Người phụ trách Văn Việt:

Trịnh Y Thư

Web:

vanviet.info

Blog:

vandoanviet.blogspot.com

Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Hai, 2 tháng 6, 2025

Từ “Vòng tay học trò” của Nguyễn Thị Hoàng đến “Vòng tay học trò” của cậu bé Macron – Hiện tượng tiếp biến văn hóa những năm 1960 ở miền Nam: Yêu cô giáo và yêu người lớn tuổi

 Trần Xuân Kiêm

 

Trong cuốn Phản pbình Trần Thiện Đạo và Thụy Khuê về dịch phẩm Những Ruồi (Giai phẩm số 105, Thư Ấn Quán xuất bản. Virginia, 2023) khi đề cập cách dịch từ femme thành thiếu phụ, người viết đã lần lượt trình bày nhiều đề mục, trong đó có đề mục và các tiểu mục:

E.-Chuyển biến văn hóa: tương đồng văn hóa và du nhập văn hoá Pháp-Hoa-Việt

E1).-“Thiếu phụ” Việt Nam theo góc nhìn văn hóa và khoảng cách văn hóa trong dịch thuật

E1a).-Tương đồng văn hóa: tảo hôn

E1b).-Du nhập văn hóa: Truyền thống tình yêu thanh nhã “yêu người thiếu phụ” của Pháp thời Trung cổ

Đề mục E1c tiếp theo không liên quan đến chủ đề cuốn sách nói trên, nên đã được tách thành một bài riêng, đề cập đến hiện tượng “Kết nghĩa chị-em” và “Yêu người lớn tuổi”, “Yêu cô giáo”, “Yêu chị của bạn” tại miền Nam thời trước ngày thống nhất đất nước; và lấy tên dài dòng như trên.

A.-BỐI CẢNH KINH TẾ, VĂN HÓA VÀ XÃ HỘI

1.-Hòa bình lập lại sau 1954

Dù là hòa bình khập khễnh, vì sau đó chính quyền Ngô Đình Diệm do Mỹ và hồng y Spellman hỗ trợ dựng lên đã từ chối tổng tuyển cử thống nhất đất nước, nhưng trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó đã diễn ra những biến động lớn trong mọi mặt xã hội, đời sống, ngôn ngữ, ... Không còn chính sách “chia để trị” của Pháp (ví dụ, thời Pháp thuộc, đi từ miền Trung vào Sài Gòn phải xin giấy thông hành), dân các vùng nông thôn bị tàn phá vì gánh chịu chiến tranh chống Pháp ở miền Nam trước đây, nay đổ xô về thành phố, thị xã để tìm cơ hội mưu sinh và nhất là để bù đắp cho thời gian học tập bị mất mát do chiến tranh (chính quyền cho phép mở các lớp thất-lục, ngũ-tứ, ... học xong hai lớp trong một năm). Đồng bào miền Bắc di cư được bố trí vào các khu dinh điền với cơ sở hạ tầng được quy hoạch hợp lý đã ổn định và phát triển. Tất cả dựa vào viện trợ Mỹ dồi dào dưới dạng viện trợ thương mại khoảng 8,5 tỷ US$ theo thời giá 1975 [vào 2022, ước lượng theo CPI: nhân cho khoảng gần 6 lần: 51 tỷ US$] (dùng đô la viện trợ để nhập hàng hóa, máy móc,... từ Mỹ hay từ các nước (Nhật, Hàn,...) do Mỹ chỉ định; sau đó thu thuế nhập khẩu, thu tiền bán các hàng hóa, thiết bị đó cho các nhà nhập khẩu bằng tiền đồng miền Nam, tạo thành ngân sách quốc gia), và viện trợ quân sự gấp đôi viện trợ kinh tế khoảng 17 tỷ US$ theo thời giá 1975 [theo thời giá 2022: tương đương 102 tỷ US$] (gồm lương bổng và phụ cấp cho gia đình quân nhân, vũ khí, thiết bị, v.v.). Mức sống chung tăng nhanh nhờ đó, bình quân đầu người tăng 1,5-2%/năm. Và có thể nói đã hình thành một xã hội học tập với chính sách đề cao giáo dục: xây dựng trường sở, thi tuyển và cấp học bổng rất cao cho các sinh viên Cao đẳng Sư phạm, Đại học Sư phạm. Học bổng Đại học Sư phạm 1.500 đ/tháng có thể nuôi cả gia đình thời đó, cơm tháng 3 món 2 bữa giao tại nhà chỉ 150 đ/tháng/người, khi ra trường đi dạy Trung học được hưởng chỉ số lương 470, so với người cũng tốt nghiệp Đại học tại Học viện Quốc gia Hành chính khi ra trường làm công chức hưởng lương chỉ số 430, ba năm sau mới thăng lên chỉ số 470. [Trịnh Công Sơn tốt nghiệp trường Sư phạm Quy Nhơn, dạy Tiểu học ở B’lao, lương 5.200 đồng/tháng, hơn 1 cây vàng tính theo thời giá lúc đó. Hai năm sau (1966), bia tăng giá lên 7 đ/chai, sữa bột Guigoz tăng lên 20 đ/lon – giá hiện nay trên 500 ngàn đ/lon].

2.-“Xã hội học tập” và thời bình

“Xã hội học tập” cung cấp các độc giả và khán giả cho văn hóa văn nghệ. Ấn bản sách ăn khách thời đó của nhà xuất bản An Tiêm tối đa là 5.000 cuốn một lần in; chỉ riêng Huế và Đà Nẵng-Quảng Nam, Tam Kỳ (Quảng Tín cũ) đã tiêu thụ hết 40% hay 2.000 cuốn. Những cuốn như Câu chuyện dòng sông phải tái bản nhiều lần ngay sau khi phát hành mới đáp ứng đủ nhu cầu khát khao cái mới về tinh thần của một lớp độc giả trẻ “hiếu học và ham đọc” mà sau này tờ tạp chí Văn nhắm làm đối tượng của mình. Một lớp văn nghệ sĩ trẻ (văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ, ca sĩ...) và dàn báo chí mới xuất hiện, với văn phong, dụng ngữ, kỹ thuật mới, cùng các phóng tác, các sách giới thiệu, các bản dịch triết học và văn học nước ngoài. Tổng kết về tiếp thu văn học phương Tây (chưa có tiếp thu văn hóa và lối sống qua phim ảnh) ta có thể đọc trong: GS TS Huỳnh Như Phương và các tác giả khác... Việt Nam, một thế kỷ tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài, nxb Đại học Sư phạm, 2020. Lã Nguyên (chủ biên), Trần Khánh Chương, Huỳnh Như Phương, Trần Đình Sử, Tô Ngọc Thanh, Nguyễn Văn Thành, Lộc Phương Thủy, 667 trang.

3.-Nhu cầu và biểu hiện tình cảm dưới mọi sắc độ

Trong khung cảnh thanh bình và mức sống được nâng cao như đã nói ở trên, dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi, một nhu cầu tình cảm mới nảy sinh với các góa phụ còn trẻ, các thiếu nữ lỡ thì vì chiến tranh, nghèo khổ, các thanh niên thiếu nữ mới lớn. Nếu lần giở lại các tờ báo và tạp chí thời đó, ta sẽ thấy ngoài những sinh hoạt của các Thi văn đoàn, còn vô vàn các mục Kết bạn bốn phương, Tìm bạn Tâm thư, nhất là các Hội nhóm chị-em kết nghĩa, ở đó ta thấy thấp thoáng bóng dáng của truyền thống “tình yêu thanh nhã” (L'amour courtois), yêu người thiếu phụ quý tộc của các hiệp sĩ thời Trung cổ, được giảng dạy qua văn học và lịch sử Pháp trong trường lớp, cũng như qua phim ảnh về các hiệp sĩ và giới quý tộc Pháp. Ai vào độ tuổi thanh niên thời ấy cũng đều nằm lòng cuốn tiếu thuyết và bộ phim Ba chàng lính Ngự lâm của Alexandre Dumas.

Văn hóa Pháp được tự do phổ biến tại miền Nam, cho đến khi có cuộc đốt đuốc biểu tình xuyên đêm của giói trẻ năm 1964 yêu cầu hạn chế các trường Pháp chỉ dạy thuần túy chương trình Pháp cho giới con nhà giàu. Người viết nhân khi vào lại Sài Gòn với tư cách Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Huế đưa thỉnh nguyện thư trực tiếp lên Bộ Quốc phòng nhờ can thiệp về việc [giải tán Viện Hán học Huế (do Bộ Giáo dục ban hành) và] bắt các sinh viên năm cuối chưa kịp tốt nghiệp Viện này vào quân trường, được giải quyết thành công, nên đêm đó cũng tham gia vào cuộc biểu tình, xuất phát từ Nhà hát lớn, với tâm nguyện cá nhân là đấu tranh “hạn chế đặc quyền giáo dục” của các con em nhà giàu và gia đình một số có dính dáng đến chính quyền thực dân Pháp. Thực chất chính trị của vụ việc này tuy không ai nói ra nhưng mọi người ngầm hiểu, là chống lại lời kêu gọi “trung lập hóa miền Nam” của Tổng thống de Gaulle, để nước Pháp quay trở lại đất Nam Kỳ thuộc địa cũ trong ván cờ Việt Nam, và cũng là để chia cắt vĩnh viễn đất nước, nhằm lôi kéo miền Nam vào quỹ đạo nước Pháp. Nhưng về mặt khách quan mà nói, kể từ năm 1964, giới trẻ nam nữ miền Nam từ 12-14 tuổi trở lên, tuổi bước vào bậc trung học, đã không còn tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa Pháp rộng rãi như trước, thay vào đó là văn hóa Mỹ, với các trường Anh ngữ mọc lên như nấm và các Trung tâm Văn hóa Mỹ tại các thành phố lớn. Bal de famille (Dạ vũ gia đình) kiểu Pháp, đã biến thành party (dạ tiệc, có hay không khiêu vũ) trong giới trẻ kể cả giới nữ từ 14 tuổi trở lên với “mốt” (mode) váy ngắn mini-jupe. Ngay cả ở Huế, kinh đô cổ kính, nơi người viết vì gia đình sa sút lần 3, đã rời Sài Gòn ra Huế theo học Văn Khoa để được gần nhà, vào năm 1965 vẫn có những dạ vũ gia đình như thế trong giới sinh viên nam nữ xuất thân trường Pháp và thuộc gia đình giàu có.

Dưới ảnh hưởng dòng chảy văn hóa Pháp, trong giới học sinh 16-17 tuổi thời kỳ sau 1955 đã có “phong trào” yêu người lớn tuổi, yêu người chị đứa bạn của mình, chỉ là “tình yêu” đơn phương, không dám bày tỏ. Trên cái nền biến đổi xã hội đó, ta thử theo dõi biến đổi song hành về ngôn ngữ xưng hô trong tiếng Việt. Ví dụ, trong tiểu thuyết Aimez-vous Brahms? của Françoise Sagan, câu hỏi Aimez-vous Brahms? của chàng trai Simon trên tấm thiếp gởi vé nghe nhạc cho người yêu là nàng thiếu phụ Paule nên được dịch là “Cô?/Em? có yêu nhạc Brahms?” (1959), trong đó, Simon một chàng trai trẻ 25 tuổi lại trót phải lòng một phụ nữ trung niên 40 tuổi – Paule, và về sau hai người chênh lệch tuổi tác này yêu nhau. Tiếng Pháp và nhất là tiếng Anh không gặp trở ngại gì trong việc xưng hô với nhau những cuộc tình lệch tuổi này. Trịnh Công Sơn là một ví dụ. Là người xuất thân trường Pháp, anh có thói quen luôn “vouvoyer” xưng “moi” (tôi/mình/tớ) và dùng “vous” (anh/cô) với người sơ giao, hoặc “tutoyer” dùng “toi” (ông/ông bạn, theo nghĩa thân mật không phải nghĩa long trọng/cậu, theo nghĩa thân mật miền Bắc) với người thân quen. Tiếng Việt thích nghi rất linh hoạt vào hoàn cảnh, vì từ lâu đời dân ta đã có những từ xưng hô thân tình không phân biệt tuổi tác: chàng, thiếp, mình, nhà tôi, bà nhà tôi, ông nhà tôi, ông xã, bà xã, mẹ cái Hĩm, bố thằng Cu, v.v., phong phú như lời thơ Bùi Giáng trong bài Về buôn bán:

Giã từ cõi mộng điêu linh / Tôi về buôn bán với mình phôi pha /
- Mình ơi! tôi gọi bằng nhà
/ Nhà ơi! tôi gọi mình là nhà tôi /

Bây giờ xuôi ngược đôi nơi / Thôi mình ở lại tôi dời chân đi /

Thưa rằng: - Ở cái quái gì / Chàng đi thiếp cũng xin đi với chàng

4.-Chuyển biến tâm lý-xã hội trong thời kỳ này cần được nghiên cứu

Và chắc là khó có thể nghiên cứu được trong tương lai, vì ít nhất hai lý do. (1) Dữ liệu nghiên cứu nằm trên các sách, báo (báo ngày, bán tuần san, tuần san, bán nguyệt san, nguyệt san...) nộp lưu chiểu tại Thư viện quốc gia (miền Nam), hiện đang nằm trong diện “tiếp cận hạn chế”; và có thể không còn nguyên vẹn như trước 1975. (2) Hai ngành tâm lý học và xã hội học được xây dựng ở miền Bắc sau khi Stalin qua đời, nghĩa là sau khi tiếp quản miền Bắc, sau 1975 mới được phép phát triển từng bước ở miền Nam. Thậm chí đến cuối thập niên 1980, ta vẫn thấy thấp thoáng trong tác phẩm của triết gia Trần Đức Thảo nỗi e ngại khi nhắc đến tên tâm phân học (psychanalyse). Tại TP Hồ Chí Minh, một cán bộ văn hóa cấp cao miền Bắc chi viện, khi làm luận án về tâm phân học trong văn học, đã phải xin giấy phép của Trưởng ban Tuyên huấn Thành ủy lúc đó, Trường mới dám nhận hồ sơ và Giáo sư hướng dẫn mới dám nhận hướng dẫn. Nguyên nhân là vì trước đó Stalin đã cầm tù, bức tử các Viện sĩ, Giáo sư đang giảng dạy và nghiên cứu trong năm ngành bị gán nhãn là khoa học tư sản: xã hội học, tâm lý học (đặc biệt cấm Tâm phân học), quản trị học, di truyền học, phân tích định lượng hay OR-Operations Research [Nghiên cứu Tác vụ (miền Nam), Vận trù học (miền Bắc và Trung Quốc)], dù có một nhà toán học và kinh tế học Liên Xô là Leonid Kantorovitch đã được trao tặng giải Stalin và phân nửa giải Nobel kinh tế cùng với một tác giả Mỹ Tjalling Koopmans, nhờ công trình nghiên cứu “phân bổ tối ưu các nguồn lực” mở đường cho ngành học này.

5.-Hai biểu hiện còn được lưu lại

May mắn là chúng ta có ít nhất hai biểu hiện còn được lưu lại như chứng tích về hiện tượng văn hóa này.

5a.-Nhà thơ Hoàng Xuân Sơn và Cũng cần có nhau

Hoàng Xuân Sơn, nhà thơ tài hoa và người thường đệm đàn cho Khánh Ly hát thuở ban đầu ở Đại học Văn Khoa cũ – trong tập phóng bút Cũng cần có nhau in ở Mỹ năm 2013, có nhắc đến người bạn thân từ Huế của mình, sau này là nhà văn nổi danh Hoàng Ngọc Tuấn [phân biệt với Hoàng Ngọc Tuấn ở Úc] viết về tình yêu, khi học trung học, đã cùng nhiều học sinh thời đó đem lòng “yêu” cô giáo xinh đẹp và quý phái nổi tiếng. Về sau, khi Hoàng Ngọc Tuấn xa Huế và bắt đầu viết văn, nhà văn viết về tình yêu sương khói của cậu học sinh trung học dành cho cô giáo. “Ngoài ra còn có cô Hoàng Dạ Thảo, đẹp quý phái, mà hình như đứa học trò nào cũng mê cô (Hoàng Ngọc Tuấn có thố lộ “mối tình đầu” với cô giáo qua một thiên truyện nào đó về sau). Cô Dạ Thảo cũng phụ trách Việt văn (không biết giờ này cô ở đâu?)” (T.19). Chú thích của sách cho chúng ta biết đây là chuyện “người thật việc thật”: “Theo một tập san mới nhất (tháng 3-2013) của nhóm Quốc Học/Đồng Khánh tại San José, cô Hoàng Dạ Thảo và phu quân là ông Hồ Đăng Lễ hiện cư ngụ tại thủ phủ Sacramento của tiểu bang California-Hoa Kỳ.”

5b.-Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng và Vòng tay học trò

Biểu hiện thứ hai là một quả bom được nữ văn sĩ Nguyễn Thị Hoàng tung ra trong tiểu thuyết Vòng tay học trò (1964: đăng trên tạp chí Bách Khoa, 1966: in thành sách, ba tháng ấn hành 4 lần), tình yêu của người học trò và cô giáo, lấy bối cảnh thơ mộng ở Đà Lạt, khi nhà văn dạy học ở đây, tại ngôi trường mà Ông Hiệu trưởng có một “thái độ điềm đạm tử tế” được nhà văn nữ hư cấu trong truyện, ngoài đời thật là ông Bửu Vụ – người anh cả của ni-sư Trí Hải (Phùng Khánh) và cô em Phùng Thăng – làm Giám học của Trường. “Cả trường, nhân vật duy nhất mà Trâm tương đối kính nể và có một thái độ điềm đạm tử tế là ông Hiệu trưởng. Không vì chức vụ của ông ta, dĩ nhiên, mà vì cách cư xử khoan hòa giản dị của ông.” (ch.10). Ngoài đời thật, ông Bửu Vụ là người cao to vạm vỡ hơn bình thường, tín mộ đạo Phật, luyện quyền Anh và cả đàn violon. Có lẽ đó là điều tạo nên “cách cư xử khoan hòa giản dị” nói trên.

Trong Vòng tay học trò, không nói đến việc nhắc thoáng qua đến dĩ vãng bản thân cùng đời sống phòng trà, các loại rượu mà nữ tác giả tỏ ra rất sành sõi, ta có các thông tin liên quan đến chủ điểm yêu người phụ nữ lớn tuổi và bối cảnh du nhập sách báo, phim ảnh nước ngoài có liên quan đến vấn đề. “Và một khối thằng sinh viên. Một khối thằng học trò choai choai mới lớn say mê của cấm như khoái làm chuyện siêu phàm.” (Vòng tay học trò, Ch.1). “Ở Trâm toát ra cái vẻ trẻ trung tươi mát của trái cây vừa chín, vẻ dịu dàng gợi cảm của người đàn bà-trẻ con.” (Ch.2). “Ô cô, đoạn kết trong phim “Thé et Sympathie” thế nào, em quên rồi? – Bà giáo đó bỏ đi, mãi sau người học trò một mình trở về chỗ cũ, hồi tưởng lại hình ảnh người mình yêu xưa thấp thoáng trong vườn rực rỡ màu hoa và sắc nắng…” (Ch.3) “Xe qua những cửa hàng lấp loáng đèn màu. Trâm lịm người với tiếng hát Paul Anka: I love you so but I still know it was crazy love.” (Ch.8).

5c).-Tình yêu trong Vòng tay học trò là dâm ô?

Trên đây, ta biết nước Pháp thời Trung cổ đã khởi xướng và ca tụng truyền thống tình yêu cao nhã (l'amour courtois; courtly love) giữa hiệp sĩ và nữ quý tộc đã có chồng. Tình yêu cao nhã không phải là tình yêu phóng đãng, cũng chẳng phải là nỗi đam mê tàn khốc; tình yêu này hầu như là một khổ hạnh đối với người hiệp sĩ. Để xứng đáng với người đàn bà chàng yêu, chàng hiệp sĩ hoàn toàn thần phục nàng. Nàng là bậc lãnh chúa, chàng là kẻ bề tôi. Đôi tình nhân vì uống nhầm bùa yêu trong truyện kể Tristan và Yseult, khi trốn vào rừng, nhà vua cho người theo dõi thấy khi ngủ bao giờ họ cũng đặt một thanh gươm ngăn cách giữa hai người. Người Việt đã tiếp thu và biến đổi nét văn hóa ấy phù hợp với văn hóa Việt Nam vào thời kỳ này. Trong Vòng tay học trò chỉ có những cảnh nắm tay, cắn tóc, v.v. hiền lành, không có cảnh sex, dù ở trên lầu và cho trò thuê dưới lầu, cô chỉ cách trò 2-3 tuổi, đúng như bối cảnh thời đó. Vào 56 năm sau ngày tác phẩm ra đời, trong bài đăng trên báo mạng Công an Nhân dân vào năm 2021, nhan đề: Một 9x nghĩ gì khi đọc “Vòng tay học trò”?, ta thấy độc giả thanh niên đó không có thái độ cay nghiệt lên án tác phẩm như một vài nhà phê bình của miền Nam thời trước, mà trái lại có một cái nhìn phân tích khách quan. “Không những trò tra tấn tình dục và không tình dục, thậm chí không cả khao khát hay huyễn tưởng tình dục, Vòng tay học trò giống hơn một bài thơ hiện sinh, hay đứa con lai của chủ nghĩa diễm tình Đài Loan của Quỳnh Dao, Trương Ái Linh và niềm hứng khởi với nhánh triết học hiện sinh phi lý do Jean-Paul Sartre khởi xướng đang được giới văn nghệ sĩ và thanh thiếu niên bấy giờ say mê, tin rằng "con người sinh ra không lý do, kéo lê cuộc đời vì nhu nhược và chết do ngẫu nhiên.”” Bạn đọc trẻ tuy có sơ sót trong sự kiện: thời của Vòng tay học trò xuất hiện (1964-1966) hãy còn chưa có tiểu thuyết của Quỳnh Dao [do Liêu Quốc Nhĩ dịch từ cuối thập niên 1960], song người bạn trẻ này hẳn cùng chia sẻ quan điểm của một nhân vật thông qua nhà văn J. M. Coetzee: “đừng bỏ con người ta vào một cái hộp nhỏ hẹp, gọn ghẽ và dán nhãn lên đó”.

Trong văn học thế giới, có những tác phẩm dữ dội hơn, bị lên án là dâm ô, đồi trụy (Người tình của Chatterley Phu nhân), cổ vũ cho tình trạng ấu dâm (Lolita), hay dâm ô (cuốn Ulysses). Về sau, tất cả ba cuốn này đều đươc bình xếp vào tác phẩm hàng đầu trong văn học thế kỷ XX, và khi hủy bỏ lệnh cấm, có cuốn đã bán được ngay 3 triệu bản, và đều được chuyển thể thành phim ảnh nhiều lần.

B.-ẢNH HƯỞNG VĂN NGHỆ NƯỚC NGOÀI VỀ YÊU NGƯỜI LỚN TUỔI

Ảnh hưởng chỉ một tác động dần dà, lâu dài và diễn tiến theo cách vô hình, hay có khi do người chịu ảnh hưởng tự nguyện chấp nhận. Tác động của ảnh hưởng nhằm vào các xu hướng tâm lý, ý chí của một người hay nhóm người nào đó. Trong văn học nghệ thuật, ta cần phân biệt hai dạng ảnh hưởng.

B1).-Ảnh hưởng của tác phẩm văn nghệ đến quần chúng

            a).-Ruồi Trâu (The Gadfly) của nữ văn sĩ Ái-nhĩ-lan thuộc Anh, Ethel Lilian Voynich (con gái của nhà toán học và luận lý học lừng danh George Boole), lấy bối cảnh là các cuộc cách mạng và nổi dậy ở Italia vào thập niên 1840 chống lại sự đô hộ của nước Áo, với nhân vật chính là đứa con rơi của vị linh mục, nhưng nay ở vào hai phe đối lập. Cuối cùng, người con biệt danh Ruồi Trâu, bị bắt và bị xử bắn. Tác phẩm có ảnh hưởng sâu rộng lên Liên Xô (chỉ riêng ở Liên Xô, số sách bán được là 2,5 triệu bản), Trung Quốc, Iran, và Việt Nam. [Mời đọc tại: https://thegioivanhoc.com/truyen/ruoi-trau/]

b).-Bản nhạc Kachiusa của Liên Xô khởi đầu từ bài thơ của nhà thơ Nga Mikhail Isakovsky diễn tả nàng thiếu nữ tên gọi thân mật là Katyusha chờ đợi người yêu đi chiến đấu chống quân thù, được Matvei Blanter phổ nhạc vào gần cuối năm 1938. Bài hát này còn tạo cảm hứng để người Nga đặt tên cho các dàn phóng tên lửa của mình là Katyusha trong Chiến tranh (bảo) vệ (Tổ) quốc – thế chiến lần 2. Bản nhạc ảnh hưởng sâu rộng lên miền Bắc Việt Nam (lời Việt NS Phạm Tuyên, sau đó rất nhiều lời dịch Việt Nam theo lời thơ hoặc ý thơ), đến độ được đưa vào giảng dạy ở chương trình lớp 7, và hiện nay có rất nhiều lời nhạc chế kể cả gần đây là nhạc chế chống Covid 19. [Mời nghe tại link YouTube: https://www.youtube.com/watch?v=_eeQL483tso]

c).-Chủ nhật buồn (Sombre Dimanche; Gloomy Sunday) là bản nhạc Jazz được nhạc sĩ Hungary Szomorú Vasárnap sáng tác vào năm 1933. Bản nhạc đã trở thành nhạc nền thông dụng vào cuối thập niên Đại khủng hoảng 1930 khốn khổ ở Mỹ. Theo lời đồn đại, bản nhạc có thời bị Hungary cấm vì gây ra phong trào đua nhau tự tử, được Phạm Duy phổ nhạc (cuối thập niên 1950), được công chúng miền Nam đón nhận nồng nhiệt qua giọng hát của các danh ca Lệ Thu, Khánh Ly,… vào cuối thập niên 1960, nhưng không gây ra vụ tự tử nào: thời đại đã khác, văn hóa lứa đôi cũng khác. Điều trớ trêu là chính nhạc sĩ Vasárnap đã tự tử vào năm 1968. Lúc sinh thời, khi tự nhận xét về bài hát Chủ nhật buồn do mình đặt lời Việt, Phạm Duy nói: “Chủ nhật buồn có thể đã ảnh hưởng nhiều đến dòng nhạc tình nói về thân phận những cặp tình nhân yêu nhau trong cơn mê sảng và nhức nhối, với tâm thức có thể xa nhau (vĩnh viễn) bất cứ lúc nào, xuất hiện ở miền Nam cuối thập niên 50 thế kỷ trước”. Trong thế chiến II, vào năm 1941 đài BBC đã cấm phiên bản Gloomy Sunday của Billie Holiday, trong bối cảnh cơ quan kiểm duyệt Anh có xu hướng cấm những ca khúc gây rã rời tinh thần binh sĩ trong thời chiến.

B2).-Ảnh hưởng của một tác phẩm lên một tác phẩm khác.

a).-Lolita (1955) của Nabokov

Tác phẩm Lolita do Nabokov, một người Nga nhập cư Mỹ, viết bằng tiếng Anh, thoạt đầu bị nhiều nhà xuất bản Anh và 6 nhà xuất bản Mỹ từ chối xuất bản, vì cho rằng tác phẩm đụng chạm đến nhiều vấn đề nhạy cảm: tính dục, tính dục với trẻ em dưới 18 tuổi, tội ấu dâm, gia đình tan rã; sau đó được in lần đầu ở Pháp năm 1955. Số phận tác phẩm giống như những tuyệt phẩm bị kiểm duyệt khác. Các nhà phê bình Pháp xem tiểu thuyết Lolita là một tác phẩm lớn. Các tác giả và các nhà phê bình Anh nồng nhiệt khen ngợi. Nhà văn Graham Greene đã xem tiểu thuyết này là tác phẩm hay nhất trong năm. Sau những phê bình khen ngợi này, Lolita được xuất bản ở Mỹ năm 1958, rồi ở Anh vào năm 1959.

Các nhà phê bình cho thấy tiểu thuyết Lolita có cùng cấu trúc tiểu thuyết tương tự như cuốn Hồi ký viết dưới hầm của văn hào Dostoïevski (1864) [Thạch Chương (nhạc sĩ Cung Tiến) dịch, 1966], hoặc giống cuốn Hồi ký một người điên (1835) của văn hào Nicolai Gogol. Người ta có thể hình dung rằng hai văn hào trên đã có ảnh hưởng đến Nabokov. Hoặc ảnh hưởng của hai ông còn kéo dài đến nhà văn Liên Xô Soljenitsyn (giải Nobel văn chương 1970). Sau khi bị trục xuất khỏi Liên Xô, Soljenitsyn lưu lại Tây Âu một thời gian ngắn rồi sang Mỹ, chọn sống tại một tiểu bang nhỏ nhất nước Mỹ, ở một thành phố nhỏ nhất không quá 10 nghìn dân, ở đó ông cho đào một cái hầm tại nhà, sống và viết trong hầm, hiếm khi tiếp xúc với bên ngoài. (Cuộc sống tự cô lập này khiến ta nhớ đến cuộc sống của nhà văn Mỹ nổi tiếng Mỹ, J. D. Salinger, tác giả Bắt trẻ đồng xanh). Soljenitsyn chỉ ra khỏi hầm, trở về quê hương sau khi Liên Xô tan rã, và ban lãnh đạo mới nước Nga xóa tội, tôn vinh, mời ông về nước. Ông cặp bến ngay tại vùng đất Siberia, bối cảnh của tác phẩm Quần đảo ngục tù, nơi ông đã bị Stalin lưu đày 8 năm sau thế chiến II vì đã than phiền về Stalin trong một lá thư gởi cho bạn, nhưng bị ban kiểm duyệt thư từ đọc được.

Nhân vật trong tiểu thuyết của Nabokov là sản phẩm của một xã hội theo chủ nghĩa cá nhân, sẽ xuất hiện trong nhiều tiểu thuyết khác theo trào lưu này sau ông. Người ta cho là đến lượt Nabokov đã ảnh hưởng lên các nhà văn khác như Salman Rushdie (trong Những vần thơ của Quỷ) , hay Albert Camus (trong Người xa lạ). Trong tác phẩm Lolita, Nabokov có ám chỉ hay nêu lên các tên tuổi hay các tác phẩm khác mà các nhà phê bình phân tích rất chi tiết để tìm kiếm những gì hay những ai đã ảnh hưởng đến ông, kể cả việc đặt tên tác phẩm là Lolita. Họ không gọi là ảnh hưởng (influence), mà gọi chung đấy là những “quy chiếu văn hóa” (référence culturelle) của tác phẩm, mang ý nghĩa khái quát rộng hơn.

B3).-Ảnh hưởng văn nghệ ở Việt Nam

B3a).-Thi ca: Ảnh hưởng của văn học Pháp đối với Phong trào Thơ Mới (1938-1945)

Không kể đến ảnh hưởng của văn nghệ Pháp lên phong trào Thơ Mới, bài Tình traiTôi nhớ Rimbaud với Verlaine, hai chàng thi sĩ choáng hơi men...” của nhà thơ đồng tính tài hoa Xuân Diệu (1938). Không kể đến ảnh hưởng của Tỳ bà hành Bạch Cư Dị và của thi pháp trường phái siêu thực Pháp lên Nguyệt cầm của Xuân Diệu (1945) [Cung Tiến phổ nhạc (1956)]: “Trăng Tầm Dương lung linh bóng sáng, từng thoáng lệ ngân...”]. Không kể đến con nai Lưu Trọng Lư trong bài Tiếng thu (1939) “con nai vàng ngơ ngác / đạp trên lá vàng khô?” được Phạm Duy phổ nhạc (1946); và con nai của Huy Cận trong Thu rừng (1940): “Nai cao gót lẫn trong mù / Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về”; vượt hẳn hình ảnh và âm thanh bài thơ Thu ca của nhà thơ Nhật Sumaru từ thế kỷ VIII, vốn chỉ nhắc đến âm thanh động tình của loài nai. [Xem, chẳng hạn: https://vanvn.vn/tieng-thu-cua-luu-trong-lu-co-thuc-su-giong-thu-ca-nha-tho-sarumaru-no-taifu/]

Đến tận năm 1970, ta mới được đọc bài thơ L’Automne morte (Mùa thu chết) của Apollinaire (1880-1918), nhà thơ Pháp sáng tác theo phong cách siêu thực, trong ba bản dịch thần sầu theo ba kiểu của Bùi Giáng, và bản phổ nhạc của Phạm Duy (1970). Chúng ta ghi nhận hai điều về quá trình ảnh hưởng phức tạp như đã cảnh giác. Thứ nhất, Apollinaire nổi tiếng và qua đời chỉ khoảng 20 năm trước Phong trào Thơ mới ở Việt Nam, nhưng ít hoặc không thấy ai nhắc đến tên ông vào thời đó. Thứ hai, bài thơ nổi tiếng nhất của Apollinaire là bài Le Pont Mirabeau (Chiếc cầu Mirabeau) trong tập Alcools (Túy ca/Rượu nồng) (1913), trừ bản dịch của Phạm Công Thiện trong Ý thức mới trong Văn nghệ và Triết học (1966), chỉ thấy mười mấy bản dịch xuất hiện về sau trong thập niên 1980, trong đó có các bản dịch của Xuân Diệu [người viết không rõ năm], Tế Hanh, Hoàng Hưng, v.v. [Xin xem tại: https://www.thivien.net/Guillaume-Apollinaire/C%E1%BA%A7u-Mirabeau/poem-bf6WrvyKKdKX5RoR4vuOFQ]

B3b).-Quảng thời gian để cặp đôi nam nữ cảm nhận về tình yêu

Vì ở Việt Nam chưa từng có nghiên cứu nào về đề tài nhạy cảm này, và cũng do bản tính người châu Á không thích đề cập đến chuyện riêng tư, một cuộc phỏng vấn trực tiếp kiểu phương Tây (dù không gặp mặt mà chỉ phỏng vấn qua mạng) sẽ không thể nào cho kết quả chính xác, như các chuyên gia về Điều tra chọn mẫu khoảng 30 năm trước đã cảnh báo. Do đó, chúng ta đành mượn đỡ các cuộc nghiên cứu ở Mỹ để có một hình dung sơ bộ về vấn đề này.

Một cuộc điều tra chọn mẫu (sampling survey) tiến hành năm 2013 ở Mỹ do YouGov và trang web hẹn hò mang tên eHarmony cho thấy thời gian từ lúc hẹn hò lần đầu đến khi tỏ tình “Anh yêu em/Em yêu anh” khác nhau giữa hai giới nam và nữ. Thời gian trung bình đối với nam giới để “rơi vào bẫy tình” là 88 ngày, trong khi thời gian để nữ giới cảm nhận đây là tình yêu đích thực thì dài hơn, 134 ngày.

Ba năm sau đó, vào năm 2016, “IllicitEncounters – Hẹn hò bất hợp pháp”, một trang web hò hẹn của Anh (dành cho những người đã lập gia đình), đã khảo sát trên 1.000 đối tượng chọn ngẫu nhiên để tìm ra thật sự họ bắt đầu yêu vào tuổi nào. Kết quả: (a) Yêu lần đầu, trong độ tuổi 15-18t: chiếm 55%; 19t-21t: 20%; 22t – 25t: 8%; >25t: 17%. (b) Yêu lần đầu nghiêm túc: 45% hay gần phân nửa cặp đôi kéo dài mối tình từ 1-5 năm. 25% hay một phần tư tổng số người đuọc hỏi cho biết hiện giờ vẫn đang sống cùng tình yêu thứ nhất. [Ghi chú thêm của người viết: và đang tìm đến “Hẹn hò bất hợp pháp”!] Chắc hẳn chỉ có những tâm hồn cực kỳ thơ mộng và hồn nhiên như nhà thơ Bùi Giáng mới dám thổ lộ: “Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất / Và thứ nhì cũng đệ nhất như nhiên”. Nhạc sĩ Phạm Duy thì biểu cảm chân thật theo kiểu riêng trong bài Giọt mưa trên lá:

Giọt mưa trên lá bối rối, bồi hồi / Ráo riết, miệt mài, anh biết yêu lần cuối

Giọt mưa trên lá bỡ ngỡ, xôn xao / Cuống quít, dạt dào, em biết yêu lần đầu

Một trang web hẹn hò khác của Mỹ “Elite Singles – Những người độc thân ưu tú”, đã thực hiện một cuộc thăm dò vào năm 2017 với kết quả cho thấy 61% nữ giới tin rằng họ yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên (tiếng sét ái tình – coup de foudre), và 72% nam giới cho biết như thế. [Có khác chăng với câu tục ngữ Việt Nam: “Con gái yêu bằng tai; con trai yêu bằng mắt”?] Thanh niên nam nữ xã hội Mỹ giao tiếp nhiều vì tính di động xã hội (social mobility) cao, trung bình một người Mỹ suốt cuộc đời có 1.500 cuộc gặp gỡ thuộc đủ loại. Vậy căn cứ theo kết quả điều tra nói trên, sẽ có trung bình 39% nữ giới và 28% nam giới Mỹ không “yêu từ cái nhìn đầu tiên”. Riêng đối với người Việt miền Nam lúc đó, chúng ta không có số liệu, nên đành phải nêu ra các con số này như một con số để tham khảo thuần túy.

Siêu sao bóng đá Ác-hen-ti-na Messi rơi vào trường hợp “tiếng sét ái tình” này. Messi lần đầu gặp “nàng” Antonella 4 tuổi, khi “chàng” mới 5 tuổi, thông qua anh họ của Antonella là Lucas Scaglia. Chàng sớm dành tình cảm cho cô bạn gái, nhưng cả hai vẫn dừng ở tình bạn. Theo cha của Scagilia, Messi “không thể rời mắt khỏi cô bé dù chỉ một giây”. 13 năm sau, vào năm 18 tuổi, Messi mới tỏ tình, và 10 năm sau mới tổ chức lễ cưới. Nàng từ bỏ ngành Đại học Nha khoa để theo anh chàng quần đùi áo số, và chuyển đến Barcelona, làm nghề người mẫu thời trang cao cấp cho các thương hiệu nổi tiếng thế giới.

B3c).-Trong thi ca Việt Nam, người con trai nhỏ tuổi nhất từng si mê một người con gái lớn tuổi, là một cậu bé 9 tuổi.

Ở Việt Nam trước đó, người con trai nhỏ tuổi nhất từng yêu một người con gái lớn tuổi là cậu bé 9 tuổi trong bài thơ Gánh xiếc của Huy Cận (tập Thơ Thơ, 1940): “Có chàng ngơ ngác tựa gà trống, / E đến trăm năm còn trẻ thơ; / Chín tuổi một chiều trong rạp xiếc / Yêu nàng cưỡi ngựa uốn thân tơ.” Nhiều năm sau, hình ảnh người con gái ấy vẫn vấn vương trong tâm tưởng chú bé, giờ đã thực sự là một chàng trai: “Gánh xiếc đi qua chỉ một lần, / Bây giờ có lẽ đã chia tan... / - Và nàng cưỡi ngựa đâu rồi nhỉ? / Ngơ ngác chàng trai tự hỏi thầm.”

Mười mấy năm sau đó, một chàng trai sinh quán Sài Gòn nhưng tự nhận là quê mùa vì từ 1-7 tuổi chỉ sống ở quê nhà xứ Quảng do phải rời Sài Gòn lánh đạn bom thế chiến, trong dịp Hội chợ Thị Nghè (1957) lúc cậu 14 tuổi, đã say mê chiêm ngưỡng một cô bé khoảng cùng tuổi thể hiện màn xiếc mô tô bay. Mỗi khi chiếc xe mô tô tăng tốc từ bên dưới hình trụ, hai bánh bám vào chiếc thùng gỗ lớn hình tròn nhờ lực ly tâm, vút cao lên, gần như muốn bay vọt ra ngoài không gian (hai năm sau đó thì cô bị lạc tay lái bay ra ngoài không gian thật), cậu nhìn thấy cận ảnh là một khuôn mặt xinh đẹp, huyền bí, cương nghị, mà cậu sẽ còn nhớ mãi suốt bao nhiêu năm sau. Hình tượng nàng được lưu lại kín đáo qua bài thơ đầu tiên năm 17 tuổi mang tên Góc phố đăng trên tạp chí Hiện đại số 7, tháng 10-1960, do Nguyên Sa làm chủ bút. Hiện đại ngoài việc đăng thơ của các nhà thơ đã thành danh như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Hoàng Anh Tuấn, Nguyên Sa, v.v., còn là nơi giới thiệu những cây bút về sau là những nhà thơ nổi tiếng: Trần Thy Nhã Ca, Sao Trên Rừng (sau đó lấy tên thật Nguyễn Đức Sơn), Thái Thủy, Ninh Chữ, v.v. [https://tranhoaithu42.com/2020/03/18/nguyet-san-hien-dai-cua-nguyen-sa-tron-bo-tai-design/]. May mắn hơn Huy Cận (- Và nàng cưỡi ngựa đâu rồi nhỉ?), rất lâu sau đó nhờ Internet cậu mới biết đó là Bạch Yến, nữ ca sĩ chuyên hát nhạc ngoại, nổi tiếng suốt 12 năm trên sân khấu Mỹ trước 1975, trình diễn cùng các ngôi sao hàng đầu nước Mỹ, sau đó sang Pháp, chỉ trong một ngày gặp nhau lần đầu tiên, yêu và nhận lời cầu hôn của GS nhạc học dân tộc Trần Văn Hải, con của GS nhạc học Trần Văn Khê. Cô từ bỏ vinh quang và tiền bạc để từ đây chuyên hát nhạc dân tộc minh họa cho chồng.

B3d).-Quy chiếu văn hóa (Référence culturelle) về Phim ảnh: Tình yêu bi thảm trong phim La Strada - Con đường (1954)

Miền Nam vào thời đó tràn ngập phim Pháp, Mỹ, sau đó là Ý (phim La Strada – Con đường, 1954) với đạo diễn lừng danh Federico Fellini; nhập vai Gelsomina (do Giulietta Masina) và Zampano (do Anthony Quinn, sau này thủ vai Thằng gù ở Nhà thờ Đức bà, phim từ truyện của văn hào Victor Hugo). Phim La Strada đoạt giải Sư tử bạc Liên hoan phim Venise (1954), giải Oscar cho Phim hay nhất bằng tiếng nước ngoài (1957). [Phim được chiếu ở Sài Gòn gần cuối thập niên 1950. Mời xem phim trình chiếu trên YouTube hay trang phim trả phí].

Gia đình nghèo, nên bà mẹ bán Gelsomina (một cô gái ngô nghê với dáng người đàn bà-trẻ con femme-enfant ngây thơ và tốt bụng) cho Zampano, người đối xử tàn tệ và luôn lừa dối cô. Họ cùng nhau rong ruổi trên đường làm xiếc rong, sống khốn khổ dựa vào tiết mục xiếc chủ chốt là vận khí bứt đứt chiếc xiềng sắt quấn ngang ngực của Zampano. Đột nhiên xuất hiện “Chàng Khùng” (Il Matto, le fou), người biểu diễn đi trên dây, nhạc công vĩ cầm và thi sĩ, người duy nhất biết trò chuyện cùng Gelsomina. “Chàng Khùng” là người khi biết Gelsomina từng bỏ trốn nhiều lần, nhưng đều bị Zampano bắt được và trừng phạt thô bạo, đã tự đặt câu hỏi: “Tại sao Zampano không cần gì đến Gelsomina vì nàng “không biết tí gì về nấu nướng, ca hát, khiêu vũ để biểu diễn”, nhưng Zampano không chịu để nàng đi?”, “Chàng Khùng” chợt đưa ra giả thuyết, mà về sau khi nghe tin Gelsomina gục chết, qua dòng lệ của con người thô lỗ và bạo lực Zampano, ta biết đó là sự thực: “Hay anh ta yêu thương em?”.

La Strada đã được nhắc đến trong chương cuối cuốn Vòng tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng, khi cô giáo Trâm trò chuyện với lão Bá làm vườn, nhắc đến cô bé Gelsomina thích được ăn món xúp do Zampano – người luôn lạnh lùng và ngược đãi nàng – tự tay nấu lúc nàng đổ bệnh khi biết Zambano đã giết “Chàng Khùng”. (Ch.11): “– Ông Bá ăn xúp La Strada không? – Xúp gì tên kỳ vậy? – Xúp thằng Zampano nấu cho con bé Gelsomina ăn đó mà. Ngon không cô? – Ngon chứ. Cho nên về sau không ai nấu xúp cho con bé ăn nữa, nó buồn, nó chết. Nó ôm cái kèn đồng nó chết…” [gợi nhắc đến bài nhạc nền bắt đầu bằng 6 nốt nhạc buồn thê thiết khi Gelsomina ra bải biển thổi kèn lên và gục chết - Ê hế Gel số mi nà ...].

Và câu đối thoại của “Chàng Khùng” với Gelsomina: “Không, anh không biết vì sao hòn sỏi lại nằm nơi đó, song anh biết rằng hòn sỏi có sự ích lợi của riêng nó. Nếu không, chẳng gì có ý nghĩa cả. Ngay cả những vì sao. Và cả em nữa, em cũng phục vụ cho một cái gì đó... với khuôn mặt luôn mở rộng tình yêu tận hiến cho đời của em.” [Et toi, tu sers aussi à quelque chose… avec ton visage d’artichaut.] “Dù là một viên sỏi, cũng có ích cho đời” có thể đã tạo nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong lời nhạc kết thúc bài Diễm xưa: “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”. Bản nhạc này, Trịnh Công Sơn có dịp hát cho một nhóm nhỏ thân hữu chúng tôi nghe vào năm 1965 tại cà-phê Tuyệt Tình Cốc, Huế. Năm 1970, có dịp cùng Phạm Công Thiện từ Vạn Hạnh ra thăm và ngụ tại nhà Sơn trên con đường có hai hàng cây “thắp nến lên hai hàng”, ‒ đó cũng là lần Phạm Công Thiện đột ngột nhận điện tín về Sài Gòn đi nước ngoài dự hội nghị, và cũng là lúc Phạm Công Thiện rời Việt Nam cho đến tận khi qua đời ‒ tôi có dịp hỏi Trịnh Công Sơn khi chỉ có hai người: “Khi còn học ở Sài Gòn, ông có xem La Strada không, vì mình thấy hình tượng “ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau” gợi nhớ đến phim này.” Sơn chỉ cười, đôi mắt lấp lánh niềm vui sau cặp kính cận, gật đầu thay câu trả lời như thường lệ. Câu hỏi tò mò thứ hai là về hình tượng “bóng chim” trong nhạc Sơn gợi nhớ đến câu thơ của một Thiền sư trứ danh “ảnh trầm hàn thủy – bóng chim chìm trong nước giá lạnh”. Sơn cũng chỉ cười, gật đầu. Mọi người yêu mến Trịnh Công Sơn đến nay đều thuộc lời bài hát “Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt” và biết chữ ký đôi lần trên các bức tranh của Sơn là Thiền sư Nhật Nguyệt. Về sau, “sỏi đá” biến thành “hòn đá” trong một bản nhạc Trịnh viết về Cái Chết: “Hòn đá lăn trên đồi / hòn đá rớt xuống cành mai / rụng cánh hoa mai vàng / chim chóc hót tiếng qua đời.” Có một phân cảnh trong phim Em và Trịnh thể hiện tuyệt vời ca khúc Ngẫu nhiên này. Lạ lùng là trong làng âm nhạc Việt Nam, ngoài các bản nhạc diễn tả đủ loại cung bậc đau buồn hay hoan lạc của tình yêu, có lẽ chỉ duy nhất có hai nhạc sĩ là Phạm Duy (Đường chiều lá rụng) và Trịnh Công Sơn (Ngẫu nhiên) mới chạm hồn âm nhạc vào Cái Chết với hai tâm thái đối nghịch hẳn nhau.

Mấy chục năm sau “đá lăn vết lăn trầm” và “ngày sau sỏi đá ...”, đã có bản nhạc nổi tiếng của Diệu Hương “Phiến đá sầu” với giọng ca của các ca sĩ hải ngoại, nhạc sĩ Đức Tiến với bản Tình đá bao dung, được dùng làm tên gọi cho cuộc triển lãm ảnh nghệ thuật về đá đẹp hút hồn (tháng 2-2014); và cũng phải kể hình tượng này còn được dùng trong những bài giảng Công giáo, chẳng hạn “Sỏi đá cũng cần có nhau và đời độc thân linh mục của Giám mục Louis Nguyễn Anh Tuấn, và những suy niệm về thân phận con người trên trang Web của Chi dòng Đồng Công.

Chúng ta đừng ngạc nhiên về sức hút của một suy niệm triết lý mang hình tượng nghệ thuật, vì khi bắt đầu trình chiếu La Strada, đã có bình luận tuyệt vời của Martin Scorsese: “Giữa những chàng hề và những con người thô bạo, đạo diễn Fellini đã tìm thấy sự linh thánh.” và nhiều bài viết của các nhà phê bình Công giáo nhận định đây là “một phim với tinh thần của dòng Phan-xi-cô, thấm đẩm tinh thần Ky-tô-giáo”. Ngoài ra, trợ lý đạo diễn, cũng là đạo diễn lừng danh Rosellini, đã từng làm một phim về các tu sĩ dòng Phan-xi-cô – và đạo diễn Fellini – cả hai đều thấm nhuần tinh thần Ky-tô giáo. Điều kỳ lạ là ở tận phương trời Mỹ, nhạc sĩ Bob Dylan có lần phát biểu rằng phim La Strada đã ảnh hưởng đến ông khi sáng tác bản nhạc Mr. Tambourine Man - Quý ngài chơi trống lắc tay (1965). Xem tại link: https://www.youtube.com/watch?v=MDRxDLlCg4U]

B4).-Quy chiếu văn hóa: Phim nước ngoài về “Yêu người lớn tuổi” được nhắc đến trong Vòng tay học trò Thé et Sympathie

Trong Vòng tay học trò, gián tiếp hư cấu là cô và trò đã cùng nhau xem phim Thé et Sympathie ở rạp: “Ô cô, đoạn kết trong phim “Thé et Sympathie” thế nào, em quên rồi? Bà giáo đó bỏ đi, mãi sau người học trò một mình trở về chỗ cũ, hồi tưởng lại hình ảnh người mình yêu xưa thấp thoáng trong vườn rực rỡ màu hoa và sắc nắng…” (Ch.3). Phim xuất phát từ tên phim Mỹ (Tea and Sympathy – tạm dịch: Tách trà đồng cảm) chiếu ở Sài Gòn cuối thập niên 1950. Phim ra rạp ở Mỹ năm 1956 với nữ diễn viên thời danh Deborah Kerr, phóng tác từ vở kịch ăn khách trình diển trên sân khấu Broadway năm 1953. [Xem tại website theo link: https://archive.org/details/tea-and-sympathy]. Phim lấy bối cảnh Mỹ ngay sau thế chiến II, sản xuất năm 1956, nên khán giả là những người sống sau khi kết thúc thế chiến khoảng mười năm. Trong thời gian đó, đời sống xã hội thời bình của Mỹ đã ổn định và phát triển trở lại, sự ăn khách của vỡ kịch và sau này, rộng lớn hơn, là của cuốn phim cho thấy tâm tư tình cảm của người dân Mỹ đã biến đổi. Ta đọc thấy dòng chữ lớn giới thiệu phim: “Ngay cả câu truyện táo bạo nhất cũng có thể được đưa lên màn ảnh”.

Phim được chiếu rộng rãi ở các nước Tây Âu là các nước khôi phục kinh tế nhanh chóng nhờ chương trình viện trợ Marshall của Mỹ, và lan qua miền Nam Việt Nam, lúc đó Mỹ đã thay chân Pháp, và rót viện trợ thương mại lẫn quân sự dồi dào cho chính quyền Nam Việt Nam. Do ảnh hưởng 80 năm thuộc Pháp, nên phim mang tên Pháp Thé et Sympathie như tiểu thuyết của Nguyễn Thị Hoàng nhắc đến. Hiện tại phim vẫn còn chiếu thu tiền qua mạng, với thống kê cho biết có đến 86% khán giả đã xem phim cho biết họ thích phim này. Phim thuật lại truyện một cậu học sinh 17 tuổi theo học tại một trường tư thục để chuẩn bị lên bậc Cao đẳng/Đại học (College). Bản tính yêu thích văn học, âm nhạc, từ năm 12 tuổi cậu đã từng đem lòng yêu cô giáo. Trái với các bạn cùng trường yêu thích các môn thể thao đối kháng đầy nam tính, thích bỡn cợt với các cô gái, tôn sùng vị huấn luyện viên thể dục-thể thao đầy nam tính, cậu bị đặt cho biệt danh “cô ả”, ám chỉ cậu là người đồng tính.

Cậu lạc lõng trong nhà trường, thậm chí ngay cả cha cậu cũng không đếm xỉa gì đến cá tính khác biệt của cậu, chỉ muốn cậu trở thành như những học sinh tràn đầy nam tính khác trong trường. Có lúc cậu tuyệt vọng, đi tìm gái để thử nghiệm (cô hầu bàn trong nhà ăn), và vụng về, ngây ngô làm hỏng chuyện, bị cô hầu bàn chế giễu và dọa tố cáo cậu tội hiếp dâm. Cậu đã cầm dao định tự tử trong nhà bếp, nhưng phút cuối lại từ bỏ ý định. May là cậu còn có người bạn học trọ cùng phòng đối xử với cậu bằng sự trân trọng. Và còn có người vợ gốc Anh của vị huấn luyện viên, tuổi bà vào khoảng trên 30, cũng quan tâm đến cậu học sinh ở trọ nhà mình, vì cậu khiến bà nhớ đến hình ảnh dịu dàng tương tự người chồng đầu tiên đã tử trận trong thế chiến khi mới 18 tuổi. Bà mời cậu dùng trà (truyền thống của người Anh) và chia sẻ sự đồng cảm, khuyên nhủ cậu hãy cứ can đảm sống đúng bản tính của mình, sống khác biệt mọi người, đừng sợ hãi dư luận. Đồng thời, trong tâm thức bà, cũng hiện lên hình ảnh người chồng huấn luyện viên hiện tại, sống xa cách với bà, luôn căng cứng để tỏ ra mình mạnh mẽ với đám nam sinh, nhưng không dám tự nhận rõ chính bản thân là người đồng tính.

Câu chuyện dẫn dắt đến lần gần gũi đầu tiên và cuối cùng, khi bà muốn an ủi, vỗ về cậu sau quyết định tự tử. Trong tâm trí hẳn bà muốn cho cậu tự nhận thức rằng cậu không phải là người đồng tính như bạn bè trêu chọc. Sau lần đó, cậu rời trường. Về sau cậu lập gia đình, trở thành nhà văn tên tuổi, viết lại truyện tình của mình. Khi trở lại dự cuộc họp mặt 10 năm trường cũ, cậu tìm gặp vị huấn luyện viên chủ nhà để chào hỏi, hỏi thăm bà thì được biết bà đã bỏ đi đâu đó về miền Tây, và có gởi một tin nhắn, đính kèm trong lá thư cuối cùng bà gởi cho người chồng cũ, nhờ trao lại cho cậu. Bà cho biết đã đọc câu truyện cậu viết về thời gian ở trường và mối quan hệ giữa hai người. Sau phút đam mê, bà “không có lựa chọn nào khác là lìa xa người chồng”. Và cậu học trò ngày xưa cũng từng viết trong cuốn truyện của mình “người vợ luôn luôn dành tình thương yêu cho cậu học sinh.”

B5).-Quy chiếu văn hóa về BB Brigitte Bardot, về Françoise Sagan và về yêu người đàn ông trung niên, trong cuốn Vòng tay học trò

Tiểu thuyết Vòng tay học trò cũng nhắc đến phim La Vérité – Sự thật (1960) với “người đàn bà-trẻ con” (femme-enfant) nảy lửa Brigitte Bardot, đóng vai người chị xinh đẹp kiêu sa, không yêu ai, nhưng cuối cùng yêu người nhạc trưởng trẻ tuổi – người yêu của cô em gái, nghệ sĩ violon hiền lành của mình. Vậy là thêm một lần nữa ta bắt gặp một chàng trai yêu chị của người yêu mình. Phim được các giải: Oscars 1961; nằm trong số những phim nước ngoài hay nhất; Giải Quả cầu vàng 1961: phim nước ngoài hay nhất; giải David di Donatello 1961: nữ diễn viên nước ngoài hay nhất dành cho Brigitte Bardot. Vòng tay học trò có lẽ là cuốn truyện đầu tiên của Việt Nam đưa hình ảnh người đàn bà-trẻ con vào câu truyện: “Ở Trâm toát ra cái vẻ trẻ trung tươi mát của trái cây vừa chín, vẻ dịu dàng gợi cảm của người đàn bà-trẻ con.” (Ch.2).

Sau thành công của cuốn tiểu thuyết đầu tay khi cô mới lên 18, Bonjour tristesseBuồn ơi, chào mi; 1954 (vào năm 1958 được đưa lên màn bạc Mỹ), ‒ Françoise Sagan tiếp tục với những câu chuyện tình yêu đắm say, có chút ngưng đọng của nỗi buồn. Cuốn tiểu thuyết thứ hai của cô, Có một nụ cườiUn certain sourire (1956) [Nguyễn Minh Hoàng dịch, 1971], tiếp tục là một best-seller về tình yêu của một cô sinh viên với người đàn ông tuổi trung niên. (Một nụ cười nào đó, Thanh Thư dịch sau 1975). Sách được điện ảnh Mỹ dựng thành phim A Certain Smile (1958), với dàn diễn viên được ưa chuộng thời đó: Rossano Brazzi, Joan Fontaine, Bradford Dillman, Christine Carère.

Một phiên bản khác của công thức “yêu người phụ nữ trung niên” này được nữ văn sĩ chế biến thành Aimez-vous Brahms? (Cô/Em có yêu nhạc Brahms? – 1959), trong đó, Simon - một chàng trai trẻ 25 tuổi, lại trót phải lòng một phụ nữ trung niên 40 tuổi – Paule, cô đang có người yêu là Roger. Paule khó khăn khi chuyển dạng từ một thiếu phụ trẻ trung (jeune femme) sang vai một thiếu nữ mang phong thái thiếu phụ (femme jeune). Bị người tình bỏ rơi, lại được một thanh niên nhỏ hơn mình 15 tuổi tôn sùng, Paule tỏ ra lo lắng trước khi bước chân vào một mối quan hệ mới. Nội tâm bị giày vò bởi khát vọng hạnh phúc, cuối cùng – để trả thù sự phản bội của người tình – Paule bước vào cuộc phiêu lưu tình ái với chàng thanh niên trẻ tuổi người Mỹ.

Những tác phẩm viết về hôn nhân và tình yêu của Sagan thường được các nhà phê bình văn học coi là “sáng tác chỉ mang tính chất giải trí”, nhưng lại được những người cổ xúy cho chủ nghĩa nữ quyền (féminisme) đánh giá là những tác phẩm có ý nghĩa quan trọng. Ngay khi hay tin bà mất, Tổng thống Pháp Jacques Chirac thời đó đã bày tỏ lòng tiếc thương; ông phát biểu: “Sagan là một nhân vật hàng đầu trong thế hệ của bà đã giúp nâng cao địa vị của người phụ nữ trong xã hội Pháp. Với sự ra đi của bà, nước Pháp đã mất đi một trong những tác giả nhạy cảm và xuất sắc nhất...”.

B6).-Quy chiếu văn hóa: Sau Vòng tay học trò là phim bi thảm Pháp-Ý phỏng theo tình huống có thật về yêu cô giáo lớn tuổi

Phim Mourir d'aimer – Chết vì tình (Tên tiếng Ý: Morire d'amore; tên tiếng Anh: To Die of Love) ra rạp năm 1971 là một phim truyện hợp tác Pháp-Ý dựa trên một câu chuyện có thật. Phim lấy bối cảnh nước Pháp vào tháng 5-1968 đầy biến động chính trị. Cô giáo dạy tiếng Pháp và tiếng La-tinh ở Rouen là Danièle Guénot, 32 tuổi, một người tích cực dấn thân vào chính trị, đã ly dị và sống với hai con. Cô thường tổ chức các buổi thảo luận nhóm tại nhà. Một học sinh 17 tuổi, Gérard Leguen, đem lòng yêu cô giáo. Cô từ khước mối tình này, nhưng sau cùng cũng buông thả bản thân vào sự lôi cuốn. Bố mẹ cậu học sinh tố cáo. Cô giáo bị đưa vào nhà tù vì tội quan hệ với người trong tuổi vị thành niên. Cậu học sinh bị chuyển đến trường khác, sống với những người bà con khác, và chữa bệnh nội trú trong một dưỡng đường tâm bệnh học. Sau cùng, cô giáo tự sát. Phim được Giải thưởng lớn phim Pháp (1971); được đề cử Giải Quả cầu vàng dành cho phim nước ngoài hay nhất (1972).

C).-BƯỚC ĐẦU TOÀN CẦU HÓA VĂN HÓA VÀ “KHOẢNG CÁCH TUỔI TÁC – “AGE GAP” TRONG TÌNH YÊU

C1.-Bước đầu Toàn cầu hóa văn hóa

Cho đến 1975, tại miền Nam, vào khoảng thời gian nhà văn Nguyễn Thị Hoàng viết Vòng tay học trò, có lẽ bắt nguồn cảm hứng từ một truyện phim Mỹ theo trình bày nêu trên, sự phát triển trong nước và nước ngoài của văn hóa in (sách, tập chí và báo chí), văn hóa nghe nhìn (radio, phim ảnh chiếu rạp, và sau này là truyền hình), đã là những điềm báo trước cho một quá trình nổi bật của thế kỷ XX: quá trình toàn cầu hóa, và quá trình biến đổi thế giới thành một ngôi làng. Có nhiều quan niệm phân kỳ, nhưng Thomas L. Friedman, cha đẻ của cuốn Thế giới phẳng (The World is Flat), đã chia lịch sử toàn cầu hóa thành ba giai đoạn: Toàn cầu hóa 1.0 (1492–1800), Toàn cầu hóa 2.0 (1800–2000) và Toàn cầu hóa 3.0 từ 2000 cho đến nay. Sau cuộc chiến Ukraina 2022, khi Mỹ cấm vận Trung Quốc, và Mỹ cùng EU, Úc, Canada, Nhật, Hàn cấm vận Nga, toàn cầu hóa sẽ mang một bộ mặt mới chưa thể định hình trong xu thế đa cực của thế giới.

Toàn cầu hóa nghĩa là tự do trao đổi hàng hóa, tư bản (vốn), dịch vụ, lao động, kỹ thuật và thông tin theo cơ chế thị trường. Các quá trình toàn cầu hóa gây tác động và chịu tác động bởi doanh nghiệp và tổ chức lao động, kinh tế, các nguồn lực kinh tế-xã hội, và môi trường tự nhiên. Các nhà nghiên cứu phân chia thành ba lĩnh vực chủ yếu: toàn cầu hóa kinh tế, toàn cầu hóa văn hóa, và toàn cầu hóa chính trị. Ở đây, ta chỉ gợi nhắc lại hiện tượng Toàn cầu hóa văn hóa tác động tới miền Nam khi Trần Thiện Đạo và Thụy Khuê phê phán cách dịch từ “femme” là “thiếu phụ” theo nghĩa mới “người phụ nữ, người đàn bà” trong Những Ruồi của Phùng Thăng; hai vị trên không biết rằng nghĩa này đã xuất hiện từ ít nhất là những năm 1940, trong giai đoạn Toàn cầu hóa 2.0 (1800–2000) theo cách phân kỳ của Friedman đã nói ở trên. [Xin xem “Phản phê bình “Những Ruồi”, sách đã dẫn ở đầu bài].

Toàn cầu hóa văn hóa về mặt sách báo, phim ảnh đi trước khá xa so với về mặt truyền hình ở miền Nam Việt Nam khi Nguyễn Thị Hoàng viết Vòng tay học trò. Chương trình truyền hình đen trắng chính thức phát sóng tại miền Nam vào ngày 7 tháng 2, 1966. [Vòng tay học trò đăng Tạp chí Bách Khoa trước đó năm 1964, và ra sách năm 1966]. Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1976 Đài Truyền hình TP. HCM mới thử nghiệm phát truyền hình màu. Hai năm sau, tháng 9 năm 1978, Đài Truyền hình Trung Ương cũng bắt đầu thử nghiệm truyền hình màu (hệ SECAM) với thời lượng giới hạn. Ở Mỹ, trước đó chỉ khoảng phân nửa hệ thống TV phát chương trình màu; đến tận năm 1972, mới phát toàn bộ là chương trình màu. Truyền hình Mỹ ảnh hưởng mạnh đến việc du nhập, đặt lời Việt cho các bản nhạc Mỹ, đến cung cách biểu diễn của các ban nhạc trẻ cho các club Mỹ và quần chúng âm nhạc trẻ miền Nam, v.v. là lĩnh vực chúng ta không bàn đến ở đây.

Nhà tiên tri cho rằng trong tiến trình toàn cầu hóa phiên bản 3.0 sẽ xuất hiện “ngôi làng thế giới” là Marshall McLuhan, một giáo sư Đại học Canada, thực hiện một nghiên cứu về lý thuyết truyền thông, do một Đại học Mỹ tài trợ và cho xuất bản cuốn Understanding Media-The Extensions of Man – Thấu hiểu Truyền thông - Những kích thước nới rộng của Con người. McGraw-Hill (bìa cứng, 1964), Signet Books (bìa mềm, 1966). Vào 30 năm sau, khi xuất hiện Internet dân sự (1994), giới nghiên cứu mới nhớ đến lời tiên tri của McLuhan “thế giới trở thành một ngôi làng”, người ta tái bản để kỷ niệm 30 năm ngày chào đời của tác phẩm. Ngôi làng toàn cầu mà McLuhan dự báo gần 30 năm trước khi xuất hiện Internet, tập trung vào ý tưởng một nền văn hóa nối kết lẫn nhau, gắn liền với nhau các bộ lạc kiểu mới bao gồm dân chúng trên toàn thế giới.

C2.-“Vòng tay học trò” của Tổng thống Pháp Emmanuel Macron

Với Toàn cầu hóa văn hóa phiên bản 3.0 ấy, với mạng lưới quan hệ xã hội mở rộng, tính di động xã hội tăng cao mở ra vô số cơ hội tiếp xúc, gặp gỡ, liệu có còn chăng tình yêu với khoảng cách tuổi tác hay chênh lệch tuổi tác (age gap) ở Việt Nam, ở Mỹ, và ở Pháp, kiểu “Vòng tay học trò”: Yêu người Thiếu phụ, Yêu người nữ lớn tuổi, Yêu cô giáo?

Nhìn lại vài ba thế kỷ trước đây, xã hội phong kiến Nho giáo Việt Nam cũng như các nước láng giềng Phật giáo hay Hồi giáo không khuyến khích phụ nữ tham gia đời sống xã hội (đi học, hành nghề như cô giáo, công chức nha môn...) nên không thấy lưu lại ca dao, tục ngữ về hiện tượng “Yêu cô giáo”. Dư luận xã hội thời xa xưa chỉ nêu lên vấn đề tuổi tác trong hiện tượng người nam yêu người nữ lớn tuổi, đi từ chấp nhận có giới hạn, “Gái hơn hai, trai hơn một”, đến chế giễu: “Chồng già vợ trẻ là xinh, Vợ già chồng trẻ như hình chị em.” Nhưng cũng có bộ phận dư luận ca tụng: “Chồng già vợ trẻ là tiên, vợ già chồng trẻ là duyên ba đời”. [Xem chẳng hạn một bài báo tại https://vnexpress.net/tag/vo-gia-chong-tre-382875]. Ở Mỹ, thời gian qua có vô số tiểu thuyết và phim ảnh thể hiện tình yêu này, và các nhà bình luận đã khái quát hóa hiện tượng này bằng cụm từ “khoảng cách tuổi tác / chênh lệch tuổi tác – age gap”. Các nhà bình luận Mỹ nhận xét “các mối quan hệ “chênh lệch tuổi tác” hiển nhiên là đang trên đà gia tăng”. [Xem Video và bài trên Internet Movie Database (IMDb - cơ sở dữ liệu điện ảnh trên Internet)].

Chuyển sang nước Pháp, xứ sở của Tình yêu. Nước Pháp hiện đại còn chút gì truyền thống ấy chăng? Xin thưa, vẫn còn. Biểu hiện hoành tráng hơn cả, là tình yêu của một cậu học sinh 15 tuổi có tài đóng kịch, dành cho cô giáo dạy tiếng Pháp và tiếng La-tinh [giống như phim Chết vì tình nói trên], kiêm trưởng ban kịch, lớn hơn cậu 24 tuổi, đang có chồng là quan chức ngân hàng và 3 người con. Cô con gái thứ hai của cô giáo cùng tuổi và học cùng lớp với cậu học sinh tình si. Để tách rời cậu khỏi mối tình vô vọng, và theo quan niệm của một số người là kỳ quái, gia đình gởi cậu lên Paris theo học trường trung học danh tiếng Henri IV. Cậu vẫn giữ liên lạc thư từ với cô giáo. Khi 17 tuổi, cậu học trò tuyên bố qua thư: “Hãy cứ làm theo những gì Cô muốn, dù sao thì rồi em cũng sẽ cưới Cô.”

Sau đó cậu học cùng lúc và tốt nghiệp hai ngành: Quản lý công tại Trường Sciences Po (Khoa học Chính trị) và Triết học tại Đại học Nanterre. Tiếp theo, vào năm 2004, khi chỉ mới 27 tuổi, cậu tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chính (ENA) danh giá – cái nôi nuôi dưỡng các vị Thủ tướng, Bộ trưởng Pháp sau này. Ba năm sau, năm 2007, ước nguyện viên thành: Cô giáo ly dị với người chồng đầu tiên và lên Paris theo cậu học trò. Hai người làm lễ cưới sau đó. Hẳn ai cũng đoán được cậu học sinh 15 tuổi về sau này là đương kim Tổng thống Pháp Emmanuel Macron, đắc cử năm 2017 – mười năm sau khi cưới cô giáo; tái đắc cử năm 2022, và cô giáo là đệ nhất phu nhân Brigitte Trogneux, nay lấy họ theo chồng là Brigitte Macron. “Cô” mỗi ngày ăn mười loại trái cây, cùng “cậu học trò” rong xe đạp thể thao, nên cả hai vẫn giữ được dáng hình thon thả. Nếu ai tinh ý sẽ nhận ra ngay là cậu cũng làm quan chức ngân hàng, tại một ngân hàng lừng danh thế giới là Rothschild, giống như nghề của chồng cô giáo, trước khi lên chức Bộ trưởng Kinh tế! Một số người còn nói đùa: Mặc dù thuộc một gia tộc sản xuất và kinh doanh chocolat nổi tiếng nhiều đời, chỉ riêng cô giáo không theo nghiệp kinh doanh của gia đình mà theo nghiệp dạy văn, nên chắc văn chương của cô truyền dạy có tẩm chocolat vừa ngọt vừa đắng dễ làm say lòng cậu bé mới lớn!

(Mùa dịch COVID, tháng 9-2021 đến tháng 3-2022).