Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 28 tháng 8, 2025

Internet vào Việt Nam: Cần một cách nhìn trung thực về lịch sử

 Hiệu Minh

Fact and Findings: GS Phan Đình Diệu là người khởi xướng và có công đầu trong việc đưa Internet vào Việt Nam.

Thiết lập đúng lịch sử luôn không dễ vì nó phụ thuộc vào hệ thống chính trị đương thời và phụ thuộc thuộc vào thông tin của những người đánh giá. Trong một thể chế mà thông tin không thật minh bạch thì sự đánh giá từ ngoài sẽ gặp nhiều khó khăn là điều dễ hiểu.

Việc ghi nhận lịch sử thông qua “bình bầu" là chuyện tưởng như đùa đã được báo Nhân Dân thực hiện năm 2007: https://nhandan.vn/10-nhan-vat-anh-huong-nhat-den...

Nhưng điều bất cập hơn khi tất cả các hoạt động chính thống kỷ niệm 25 năm Internet vào Việt Nam năm 2022 lại dựa trên kết quả bình bầu đó, coi nó như là chính sử.

Để đưa được Internet vào Việt nam có ba vấn đề quan trọng:

Nhận thức: hiểu được đầy đủ vai trò và tiềm năng của Internet.

Thuyết phục: Khi nhìn thấy lợi ích lớn của nó, cần thuyết phục các cấp lãnh đạo về việc mở Internet. Trong bối cảnh những năm 90, khi các luồng văn hoá phương Tây còn bị cấm đoán, việc chấp nhận thông suốt thông tin là một bước đi tiến bộ.

Kỹ thuật: khi tất cả đã được bật đèn xanh, triển khai phương án kỹ thuật thực thi.

Trong bài này sẽ trao đổi về điểm 1 và 2, bởi lẽ tuy vấn đề kỹ thuật là không thể bỏ qua, nó thuộc loại “không có người này sẽ có người khác làm được” và vì thế không là mấu chốt chính.

Vấn đề 1 và 2 có liên quan chặt chẽ đến nhau và có độ phân tầng.

Tầng 1 là của những người tiên phong, nhận thức rất sớm, sau đó có vị trí và khả năng thuyết phục thành phần lãnh đạo tiến bộ.

Tầng 2 là chính những thành phần lãnh đạo tiến bộ này, sau khi cảm nhận được phần nào sự cần thiết của việc mở Internet, sẽ cùng góp sức tiếp tục thuyết phục các lãnh đạo còn lại để cuối cùng Bộ máy chính trị "bật đèn xanh".

Từ phân tích trên, người được bầu là có công nhất trong việc đưa Internet vào Việt Nam - ông Mai Liêm Trực - thuộc tầng 2. Cùng tầng này phải đặc biệt kể đến Thủ Tướng Võ Văn Kiệt, người không được nhắc đến trong danh sách bầu, nhưng thực chất đã đóng một vai trò then chốt.

Sự thật lịch sử cần dựa trên tư liệu. Theo cách tiếp cận này, chúng ta sẽ thấy, cuộc vận động bắt đầu từ 30 năm trước. Chương trình Quốc gia về công nghệ thông tin năm 1995 là bước ngoặt lịch sử phát triển CNTT ở Việt Nam mà GS Phan Đình Diệu là người chấp bút.

Chương trình quốc gia này đã được đăng trên tờ Communications of the ACM, trong đó nói rõ: “Bộ trưởng Đặng Hữu phụ trách Ban điều hành Chương trình Quốc gia về CNTT, với sự hỗ trợ lãnh đạo quan trọng và hoạt động tích cực của Phó Trường Ban thường trực Phan Đình Diệu, một giáo sư toán học được đào tạo tại Moskva. Trước đó, Diệu đã đứng đầu trong các nỗ lực lập kế hoạch cho Chương trình Quốc gia về CNTT vào các năm 1976 và 1984, vẫn thường được xem như các kế hoạch đẻ non. (...) Không nao núng với hai lần chưa thành công trước đó, Diệu, người chấp bút không mỏi mệt, đã có được một bản dự thảo của chương trình vào tháng Tám 1994.”

Toàn bộ bài báo của ACM có thể đọc tại: https://www.dropbox.com/.../1995_CommuOfACM_ComputingInVN...

Chú thích thêm là dù toàn bộ kế hoạch được thảo bởi GS. Phan Đình Diệu, nhưng do GS không bao giờ đồng ý vào Đảng, nên phải có người trong hệ thống chính trị đứng đầu chương trình, ở đây là Bộ trưởng Đặng Hữu đứng tên.

Tất cả các điểm trong bản chính thức do Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký đều lấy gần như y nguyên, và có thể coi như một bản thu gọn, từ bản viết tay của GS Phan Đình Diệu.

Bản chính thức TT Võ Văn Kiệt ký:

https://www.dropbox.com/.../1995_ChuongtrinhQuocGiaCNTT...

Bản viết tay của GS Phan Đình Diệu:

https://www.dropbox.com/.../1995_-VT...

Tuy vậy, điều đặc biệt đáng chú ý là một điểm quan trọng trong bản viết tay không được đưa vào bản chính thức: INTERNET.

Bản thân báo ACM không được biết điều đó, và có lẽ là đã không ai biết được. Do khi đó chưa ai biết tới bản viết tay của GS Phan Đình Diệu và ông cũng không công khai bản viết tay này.

Trong bản viết tay đã phân tích rõ về việc cần thiết kết nối mạng Internet (cuối trang 12, trang 13 bản viết tay. Phụ Lục A). Điểm đó đã không được đưa vào bản chính thức. Lý do đơn giản là lúc đó việc mở Internet còn là vấn đề quá mới và khó chấp nhận. Những tờ báo phương Tây còn bị cấm ở Việt Nam thì khó hình dung làn sóng thông tin từ bên ngoài có thể được chấp nhận đưa vào dễ dàng.

Ngay từ đầu những năm 1990, GS Phan Đình Diệu đã nhận thức rõ nét về tầm quan trọng của Internet khi mô tả nó đang trở thành một xa lộ thông tin, mở rộng dần ra các cơ quan chính phủ, các công ty kinh doanh, các tổ chức hoạt động xã hội v.v (trang 13 bản viết tay).

Lợi ích của mạng viễn thông được trình bày rõ ràng trong phần 2.4 (trang 17-20 bản viết tay, tức Phụ Lục A, khi đặt vai trò to lớn của nó trong quản lý nhà nước, cho toàn bộ khu vực tài chính-ngân hàng-thương mại, cho giáo dục, khoa học công nghệ v.v

Đó chính là sự thật lịch sử về vấn đề 1: Nhận thức.

Về thuyết phục: Suốt quá trình thực hiện chương trình quốc gia, hàng tuần trao đổi giữa ban chỉ đạo với các cấp chính quyền, các cuộc thuyết phục về việc cần mở Internet luôn được nhấn mạnh. Tất nhiên việc thuyết phục được những người ở tầng 2 như ông Võ Văn Kiệt cần phải có sự nhận thức sâu sắc về những tác dụng và tương lai của Internet như đã phân tích phía trên. Rất may mắn ông Võ Văn Kiệt đã tạo sự ủng hộ tối đa. Vai trò của GS Diệu trong bộ máy chính trị về việc ủng hộ mở Internet cũng cần được làm rõ hơn, việc GS cũng không có trong danh sách bình bầu chứng tỏ những người bầu hoàn toàn không có thông tin theo chiều sâu.

Ông Mai Liêm Trực có lẽ thuộc tầng 2 của những người sớm thấy được một số ưu điểm của Internet và sau đó đã đóng góp không nhỏ trong việc thuyết phục Bộ máy chính trị bật đèn xanh.

Tuy vậy, hiển nhiên ông không thuộc tầng 1 tiên phong, bởi đơn giản là sự nhận thức khi đó còn hạn chế. Ông đã trung thực thể hiện sự thiếu hiểu biết về lĩnh vực này khi nghĩ rằng – ở thời điểm đã đưa Internet vào (1997) – Internet nó cũng chỉ có tác dụng thay thế vài thứ chúng ta đang làm như thư tín hay báo chí điện tử. Ông hoàn toàn không nhận thức được vai trò của nó trong việc thay đổi các lĩnh vực kinh tế, ngân hàng, giáo dục, thay đổi hình thái xã hội (là những điểm đã được đề cập trong bản viết tay của GS Phan Đình Diệu nhiều năm trước đó).

Lịch sử cần được nhìn nhận đầy đủ, không chỉ dựa trên một thời điểm một văn bản được ký hay một nút được bấm. Đặc biệt, cần loại bỏ việc viết chính sử dựa trên kết quả “bình bầu.

Cuối cùng, trên đây cũng là đánh giá của người viết bài này dựa dựa trên các tư liệu và trao đổi có được với những người trong cuộc. Nó hiển nhiên cũng chỉ là 1 tiếng nói. Rất mong sẽ có những tiếng nói khác, đặc biệt của những người trong cuộc khi đó, dựa trên tư liệu lịch sử mà chỉ nội bộ nhà nước mới có được và có lẽ đã tới lúc cần bạch hoá.

PHỤ LỤC THAM KHẢO

Phần cuối trang 12-13 bản viết tay nói về Internet đã hoàn toàn bị cắt bỏ và không có trong quyết định của Thủ tướng.

d. Mạng truyền thông tin học cho giáo dục, nghiên cứu và triển khai.

Nhu cầu trao đổi thông tin đang tăng lên nhanh chóng trong mọi lĩnh vực hoạt động, nhu cầu đó được đáp ứng bằng việc phát triển các mạng truyền thông dữ liệu với phạm vi và quy mô khác nhau; vấn đề này sẽ được trình bày trong phần 2.4. Riêng trong lĩnh vực giáo dục, nghiên cứu và triển khai việc trao đổi thông tin nhanh chóng, kịp thời giữa các dối tác về cùng một loại hoạt động, một đề tài nghiên cứu…trong phạm vi quốc gia và quốc tế, ngày càng trở thành một nhu cầu thường xuyên, một yếu tố rất quan trọng để tăng năng suất và hiệu quả. Để đáp ứng nhu cầu đó, cần khẩn trương xây dựng mạng truyền thông dữ liệu cho giáo dục, nghiên cứu và triển khai trong nước (gọi tắt là VERDNet) theo các thủ tục và chuẩn của Internet và một cửa khẩu chung nối được với mạng Internet quốc tế.

Mạng Internet được xây dụng tại Mỹ từ những năm 70 và sau đó được mở rộng rất nhanh, nối hàng trăm các mạng vùng, mạng quốc gia trên toàn thế giới với hàng chục triệu người dùng, đầu tiên là trong các trường đại học, các viện nghiên cứu và đã mở rộng ra các cơ quan chính phủ, các công ty kinh doanh, các tổ chức hoạt động xã hội, v.v. Internet đang trở thành một “xa lộ thông tin” cung cấp một khối lượng không hạn chế thông tin các loại cho người dùng trên toàn thế giới, một phương tiện tin cậy và thuận lợi để mọi người trao đổi thông tin dễ dàng, nhanh chóng với các đối tác, đồng nghiệp chuyên môn, kể cả trao đổi để sử dụng chung các kết quả nghiên cứu, các phần mềm và các dịch vụ khác. Mạng VERDNet được xây dụng và được nối với Internet se tạo điều kiện cho giới giáo dục, nghiên cứu và triển khai của ta trao đổi thông tin với nhau và với đồng nghiệp quốc tế dễ dàng qua việc sử dụng dịch vụ thư tín điện tử, được truy cập đến các nguồn tư liệu phong phú trên thế giới trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là CNTT, v.v. từ đó sẽ tạo ra một nguồn kích thích và sự năng động lớn cho hoạt động nghiên cứu triển khai.

Mạng VERDNet sẽ được xây dựng và mở rộng theo nhiêu giai đoạn, cần bắt đầu ngay giai đoạn 1 từ năm 1994 (với việc sử dụng đường truyền bưu điện hiện có và các máy vi tính/modem)

Kinh phí riêng xây dựng mạng VERDNet sẽ không lớn lắm, vì chủ yếu dựa vào mạng truyền thông dữ liệu chung và các trang thiết bị tin học vốn có của các cơ sở. Một số tổ chức nước ngoài (như SIDA Thuỵ Điển, Úc) có thể tham gia kế hoạch trợ giúp việc trang bị các nút mạng và nối Internet quốc tế.

Toàn bộ trang 17-20 bản viết tay nói rất chi tiết về Truyền thông dữ liệu chỉ được nói tóm gọn sơ sài trong bản Quyết định của Thủ tướng.

Trang viết tay của GS Phan Đình Diệu nói về Internet năm 1994 trong bản thảo Chương trình CNTT đến năm 2000.

2.4. Truyền thông dữ liệu

a. Tình hình và nhu cầu đối với Truyền thông dữ liệu

- Truyền thông dữ liệu ở Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn hình thành. Trong mấy năm gần đây ngành bưu chính viễn thông của ta đã có nhiều tiến bộ, đảm bảo nhu cầu ngày càng tăng với chất lượng ngày càng tốt hơn các dịch vụ điện thoại và bưu điện thông dụng. Tuy nhiên, các hệ thống thông tin tin học hoá với quy mô lớn chưa phát triển nhiều nên sự phát triển của Truyền thông dữ liệu cũng còn rất hạn chế. Các nhu cầu Truyền thông dữ liệu hình thành và phát triển trong vài ba năm gần đây là từ các nhu cầu thực tiễn của việc triển khai các hệ thống tin học trong các ngành ngân hàng, tài chính, thương mại. Và, với cơ sở kỹ thuật hiện có của ngành bưu chính viễn thông, các nhu cầu truyền số liệu dó thường chỉ mới được thực hiện bằng phương thức điểm nối điểm qua mạng điện thoại chuyển mạch công cộng. Gần đây, ngành bưu điện đã khởi đầu việc thiết lập mạng VIETPAC X.25 với đường cáp sợi quang và cung cấp các dịch vụ chuyển mạch gói công cộng. Mạng này khi dược hoàn thiện và hoạt động tốt, sẽ cung cấp một phương tiện quan trọng để triển khai các mạng truyền số liệu cho các dự án ứng dụng CNTT trong các ngành kinh tế - xã hội.

Chương trình quốc gia về CNTT đặt trọng tâm vào việc ứng dụng nhanh chóng các CNTT trong các hệ thống quản lý nhà nuớc và trong việc hiện đại hoá kết cấu hạ tầng về thông tin của đất nước nói chung. Điều đó đòi hỏi xây dựng và triển khai nhiều dự án có phạm vi quốc gia, các dự án này đều cần có khả năng đáp ứng các nhu cầu to lớn tiềm tàng về Truyền thông dữ liệu trong nước. Trên cơ sở thực tiễn hiện nay, chương trình CNTT đặt ưu tiên đáp ứng trong giai đoạn đầu các nhu cầu truyền thông dữ liệu trong các lĩnh vực.

- Quản lý nhà nước: các yêu cầu Truyền thông dữ liệu trong các cơ quan nhà nước, ở trung ương và nối các địa phương, trước hết là các dịch vụ thư tín điện tử, thu thập và báo cáo các thông tin thống kê, v.v.

Khu vực tài chính - ngân hàng - thương mại: Truyền thông dữ liệu tự động hỗ trợ cho các giao dịch tài chính, các dịch vụ thanh toán liên ngân hàng, các báo cáo ngân hàng, trao đổi thông tin hoạt động kinh doanh, v.v.

- Khu vực giáo dục, nghiên cứu và triển khai: để hỗ trợ cho việc trao đổi thông tin, tìm kiểm và truy nhập thông tin trong các hoạt động rộng rãi của đội ngũ cán bộ giáo dục, khoa học và công nghệ (về phần này, xin xem thêm mục 2.2, điểm d về đề nghị thiết lập mạng VERDNet)

Nhu cầu về Truyền thông dữ liệu cũng sẽ gia tăng nhanh khi nền kinh tế và đất nước ta gia nhập sâu rộng hơn vào cộng đồng quốc tế.

b. Một chiến lược Truyền thông dữ liệu của nước ta. Mạng Truyền thông dữ liệu của nước ta đang trong bước đầu hoạch định và xây dựng. Cần có sự nghiên cứu phân tích kỹ lưỡng cả về phương tiện kỹ thuật, công nghệ, cả về đánh giá và ước lượng nhu cầu sử dụng chắc sẽ phát triển rất nhanh trong những năm tới, để có được một chiến lược phát triển và những biện pháp xây dựng đúng đắn. Ở đây mới chỉ nêu lên một số yếu tố cần được cân nhắc cho việc chuẩn bị một chiến lược như vậy, trong thời gian tới chương trình quốc gia về CNTT sẽ cùng Tổng cục bưu chính viễn thông tổ chức việc soạn thảo một dự án chiến lược cho mạng Truyền thông dữ liệu đó.

Có thể hình dung mạng Truyền thông dữ liệu có cấu trúc gồm ba tầng: Tầng vật lý, tầng dịch vụ và tầng người sử dụng. Tầng vật lý là tầng nền gồm các phương tiện, thiết bị kỹ thuật cho việc truyền thông, bao gồm hệ thống các đường truyền vật lý khác nhau như đường cáp đồng, cáp sợi quang, kênh vi ba, vệ tinh. Tầng này là nền tảng chung, cung cấp các tiện ích viễn thông cơ bản và thường do một công ty bưu điện công cộng - ở ta là Tổng công ty Bưu chính viễn thông - đảm nhiệm. Ở tầng vật lý này nên chỉ có một hệ thống mạng chung các đường cáp cho các nhu cầu Truyền thông dữ liệu và các nhu cầu bưu điện viễn thông khác. Cần lưu ý đến giải pháp sử dụng bổ sung các đường truyền vô tuyến (sóng cực ngắn VHF hay vi ba MW) cho Truyền thông dữ liệu.

Tầng dịch vụ bao gồm các dịch vụ cơ bản (như cho thuê bao hoàn toàn các kênh truyền) và các dịch vụ giá trị gia tăng.

Nếu tầng vật lý có thể do một Tổng công ty Bưu chính viễn thông độc quyền đảm nhiệm, thì ở các tầng dịch vụ, các dịch vụ giá trị gia tăng có thể do nhiều công ty bưu điện (cả của nhà nước và tư nhân) cung cấp, đó là các dịch vụ như:

- Mạng điện thoại chuyển mạch công cộng (PSTN)

- Mạng chuyển mạch gói công cộng (PPSN)

- Mạng đa dịch vụ kỹ thuật số (ISDN)

- Dịch vụ dải băng theo nhu cầu

Trong thị trường viễn thông với khả năng đa dạng của các dịch vụ giá trị gia tăng đó, người sử dụng (từ cơ quan chính phủ đến các nhà kinh doanh, các tư nhân) có thể lựa chọn các dịch vụ thích hợp tuỳ theo nhu cầu về kiểu, dạng, cách thức và lưu lượng của thông tin dữ liệu cần truyền và về yêu cầu chất lượng của việc truyền.

Tầng”người sử dụng” là của các người dùng. Người dùng lớn, như các cơ quan nhà nước, các ngân hàng, v.v. có thể chọn lựa sử dụng các dịch vụ cơ bản (thuê đường truyền riêng) và các dịch vụ giá trị gia tăng công cộng cho việc thiết lập mạng truyền dữ liệu của mình. Đối với đa số người dùng vừa và nhỏ, thường sẽ chọn các dịch vụ thích hợp nhất với yêu cầu của mình từ các dịch vụ giá trị gia tăng nói trên mà các công ty bưu điện mời chào. (với nhiều người dùng nhỏ thì đôi khi chỉ đơn giản là nối bằng modem đến các đường thuê hoặc đường điện thoại công cộng nhằm truyền các tệp, các fax, thâm nhập vào các cơ sở dữ liệu từ xa,…)

Dự án ”Mạng Truyền thông dữ liệu quốc gia” cần được sớm soạn thảo và thực hiện để xây dựng kết cấu nền tầng vật lý và cung cấp các loại dịch vụ cần thiết cho việc phát triển các ứng dụng CNTT trong những năm tới. Như đã trình bày ở trên, các nhu cầu Truyền thông dữ liệu sắp tới sẽ phải xuất chủ yếu từ các hệ thống quản lý nhà nước, hệ thống ngân hàng - tài chính - thương mại, hệ thống giáo dục, nghiên cứu và triển khai. Đề nghị về mạng VERDNet đã được đề cập trong phần 2.2, mục d, mạng Truyền thông dữ liệu trong khu vực tài chính - ngân hàng - thương mại sẽ được định hình dần theo yêu cầu thực tế trên cơ sở phát triển các mạng riêng của từng ngành ngân hàng, tài chính, thương mại đã được khởi đầu từ ít năm nay. Trong mục dưới đây sẽ trình bày một số nét về đề nghị thiết lập mạng Truyền thông dữ liệu quản lý nhà nước.

c. Mạng Truyền thông dữ liệu quản lý nhà nước

Nhu cầu truyền thông tin dữ liệu trong các cơ quan nhà nước ngày càng lớn, giữa chính phủ với các Bộ, ngành ở trung ương cùng với các tỉnh, thành địa phương. Nếu không có một dự án thống nhất thì sẽ có nguy cơ lãng phí do từng Bộ, ngành tìm cách có mạng dữ liệu riêng đến các địa phương để phục vụ nhu cầu của ngành mình. Vì các lý do đó, và cũng vì các yêu cầu riêng về an toàn thông tin, về độ tin cậy,…, nên cần xây dựng một mạng thống nhất về Truyền thông dữ liệu cho hệ thống quản lý nhà nước.

Mạng này được thiết kế để chuyển tất cả các loại thông tin kể cả tiếng nói, fax, dữ liệu, ảnh và văn bản; trong giai đoạn đầu tập trung vào truyền dữ liệu và thư tín điện tử. Các dịch vụ truyền dữ liệu và thư tín điện tử cũng tạo cơ sở cho việc thực hiện nhiều dịch vụ có giá trị như:

- Báo cáo nhanh về tình hình và các chỉ tiêu kinh tế - xã hội,

- Thông qua và phê chuẩn các quyết định,

- Lập kế hoạch các cuộc họp, sinh hoạt, các công tác khác,

- Phân phối các bản tin nội bộ đến những người được quy định,

- Thâm nhập vào các hệ thông tin và cơ sở dữ liệu,

- v.v.

Mạng cần được cấu trúc một cách hợp lý, bao gồm mạng cột sống có thể có các nút cốt lõi ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng được nối với nhau bằng đường kênh thuê riêng có vận tốc truyền cao. Từ mạng cột sống đó (tức là từ các nút cốt lõi) đến các Bộ (ở Hà Nội) và các tỉnh cũng sẽ được nối bằng các kênh thuê bao có dung lượng thích hợp. Ở mỗi tỉnh không có đường kênh riêng của từng ngành đến Bộ tương ứng ở Trung ương mà có một bộ tập trung kênh gắn với nút mạng chung của cả tỉnh – là một nút mạng X.25 – từ đó theo một kênh thuê chung nối đến nút cốt lõi của mạng cột sống. Một cấu hình như vậy có thể là hợp lý cho một mạng Truyền thông dữ liệu quản lý nhà nước mà ta cần xây dựng, tuy nhiên còn cần nhiều nghiên cứu tiếp tục để có được một dự án khả thi – đó là một công việc cần thực hiện sớm.

8/2025