Việt Nam, một trống được phát hiện ở Hoà Bình, trong khi hai trống còn lại từ khu vực ven biển gần Hải Phòng và Nghĩa Đàn ở Nghệ An. Calo cho rằng những chiếc trống này đã di chuyển dọc theo tuyến đường biển trực tiếp trong thời kì đầu Hán-Việt từ thế kỉ 2 đến thế kỉ 6 CE. Quả thật, một trong những chiếc trống được phát hiện ở Maluku có các chữ tiếng Trung được đúc như một phần trang trí.[18] Điều này cho thấy rằng nhiều cửa ngõ và diễn viên khác đã giúp phát triển và duy trì thiên kỉ thương mại di chuyển dọc theo bờ biển phía tây vịnh Bắc Bộ, ngay cả khi những trống đồng tượng trưng cho một sự kiện ngắn ngủi chỉ diễn ra một lần, như Calo nghi ngờ.[19] Khác với những trống đồng được tìm thấy ở phía tây Đông Dương, nơi mà Lâm Ấp giữ vai trò trung gian chính (xem Chương 3) trong việc buôn bán chúng, những chiếc trống này dường như đã được những dân tộc hoàn toàn khác nhau đưa đến quần đảo đó.[20]

 

Bằng chứng về sự kết nối vào thời Hán giữa Thanh Hoá và Hợp Phố rất mạnh mẽ. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện những hiện vật ở Lạch Trường tương tự, thậm chí giống hệt những hiện vật khai quật được ở các cảng cổ như Hợp Phố. Ví dụ, những chiếc bình đồng giống hệt nhau từ thời Hán đã được phát hiện ở cả hai thành phố này (Hình 1.4), và một cặp chậu gốm lớn có khắc chữ 'Cửu Chân phủ' (‘phủ Cửu Chân, Thanh Hoá hiện nay) đã được khai quật trong một ngôi mộ người Hán ở Hợp Phố.[21]

Hình 1.4 Những chiếc bình đồng được tìm thấy ở Hợp Phố (a) và Thanh Hoá (b)

 

Nguồn: (a) Bảo tàng Lịch sử Hợp Phố, ảnh do tác giả chụp; (b) Olov RT Janse, Archaeological Research in Indo-China (Cambridge, MA: Nxb. Đại học Harvard, 1947-1958), tập. 3, tấm 6.

 

Dù vậy, việc tàu thuyền lớn từ các cảng lớn như Hợp Phố và Từ Văn tất yếu phải đi xuyên qua biển cũng không phủ nhận thực tế là hàng ngàn tàu thuyền ven biển nhỏ hơn của địa phương đang miệt mài hoạt động ở vùng biển ngoài khơi vịnh Bắc Bộ, tạo thành lực lượng chính góp phần vào thương mại và định cư, một chủ đề được thảo luận trong phần tiếp theo.

 

Lúa gạo và các kết nối ven biển phía Đông của đồng bằng sông Hồng

 

Dù là láng giềng gần gũi nhưng các kết nối giữa đồng bằng sông Hồng, bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam ít được biết đến. Thương mại ở khu vực này chủ yếu được thực hiện bởi những người buôn bán nhỏ hơn là các thương nhân quy mô lớn, và do đó hiếm khi được ghi lại. Trong thời tiền hiện đại, việc vận chuyển gạo không phải là một phần của thương mại quốc tế quy mô lớn vì chúng là một phần trọng yếu của giao thông ven biển lưu chuyển quanh rìa vịnh Bắc Bộ. Ví dụ, Hợp Phố phụ thuộc rất nhiều vào gạo xuất khẩu của người dân đồng bằng sông Hồng trong suốt lịch sử của nó; cho đến cuối thế kỉ 19, Karl Gutzlaff (1803-1851) cho biết rằng hàng năm có hơn 200 tàu thuyền khởi hành từ Hải Nam đến Việt Nam để mua gạo.[22] Tuy nhiên, như Roderich Ptak nói, các tuyến đường ven biển nối Hợp Phố với đồng bằng sông Hồng hoạt động giống như 'đường làng’, phục vụ vận chuyển trong khu vực và địa phương do những người buôn bán nhỏ thực hiện.[23]

 

Nghề trồng lúa xuất hiện ở đồng bằng sông Hồng vào khoảng năm 2000 BCE. Theo thời gian, nó đã trở thành một trong những thành phần then chốt của nền kinh tế chính trị Việt Nam giúp phân biệt các thể chính trị của Việt Nam với các láng giềng. Ở đây, địa lí rất quan trọng. Cho đến thế kỉ 14 đồng bằng sông Châu Giang vẫn còn là một vịnh với nhiều đảo rải rác và tới trước thế kỉ 17 vẫn chưa trở thành đồng bằng.[24] Phù sa bồi đắp nhanh của sông Hồng đã tạo thành nên phần đồng bằng từ biển cho đến vùng giữa đồng bằng sông Hồng hiện nay vào khoảng năm 2000 BCE.[25] Điều này có nghĩa là đồng bằng sông Hồng có khả năng duy trì sự tập trung dân số sớm hơn nhiều so với đồng bằng Châu Giang. Charles Higham đã chỉ ra rằng một số 'cộng đồng có thể thịnh vượng không thật đúng thời' trong những điều kiện nhất định, trong khi điểm riêng ra thì việc trồng lúa là một trong những điều kiện đó, vì việc thừa gạo có thể được sử dụng để thu hút và duy trì sự tuân phục chính trị của một khối lớn người đủ tập trung để tạo ra một thể chính trị (polity) có thể tồn tại và đứng vững.[26] Đây chính xác là những gì đã xảy ra ở đồng bằng sông Hồng hai thiên kỉ trước. Vào thế kỉ 2 BCE, số hộ gia đình ở Giao Chỉ nhiều gấp bốn lần so với số hộ ở Quảng Châu ở phía bắc;[27] trên thực tế, quy mô trung bình hộ gia đình ở Giao Chỉ lớn hơn hộ gia đình ở một số vùng phía bắc Trung Quốc cùng thời, chẳng hạn như ở các tỉnh Hà Nam, Hà Bắc, và Sơn Đông hiện nay.[28] Điều này càng đáng chú ý hơn khi xét tới việc diện tích đồng bằng này kém rộng hơn nhiều so với hiện nay và do đó tạo ra sản lượng thấp hơn do số đất canh tác được ít hơn.[29]

 

Với khả năng sản xuất của đồng bằng sông Hồng, lúa mà người dân trồng ở đây đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa vịnh Bắc Bộ nằm dưới sự cai trị của Trung Quốc, qua việc biến tiền đồn tương đối đông dân này của đế quốc Trung Quốc trở thành kho thóc cho vùng cực nam của đế quốc. Quả thật, vùng đồng bằng này đã sản xuất đủ gạo để cung cấp cho các khu vực lân cận cả phía bắc lẫn phía nam. Ở phía bắc, nhiều tác giả lưu ý, các trung tâm thương mại quan trọng của người Hán như Hợp Phố 'không sản xuất gạo mà chỉ sản xuất ngọc trai'; tuy nhiên, nhờ vị trí của cảng này nằm 'cạnh Giao Chỉ, [nó] thường đổi [ngọc trai] lấy gạo'. Điều này cũng giải thích tại sao các ghi chép cổ xưa của Trung Quốc từ thế kỉ 1 CE nêu ngọc trai là một trong những sản phẩm chính của Giao Chỉ.[30] Việc phụ thuộc lẫn nhau giữa Giao Chỉ và Hợp Phố đã trở nên quá rõ ràng trong các tường thuật giữa thế kỉ 2 CE cho rằng các quan địa phương đã trở nên quá tham lam và bắt đầu đặt ra những yêu cầu quá mức về buôn bán, khiến người dân địa phương phải trả giá đắt: 'do đó thương lái ngừng đến buôn bán, và người dân mất sinh kế, nên [kết quả là] người nghèo chết đói trên đường'.[31]

 

Không phải tất cả các khu định cư của người Hán xung quanh vịnh Bắc Bộ đều tham gia trồng lúa. Trong khi nhiều người dân ven biển phía bắc ở những nơi như Hợp Phố tìm kiếm những thứ thay thế cho việc mò ngọc trai thì nhiều người khác vẫn tiếp tục thu lợi từ nó. Tương tự, thần dân Hán ở Cửu Chân, một quận ven biển của Giao Chỉ, vùng Thanh Hoá ngày nay, nơi có Lạch Trường, kiếm sống chủ yếu bằng săn bắn. 'Cửu Chân', một nguồn tài liệu cho biết, 'sống bằng nghề săn bắn và không hiểu việc cày bừa bằng trâu kéo.' Kết quả là, 'người dân quận này thường xuyên phải mua gạo từ Giao Chỉ và thường thiếu gạo'.[32] Khảo cổ tại các di chỉ Cửu Chân ở Thanh Hoá dường như xác nhận rằng việc trồng lúa ở vùng này phát triển muộn hơn nhiều so với ở đồng bằng sông Hồng.[33] Điều này là tự nhiên. Như Anthony Reid đã chỉ ra, xã hội những người làm nông và những người săn bắt hái lượm đã cùng tồn tại, tương tác và trao đổi trên khắp Đông Nam Á trong ít nhất 5000 năm.[34] Thực tế, cả giao thông đường sông và ven biển đều đóng vai trò trọng yếu trong việc duy trì sự gắn kết giữa các xã hội có đặc trưng kinh tế và sinh thái khác nhau.[35]

 

Các nối kết của đồng bằng sông Hồng với bán đảo Lôi Châu, nơi có Từ Văn, cũng rất mạnh mẽ nếu chúng ta nhìn vào sinh hoạt tôn giáo địa phương mà cả hai khu vực đều chia sẻ. Trong số tất cả các vùng bờ biển của Quảng Đông, trống đồng được tìm thấy nhiều nhất ở bán đảo Lôi Châu.[36] Cùng với những trống đồng tìm được ở Quảng Tây và trên đảo Hải Nam, điều này làm cho Bán đảo Lôi Châu nổi bật vì mối liên kết rõ ràng với Việt Nam. Có hai tục thờ cúng địa phương riêng biệt về thần sấm và chó đá dường như song song và có liên quan với nhau: nhiều chó đá được Bảo tàng Lôi Châu sưu tập có khắc hình mây và sấm trên đó; cả hai đều được coi là thần phù hộ của người dân địa phương và cả hai đều liên quan đến các lễ cầu mưa.[37] Sấm cũng được tin là có sức mạnh trừ bão.[38] Việc thờ cúng Thần Sấm cũng có thể được tìm thấy ở một số người dân ở các làng miền Bắc và miền Trung Việt Nam dưới hình thức thành hoàng (thần địa phương). Vị trí của những ngôi làng này rất thú vị: chúng nằm gần bờ biển bên ngoài vùng đồng bằng phù sa được tạo ra trong suốt 500 năm qua, chẳng hạn như ở Thái Bình (Bản đồ 1.6).[39] 

Bản đồ 1.6 Các huyện thờ thần Sấm ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam

Các tuyến đường sông khác của đồng bằng sông Hồng đi từ biển

 

Ngoài Lạch Trường, các tuyến đường biển nước sâu và ven biển của vịnh Bắc Bộ nối với đồng bằng sông Hồng bằng hai ngã. Tuyến ven biển đi vào bằng sông Bạch Đằng ở phía Bắc. Giống như tuyến phía bắc, tuyến đường phía nam dọc theo sông Đáy chạy dọc theo một dải núi đá vôi chắc phải nằm cao hơn tuyến giao thông cổ xưa rất nhiều khi chạy xuôi dòng và ngược dòng. Trước thế kỉ 10, tàu thuyền lớn hẳn đã ghé vào bờ ở đây, sau đó chuyển hàng hoá sang các thuyền trên sông đi ngược dòng từ cả phía bắc và phía nam để thực hiện việc đột nhập đầu tiên vào đồng bằng sông Hồng và trung tâm Giao Chỉ, trong khi nhiều chuyến đi của người Hán về phía nam đã bắt đầu tiến ra biển. Tuyến đường phía bắc qua sông Bạch Đằng cũng cổ xưa không kém. Tại cửa sông, khách đi thuyền lên bờ trước khi tiếp tục ngược dòng sông Đuống để đến thung lũng sông Hồng.

Bản đồ 1.7 Phân bố các di chỉ thời Đá mới (Neolithic) ở đồng bằng sông Hồng và vùng lân cận

 

Nguồn: Nishimura Masanari, 'Settlement Patterns on the Red River Plain’ [Các mô hình định cư ở đồng bằng sông Hồng], tr. 104.

Bản đồ 1.7 cho thấy các di chỉ khảo cổ chính đầu tiên được thảo luận trước đây nằm dọc theo hai tuyến đường phía Bắc và phía Nam, tức là tuyến sông Bạch Đằng và tuyến sông Đáy.[40]

 

Khi hai tuyến đường này được nghiên cứu cạnh nhau, một sự kiện nổi bật xuất hiện: Cả hai đều là những tuyến đường chính nối đồng bằng sông Hồng với vịnh Bắc Bộ và thế giới hàng hải rộng lớn hơn. Tuy nhiên, vào thế kỉ 15, môi trường thay đổi từng đã tạo ra sự ưu việt trước đó đã làm giảm đi sự ưu việt đó. Vào lúc đó, đồng bằng này mở rộng ra đã khiến cả hai tuyến đường xưa không dùng được nữa, bị cát phủ lên và bị đẩy cách xa biển hơn. Như bản đồ này cho thấy rõ, phải xem xét đường bờ biển đang dịch chuyển của đồng bằng sông Hồng khi cố tìm hiểu địa lí về giao thông biển của nó.

 

Đường sông từ Vân Nam

 

Một yếu tố cuối cùng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội đồng bằng sông Hồng mà phần lớn văn hoá Việt Nam thời kì đầu phát triển từ đó. Đó chính là sông Hồng tự nó và mối liên kết mạnh mẽ của nó với vùng đất Vân Nam ở Trung Quốc, và xuyên qua các đèo, với Tứ Xuyên và sông Dương Tử.

 

Đại Việt sử kỉ Toàn Thư, biên soạn vào thế kỉ 15, kể về sự tích vua Hùng, ông tổ của nước Văn Lang ở vùng đồng bằng và cô con gái xinh đẹp Mị Nương. Vua nước Thục (Tứ Xuyên ngày nay) nghe nói đến sắc đẹp của công chúa liền muốn cưới nàng. Các tướng của vua Hùng đều phản đối lời cầu hôn. Đáp lại, nhà vua gả nàng cho Sơn Tinh, Thần núi. 'Sự từ chối này đã khiến vua Thục hết sức tức giận nên đã dặn con cháu phải đánh đổ nước Văn Lang khi nào có thể’.'[41]

 

Vào năm 257 BCE, cháu trai của nhà vua, Shu Pan [Thục Phán], đã thực hiện tốt lời dặn đó với việc đánh bại vua Hùng, lập ra nước Âu Lạc và xưng hiệu vua An Dương và lập kinh đô ở Cổ Loa, đánh dấu sự chuyển dịch dứt khoát trọng tâm chính trị từ vùng núi sang vùng đồng bằng châu thổ, và theo Philippe Papin, biểu thị cả về mặt sử thi và địa mạo về sự thất bại của sức mạnh miền núi trước sức mạnh miền sông nước của đồng bằng.[42] Cuộc di cư về phía nam của hoàng tử Thục từ Tứ Xuyên đã được xác nhận vào thế kỉ 4 bởi một nguồn tài liệu của Trung Quốc, có tựa đề Hoa Dương quốc chí (Huayangguo zhi), cuốn sử xưa nhất và toàn diện nhất của vùng tây nam Trung Quốc. Cuộc di cư này có thể là do các biến cố ở Trung Quốc ép buộc, vì cuốn sách khẳng định nước Tần đã tiêu diệt nước Thục vào năm 316 BCE, sau đó một hoảng tử Thục đã đưa đồng bào của mình từ Thành Đô về phía nam và định cư ở đâu đó giữa quận Xi chang (Tây Xương) ở Tứ Xuyên và quận Yao An (Diệu An) ở Vân Nam ngày nay, không xa nơi bắt nguồn của sông Hồng.[43]

 

Sông Hồng không phải là phương thức đi lại duy nhất của hoàng tử Thục. Hai con đường cổ kéo dài từ Tứ Xuyên, xuyên qua Vân Nam, dẫn vào đồng bằng sông Hồng, đã có từ trước thời nhà Tần. Một con đường phía đông tạo thành một lộ chính rộng 1,5 mét mà người dân gọi là 'Đường Ngũ Chỉ' (Wuchidao: Ngũ chỉ đạo), và một con đường phía tây được gọi là 'Đường Bò Yak' (Maoniudao: Mao Ngưu đạo), xem Bản đồ 1.8). Con đường phía đông dẫn đến Miến Điện, trong khi con đường phía tây đi qua Vân Nam đến Miến Điện trước khi rẽ về phía tây tới Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan và cuối cùng là Trung và Tây Á.[44] Hai con đường này nằm trong những tuyến đường giao thông dài nhất và lâu đời nhất ở Á–Âu và là hiện thân của mạng lưới giao thông của siêu lục địa Á–Âu.[45] Một nhánh của đường Ngũ Chỉ ở phía đông dẫn từ Côn Minh đến đồng bằng sông Hồng, mà người ta gọi là lộ (hoặc dao: đạo / way) Ngũ Chỉ . Ai đã xây dựng lộ Ngũ Chỉ này? Các học giả nghiên cứu về Tứ Xuyên đã khẳng định rằng nước Thục đã xây dựng nó làm con đường chính thức của họ, gọi nó là ngũ chỉ để biểu thị số 5 (wu: ngũ ) là con số chính của vương quốc.[46] Trong mọi trường hợp, hoàng tử Thục và binh lính của ông ta có thể dễ dàng dùng con đường do chính tổ tiên ông đã xây để đi đến Cổ Loa.

Bản đồ 1.8 Đường Ngũ Chỉ và đường Bò Yak (Wuchidao, Maoniudao)

 

Tuyến đường này được làm sống lại nhờ một phát hiện quan trọng của các nhà khảo cổ Việt Nam vào năm 1980, khi một loại lưỡi [dao] ngọc bích dùng trong nghi lễ, gọi là yazhang [牙璋: nha chương], được khai quật tại hai di chỉ thuộc tỉnh Phú Thọ ở vùng thượng nguồn. Phùng Nguyên nằm cạnh sông Hồng và Xóm Rền nằm cạnh sông Lô, hai tuyến đường thủy quan trọng nhất của vùng đồng bằng sông Hồng. Chúng tương tự như những thứ được tìm thấy ở di chỉ Erlitou [二里头: Nhị Lí Đầu] ở miền bắc Trung Quốc về cả hình dạng và chất liệu. Nhiều nha chương hơn được tìm thấy 20 năm sau, vào đầu những năm 2000. Chỉ riêng ở khu vực Xóm Rền, cho đến nay đã có 7 nha chương đã được khai quật. Số lượng và mật độ của các đồ vật nghi lễ được xác định ở đây chỉ đứng thứ hai sau những đồ vật được tìm thấy ở Sanxingdui [三星堆: Tam Tinh Đôi], thành phố lớn có tường bao quanh của nền văn minh Thục ở Tứ Xuyên (thế kỉ 12 đến thế kỉ 11 BCE). Hơn nữa, hai lưỡi ngọc bích giống hệt với một số lưỡi được khai quật ở Tam Tinh Đôi.[47]

 

Bằng cách nào những nha chương này tìm được đường đến đồng bằng sông Hồng? Bằng đường biển hay đường bộ? Có lẽ sức thu hút của tuyến đường biển, bởi vì nha chương cũng đã được tìm thấy ở những nơi xa xôi như Hồng Kông ở đồng bằng sông Châu Giang.[48] Tuy nhiên, một đường thẳng đứng mờ trên vật thể giúp phân biệt một số lưỡi dao này với những lưỡi dao khác. Nha chương có đường thẳng đứng chỉ được tìm thấy tại các di chỉ ở phía tây Trung Quốc, trong khi dường như vắng mặt một cách đáng chú ý trong tất cả các khám phá từ các di chỉ ở phía đông và ven biển phía nam Trung Quốc.[49] Khi đó, có vẻ như các lưỡi dao được tìm thấy ở thượng lưu thung lũng sông Hồng đã từ Tứ Xuyên đến bằng đường bộ.

 

Do đó, đồng bằng sông Hồng là con rồng hai đầu, đầu nhìn về phía Tây Bắc dọc theo các tuyến đường sông và đường bộ đến Vân Nam, Tứ Xuyên và xa hơn nữa, và đầu  nhìn về phía Đông đến bờ biển, vịnh Bắc Bộ và biển Đông. Tuy nhiên, dù bị núi cao bao quanh, sông Hồng và sông Lô vẫn cung cấp những con đường ngắn nhất bằng đường sông hoặc đường bộ để người dân ở các vùng tây nam Trung Quốc có thể ra biển. Nhìn theo hướng khác, vịnh Bắc Bộ khi đó nối Giao Chỉ với đế quốc Hán ở phía bắc và biển Đông béo bở ở phía nam. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà đồng bằng này đóng vai trò trung tâm trong lịch sử của miền nam Trung Quốc và khu vực Đông Nam Á đất liền trong những năm hình thành nền văn minh Hán.

 

Tại vị trí thuận lợi này và điểm giao nhau lịch sử của thiên kỉ thứ nhất CE, Giao Chỉ đóng một vai trò văn hoá quan trọng trong việc liên kết khu vực ngày nay là tây nam Trung Quốc, khi đó chưa thuộc Trung Quốc, với Lĩnh Nam. Tượng đèn đồng của Lạch Trường ("người quỳ", Hình 1.5), dù có vẻ độc đáo và lạ kì đến đâu đối với các nhà khảo cổ ở phương xa, cũng được tìm thấy mô phỏng trong lăng mộ Đông Hán Heimajing (黑馬井: Hắc Mã Tỉnh) tại Gejiu (个旧: Cá Cựu), Vân Nam.[50] (Hình 1.6). Ảnh hưởng của trống Đông Tống có thể quan sát thấy được trên những chiếc chậu đồng được tìm thấy trong lăng mộ Luobowan [羅泊灣: La Bạc Loan] ở Guixian [貴縣: Quý huyện], Quảng Tây và lăng mộ của vua Nam Việt ở Phiên Ngung, Quảng Châu.[51]

Hình 1.5 “Người quỳ” ở Lạch Trường, Thanh Hoá

Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/Dong_Son_culture . Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2019.

Hình 1.6 'Người đàn ông kiểu Hồ' ở Cá Cựu, Vân Nam

https://zh.wikipedia.org/wiki/三枝俑灯. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2010.

 

Những gì chúng ta thấy ở đây là Giao Chỉ nằm trong đế quốc Hán nhưng thuộc về một thế giới rộng lớn hơn bao gồm cả truyền thống Hán lẫn phi Hán nhờ vào mối liên hệ lớn hơn với hai vùng đất lớn hơn của đế quốc Hán, phía tây nam và đông nam, cùng thế giới biển Đông và Đông Nam Á. Điều này đã giúp nó phục vụ đế chế như một trung gian giữa các khu vực đế quốc cũng như với thế giới bên ngoài. Điều này sẽ có những hậu quả sâu sắc đối với lịch sử Việt Nam, chưa kể đến nước láng giềng phương Bắc. Qua biển, không chỉ những hàng hoá lạ mà cả những ý tưởng và tập quán lạ cũng tìm được đường vào đồng bằng sông Hồng, góp phần vào sự pha trộn vốn đã trở thành văn hoá Việt Nam, như Chương 2 sẽ tiết lộ.

 

Kết luận

 

Giao Chỉ tạo thành trung tâm của ba tuyến đường chính được cấu trúc quanh vận chuyển đường thủy và đường bộ. Đầu tiên, việc tiếp cận thượng nguồn sông Hồng bằng thuyền và con đường Thục xưa đã cho phép triều đình nhà Hán hợp nhất châu quận phía nam này của mình với các tuyến phía tây của đế quốc Hán qua Vân Nam và Tứ Xuyên. Thứ hai, thông qua con đường dẫn về phía nam qua kênh Linh đến vịnh Bắc Bộ mà các tuyến đường ven biển và ngoài biển nối liền trung tâm hành chính của thành Luy Lâu với các cảng biển phía đông và các trung tâm dân cư của Hợp Phố, Từ Văn và Phiên Ngung trên biển Đông, qua cảng chính Lạch Trường. Ngoài ra, một chuỗi cảng được thiết lập dọc theo bờ biển phía nam đồng bằng sông Hồng đã nối Giao Chỉ với các cảng ở biển phía Nam và phía Tây, tạo điều kiện cho sự thịnh vượng thương mại hết sức to lớn nhưng cũng tạo điều kiện cho sự trỗi dậy của đối thủ chính trị và thương mại lớn nhất của quận này, hai nước Lâm Ấp và Champa – những điều này sẽ được nói thêm ở các chương tiếp theo. Nhờ có biển, Giao Chỉ đã tạo thành một điểm nút chiến lược tích hợp một mạng lưới vươn xa tới tận Tứ Xuyên, miền Trung Trung Quốc, bờ biển phía Đông Trung Quốc và biển Đông. Nhìn về phía bắc, cấu trúc này đã hợp nhất vịnh Bắc Bộ một cách vững chắc vào đế chế của nhà Hán, đặt nền móng cho một thiên kỉ cai trị của Trung Quốc ở đồng bằng sông Hồng. Nhìn về phía nam, nó đảm bảo cho Trung Quốc tiếp cận được nguồn tài nguyên phong phú của Đông Nam Á và Ấn Độ Dương. Khu vực sau chứng kiến sự tăng trưởng nhanh chóng trong thương mại biển, như minh họa ở Chương 2.

[1] Xem Xu Jian 徐堅 et al., Sơ học kí 初學記, 3 tập. (Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 1962), tập. 1:115.

[2] ‘Thiên uy kính tân tạc hải phái bi‘ 天威徑新鑿海派碑 [Bia kỉ niệm con đường mới mở của uy trời], trong Phan Văn Các và Claudine Salmon (eds), Épigraphie en chinois du Viêt Nam/ Văn khắc Hán Nôm Việt Nam (Paris: École française d'Extrême- Orient; Hà Nội: Viện nghiên cứu Hán Nôm, 1998), tr. 33-40.

[3] Gần đây đã có những cuộc tranh luận về địa điểm và cách loại bỏ những khối đá khổng lồ và liệu Cao Biền có tạo được một kênh biển trên đường đến Giao Chỉ để có một chuyến đi an toàn và ngắn hơn hay không. Xem Franciscus Verellen, 'La réalisation du Chenal de la puissance céleste sous la Chine des Tang: Sources épigraphiques et archéologiques', Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient 105 (2019), 229-253. Một số nhà khoa học Trung Quốc chỉ ra rằng việc xây dựng một kênh biển vào thời điểm đó là không thể và không kinh tế. He Fanneng 何凡能 et al., ‘Đàm Bồng vận hà đích sơ tạc cập địa lí vị trí khảo tích' 潭蓬運河的疏鑿及地理位置考析' [Khai quật và vị trí địa lí của 'Kênh Đàm Bồng], Địa lí khoa học tiến triển 地理科学进展] 38, 11 (2019), 1684- 1691. Tuy nhiên, Verellen lập luận một cách thuyết phục rằng Cao Biền đã sử dụng thuốc súng để loại bỏ những khối đá lớn. Tôi rất biết ơn John Whitmore vì đã lưu ý đến vấn đề này cho tôi.

[4] Xem Chu Khứ Phi, Lĩnh ngoại đại đáp (Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 1999), tr. 33.

[5] Hán Thư, chương 28, 6:1671.

[6] Wang Gungwu, Nanhai maoyi yu Nanyang huaren [Nam Hải mậu dịch và Nam Dương Hoa nhân], bản dịch. Yao Nan (Hồng Kông: Zhonghua shuju, 1988), tr. 46 (bản dịch của 'Thương mại Nam Hải: Nghiên cứu về lịch sử ban đầu của thương mại Trung Quốc ở Biển Đông', Journal of the Malayan Branch of the Royal Asiatic Society 31, phần 2 [1958]).

[7] Nguyên văn tiếng Trung viết: '南夷雜種,分嶼建國,四方珍怪,莫此 為先,藏山隱海,珠寶溢目。商舶遠 屆, 委輸交州, 故交廣富實, 積王府. ' ‘Nam di truyện 蠻夷傳' trong [梁 / Lương] Tiêu Tử HIển 萧子显 Nam Tề thư 南齊書 (Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 2013), chương 58, 3:1018.

[8] Ví dụ, xem các ý kiến khác nhau về vị trí của cảng được Henri Maspero mô tả trong bài viết của ông, 'Le Protectorat général d'Annam sous les T'ang', được trích dẫn và dịch trong Feng Chengjun, Xiyunanhai shidikaozheng yicongsibian [Bản dịch được sưu tầm thứ tự các bài viết về lịch sử và địa lí của Tây Vực và Nam Hải] (Thượng Hải: Shang-wushudian, 1940), tr. 73-80; và Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời , (Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội, 1964), tr. 72-74.

[9] Keith W. Taylor, 'Surface Orientations in Vietnam: Beyond Histories of Nation and Region' [Định hướng bề mặt ở Việt Nam: Ngoài lịch sử quốc gia và khu vực], Journal of Asian Studies‘ 57,5 (1998), 954-971; Nola Cooke, 'The Composition of the Nineteenth- Century Political Elite of Pre-colonial Nguyen Vietnam', [Thành phần tinh hoa chính trị thế kỉ 19 của Nguyễn Việt Nam thời tiền thuộc địa], Modern Asian Studies 29, 4 (1995), 741-764.

[10] Higham, The Bronze Age of Southeast Asia [Thời đại đồ đồng ở Đông Nam Á], tr. 82.

[11] Susumu Tanabe và cộng sự, 'Song Hong (Red River) Delta Evolution Related to Millennium- Scale Holocene Sea-Level Changes' [Sự tiến hoá đồng bằng sông Hồng liên quan đến sự thay đổi mực nước biển Holocene quy mô thiên niên kỉ], Quaternary Science Review 22, số 21-22 (2003), 2357 (https://doi.org/10.1016/SO277-3791(03)00138-0, truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2019).

[12] Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, p. 43.

[13] Lê Quý Đôn, 'Phong vuc', trong Kiến văn tiểu lục (bản dịch và tái bản TP.HCM: Nxb Trẻ-Nxb Hồng Bàng, 2013), tr. 69. Lê Quý Đôn viết: ‘Đất thôn Tốt Động, huyện Mĩ Lương bằng phẳng, dân cư đông đúc… có đường lớn rộng 2 trượng (6,66 mét) và đây là đường đi Thanh Hoá của các triều đại trước đây. Người ta nói rằng tuyến đường này rất ngắn và gần [với Thanh Hoá]. Nhưng đường núi bây giờ tắc nghẽn và không còn nữa.' Tốt Động là nơi quân Lê Lợi đánh tan quân Minh xâm lược năm 1426.

[14] Nguồn: Wikipedia 'Tot Dong' tiếng Việt (https://vi.wikipedia.org/wiki/ Trận Tốt Động – Chúc Động, truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2019).

[15] 'Một kĩ thuật đi biển cơ bản của các thủy thủ xưa là đi thuyền về phía đông hoặc phía tây dọc theo một vĩ độ cố định.' John Miksic, Singapore and the Silk Road of the Sea , 1300-1800 [Singapore và Con đường tơ lụa trên biển, 1300-1800] ( Singapore: NUS Press, 2017), tr. 58.

[16] Tiếng Trung là: '欲拔贫, 诣徐闻.’ [dục bạt bần, nghệ Từ Văn]

[17] Charles Higham, Early Mainland Southeast Asia: From First Humans to Angkor [Đông Nam Á đất liền sơ khai: Từ loài người đầu tiên đến Angkor] (Bangkok: River Books, 2014), tr. 332.

[18] Ambra Calo, Trails of Bronze Drums across Early Southeast Asia: Exchange Routes and Connected Cultural Spheres [Dấu vết trống đồng xuyên Đông Nam Á thời kì đầu: Những lộ trình trao đổi và các lĩnh vực văn hoá được kết nối] (Singapore: Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, 2014), tr. 16, xem Hình 1.24 để biết vị trí tìm thấy những chiếc trống này.

[19] Calo, Trails of Bronze Drums [Dấu vết trống đồng], tr. 16.

[20] Một trống đồng kiểu Đông Sơn cũng được tìm thấy ở Chaiya, miền nam Thái Lan. Một số trống loại này đã được tìm thấy ở bán đảo Malay, cho thấy khu vực này đã được tích hợp vào một mạng lưới thương mại và giao thông hơn 2000 năm trước. Miksic, Singapore and the Silk Road of the Sea [Singapore và Con đường tơ lụa trên biển], tr. 26.

[21] Dương Thức Đỉnh 楊式挺, 'Lược luận Hợp Phố Hán mộ cập kì xuất thổ văn vật đích đặc’ 略論合浦漢墓及其出土文 物的特點' [Về đặc điểm của các ngôi mộ thời Hán và các hiện vật khai quật được từ Hợp Phố] (www.so-hu.com/a/446818658_556515 , truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2021).

[22] Karl Gutzlaff, ‘'Geography of the Cochin-Chinese ‘ [Địa lí Đế quốc Nam Kì], Journal of the Royal Geographical Society 19 (1849), 126.

[23] Roderich Ptak, 'Some Glosses on the Sea Straits of Asia: Geography, Functions, Typology', [Một số đánh giá về các eo biển châu Á: Địa lí, chức năng, kiểu hình, Crossroads: Studies on the History of Exchange Relations in the East Asian World 1/2 (2010), 93.

[24] Robert B. Marks, Tigers, Rice, Silk & Silt: Environment and Economic in Later Imperial South China (Nxb Đại học Cambridge, 1998), p. 66 (xem bản đồ về những thay đổi của châu thổ Châu Giang ở trang 67).

[25] Funabiki, A. et al., 'Holocene Delta Plain Development in the Song Hong (Red River) Delta, Vietnam', [Phát triển đồng bằng châu thổ Holocene ở đồng bằng sông Hồng, Việt Nam', Journal of Asian Earth Sciences 30 (2007), 518-529; Tanabe, Hori và cộng sự, 'Delta Initiation and Holocene Sea-Level Change: Example from the Song Hong (Red River) Delta, Vietnam‘ [Sự hình thành đồng bằng và thay đổi mực nước biển Holocene: Ví dụ từ đồng bằng sông Hồng), Việt Nam', Sedimentary Geology 164 (2004), 237-249.

[26] Charles Higham, The Early Cultures of Mainland Southeast Asia [Những nền văn hoá sơ khai của Đông Nam Á lục địa] (Bangkok: River Books, 2002), tr. 224.

[27] Ban Cố 班固, Hán thư 漢書 (hoàn thành năm 82 CN) (Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 2013), chương 28B, 6: 1629-1630.

[28] Ge Jianxiong, Tây Hán lịch sử địa lí (Bắc Kinh: Renmin Chubanshe, 1986), trang 46, 53.

[29] Higham, Bronze Age of Southeast Asia [Thời đại đồ đồng của Đông Nam Á], tr. 73.

[30] Hán thư 28, tập. 6: 1671.

[31] Hậu Hán thư (Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 2012), chương 76, 9:2473.

[32] Hậu Hán thư 76, 9: 2462.

[33] Không có di chỉ được khai quật sớm nhất nào ở Đa Bút và Cồn Cổ Ngựa (làng Hà Linh, Hà Trung, niên đại 3500 BCE), đều ở Thanh Hoá, mang lại bằng chứng về trồng lúa.

[34] Anthony Reid, A History of Southeast Asia [Lịch sử Đông Nam Á] (West Sussex: Wiley Blackwell, 2015), tr. 5. Charles Higham lưu ý: 'Như đã được biết đến từ các địa điểm Jomon của Nhật Bản, đồ gốm, công cụ bằng đá đánh bóng và nghĩa trang có thể phát triển tốt ở những môi trường sống ven biển trù phú mà không cần đến sự hiện diện của nông nghiệp.' Bronze Age of Southeast Asia, tr. 83.

[35] Charles Wheeler, ‘‘Re-Thinking the Sea in Vietnamese History: Littoral Society in the Integration of Thuận-Quảng, Seventeenth- Eighteenth Centuries' [Suy nghĩ lại về Biển trong Lịch sử Việt Nam: Xã hội Duyên hải trong sự hội nhập của Thuận-Quảng, Thế kỉ XVII-XVIII], Journal of Southeast Asian Studies 37, 1 (2006), 123-153.

[36] Quảng Đông địa phương chí 廣東地方誌, 4 (2009), 54.

[37] Lưu Lam 劉嵐 và Lí Hùng Phi 李雄飛 'Lôi Châu thạch cẩu sùng bái biến thiên dữ dân tộc cách cục chi quan hệ’ [雷州石狗崇拜變遷與民族格局之關係: Những thay đổi trong việc thờ chó đá ở Lôi Châu và mối liên hệ của nó với cấu trúc dân tộc], Tạp chí khoa học xã hội Quảng Tây, 8 (2008) , 146.

[38] Lưu Tuân 劉恂, Lĩnh biểu lục dị [嶺表錄異 : Ghi chép kì lạ phía ngoài núi], chương 1.

[39] Li Tana, ‘Epidemics, Trade and Local Worship in Vietnam, Leizhou Peninsula, and Hainan Island' [Dịch bệnh, Thương mại và thờ cúng địa phương ở Việt Nam, bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam', trong Victor Mair và Liam Kelley (eds), Imperial China and Its Southern Neighbors (Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 2015), trang 194-213.

[40] Nishimura Masanari, 'Settlement Patterns on the Red River Plain' [Các kiểu hình định cư trên đồng bằng sông Hồng‘, tr. 104.

[41] Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký Toàn thư, ed. Trần Kinh Hà, 3 tập. (Tokyo: Tokyo Daigaku Toyobunka kenkyujo, 1986), trang 99-100.

[42] Hai chữ Thục Phán viết là 蜀泮; Philppe Papin, 'Géographie et politique dans le Viêt-Nam ancient', 613; Về các kết nối Giao Chỉ Vân Nam, xem thêm Nam C. Kim, The Origins of Ancient Vietnam, p. 119.

 

 

[43] Thục chí ('蜀志') trong Hoa Dương Quốc Chí 華阳國志 ghi: '蠶叢國破,子孫居姚嶲等處' [Khi nước Tàm Tùng bị phá hủy, các hoàng tử và công chúa chuyển đến những nơi như Yao [Diêu] và Jun [Tây] (ở Lương Sơn của Tứ Xuyên và Diêu An của Vân Nam ngày nay)]. (https://zh.m.wikisource.org/zh-hant/華阳國志, truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2013).

[44] Yang Bin, Chương 1,Between Winds and Clouds: The Making of Yunnan: Second Century BCE to Twentieth Century CE [Giữa gió và mây: Sự hình thành Vân Nam: Thế kỉ 2 BCE đến thế kỉ 20 CE (New York: Nxb Đại học Columbia, 2009) (www.gutenberg-e.org/yang/chap1.html, truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2019).

[45] Duan Yu, Liu Hong, 'Lun sanxingdui yu nanfang sichouzhilu qingtong wenhua de guanxi' [Về mối quan hệ giữa các nền văn hoá đồ đồng của Tam Tinh Đôi và Con đường tơ lụa phía Nam] (https://yuedu.163.com/book_reader/5b18f98f72f048e8ac7aa1e-bae5437f8_4, truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2016).

[46] Duan Yu, 'Wuchidao kaitong shidaikao' [Về thời kì mở đường Ngũ chỉ], trong Bashu wenhua yanjiu jikan [Tuyển tập các nghiên cứu về văn hoá Tứ Xuyên], no. 7 (2011) (https://yuedu.163.com/book_read-er/5b18f98f72f048e8ac7aa1e-bae5437f8_4, truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2016).

 

[47] Đề cập đến những lưỡi ngọc yazhang, Charles Higham nhận xét, 'Đầu tiên trong số những ngọc bích này là một mảnh gãy từ một lưỡi ngọc yazhang gợi nhớ đến những lưỡi ngọc từ Tam Tinh Đôi'; xem Origins of the Civilization of Angkor: Excavation of Ban Non Wat, pt. 2, vol. 3, The Neolithic Occupation [Nguồn gốc của nền văn minh Angkor: Cuộc khai quật Ban Non Wat, pt. 2, tập. 3, việc đến cư trú thời kì đồ đá mới] (Havertown, Mỹ: Cục Mĩ thuật Thái Lan, 2011), tr. 204.

[48] Deng Cong 鄧聰, 'Zhong-Yue yazhang shuxiangwen bianshi' [Nghiên cứu về các đường thẳng trên nha chương Trung-Việt], trong Mingjia lunyü [Nhận xét của chuyên gia về ngọc bích], ngày 23 tháng 1 năm 2014 (www.ddhty.com/show-1918-5839-1.html, truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2017).

[49] Deng Cong 鄧聰, 'Zhong-Yue yazhang shuxiangwen‘.

[50] Wei Weiyan 韋偉燕,‘The Archaeological Research on the Han Style Tombs in Vietnam' 越南境內漢墓的考古學研究, PhD dissertation, Jilin University (2017), p. 242.

[51] Xem ảnh trong Li Linna (ed.), Nanyue cangzhen [Kho báu trong lăng mộ vua Nam Việt] (Bắc Kinh: Zhonghua shuju, 2002), tr. 140.