Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 11 tháng 8, 2025

Bác Dụng

 Ý Nhi

1.

Ngày từ ngày nhỏ tôi đã nghe ba tôi kể về bác Khương Hữu Dụng.

Chuyện bác Dụng được nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu đặt cho bút hiệu Thế Nhu, chuyện bác gái mất sớm, bác Dụng một mình nuôi 6 con thơ, chuyện bác Dụng bị chính quyền Pháp cách chức, không cho dạy học vì làm thơ yêu nước, chuyện bác Dụng dựng Quán Lưng đèo ở Đèo Le (Quế Sơn, Quảng Nam) kiếm kế sinh nhai (sau bác Dụng, chú Nguyễn Đình đổi tên thành Quán Nghèo). Quán nằm trên đỉnh đèo, nơi có dòng suối trong mát chảy len qua những tảng đá lớn. Ngày nay quán vẫn còn, có tên là quán Nước Mát, nổi tiếng với món cháo gà. Người ta bảo gà được luộc bằng nước suối ở đó có vị ngọt rất đặc biệt. Du khách sau khi ăn còn mua gà đem về Đà Nẵng làm quà.

Ba tôi còn nhớ mấy câu thơ bác Dụng treo trước quán: Cheo leo mái quán lưng đèo/ Đường mai Trung Phước, dặm chiều Quế Sơn/ Hỡi ai gối mỏi chân chồn/ Dừng qua bóng mát trà thơm trải lòng Từ nay đường hết quạnh hiu/ Lại qua có quán lưng đèo nghỉ chân/ Quà ăn vài món thanh tân/ Chỗ ngồi đơn giản một sân cỏ rừng.

Ba tôi nói bác Dụng là người sống thanh bạch, chung thủy. Tình bạn của bác với giáo sư Lê Trí Viễn, với giáo sư Huỳnh Lý, với nhà thơ Trinh Đường, nhà thơ Nguyễn Đình, nhà thơ Tế Hanh và ba tôi không hề phai lạt qua năm tháng. Hồi gia đình tôi còn ở trong khu Nhà hát Nhân Dân (cung Hữu Nghị bây giờ), bác Dụng ở phố Phan Bội Châu. Thỉnh thoảng bác đạp xe hoặc đi bộ qua thăm ba me tôi. Có hôm bác đến, ba me tôi lại có giấy mời đi xem kịch. Thấy me tôi nhắc ba tôi ăn cơm để kịp đi xem, bác xua tay: Anh em tôi lâu ngày mới gặp nhau, chị để khi khác đi xem kịch. Thế là ba tôi ở nhà trò chuyện với bác. Trong câu chuyện, bác nhắc đến anh Hưng đang ở chiến trường, nhắc chuyện chị Tuyết, chị Kính nay đã học xong, mỗi người mỗi nghề, chồng con đề huề. Rồi chuyện chú Trinh Đường, chuyện chú Tế Hanh…

Nhưng câu chuyện không thể dừng lại, đó là câu chuyện Thơ.

2.

Bác Dụng đã từng viết: “Thơ vốn không có tuổi. Thơ là máu thịt, là Đạo của tôi”.

Trong bài thơ có tên Khương Hữu Dụng, mừng bác Dụng 85 tuổi, chú Trinh Đường đã viết:

Dồn hết đời vào thơ

Dồn hết mây lên tóc

Bạc đầu vì một từ

Còn e chưa hết sức

…Mừng xanh mùa thượng thọ

Viết mấy dòng thương nhau.

Phải là tri âm tri kỷ mới có thể thấu hiểu nhau dường ấy. Chính Trinh Đường cũng từng tự viết về mình: “Thương ta từ nhỏ như ma ám/ Máu mê si lụy nghiệp từ chương” và với ông:Ngày nào viết được câu thơ/ Mới là ngày tồn tại”.

Họ là những con người lấy thơ làm Đạo, làm lẽ sống. Thơ đã giúp họ: “Đi qua trăm bão dông/ Vòm trời không để mất… Lạc vào bao mê cung/ Tự thắp mình làm đuốc.

Từ khi làm thơ, làm biên tập thơ ở Nhà xuất bản, tôi mới thường được gặp bác Dụng. Lúc thì tôi đến nhà bác, lúc thì bác ghé qua chỗ tôi làm việc hoặc qua nhà tôi. Anh Lung, con rể bác là bạn của nhà tôi, thành ra mối quan hệ bác cháu càng thân tình. Câu chuyện giữa hai bác cháu là chuyện đời, chuyện văn nhưng chuyện văn nhiều hơn.

Tôi được đọc thơ và trò chuyện về thơ với bác Dụng nhiều nhất là khi tôi biên tập tập thơ Bi bô của bác. Tôi hỏi: Sao thơ bác như ngày càng trẻ ra vậy, bác bèn đọc cho tôi nghe lời tựa:Bi bô từ thưở Tiếng Dân/ Bạc đầu thơ vẫn tiếng xuân đánh vần/ Con oanh học nói chuyên cần/ Lơ thơ tơ liễu mấy lần líu lo. Rồi bác bảo, cháu còn trẻ, cháu chưa hiểu đâu. Đên khi bằng tuổi bác, cháu sẽ thấy mình sống một vòng đời khác. Vậy mà giờ đây, khi đã gần bằng tuổi bác ngày đó, tôi đâu có được sự trẻ trung tươi mới của bác trong những bài thơ của Bi bô. Cung tiên, Cô mẫu giáo, Quả bóng, Ong, Con tàu, Trang sách, Bé và ong… đòi hỏi người viết phải có một tâm hồn thơ ngây, một ánh nhìn trong trẻo.

Bác Dụng trẻ mãi trong Thơ. Bảy mươi lăm tuổi bác còn viết: Bảy mươi lăm tuổi già chi mấy/ Anh cũng xuân mà tôi cũng xuân. Bác: Ăn mừng bảy lăm tuổi/ Bằng một chùm thơ suông. Gần tám mươi tuổi, bác viết: Còn hai tuổi nữa tám mươi xuân/ Mà trái tim thơ vẫn đánh vần. Rồi chín mươi: Chín mươi xuân đến rõ mười mươi/ Vươn tới trăm năm cái cõi người/ Cuộc bụi thế gian chia gió lốc/ Vườn hoa nhân loại góp hoa tươi

Có người bảo, một đời người, khó nhất là ứng xử với tuổi già của mình như thế nào. Bác Dụng trong tuổi già vẫn “mê đánh vần ê a”, vẫn giữ được “Hồn thơ mãi thuận hòa” và ý thức được thời gian để sống: “Từng phút thâm canh sống/ Một tháng bằng mười năm. Những năm cuối đời bác vẫn có nhiều bầu bạn, thi hữu “tri âm, tri kỷ, tri tâm nữa” để xướng họa, đàm đạo về thơ. Bác lấy thơ làm Đạo. Bác đã đắc đạo.

Giáo sư Lê Trí Viễn, trong bài viết sâu sắc và nhiều cảm xúc về Khương Hữu Dụng, đã viết: “Chỉ có một tội mê say thơ và thành bệnh: Đã nói về thơ thì khó dứt ra.

Có lần, sáng sớm bác đã qua 65 Nguyễn Du, nơi tôi làm việc. Bác đưa cho tôi xem tờ báo in bài thơ Côn Sơn của bác. Tôi đọc lướt qua:

Lên đỉnh Côn Sơn tìm Nguyễn Trãi

Trên đầu xanh ngắt một bàu không

Bàn cờ thế sự quân không động

Mà thấy quanh mình nổi bão dông

Tôi không dám tỏ ý gì vì thấy bác có vẻ bồn chồn, bực dọc. Bác đọc lại bài thơ, nhấn mạnh chữ “nỗi”. Hóa ra chữ “nổi” in dấu hỏi khiến bác khó chịu. Chữ “nỗi” của bác phải là dấu ngã, là nỗi niềm, nỗi lòng, nỗi đời kia. Bác đọc lại bài thơ, phân tích chữ “nỗi” khác “nổi” như thế nào. Bác đau đớn như có ai xúc phạm hay làm đau cơ thể bác vậy.

Chữ “nổi” ấy ám ảnh bác, giày vò bác. Sau này khi bài thơ được in lại, bác làm dấu hoa thị ở chữ “nỗi” và ghi chú cẩn thận để người ta không nhầm lẫn nữa. Nhiều người khác cũng kể cho tôi nghe sự phiền lòng vì “nổi-nỗi” của bác. Hóa ra, không chịu được, bác đã đem câu chuyện giãi bày với nhiều bạn văn.

Rồi lại Đêm thu đọc Ức Trai:

Giấy ố thông già đêm Ức Trai

Heo may xào xạc cỏ may dài

Sáu trăm năm bụi thơ còn gió

Mây trắng vô tâm rải trắng trời

Không hiểu sao, chữ “gió” lại được in thành “đó”. Và lại khiến bác Dụng bồn chồn, bực dọc.

Những chữ nỗi, chữ gió ấy tôi được nghe nhiều lần, cả ở cơ quan, cả ở nhà, cả khi tình cờ gặp bác ngoài phố. Những câu chuyện thơ của bác Dụng dường như không bao giờ kết thúc.

Có lần, khoảng 9 giờ sáng, bác ghé nhà tôi. Vừa vào nhà, bác đã dặn: “Nhà chỉ có một chiếc xe đạp. 12 giờ bác phải về để bác gái còn đi công chuyện, nhớ nhắc bác nhé”. Ngồi nói chuyện một lúc, tôi xin phép đi lo cơm nước. Bác trò chuyện với nhà tôi về việc dịch phần thơ chữ Hán cho công trình nghiên cứu Văn học thời Tây Sơn mà nhà tôi đang làm. Khoảng hơn 11 giờ tôi dọn cơm. Ăn cơm xong thì đã gần 12 giờ. Tôi nhắc bác, bác nhìn đồng hồ, bảo: “Còn mấy phút nữa”. Tôi vội đi pha cà-phê. Bác bảo: “Uống xong thì về”. Uống xong cà-phê thì đã hơn 12 giờ, tôi lại nhắc bác. Bác chép miệng: “Thôi, hôm nay coi như bác quên không mang đồng hồ. Bác gái chắc chỉ cằn nhằn một chút rồi thôi”. Thế là bác ở lại, chuyện qua trưa, xế chiều mới đạp xe ra về.

Lần khác, bác đến buổi chiều. Nhà tôi đi vắng nên chỉ mình tôi nói chuyện với bác. Khoảng hơn 17 giờ, bọn nhỏ chạy chơi đã đói, kéo về thập thò ngoài cửa. Bác ngoảnh ra, xua tay: Đi chơi đi, để ông nói chuyện với mẹ”. Bữa ấy, ba mẹ con ăn bánh mì thay cơm. Ở cơ quan cũng vậy. Có hôm thấy quá giờ nghỉ mà tôi vẫn ngồi nói chuyện với bác, Xuân Quỳnh, Lê Minh Khuê í ới gọi, bác bảo: “Mấy đứa về trước đi”, rồi tiếp tục câu chuyện thơ.

Nghe tôi than phiền ở đâu đó, bác bảo với nhà tôi: “Con Ý Nhi nó bảo bác hay nói dài. Có thể vì vậy mà ngày tôi sắp chuyển vào Sài Gòn, bác đến thăm nhưng không cho tôi mở cửa, bác bảo chỉ ghé qua chào, còn để tôi thu dọn đồ đạc. Vậy là hai bác cháu, người ngoài, kẻ trong, đứng nói chuyện gần nửa giờ đồng hồ. Bác có đọc một bài thơ tiễn biệt, tiếc là tôi không còn nhớ. Bác có giọng đọc thơ trong trẻo, ngân nga rất lạ.

Có dịp vào Sài Gòn, bác ghé nhà thăm chúng tôi. Cơm nước xong, bác cháu ngồi hàn huyên. Bác khoe, dịp này gặp nhiều bạn cũ, gặp cả “Cố nhân” nữa. Tôi đọc: “Nét cười năm chục năm xưa/ Bỗng dưng thoáng hiện một trưa Sài Gòn/ Trong vui sao gợn chút buồn/ Trong mừng sao gợn chút hờn bâng quơ”. Bác khen tôi có trí nhớ tốt nhưng khi tôi hỏi tên cố nhân, bác cười, không đáp.

3.

Trong bài viết Một đời người - Một đời thơ giáo sư Lê Trí Viễn đã viết về Khương Hữu Dụng: “Không chút xa lạ, rối rắm. Luôn nề nếp, khuôn mẫu từ nếp áo, chữ viết. Luôn nghiêm với mình, rộng với người. Sống giản dị, trong sạch, không chè rượu, chơi bời. Không ham giàu sang, địa vị, không muốn cậy nhờ, có thời tưởng muốn gục ngã nhưng nghị lực đủ kiên cường phấn đấu bền bỉ. Làm con người xã hội, con người gia đình, lúc nào cũng được trân trọng, mến yêu”.

Bác Dụng cũng tự viết về mình:

Rau dưa đạm bạc không lo béo

Thơ phú no nê chẳng sợ gầy

Tôi đã từng nghe chuyện thơ phú của bác và cũng đã từng nhìn thấy bữa cơm rau dưa. Tôi có việc đến nhà bác ở 36 Phan Bội Châu vào chặp tối, thấy bác ngồi ăn cơm một mình. Bác bảo bác gái đã ăn cơm trước. Trên mâm cơm có một đĩa rau luộc, một bát nước rau, một chén mắm và vài lát thịt. Thấy tôi nhìn mâm cơm, bác bảo, bác chỉ cần có thế.

Quả thật, bác Dụng có một đời sống vật chất rất đơn sơ, gần như tỷ lệ nghịch với đời sống tinh thần phong phú của bác. Mấy mùa đông liền, tôi chỉ thấy bác mặc một chiếc áo khoác đã cũ. Tôi hỏi, bác bảo, các anh chị mua sắm cho nhiều nhưng bác không muốn, không cần. Trong cái thời khó khăn đó, cứ hễ gặp nhau là người ta than phiền chuyện  áo cơm, tiền bạc. Vậy mà tôi chưa lần nào nghe bác Dụng nói đến thiếu thốn, nghèo cực. Có lần tôi đến, gặp lúc bác gái như đang có chuyện chi bực bội. bác Dụng bảo tôi: “Bác gái có cái lý để bực bội. Khi bác gái lấy bác, bác đang cảnh gà trống nuôi con, nghề nghiệp chẳng có, tiền nong cũng không. Bây giờ bác vẫn nghèo nên bác gái chẳng lúc nào được sung sướng”. Bác có nhiều thơ về sự càu nhàu của bác gái. Lúc bác gái mất, bác viết mấy dòng thơ rất cảm động:

Ước được nghe em mắng

Vui tiếng em cằn nhằn.

Ở Hội Nhà văn mấy chục năm, người ta đi nước ngoài như đi chợ mà hình như người ta quên mất bác-nhà thơ lão thành, dịch giả tài hoa. Mãi đến năm ngoài sáu mươi tuổi bác mới được đi Liên Xô vài tuần lễ.. Người ta còn quên nhiều thứ khác lẽ ra bác được hưởng. Nhưng tôi cũng chưa khi nào nghe bác phàn nàn. Trong câu chuyện, nếu có nhắc tới những thiệt thòi của bác, bác gạt đi, nói sang chuyện khác. Bác không gần gũi với các quan văn nghệ  mà gần gũi với các bạn văn nghệ. Có những người bác không ưa nhưng bác vẫn đọc họ, có cái hay, cái thú vị thì khen.

Khi đọc lại thơ bác tôi mới nhận ra, không một nhà thơ Việt Nam hiện đại nào lại viết nhiều câu đối, nhiều thơ tiễn biệt bạn bè như bác Dụng. Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ, Minh Phụng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Thành Long, Xuân Diệu, Bửu Tiến, Quách Tấn, Đào Duy Anh, Lâm Quang Thự, nguyễn Cao Luyện, Đống Lương, Quang Dũng, Tạ Quang Bửu, Yến Lan… Mỗi câu đối, mỗi dòng thơ vĩnh biệt đều chứa chan thương tiếc, ngậm ngùi.

Một lần nào đó, trong câu chuyện về Hội An, về xứ Quảng, bác nhắc đến câu đối của ông ngoại bác:

Tri túc tâm thường thái

Vô cầu phẩm tự cao

(Biết đủ lòng khỏe khoắn. không ham, người thanh cao).

Một phương châm sống rất đẹp. Và vì vậy mà rất khó. Nhưng nhà thơ Khương Hữu Dụng, bác Dụng đã sống được như vậy.

Bác đã hơn một lần tự vấn:

Hơn hai mươi nữa tròn trăm tuổi

Hữu dụng gì cho thế kỷ này

Sài Gòn, mùa mưa 2007.