Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Tư, 23 tháng 7, 2025

Một tóm tắt về các chế độ hậu cộng sản (kỳ 13 - hết)

 Tác giả: Magyar Bálint – Madlovics Bálint

Bản tiếng Việt: Nguyễn Quang A

Nhà xuất bản Dân Khí – 2025

Moldova: Các Chu kỳ chế độ với sự Can thiệp nước Ngoài

Trong khi quỹ đạo chế độ của Moldova chia sẻ những sự giống nhau với các nước khác có các chu kỳ chế độ, câu chuyện của nó đầy những nét riêng đặc thù-quốc gia, chỉ ra bao nhiêu biến thể mà những kiểu chế độ nào đó có thể tạo ra ở mức các mạng lưới cá nhân. Một nước một hậu-Soviet bị đất liền bao quanh giữa Rumania và Ukraina, Moldova đã tuyên bố độc lập trong 1991, và mãi cho đến 2001 nó mới đối mặt với cố gắng thành công nào đó để xây dựng một mạng lưới có chỉ một-kim tự tháp. Hale chỉ ra rằng, trong khi nước này đã có một di sản bảo trợ mạnh và thậm chí một mạng lưới nông nghiệp/cựu cộng sản có vẻ chi phối, không một-kim tự tháp duy nhất nào được xây dựng trong thập niên đầu tiên sau chuyển đổi. Tổng thống Moldova đầu tiên, Mircea Snegur (1990-1997) rõ ràng đã thiếu tham vọng để tạo ra một mạng lưới patron-client chi phối, lệ thuộc,134 còn tổng thống thứ hai, Petru Lucinschi (1997-2001) “có vẻ đã có ý chí và kỹ năng lớn hơn nhiều khi nói đến sự bảo trợ chính trị […] nhưng những thay đổi thể chế [đặc biệt hiến pháp 1994, quy định một tổng thống-yếu] cuối cùng đã cho phép làm xói mòn cố gắng của ông để tạo ra hoặc một hệ thống có chỉ một-kim tự tháp hay một hiến pháp theo chế độ tổng thống mạnh.”135 Như thế, nước này đã vẫn là một nền dân chủ bảo trợ, với thậm chí mạng lưới ít nhiều chi phối đối mặt với sự phân mảnh nội bộ và thiếu một nhà bảo trợ chóp bu rõ ràng (Hình 36).

Trong 2001, Vladimir Voronin trở thành tổng thống và đảng chư hầu của ông, đảng những người Cộng sản của Cộng hòa Moldova (PCRM) giành được một đa số lập hiến trong các cuộc bầu cử quốc hội. Như Mizsei tường thuật, “sự ủy thác mạnh của Voronin có nghĩa rằng ông đã có thể dễ dàng xây dựng một hệ thống có chỉ một-kim tự tháp, bất chấp các cản trở hiến định với một chức tổng thống mạnh […]. Đầu tiên và trên hết—hơi giống Putin ở Nga—ông đã cắt cánh của các nhà tài phiệt ban đầu nhằm để cản họ khỏi việc hạn chế quyền lực của ông. […] Voronin đã phát triển các thị tộc tài phiệt của riêng mình. Từ góc nhìn của hôm nay, người khéo léo nhất trong số họ đã là Vlad Plahotniuc. Tuy vậy, trong đàu các năm 2000, ông ta gần như đã không phải là người chơi mạnh nhất quanh Voronin; thực ra, ông đã chỉ làm theo cách của mình để vào đoàn tùy tùng của tổng thống vào khoảng 2003. Ông có được ảnh hưởng của mình nhờ mối quan hệ kinh doanh với con trai của Voronin mà theo thời gian tỏ ra là cơ chế mạnh nhất để có được sự tiếp cận độc quyền đến các tài sản kinh doanh” (sự nhấn mạnh được thêm vào).136 Trong khi Plahotniuc muộn hơn sẽ trở thành một nhân vật quan trọng như nhà bảo trợ chóp bu, sự đột phá chuyên quyền của Voronin bị đảo ngược bằng các công cụ bầu cử trong 2009. Điều này đã là có thể chủ yếu bởi vì sự liên kết và tác dụng đòn bẩy Tây phương mạnh, với EU đại diện đối lập và—để chỉ nhắc đến một ví dụ—ngăn cản sự đóng cửa kênh truyền hình chính có cảm tình với đối lập ngay trước các cuộc bầu cử.137 Như một kết quả của sự can thiệp nước ngoài, nước này đã có thể kết thúc chu kỳ chế độ đầu tiên của nó và quay lại chế độ cạnh tranh của nền dân chủ bảo trợ.

Hình 36: Quỹ đạo được mô hình hóa của Moldova (1964-2022).

Ngay trong thời kỳ này, Plahotniuc đã khởi xướng kế hoạch của mình mà cuối cùng đưa ông lên vị trí của nhà bảo trợ chóp bu. Tuy vậy, nguồn gốc và phương pháp của ông để đạt vai trò của nhà bảo trợ chóp bu là độc nhất vô nhị trong vùng hậu-cộng sản. Thứ nhất, Plahotniuc đến không từ nomenklatura cũ, chẳng từ một nhóm sắc tộc cụ thể, cũng không từ lĩnh vực kinh tế. Đúng hơn, ông ta bắt nguồn từ thế giới ngầm có tổ chức: ông đã là một ông trùm tội phạm trước khi bước vào lĩnh vực chính trị, liên kết với vô số hoạt động bất chính như rửa tiền, thu tiền bảo kê, và buôn người.138 Ông đã trở thành một nhà tài phiệt dưới Voronin bằng việc cướp lấy sự kiểm soát đối với một số nhà máy, sân bay, khách sạn, cũng như các công ty đường sắt, viễn thông, media và tài nguyên thiên nhiên ở Moldova, giữa các doanh nghiệp khác.139 Thứ hai, trong khi “nhà bảo trợ chóp bu” về cơ bản là một tước vị phi-chính thức, những người muốn đạt nó thường trở thành người đứng đầu hành pháp, một tước vị chính thức mà phù hợp nhất trong thẩm quyền của nó với vai trò của nhà bảo trợ chóp bu và cũng báo hiệu vai trò lãnh đạo của ông ta đối với các nhóm elite.140 Tuy nhiên, Plahotniuc đã trở thành nhà bảo trợ chóp bu mà không trở thành người đứng đầu hành pháp, hay cũng như giữ bất cứ chức vụ lớn nào trong nhà nước. Quả thực, đã có thời khắc khi được đề cử [nhưng không được bổ nhiệm] làm thủ tướng, nhưng ông đã chẳng bao giờ đạt một vị trí cao hơn Phó Chủ tịch Quốc hội. Tuy nhiên, độc nhất trong các nước được thảo luận, ông đã tập hợp một mạng lưới bảo trợ chỉ một-kim tự tháp với các phương tiện phi-chính thức của kompromat và sự bắt giữ nhà nước trong một thời kỳ dài đáng kể: một cách có hệ thống ông đã tống tiền và/hoặc “mua” các diễn viên chính trị quan trọng để đạt các mục tiêu của ông. Dùng những kỹ thuật này, với tư cách một nhà chính phiệt ông đã tìm được cách bảo trợ hóa một số lớn các diễn viên tự trị, quan trọng nhất (1) đảng dân chủ Moldova, mà đã tham gia liên minh cầm quyền của thủ tướng Vladimir Filat sau các cuộc bầu cử 2009, (2) Tòa án hiến pháp, và (3) công tố viên trưởng.141 Ông đã dùng các công cụ này để vô hiệu hóa các đối thủ của ông, nhất là Filat, người cũng đã có các mục tiêu tài phiệt và đã đánh nhiều trận với Plahotniuc nhưng cuối cùng đã bị công tố viên dẫn ra khỏi quốc hội với tay bị còng vì các cáo buộc rửa tiền trong 2015.

Trong thời kỳ giữa 2016-2019, Moldova là một chế độ chuyên quyền bảo trợ, do Plahotniuc đứng đầu một cách phi-chính thức “từ ghế sau.” Một mặt, ông đã đạt sự độc quyền hóa quyền lực, mặc dù không bằng việc giành được một cách chính thức một đa số lập hiến mà bằng việc trở thành nhà bảo trợ phi-chính thức của những người then chốt vận hành các sự kiểm soát và đối trọng. Cấp tiền cho các thành viên của chính phủ và quốc hội từ của cải tư nhân của riêng ông, Plahotniuc cũng đã đạt những sự thay đổi đơn phương trong hệ thống bầu cử, thay đổi hệ thống tỷ lệ thành một hệ thống hỗn hợp trước các cuộc bầu cử 2019. Plahotniuc đã mở rộng sự kiểm soát của ông đối với các công tố viên, các thẩm phán và Ủy ban Bầu cử trung ương, cũng như Tổng thanh-điều tra Quốc gia và trung tâm Chống-Tham nhũng Quốc gia, mà được dùng để thu thập kompromat.142 Mặt khác, Plahotniuc cũng đã vượt trội trong sự tích tụ sự giàu có cá nhân. Một phân tích có tính hệ thống về mạng lưới của Plahotniuc được Sarah Chayes cung cấp, bà đã tham gia một dự án tại Carnegie Endowment for International Peace để vạch ra cấu trúc của các nhà nước đạo tặc quanh thế giới. Bà liệt kê các thành phần của mạng lưới của Plahotniuc như sau: (1) các thành phần chính phủ, kể cả Bộ Kinh tế mà đã dùng “kiểm tra hải quan và thuế để kỷ luật, gây cản trở, hay trừng phạt các doanh nghiệp cạnh tranh;” (2) các thành phần khu vực tư nhân, kể cả các ngân hàng, các nhà thầu xây dựng, các nhà môi giới về media, du lịch, bất động sản và công trình công ích; (3) các thành phần tội phạm, kể cả buôn lậu và các dịch vụ rửa tiền cho các mạng lưới Nga; và (4) các thành phần hỗ trợ tích cực, kẻ cả vô số công ty bình phong và những kẻ bù nhìn kinh tế.143 Nhiều báo cáo mô tả ông ta cũng dùng quyền lực đối với nhà nước, bộ máy tư pháp và viện công tố để thực hiện việc cướp bóc xám và trắng nữa,144 thêm sự săn mồi vào danh mục đầu tư của một nhà nước mà đã trở thành tội phạm, băng đảng, và gia sản rồi dưới thời ông. Tóm lại, Plahotniuc đã thành công lập ra một nhà nước mafia.

Tuy vậy, trong 2019, Plahotniuc đã không tìm được cách để nhận được một đa số tuyệt đối trong các cuộc bầu cử, trong khi hai đảng đối lập lớn cùng nhau đã có đủ ghế để đạt một đa số lập hiến và loại bỏ những người của Plahotniuc ra khỏi các vị trí nhà nước then chốt. Cuối cùng họ đã đồng ý để lập một liên minh chống lại Plahotniuc, thậm chí được Tổng thống Igor Dodon học trò của Plahotniuc ủng hộ, nhưng Tòa án hiến pháp phán quyết liên minh là bất hợp pháp và Dodon bị loại bỏ. Vào thời điểm này, nhà nước mafia của Plahotniuc có vẻ được miễn nhiễm đối với các cuộc tấn công trong nước—nhưng nó rõ ràng đã không có khả năng khắc phục tính dễ bị tổn thương của đất nước đối với sự can thiệp nước ngoài. Các lợi ích Mỹ, Âu châu và Nga đã trùng nhau trong thời khắc đầy kịch tính này vì các lý do rất khác nhau.145 Plahotniuc bị loại bỏ và một liên minh rất không ngờ của các đối thủ địa-chính trị và quản trị, khối ACUM của Maia Sandu và các nhà xã hội (chủ nghĩa) của Tổng thống Dodon đã tiếp quản. Nó hóa ra là tạm thời và, trong tháng Mười Một 2019, liên minh quả thực đã tan vỡ. Tổng thống Dodon lập một chính phủ thiểu số, được ủng hộ từ bên ngoài bởi tàn dư của Đảng dân chủ của Plahotniuc. Là không rõ bây giờ Plahotnicu bỏ trốn ra nước ngoài vẫn còn bao nhiêu sự kiểm soát đối với đảng của ông ta. Tuy vậy, sự đột phá dân chủ của Maia Sandu mà đã nhắm chính xác và rõ ràng để khắc phục nhà nước mafia, ít nhất tạm thời, đã hoàn tất. Không rõ Dodon bảo trợ hơn nhiều sẽ có khả năng xây dựng lại kim tự tháp bảo trợ trong một môi trường quốc tế nơi những người Âu châu và Hoa Kỳ tích cực chống sự khôi phục chế độ và xã hội dân sự đã có được kinh nghiệm có giá trị mang tính hệ thống trong sự thống trị của Plahotniuc. Trong các cuộc bầu cử 2020, Sandu đã có khả năng đánh bại Dodon đương nhiệm, mở đường cho sự biến đổi dân chủ thêm và, có lẽ, sự biến đổi chống-bảo trợ. Việc thực hiện thành công sự thay thế chế độ chiến thắng của Sandu vẫn còn một chặng đường dài để đi. Việc nhận địa vị ứng viên của EU dưới sự cam kết các cải cách cơ cấu sẽ có một tác động tích cực lên quá trình này, mặc dù Moldova được trao địa vị đó dưới bóng của sự xâm lược Nga 2022 vào Ukraina.

Gruzia: Một cố gắng để Phá vỡ Chu kỳ chế độ

Cuối cùng, chúng ta có thể quay sang trường hợp lạ kỳ của Gruzia (Hình 37). Hệt như Ukraina và Moldova, Gruzia đã là một nhà nước thành viên của Liên Xô cho đến khi nó giải tán trong 1991. Sau khi độc lập, nước này đối mặt với nhà nước thất bại và nội chiến, với luật và trật tự trong cảnh nguy hiểm và các mức tội phạm và bạo lực đường phố cao. Để ổn định đất nước, các lãnh chúa địa phương Jaba Ioseliani và Tengiz Kitovani đã mời cựu tổng bí thư đảng cộng sản Gruzi và cựu Bộ trưởng Ngoại giao Liên xô, Eduard Shevardnadze để giúp dập tắt các cuộc nổi dậy và trở thành người đứng đầu nhà nước sau một cuộc đảo chính quân sự chống lại tổng thống-đương nhiệm khi đó Zviad Gamsakhurdia. Một cách chính thức, Shevardnadze đã là Chủ tịch Quốc hội từ 1992 và được bàu làm tổng thống trong 1995, mà là năm ông bắt đầu thiết lập mạng lưới quyền lực có chỉ một-kim tự tháp với bản thân ông như nhà bảo trợ chóp bu. Hale lưu ý rằng với tư cách Chủ tịch (quốc hội), Shevardnadze đã bắt đầu rồi “quá trình hướng quyền lực chính thức của ông vào quyền lực phi-chính thức. Nhắm tới các cuộc bầu cử tiếp, ông đã lập ra một đảng, Liên hiệp công dân Gruzi, mà có thể được dùng như một phương tiện thể chế cho liên minh của ông […]. Nhấn mạnh tính trung tâm của chính mình, ông cũng đã đe dọa từ chức, thúc giục quốc hội (đang sợ nhiều lộn xộn hơn) để trao cho ông thêm quyền lực chính thức và thậm chí để đình chỉ các hoạt động của chính nó (quốc hội) trong một giai đoạn. […] Shevardnadze đã tìm các đồng minh hùng mạnh khác và đưa ra cho mỗi đồng minh lý do để đầu tư vào sự cai trị của ông [, kể cả] bộ máy vùng của Aslan Abashidze trong khu tự trị Ajara [và] các hoạt động kinh tế ngầm của Bộ Nội vụ của Kakha Targamadze.”146 Theo Mizsei, nhà nước dưới Shevardnadze “hoạt động giống hầu hết các nước CIS, với những người thân cận với Shevardnadze, kể cả các thành viên gia đình của ông, có được các quyền độc quyền kinh tế lớn, kể cả trong buôn bán dầu và gas.”147

Tuy vậy, Shevardnadze đạt được chỉ sự đột phá chuyên quyền nhưng không sự củng cố chuyên quyền. Tức là, xã hội dân sự đã vẫn rất tích cực dưới sự cai trị của ông, với sự tự trị tương đối mạnh của media, của các doanh nhân và các công dân. Điều này làm cho Cách mạng hoa Hồng trong 2003 là có thể, mà đã nổ ra sau khi chiến thắng bầu cử của Shevardnadze được công bố trước khi các phiếu được kiểm. Hai ngày sau những cuộc biểu tình nghi vấn tính chính danh quy mô lớn bắt đầu ở Tbilisi, nhà lãnh đạo đối lập Mikheil Saakashvili và những người ủng hộ ông đã xông vào tòa nhà quốc hội. Shevardnadze được sơ tán và mau chóng từ chức, rời đất nước đi Moscow. Saakashvili đã thắng các cuộc bầu cử lặp lại trong 2004 với 96% số phiếu bàu.148

Hình 37: Quỹ đạo được mô hình hóa của Gruzia (1964-2022).

Trong khi chủ nghĩa bảo trợ đã không diệt vong sau cách mạng, chính phủ Saakashvili đã có một cố gắng độc đáo cho một sự biến đổi chống-bảo trợ. Quả thực bản thân ông không tránh hoàn toàn được chủ nghĩa bảo trợ, đã được các nhà tài phiệt chính như Bidzina Ivanishvili ủng hộ. Nhưng sau Cách mạng hoa Hồng, Saakashvili “đã kết hợp […] cuộc đấu tranh đích thực và dũng cảm chống lại tội phạm có tổ chức và tham nhũng, và một cố gắng libertarian (tự do chủ nghĩa) để thu hẹp phạm vi và mức độ của nhà nước lại.”149 Chương trình rõ ràng được ý thức hệ-dẫn dắt của Saakashvili đã tỏ ra là chống-bảo trợ bởi vì nó làm giảm hệ thống quyền lực&quyền sở hữu bằng việc loại bỏ thành phần quyền lực.150 Việc nhận ra rằng quyền lực một cách tự động ngấm với quyền sở hữu và các định chế công dễ bị các mạng lưới phi-chính thức bắt giữ, Saakashvili “đã mang lại sự bãi bỏ quy định toản diện mà các đối tác Tây phương đã không luôn luôn hiểu, vì họ thiếu sự đánh giá cao ngữ cảnh của các cải cách này. Hai biện pháp rất dễ thấy đã xảy ra trong 2005–2006, khi các cơ quan an tòan xe hơi và thực phẩm bị loại bỏ, vì chúng đã không quan tâm đến an toàn xe hơi và thực phẩm mà đã chỉ là các ổ tham nhũng. […] Các cú sốc ban đầu về việc loại bỏ các định chế rối loạn chức năng, ký sinh này, cũng như các cơ quan khác, đã thường bị các đối tác quốc tế coi như ‘quá đáng’ và thậm chí ‘điên rồ.’ Thực ra, chính xác tính triệt để này đã là một nhân tố lõi trong các cải cách kích sự thay đổi thật chứ không phải sự thay đổi trang trí đơn thuần”151 Hơn nữa, “các nhà chức trách đã rất nghiêm khắc với tội phạm và tham nhũng. Các bản án đã khắc nghiệt và sso người trong tù tăng lên. Điều này đã thật cốt yếu để phá kỳ vọng sống sót mãi của nhà nước tội phạm; nó đã gửi thông điệp rằng sự không có sự dung thứ nào đối với tội phạm và tham nhũng.”152 Những cải cách này cũng thành công trong làm giảm tham nhũng thị trường tự do và chủ nghĩa thân hữu nữa, đặc biệt trong việc xử lý bộ máy quan liêu nhà nước, hệ thống giáo dục, chăm sóc sức khỏe, sự thực thi pháp luật, và bộ máy tư pháp.153

Mặt khác, sự biến đổi chống-bảo trợ đã không kết hợp với sự biến đổi dân chủ, dẫn đến một sự nối tiếp tới nền chuyên quyền bảo thủ. Mizsei tường thuật, “thời kỳ này đã không tạo ra […] sự tách biệt rõ ràng của quyền lực hành pháp và tư pháp, một thành phần then chốt của luật trị (nhà nước pháp quyền). […] Chủ nghĩa đa nguyên media đã chịu thiệt hại sau vụ Imedi 2007, nơi cảnh sát dùng bạo lực để giải tán biểu tình, rồi chính phủ ra lệnh đóng cửa các đài truyền hình Imedi và cảnh sát đã hủy hoại thiết bị trong studio trung tâm của chúng. [Những người kinh doanh] liên kết với chế độ trước thường bị đưa vào nhà tù và thả ra sau khi cam kết trả tiền. Tại thời điểm đó, nó đã là phi-chính thức thuần túy và thậm chí đã có thể được biện minh bởi nhu cầu tài chính khẩn cấp của nhà nước cách mạng, mới. Sự tùy tiện này, tuy vậy, đã chẳng bao giờ thực sự chấm dứt. […] Saakashvili […] nghĩ họ có thể đi lối tắt tới việc cải cách nhà nước.”154 Trong khi những cải cách tư pháp của Saakashvili—mà, trong pha ban đầu, dẫn đến sự tập trung đến mức cá nhân tổng thống chủ trì hội đồng thẩm phán—không chỉ là tư lợi nhưng đáp ứng với thực tế địa phương về tội phạm có tổ chức đồ sộ, cuối cùng chúng đã trở thành nguồn của những sự lạm dụng quyền lực quan trọng.155

Chế độ độc đoán cạnh tranh của Saakashvili cuối cùng đã bị đánh bại bởi bởi bản thân Ivanishvili trong 2012, đưa đất nước quay lại với một địa vị bảo trợ hơn một chút.156 Như Mizsei lưu ý, là một hiện tượng hiếm trong thế giới bảo trợ hậu-Soviet rằng một sự chuyển đổi quyền lực hòa bình, dựa vào-bầu cử đã xảy ra từ Saakashvili và đảng Phong trào Dân tộc Thống nhất (UNM) của ông sang cho đối lập.157 Với Saakashvili đóng vai vịt què không được ưa chuộng, Gruzia—như Hale viết—xuất hiện với một “tình huống những kim tự tháp cạnh tranh rõ rệt.”158

Điều này dường như đã thay đổi khi, sau khi sửa đổi hệ thống bầu cử tới một hướng đa số mạnh mẽ, đảng Ước mơ Gruzi cầm quyền đã đạt một đa số lập hiến trong 2016. Tuy vậy, vào 2022, việc này đã không thiếp theo bởi sự củng cố chuyên quyền, cũng chẳng bởi một cố gắng rõ ràng để thiết lập một mạng lưới bảo trợ có chỉ một-kim tự tháp. Cường độ cạnh tranh và vô số cuộc biểu tình (nghi vấn tính chính danh) gợi ý nền dân chủ bảo trợ hơn là chế độ chuyên quyền.159 Ngoài ra, ba làn sóng cải cách bộ máy tư pháp (2012-2019) đã làm tăng tính minh bạch của hệ thống và sự độc lập tư pháp, hạn chế các quy tắc chuyển các thẩm phán từ một tòa án đến tòa án khác và việc đưa vào sự phân công điện tử ngẫu nhiên của các vụ.160 Bất chấp sự chỉ trích từ phía xã hội dân sự,161 cả rằng chính phủ áp dụng diễn ngôn (rhetoric) dân túy mạnh, ma quỷ hóa Saakashvili,162 những cải cách được nhắc tới ở trên cho biết các bước tiến tới tính chuẩn tắc thay vì việc mở rộng phạm vi tùy ý như lẽ ra là điển hình cho một diễn viên bảo trợ với siêu đa số.

Ghi chú

Về danh sách văn liệu đầy đủ được dùng, xem thư mục của The Anatomy of Post-Communist Regimes [Giải phẫu các Chế độ Hậu-Cộng sản] (sẵn có trên website của các tác giả, và qua QR-code trên trang này).

Estonia

1 David Smith, Estonia: Independence and European Integration (Oxford ; New York: Routledge, 2013).

2 Dorothee Bohle and Béla Greskovits, Capitalist Diversity on Europe’s Periphery, 1st ed. (Ithaca: Cornell University Press, 2012), 96–137.

3 Smith, Estonia, 65.

4 Steven Levitsky and Lucan Way, Competitive Authoritarianism: Hybrid Regimes after the Cold War (Cambridge University Press, 2010), 14.

5 “Freedom in the World: Country and Territory Ratings and Statuses, 1973-2019 (Excel)” (Freedom House,2019), https://freedomhouse.org/sites/default/files/ Country_and_Territory_Ratings_and_Statuses_FIW1973-2019.xls.

6 Michael Coppedge et al., “V-Dem Country-Year Dataset 2019” (Varieties of Democ-racy (V-Dem) Project, 2019), https://www.v-dem.net/en/data/data-version-9/.

7 Henry E. Hale, Patronal Politics: Eurasian Regime Dynamics in Comparative Perspective (Cambridge: Cambridge University Press, 2015), 459–60.

8 Vello Pettai, “Understanding Politics in Estonia: The Limits of Tutelary Transition,” in Pathways: A Study of Six Post-Communist Countries, ed. Karin Hilmer Pedersen and Lars Johannsen (ISD LLC, 2009), 69–87.

9 Evald Mikkel, “Patterns of Party Formation in Estonia: Consolidation Unaccom-plished,” in Post-Communist EU Member States: Parties and Party Systems, ed. Susanne Jungerstam-Mulders, 1 edition (Aldershot ; Burlington, VT: Routledge, 2006), 23–49.

10 Rein Taagepera, “Baltic Values and Corruption in Comparative Context,” Journal of Baltic Studies 33, no. 3 (2002): 243–58.

11 Vello Pettai and Pille Ivask, “Estonia,” Nations in Transit 2018 (Freedom House, 2018), https://freedomhouse.org/sites/default/files/NIT2018_Estonia.pdf.

12 Ott Lumi, “Comparative Insight into the Status of the Lobbying Regulation Debate in Estonia,” Journal of Public Affairs 15, no. 3 (2015): 300–310.

13 Mikkel, “Patterns of Party Formation in Estonia: Consolidation Unaccomplished.”

14 Martin Ehala, “The Bronze Soldier: Identity Threat and Maintenance in Estonia,” Journal of Baltic Studies 40, no. 1 (March 1, 2009): 139–58.

15 Vassilis Petsinis, “Identity Politics and Right-Wing Populism in Estonia: The Case of EKRE,” Nationalism and Ethnic Politics 25, no. 2 (2019): 211–30.

 

Rumania

16 Stephen D. Roper, Romania: The Unfinished Revolution (London: Routledge, 2004).

17 Roper, 13–64.

18 László Nándor Magyari, “The Romanian Patronal System of Public Corruption,” in Stubborn Structures: Reconceptualizing Post-Communist Regimes, ed. Bálint Magyar (Budapest–New York: CEU Press, 2019), 311.

19 Hale, Patronal Politics, 462. Also, xem Milada Anna Vachudova, Europe Undivided: Democracy, Leverage, and Integration after Communism (Oxford: Oxford Univer-sity Press, 2005).

20 Magyari, “The Romanian Patronal System of Public Corruption,” 309–10.

21 Magyari, 311.

22 Dragoş Dragoman, “Post-Accession Backsliding: Non-Ideologic Populism and Democratic Setbacks in Romania,” South-East European Journal of Political Sci-ence 1, no. 3 (2013): 27–46.

23 Magyari, “The Romanian Patronal System of Public Corruption,” 311.

24    Silvia Marton, “Regime, Parties, and Patronage in Contemporary Romania,” in Brave New Hungary: Mapping the “System of National Cooperation,” ed. János Mátyás Kovács and Balázs Trencsényi (Lanham: Lexington Books, 2019), 357–78.

 

Kazakhstan

25 James Minahan, Miniature Empires: A Historical Dictionary of the Newly Independent States (Westport: Greenwood Publishing Group, 1998), 136.

26 Hale, Patronal Politics, 139–40.

27 Sally Cummings, Kazakhstan: Power and the Elite (London ; New York: I.B. Tauris, 2005).

28 Hale, Patronal Politics, 140.

29 Rico Isaacs, Party System Formation in Kazakhstan : Between Formal and Informal Politics (London: Routledge, 2011).

30 Hale, Patronal Politics, 250.

31         “Nazarbayev’s Christmas Tree,” accessed November 21, 2018, https://www.elka-na-zarbaeva.net/en/.

32 “The Chart of N. Nazarbayev’s Family OCG,” accessed November 21, 2018, https://www.elka-nazarbaeva.net/en/scheme1.jpg.

33 Sebastien Peyrouse, “The Kazakh Neopatrimonial Regime: Balancing Uncertain-ties Among the ‘Family,’ Oligarchs and Technocrats,” Demokratizatsiya 20, no. 4 (Fall 2012): 345–70.

34 “In Kazakhstan’s Street Battles, Signs of Elites Fighting Each Other,” The Straits Times, January 8, 2022, https://www.straitstimes.com/world/in-kazakhstans-street-batt- les-signs-of-elites-fighting-each-other.

35 Hale, Patronal Politics, 243–48.

36 Hale, 243.

 

Trung Quốc

37 Samuel P. Huntington, The Third Wave: Democratization in the Late 20th Century (Norman: University of Oklahoma Press, 1993), 105–6.

38 Susan L. Shirk, The Political Logic of Economic Reform in China (Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1993), 38.

39 Minxin Pei, From Reform to Revolution: The Demise of Communism in China and the Soviet Union (Cambridge ; London: Harvard University Press, 2009), 84. Đáng nhắc đến cuộc Tàn sát Quảng trường Thiên An Môn ba năm trước đó, mà cho biết rõ ràng rằng sự tự do hóa kinh tế ở Trung Quốc sẽ không đi cùng với sự tự do hóa chính trị. Xem White, “Democratization and Economic Reform in China.”

40 Iván Szelényi and Péter Mihályi, Varieties of Post-Communist Capitalism: A Comparative Analysis of Russia, Eastern Europe and China, Studies in Critical Social Sciences (Leiden ; Boston: Brill Academic Pub, 2019), 198.

41 Robin Brant, “Why Is Jack Ma a Communist Party Member?,” BBC News, November 27, 2018, sec. Business, https://www.bbc.com/news/business- 46353767.

42 Brant.

43 Sebastian Heilmann, ed., China’s Political System (Lanham: Rowman & Littlefield, 2016).

44 Roya Ensafi et al., “Analyzing the Great Firewall of China Over Space and Time,”

Proceedings on Privacy Enhancing Technologies 2015, no. 1 (April 1, 2015): 61–76.

45 Xiao Qiang, “President Xi’s Surveillance State,” Journal of Democracy 30, no. 1 (January 9, 2019): 53–67.

46 “China Invents the Digital Totalitarian State,” The Economist, December 17, 2016, https://www.economist.com/briefing/2016/12/17/china-invents-the-digital-tota-litarian-state.

47 Qiang, “President Xi’s Surveillance State,” 53–54. Xem cả, Rachel Botsman, “Big Data Meets Big Brother as China Moves to Rate Its Citizens,” Wired UK, October 21, 2017, https://www.wired.co.uk/article/chinese-government-social-credit-sco-re-privacy-invasion.

48 Elizabeth C. Economy, “China’s Imperial President: Xi Jinping Tightens His Grip,” Foreign Affairs, no. 6 (2014): 80–91.

49 Sebastian Heilmann, “3.1. The Center of Power,” in China’s Political System, ed. Sebastian Heilmann (Lanham: Rowman & Littlefield, 2016), 161.

 

Cộng hòa Czech

50 Hale, Patronal Politics, 60.

51 Hale, 459.

52 “Freedom in the World: Country and Territory Ratings and Statuses, 1973-2019 (Excel).”

53 Coppedge et al., “V-Dem Country-Year Dataset 2019.”

54 Tim Haughton, Tereza Novotná, and Kevin Deegan-Krause, “The 2010 Czech and Slovak Parliamentary Elections: Red Cards to the ‘Winners,’” West European Politics 34, no. 2 (March 1, 2011): 394–402.

55 Andrew Roberts, “Czech Democracy in the Eyes of Czech Political Scientists,” East European Politics 33, no. 4 (2017): 562–72.

56 Abby Innes, “Corporate State Capture in Open Societies: The Emergence of Corporate Brokerage Party Systems,” East European Politics and Societies 30, no. 3 (August 1, 2016): 594–620.

57  Seán Hanley and Milada Anna Vachudova, “Understanding the Illiberal Turn: Democratic Backsliding in the Czech Republic,” East European Politics 34, no. 3 (July 3, 2018): 285.

58 Thuật ngữ “linh hồn chết” nhắc đến tiểu thuyết của Gogol có cùng tiêu đề, nhưng nó được dùng thậm chí bởi Tòa án Hiến pháp Czech cho hiện tượng đó. Xem Ústavní soud, “Nález II: ÚS 1969/10 z 27. Prosince 2011.,” 2011, http://nalus.usoud.cz/Search/ ResultDetail.aspx?id=72560.

59 Michal Klíma, Informal Politics in Post-Communist Europe: Political Parties, Clientelism and State Capture, 1 edition (Routledge, 2019), 10.

60 Hanley and Vachudova, “Understanding the Illiberal Turn,” 284.

61 Hanley and Vachudova, 285–387.

62 Hanley and Vachudova, 277.

63 Hanley and Vachudova, 288.

64 Hanley and Vachudova, 287.

65 “Billionaire Czech Prime Minister’s Business Ties Fuel Corruption Scandal,” DW.COM, June 25, 2019, https://www.dw.com/en/billionaire-czech-prime-ministers-business-ties-fuel-corruption-scandal/a-49351488-0.

66 “Czech Election Front-Runner Charged with Subsidy Fraud,” POLITICO, Octo-ber 9, 2017, https://www.politico.eu/article/czech-election-front-runner-charged-with-subsidy-fraud/.

 

Ba Lan

67 A. Kemp-Welch, Poland under Communism: A Cold War History (Cambridge: Cambridge University Press, 2008).

68 Jan Kubik, The Power of Symbols Against the Symbols of Power: The Rise of Solidar-ity and the Fall of State Socialism in Poland (Pennsylvania State University Press, 1994).

69 Kemp-Welch, Poland under Communism, 361–90.

70 Aleks Szczerbiak, “Power without Love: Patterns of Party Politics in Post-1989 Poland,” in Post-Communist EU Member States: Parties and Party Systems, ed. Su-sanne Jungerstam-Mulders (New York: Routledge, 2006), 91–124.

71 Leszek Balcerowicz, “Poland: Stabilization and Reforms under Extraordinary and Normal Politics,” in The Great Rebirth: Lessons from the Victory of Capitalism over Communism, ed. Anders Åslund and Simeon Djankov (Washington, DC: Peter-son Institute for International Economics, 2014), 17–38.

72 Wojciech Sadurski, Poland’s Constitutional Breakdown (Oxford: Oxford University Press, 2019).

73 Piotr Kozarzewski and Maciej Bałtowski, “Return of State-Owned Enterprises in Poland” (Paper presented at Seventh Annual Conference of the Leibniz Institute for East and Southeast European Studies, Regensburg, Germany, May 30, 2019).

74 Robert Sata and Ireneusz Pawel Karolewski, “Caesarean Politics in Hungary and Poland,” East European Politics, December 19, 2019, 1–20.

75 Sadurski, Poland’s Constitutional Breakdown, 140–43.

76 Về một phân tích so sánh chi tiết hơn về Ba Lan và Hungary, xem Bálint Magyar, “Parallel System Narratives: Polish and Hungarian Regime Formations Compared,” in Stubborn Structures: Reconceptualizing Post-Communist Regimes, ed. Bálint Magyar (Budapest–New York: CEU Press, 2019), 611–55.

Hungary

77 József Ö. Kovács, “The Forced Collectivization of Agriculture in Hungary, 1948-1961,” in The Collectivization of Agriculture in Communist Eastern Europe: Com-parison and Entanglements, ed. Constantin Iordachi and Arnd Bauerkamper (Budapest–New York: CEU Press, 2014), 211–47. Vì sự đơn giản và bởi vì mục đích của chúng tôi chỉ là minh họa, không phải làm tư liệu lịch sử, chúng tôi không mô tả Cách mạng 1956 trong tam giác như một điểm mới.

78 János Kornai, “Paying the Bill for Goulash Communism: Hungarian Develop-ment and Macro Stabilization in a Political-Economy Perspective,” Social Research 63, no. 4 (1996): 943–1040.

79 Péter Vámos, “A Hungarian Model for China? Sino-Hungarian Relations in the Era of Economic Reforms, 1979–89,” Cold War History 18, no. 3 (July 3, 2018): 361–78; Mária Csanádi, “The ‘Chinese Style Reforms’ and the Hungarian ‘Goulash Communism’” (Discussion Paper; Centre for Economic and Regional Studies, Hungarian Academy of Sciences, 2009), http://econ.core.hu/file/download/mtdp/ MTDP0903.pdf.

80 András Bozóki, “Hungary’s Road to Systemic Change: The Opposition Roundtable,” East European Politics and Societies 7, no. 2 (March 1, 1993): 276–308.

81 Quoted by Tamás Sárközy, Illiberális Kormányzás a Liberális Európai Unióban: Poli-tikailag Igen Sikeres Túlhajtott Plebejus Kormányzás – a Harmadik Orbán-Kormány, 2014-2018 [Illiberal Governance in the Liberal European Union: Politically Very Suc-cessful Overdone Plebeian Governance – the Third Orbán Government, 2014-2018] (Budapest: Libri Kiadó, 2019), 62–65.

82 Magyar Bálint, “Magyar polip – a szervezett felvilág,” Magyar Hírlap, February 21, 2001.

83 Takis S. Pappas, “Populist Democracies: Post-Authoritarian Greece and Post-Communist Hungary,” Government and Opposition 49, no. 1 (2014): 1–23.

84 Attila Mong, Milliárdok Mágusai: A Brókerbotrány Titkai [Mages of Billions: The Secrets of the Brokerage Scandal] (Budapest: Vízkapu, 2003).

85 Về một thảo luận toàn diện, xem Bálint Magyar, Post-Communist Mafia State: The Case of Hungary (Budapest: CEU Press, 2016).

86 Kim Lane Scheppele, “Orban’s Emergency,” Verfassungsblog (blog), March 29, 2020, https://verfassungsblog.de/orbans-emergency/.

87 András Bódis, “Amíg Ön a Járványra Figyelt, a NER Bevette Az Országot [While You Were Being Occupied with the Pandemic, the NER Took over the Country],” Válasz Online, January 28, 2021, https://www.valaszonline.hu/2021/01/28/ amig-on-a-jarvanyra-figyelt-a-ner-bevette-az-orszagot-leltar-a-hazavitt-strategi-ai-agazatokrol/.

 

Nga

88 Peter Pomerantsev, Nothing Is True and Everything Is Possible (New York: Public Affairs, 2014), 71.

89 János Kornai, “The System Paradigm Revisited: Clarification and Additions in the Light Of Experiences in the Post-Communist Region,” in Stubborn Structures: Reconceptualizing Post-Communist Regimes, ed. Bálint Magyar (Budapest–New York: CEU Press, 2019), 23–35.

90 Csaba László, Válság-gazdaság-világ: Adalék Közép-Európa három évtizedes gaz-daságtörténetéhez (1988-2018) [Crisis-economy-world: Additions to the economic history of the last three decades of Central Europe (1988-2018)] (Budapest: Éghajlat Könyvkiadó, 2018), 53–55.

91 Cf. Anders Åslund, How Russia Became a Market Economy (Washington, D.C: Brookings Inst Pr, 1995).

92 Hale, Patronal Politics, 110–15; David E. Hoffman, The Oligarchs: Wealth And Power In The New Russia, Revised, Updated ed. edition (New York, NY: PublicAf-fairs, 2011).

93 Hale, Patronal Politics, 135.

94 Hale, 270–74.

95 Ben Judah, Fragile Empire: How Russia Fell In and Out of Love with Vladimir Putin (New Haven ; London: Yale University Press, 2014), 55.

96 Judah, 43.

97 Richard Sakwa, “Putin and the Oligarchs,” New Political Economy 13, no. 2 (June 2008): 185–91. Browder cũng mô tả tác động gây ớn lạnh của vụ Khodorkovsky lên các nhà tài phiệt khác, những người được cho là đã trao một phần đáng kể tài sản của họ sang quyền sở hữu de facto của Putin. Ngoài ra, cuộc thập tự chinh của riêng Browder chống lại các nhà tài phiệt Nga đã được Putin ủng hộ và sử dụng, nhưng chỉ cho đến khi Putin đã có thể khuất phục các nhà tài phiệt, “[củng cố] quyền lực của ông, và, theo nhiều ước lượng, đã trở thành người giàu nhất trên thế giới.” Bill Browder, Red Notice: A True Story of High Finance, Murder, and One Man’s Fight for Justice (New York: Simon & Schuster, 2015), 157–63.

98 Hale, Patronal Politics, 276–91.

99 Julia Gerlach, Color Revolutions in Eurasia (London: Springer, 2014), 22–24.

100 Grigory Yavlinsky, The Putin System: An Opposing View (New York: Columbia University Press, 2019), 66–80.

101 Alexei Navalny, Дворец Для Путина. История Самой Большой Взятки [Putin’s Palace. History of World’s Largest Bribe], 2021, https://www.youtube.com/watch?- v=ipAnwilMncI..

102 “Data Scientist Claims ‘Staggering’ Fraud at Russia’s Constitution Vote” The Moscow Times, July 3, 2020, https://www.themoscowtimes.com/2020/07/03/da- ta-scientist-claims-staggering-fraud-at-russias-constitution-vote-a70769.

103 Françoise Thom, “What Does the Russian Ultimatum to the West Mean?,” Desk Russie (blog), December 30, 2021, https://en.desk-russie.eu/2021/12/30/ what-does-the-russian-ultimatum.html.

104 Amiah Taylor and Tristan Bove, “Meet the Russian Billionaires and Elites Who Just Got Hit with Sanctions,” Fortune, February 23, 2022, https://fortune.com/2022/02/23/meet-the-russian-billionaires-elites-sanctions/.

 

Ukraina

105 Mikhail Minakov, “Republic of Clans: The Evolution of the Ukrainian Political System,” in Stubborn Structures: Reconceptualizing Post-Communist Regimes, ed. Bálint Magyar (Budapest–New York: CEU Press, 2019), 220–28.

106 Minakov, 228–34.

107 Kálmán Mizsei, “The New East European Patronal States and the Rule-of-Law,” in Stubborn Structures: Reconceptualizing Post-Communist Regimes, ed. Bálint Magyar (Budapest–New York: CEU Press, 2019), 537.

108 Hale, Patronal Politics, 148; Valerie J. Bunce and Sharon L. Wolchik, Defeating Authoritarian Leaders in Postcommunist Countries, 1 edition (Cambridge: Cam-bridge University Press, 2011), 115–22.

109 Hale, Patronal Politics, 182–90.

110 Yushchenko nắm quyền lực cho đến tháng Hai 2010, vì thế chúng tôi bao gồm 2010 vào thời kỳ của Yanukovich mà thay thế ông và cai trị phần lớn năm đó (hình chỉ có năm, do bản chất minh họa của quỹ đạo chế độ, chứ không có ngày tháng chính xác).

111 Hale, Patronal Politics, 325–31.

112 Vladimir Dubrovskiy et al., “Six Years of the Revolution of Dignity: What Has Changed?” (Kyviv: CASE Ukraine, June 2020), 23, https://case-ukraine.com.ua/ content/uploads/2020/06/6-years-of-the-Revolution-of-Dignity_v-02_06.pdf.

113 Dubrovskiy et al., “Six Years of the Revolution of Dignity,” 61–81.

114 “Despite Violence and Threats in East, Ukraine Election Characterized by High Turnout and Resolve to Guarantee Fundamental Freedoms, International Observers Say,” OSCE, May 26, 2014, https://www.osce.org/odihr/elections/119081.

115 Wojciech Konończuk, “Oligarchs after the Maidan: The Old System in a ‘new’ Ukraine,” Policy Paper, OSW Commentary, 2015.

116 Mizsei, “The New East European Patronal States and the Rule-of-Law,” 584. Mizsei cũng thảo luận chi tiết lời mời ban đầu của các nhà cải cách (kể cả các nhà cải cách Gruzi) và những người sau ngăn cản những cổ gắng cải cách (pp. 583-599).

117 Dubrovskiy et al., “Six Years of the Revolution of Dignity,” 52.

118 Andrew E. Kramer, “Oligarch’s Return Raises Alarm in Ukraine,” The New York Times, May 16, 2019, sec. World.

119 Vladimir Dubrovskiy, “Ukraine after 2019 Elections: Prospects for the Rule of Law” (“Partners in Eastern Europe: Multiple Crossroads” Conference, Budapest, December 9, 2019).

120 Dubrovskiy et al., “Six Years of the Revolution of Dignity,” 13–15.

 

Bắc Macedonia

121 Nước này được chính thức đặt tên lại là Bắc Macedonia trong 2019, trong khi tên chính thức trước kia là Cộng hòa Macedonia thuộc Nam Tư.

122 Hale, Patronal Politics, 641.

123 William Crowther, “Ethnic Condominium and Illiberalism in Macedonia,” East European Politics and Societies 31, no. 4 (2017): 743–44.

124 Levitsky and Way, Competitive Authoritarianism, 124–28.

125 Crowther, “Ethnic Condominium and Illiberalism in Macedonia,” 749.

126 Crowther, 745.

127 Hale, Patronal Politics, 641.

128 Crowther, “Ethnic Condominium and Illiberalism in Macedonia,” 751.

129 Ljubica Spaskovska, “From Feudal Socialism to Feudal Democracy -the Trials and Tribulations of the Former Yugoslav Republic of Macedonia,” OpenDemocracy (blog), July 23, 2014, https://www.opendemocracy.net/en/can-europe-make-it/ from-feudal-socialism-to-feudal-democracy-trials-and-tribulati/.

130 Crowther, “Ethnic Condominium and Illiberalism in Macedonia,” 751–54.

131 Xem cả  Cengiz Günay and Vedran Dzihic, “Decoding the Authoritarian Code: Exercising ‘Legitimate’ Power Politics through the Ruling Parties in Turkey, Macedonia and Serbia,” Southeast European and Black Sea Studies 16, no. 4 (2016): 529–49.

132 Crowther, “Ethnic Condominium and Illiberalism in Macedonia,” 754–56.

133 Shaun Walker, “Anti-Asylum Orbán Makes Exception for a Friend in Need,” The Guardian, November 20, 2018, sec. World news, https://www.theguardian.com/ world/2018/nov/20/anti-asylum-orban-makes-exception-for-a-friend-in-need; Eva S. Balogh, “Further Thoughts on the Gruevski Affair,” Hungarian Spectrum (blog), November 17, 2018, https://hungarianspectrum.org/2018/11/16/further-thoughts-on-the-gruevski-affair/.

 

Moldova

134 Hale, Patronal Politics, 168–69.

135 Hale, 170.

136 Mizsei, “The New East European Patronal States and the Rule-of-Law,” 541–42.

137 Mizsei, 566.

138 Aaron Miller, Moldova under Vladimir Plahotniuc: Corruption and Oligarchy (Tel-Aviv: Studio Igal Rozental Ltd., 2018).

139 Miller, 44.

140 Hale, Patronal Politics, 76–82.

141 Miller, Moldova under Vladimir Plahotniuc, 52–61; Mizsei, “The New East Euro-pean Patronal States and the Rule-of-Law,” 566–76.

142 Sarah Chayes, “The Structure of Corruption: A Systemic Analysis,” in Stubborn Structures: Reconceptualizing Post-Communist Regimes, ed. Bálint Magyar (Buda-pest–New York: CEU Press, 2019), 507–30.

143 Figures C.2-5 in Chayes.

144 Miller, Moldova under Vladimir Plahotniuc, 97–124.

145 Vladimir Solovyov, “Moldovan Regime Change Is Rare Example of Russian-West-ern Teamwork,” Carnegie Moscow Center (blog), June 19, 2019, https://carnegie. ru/commentary/79333.

 

Gruzia

146 Hale, Patronal Politics, 152.

147 Mizsei, “The New East European Patronal States and the Rule-of-Law,” 547.

148 Gerlach, Color Revolutions in Eurasia, 6–9.

149 Mizsei, “The New East European Patronal States and the Rule-of-Law,” 547.

150 Mikheil Saakashvili and Kahka Bendukidze, “Georgia: The Most Radical Catch-Up Reforms,” in The Great Rebirth: Lessons from the Victory of Capitalism over Communism, ed. Anders Åslund and Simeon Djankov (Washington, DC: Peter-son Institute for International Economics, 2014), 149–63.

151 Mizsei, “The New East European Patronal States and the Rule-of-Law,” 550.

152 Mizsei, 548.

153 Huseyn Aliyev, “The Effects of the Saakashvili Era Reforms on Informal Practices in the Republic of Georgia,” Studies of Transition States and Societies VI, no. 1 (2014): 19–33.

154 Mizsei, “The New East European Patronal States and the Rule-of-Law,” 547–55.”

155 Dubrovskiy et al., “Six Years of the Revolution of Dignity,” 33.

156 Hale, Patronal Politics, 208–10.

157 Mizsei, “The New East European Patronal States and the Rule-of-Law,” 559.

158 Hale, Patronal Politics, 212. Xem cả Scott Radnitz, “In Georgia, Two Machines Are Better Than One,” Foreign Policy (blog), September 27, 2012, https://foreign-policy.com/2012/09/27/in-georgia-two-machines-are-better-than-one/.

159 Tatia Nikoladze, “Protests in Tbilisi Continue after Dispersal – Demonstrators Plan to Disrupt Parliament,” November 20, 2019, https://jam-news.net/protests-in-tbilisi-continue-after-dispersal-demonstrators-plan-to-disrupt-parliament/; Aaron Genin, “Georgian Protests: Tbilis’s Two-Sided Conflict,” The California Review, July 25, 2019, https://calrev.org/2019/07/25/russian-impiety-georgian-riots/.

160 Ekaterine Oniani, “Towards Strengthening the Rule of Law through Independent Judiciary: Georgian Experience” (“Partners in Eastern Europe: Multiple Cross-roads” Conference, Budapest, December 9, 2019).

161 Ana Abashidze et al., “The Judicial System: Past Reforms and Future Perspectives” (Tbilisi: Coalition for Independent and Transparent Judiciary, 2017), http://coali-tion.ge/files/the_judicial_system.pdf.

162 Ani Chkhikvadze, “Georgian Dream’s Pyrrhic Victory,” The American Interest (blog), December 18, 2018, https://www.the-american- interest.com/2018/12/18/georgian-dreams-pyrrhic-victory/.

Về các tác giả

 MAGYAR BÁLINT (sinh 1952) là một nhà xã hội học, nhà hoạt động nổi tiếng ở Hungary trước 1989, chính trị gia sau 1989, hiện nay là nhà nghiên cứu cấp cao tại Viện Dân chủ của CEU. Một nhà hoạt động của phong trào phản biện chống-cộng sản kể từ 1979, ông là một trong các thành viên sáng lập và nhà lãnh đạo của Đảng Tự do Hungari (SZDSZ). Ông là một cựu đại biểu Quốc hội (1990–2010) và Bộ trưởng Giáo dục (1996–1998, 2002–2006). Các sách tiếng Anh trước của ông gồm Nhà nước mafia Hậu-Cộng sản: Trường hợp Hungary (Communist Mafia State: The Case of Hungary) (2016) và Giải phẫu các Chế độ Hậu-cộng sản (The Anatomy of Post-Communist Regimes) (2020).

MADLOVICS BÁLINT (sinh 1993) là một nhà nghiên cứu trẻ tại Viện Dân chủ CEU. Madlovics là một nhà khoa học chính trị, nhà kinh tế học, và nhà xã hội học. Một giáo sư thỉnh giảng tại Corvinus University of Budapest (2022–), ông là tác giả của nhiều chương sách, các ấn phẩm peer-reviewed, và các bình luận cho media online như Project Syndicate (bằng tiếng Anh) và media in ấn kể cả Élet és Irodalom (bằng tiếng Hungari). Ông đã là một giáo sư thỉnh giảng tại Eötvös Loránd University ở Budapest (2021). Cuốn sách tiếng Anh trước của ông là The Anatomy of Post-Communist Regimes (2020).