Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 30 tháng 7, 2025

Thơ Palestine

 Hoài Phương dịch

THƠ TỪ GAZA

Nadine Murtaja

     

Một bài thơ không đề của một người viết trẻ tuổi tên Nadine Murtaja. Bạn chỉ mới 21 tuổi và là một sinh viên nha khoa trước khi chiến tranh và pháo kích đã san bằng trường đại học, khiến bao người ly tán và sự học của bạn ngừng trệ. Bạn bắt đầu làm thơ từ năm 16 tuổi và bạn mong mình sẽ sống sót, để có thể cống hiến cuộc đời mình vì tự do của Palestine.

Bài thơ này tìm thấy trên trang instagram @Wawog_now (Writers against the war on Gaza / Hiệp hội Những nhà văn phản đối cuộc chiến ở Gaza).

Và nếu tử thần
không siết tôi ngạt thở
thì làn khói sẽ ra tay
đưa đường cho kỷ niệm, tiếng thét
về bên người thân yêu
từ nhiều năm trước.

làn khói sẽ tuyên bố
lễ hạ huyệt cho một văn thư mới
chôn vùi trong nấm mồ băm nát.

Tôi sợ phải đếm.
Bởi những con số quay cuồng
trong đầu tôi.

Tôi đếm những vì sao
rồi chợt nhận ra
chúng là máy bay chiến đấu
đang đưa những linh hồn
về nơi an trú cuối cùng.

Khi mẹ tôi
thấy một vầng sáng chói lòa
trắng xóa, bà đã nói
thật dịu dàng rằng
đó là một vì sao rực rỡ.

Và rồi vì sao ấy rơi
cướp đi tiếng nói bao người
ở giữa con đường.

 

POETRY FROM GAZA

Nadine Murtaja

(Translated by Fatema)

 

And if the death

does not suffocate me

the smoke will

carrying memories, screams

the remains of families

from years ago

 

Smoke that announces

the burial of a new civil record

into a mutilated grave.

 

I now fear counting

I fear numbers will turn

in my head

 

I count stars

only to realize

 

They are warplanes

delivering souls,

to their final abode

 

When my mother

saw a bright white light,

she told me

tenderly

what a dazzling star it was.

 

Until the light departed,

stealing more voices

from the streets.

 

ÔI NHỮNG ĐỨA TRẺ RANH CỦA GAZA

Khaled Juma

 

Ôi những đứa trẻ ranh của Gaza.
Các em từng quấy rầy ta
với tiếng la hét ngoài cửa sổ.
Các em lấp đầy buồi sớm mai
với bao ồn ào, náo động.
Các em đã đập vỡ chậu cây
rồi trộm đóa hoa cô đơn của ta ngoài ban công.
Xin hãy trở lại
ta sẽ để các em làm ồn thoải mái
ta sẽ để cho các em đập vỡ chậu cây
rồi lấy đi tất cả đóa hoa.
Hãy quay lại…
Ta xin các em hãy quay lại…

 

OH RASCAL CHILDREN OF GAZA

by Khaled Juma

Oh rascal children of Gaza.
You who constantly disturbed me
with your screams under my window.
You who filled every morning
with rush and chaos.
You who broke my vase
and stole the lonely flower on my balcony.
Come back –
and scream as you want
and break all the vases.
Steal all the flowers.
Come back,
Just come back…

BUỒNG GIAM

Mahmoud Darwish (1941 - 2008)

Có thể đấy

Đôi khi, hoàn toàn có thể

Nhất là ngay giây phút này

Tôi có thể nhảy lên lưng ngựa

Giữa chốn tù đày

Rồi chạy thoát.

 

Và bốn bức tường xà lim

có thể tan biến

để những buồng giam hóa dải đất xa

Nơi không tồn tại đường biên giới:

 

Mày đã làm gì với bức tường?

Tôi trả chúng về cùng đất đá.

Thế mày đã làm gì với trần nhà?

Tôi biến chúng thành yên ngựa.

Còn những ràng xích sắt?

Tôi biến chúng thành mẩu bút chì.

Rồi gã cai ngục nổi điên

Hắn buộc tôi ngậm miệng

Hắn nói rằng thi ca thật vớ vẩn,

rồi sập cửa buồng giam.

 

Nhưng rồi buổi sáng

Hắn quay lại

Rồi quát lên:

 

Nước ở đâu ra?

Tôi mang đến từ dòng chảy sông Nile.

Còn những cái cây

Và thứ âm nhạc này?

Từ nhịp đập trong huyết quản.

 

Rồi gã cai ngục nổi điên

Hắn buộc tôi ngậm miệng.

Hắn nói rằng bài thơ của tôi thật ngớ ngẩn,

rồi sập cửa buồng giam.

 

Nhưng rồi đêm đấy hắn trở lại:

Mặt trăng này từ đâu đến?

Có lẽ là đêm dài thành Baghdad.

Còn những giọt rượu?

Từ rặng nho trên đồi Algiers

Thế còn tự do?

Từ hàng xích sắt anh tròng vào người tôi đêm qua.

 

Tên cai ngục chợt buồn bã

rồi van nài tôi hãy trả lại cho gã

tự do.

 

THE PRISON CELL

by Mahmoud Darwish

(Translated by Ben Bennani)

 

It is possible . . .

It is possible at least sometimes . . .

It is possible especially now

To ride a horse

Inside a prison cell

And run away . . .

 

It is possible for prison walls

To disappear,

For the cell to become a distant land

Without frontiers:

 

What did you do with the walls?

I gave them back to the rocks.

And what did you do with the ceiling?

I turned it into a saddle.

And your chain?

I turned it into a pencil.

 

The prison guard got angry.

He put an end to the dialogue.

He said he didn’t care for poetry,

And bolted the door of my cell.

 

He came back to see me

In the morning.

He shouted at me:

 

Where did all this water come from?

I brought it from the Nile.

And the trees?

From the orchards of Damascus.

And the music?

From my heartbeat.

 

The prison guard got mad.

He put an end to my dialogue.

He said he didn’t like my poetry,

And bolted the door of my cell.

 

But he returned in the evening:

 

Where did this moon come from?

From the nights of Baghdad.

And the wine?

From the vineyards of Algiers.

And this freedom?

From the chain you tied me with last night.

 

The prison guard grew so sad . . .

He begged me to give him back

His freedom.

 

 

Ảnh minh họa: Một nghệ sĩ người Ý đang vẽ tranh bích họa chân dung Ahed Tamini, một bạn nữ người Palestine nổi tiếng sống tại Tây Ngạn, được như một biểu tượng của sự phản kháng. Ahed Tamini nổi lên sau những bức ảnh mà phóng viên chụp lại khi cô chỉ mới mười hai tuổi, một bé gái nhỏ bé gầy còm vung nắm đấm trước mặt những binh lính Israel được trang bị võ khí tới tận răng. Cô cũng từng chất vấn những người lính Israel tại chốt kiểm soát rằng vũ khí họ mang đầy mình có phải để giết trẻ em, phụ nữ, người vô tội. Khi người lính trả lời rằng vũ khí này là để tự vệ, không để giết ai cả, cô đã hỏi rằng: "Vậy nếu tôi bước qua chốt chặn này, anh có bắn tôi không?" sau đó thản nhiên bước qua chốt chặn trong sự ngạc nhiên của những tên lính lẫn gia đình của chính mình. Cô cùng mẹ bị bắt đi tù vì cô đã tát một người lính Israel sau khi em họ cô bị bắn vào đầu bằng đạn cao su. Biểu tình đã nổ ra khắp thế giới đòi trả tự do cho Ahed Tamini, và hai nghệ sĩ người Ý này đã vẽ nên bức bích họa chân dung cô trên một phần bức tường phân biệt chủng tộc ở Bethlehem. Hai người nghệ sĩ này sau đó đã bị bắt và ngay lập tức bị trục xuất khỏi Israel. Ahed Tamini cùng mẹ là một trong những người được phía Israel trả tự do trong cuộc trao đổi con tin gần nhất.

 

ĐƯỜNG ĐẮNG
Tawfiq Zayyad
(1929 - 1994)

Hãy trả lời!
Ta cất tiếng gọi Palestine, một quê hương
chằng chịt vết thương, muối mặn thấm đẫm.
Ta gọi như thét gào: Xin cho ta hòa vào người
để rồi chảy tràn.
Ta là đứa con mà thảm kịch đã bỏ rơi
với lưỡi dao kề bên cuống họng.
Ta sống trong tiếng xào xạc của hoài niệm,
giữa đồn điền ô-liu.
Ta viết nên bài thơ ngọt đắng cho bao người cùng khổ,
Ta viết cho những phận đời cơ cực.
Ta cắm ngòi bút xuyên thấu trái tim đau,
nhúng vào mực chảy trong dòng máu.
Thức ăn của ta là bức tường thép
Nước uống là cơn gió tháng mười thổi qua,
Ta khiến gương mặt kẻ cướp tứa máu
bằng những bài thơ bén tựa lưỡi dao.
Nếu sống lưng ta bị nghiến nát bởi ngàn mảnh vụn
ta sẽ thay thế nó với một chiếc hòm
chất nên từ đá cuội của làng Hittin!

BITTER SUGAR

Tawfiq Zayyad (1929 - 1994)

(Translated by Aida Bamia)

Answer me,
Palestine, I call your wound drenching with salt.
I call it, screaming: let me melt away in it, then pour me.
I am your son, the tragedy left me here,
My neck under your knife.
I live on the rustle of nostalgia,
In my olive groves.
I write bittersweet poems for the paupers,
I write for the destitute.
I dip my pen deep in my heart,
In my veins.
I eat the hard steel wall,
I drink the October wind,
And I bloody my usurper’s face
With poems sharp like knives.
If the wreckage breaks my back,
I would replace it with a case
Made from the rocks of Hitteen.

Tawfiq Zayyad (1929 - 1994) chính trị gia, thị trưởng thành phố Nazareth và là "nhà thơ phản kháng" người Palestine. Ông sinh ra tại Nazareth dưới thời Uỷ trị Anh Quốc, ông là một thành viên tích cực trong hội cộng sản từ khi còn trẻ. Ông từng lãnh đạo quần chúng trong nhiều sự kiện nổi dậy chống lại các sưu thuế bất công ban hành bởi nhà nước Israel, và cũng là lý do ông bị bắt bỏ tù nhiều lần, và bị hạn chế đi lại. Những tháng ngày trong tù là khi ông sáng tác thi ca mãnh liệt nhất. Từ năm 1962 đến 1964, ông đi học tại Moscow, và sau khi trở lại Palestine, năm 1975 ông được bầu làm thị trưởng thành phố Nazareth, một chiến thắng mà nhà nước Israel vô cùng gai mắt và cảm thấy đe doạ. Ông đã gây áp lực lên nhà nước Israel về cách đối xử bất công với người dân Palestine, tại Israel và cả lãnh thổ Palestine bị chiếm đóng. Ông qua đời năm 1994 khi vẫn còn đang nhậm thức thị trưởng.